Chữ "Bà chúa Liễu Hạnh" (nguyên ghi bằng chữ quốc ngữ như vậy) đã có trong tư liệu thập niên 1750.
1. Thập niên 1750 là đáng quan tâm, ngang với các bản sắc phong của triều đình Lê mạt mang niên đại Cảnh Hưng cho hệ thần Liễu Hạnh công chúa.
Chữ "Bà chúa Liễu Hạnh" (nguyên ghi bằng chữ quốc ngữ như vậy) đã có trong tư liệu thập niên 1750.
1. Thập niên 1750 là đáng quan tâm, ngang với các bản sắc phong của triều đình Lê mạt mang niên đại Cảnh Hưng cho hệ thần Liễu Hạnh công chúa.
"Phủ Giầy Nam Định" là quê hương bản quán. Quê hương bản quán của dòng họ Trần Lê đã sản sinh ra tam vị Thánh Mẫu Phủ Giầy.
Bài đăng trên trang của tạp chí Sông Lam năm 2023.
Ngày mai, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội = VNU), sẽ có Hội thảo Việt Nam học - Chuyên đề 1. Tên chính thức là như sau:
"Nghiên cứu và đào tạo Việt Nam học: Tiếp cận chuyên ngành và liên ngành"Sắp tới, sẽ có một hội thảo quốc tế diễn ra tại Hà Nội. Cụ thể xem ở dưới.
Tôi sẽ trình bày một tham luận ở Tiểu ban 1 (Văn hóa). Tham luận của tôi có luận bàn về các vị thần, có một phần nói về sắc phong và vai trò của sắc phong trong đời sống đương đại.
Bài trên số 1 năm 1995 của hai học giả Cung Văn Lược và Chu Quang Trứ.
1. Thú vị nhất của làng Tía là cho cùng một vị thần, thì có hai văn bản sau:
- sắc phong niên hiệu Sùng Khang 9 (1574) là của nhà Mạc (nhà Mạc thời kì Thăng Long - Dương Kinh).
- thần tích thì mang niên đại Hồng Phúc 1 (1572) của nhà Lê (lúc đó nhà Lê còn ở vùng phía Nam, gọi là Nam triều, chưa có quyền lực gì ở ngoài Bắc).
2. Hai tác giả nhận định về việc này như sau:
"Với niên đại 1574, chúng tôi được biết đây là đạo sắc sớm nhất ở nước ta còn giữ được đến nay. Chỉ điều này thôi cũng khẳng định đạo sắc này là một di vật lịch sử - văn hoá - nghệ thuật quí báu. Niên hiệu Sùng Khang là của Mạc Mậu Hợp. Ông vua này lên ngai vàng từ khi còn 2 tuổi, rồi trị vì những 30 năm (1562-1592), là vua cuối cùng của triều nhà Mạc ở Thăng Long, từng thay đổi niên hiệu tới 6 làn với ý mỗi khi gặp phải “vận đen”, thì thay tên đổi hiệu, để tìm cầu vận hội mới tốt đẹp hơn. Chính đời Mạc Mậu Hợp chiến tranh với Lê - Trịnh diễn ra liên miên, song thủ công nghiệp và kinh tế hàng hoá lại phát triển, nhiều di tích văn hoá - nghệ thuật được xây dựng và rất được lòng dân, nhất là với xứ Đông quê hương của nhà Mạc."
Và như sau:
"Đạo Sắc đền Thần ở Tử Dương (Tía) cũng tương ứng với loạt Thần Phả sớm nhất, hiện được biết, do Hàn lâm Viện Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn, với niên đại Hồng Phúc nguyên niên (1572), theo niên hiệu của vua Lê Anh Tông thuộc Nam triều. Như vậy có lẽ vào nửa thế kỷ 16, trong lúc chiến tranh Nam-Bắc triều gia tăng, các triều đinh Lê-Trịnh và Mạc đều tìm đến sức mạnh Thần Linh, tranh thủ phong Thần và nâng cấp đến thờ Thần. Và nhờ đó, về văn hoá và lịch sử, chúng ta có thêm một nguồn tài liệu thành văn nữa là Thần phả và sắc phong, văn tự hoá được nhiều tư liệu truyền miệng đương thời."
3. Ý kiến bước đầu của tôi:
- Sắc phong thì chuẩn, bản nguyên thời Mạc, niên đại chính xác là Sùng Khang 9. Nhà Mạc đang thống quản Thăng Long và vùng phụ cận (mà lãnh thổ toàn bộ là cả miền Bắc ngày nay, xuyên cài những vùng ở miền Trung đang tranh giành với thế lực Lê - Trịnh - lúc là đất Mạc, lúc lại thành đất Lê, rồi lại thành đất Mạc, vân vân).
- Thần tích thì rất khó xác định ! Lúc đó, vua Lê còn ở tận tít mù khơi, làm sao mà thống quản được bách thần vùng Thăng Long và phụ cận. Cho nên, dù có ghi là Nguyễn Bính soạn ở niên hiệu Hồng Phúc 1 thì cũng là tạm biết vậy.
Học giả Bùi Xuân Đính đang chia sẻ dần thành quả nghiên cứu về Bát Tràng trong nhiều năm của ông, mà là chia sẻ trên lưới trời Fb rộng rãi.
Lấy từ trang web của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc.
Bản trên web thì không thấy ghi tên tác giả. Chủ nhân Giao Blog tạm thời điền bù tên tác giả theo kỉ yếu hội thảo vào tháng 4 năm 2023 tại Phủ Tây Hồ.
Thầy Suenari đến Việt Nam điều tra dân tộc học lần đầu tiên vào năm 1992. Ông đến thăm làng Triều Khúc (Hà Nội) vào một lần nào đó, rồi quyết định chọn đây là điểm nghiên cứu điền dã dân tộc học dài hạn.
1. Đợt điều tra làng Triều Khúc lần đầu tiên là vào tháng 8 và tháng 9 năm 1994. Nhưng thời gian đó, ông còn du lãng khá nhiều làng mạc khác: Bối Khê, Phố Hiến, Mộ Trạch, Mộc Châu, đó đây ở Hà Tây (tên tỉnh lúc bấy giờ),...
Về sự kiện chùa Nền tìm thấy sắc phong vào năm 2016, thì Giao Blog đã điểm tin ở đây (năm 2016).
Đây là một ngôi chùa có liên quan đến Đức Thánh Láng ở khu vực làng Láng, mà chúng tôi đã cùng khảo sát từ nhiều năm về trước (lần quân số tham gia khảo sát đông nhất có lẽ là vào năm 2010, lúc đó đáng nhớ là mọi người đều có máy ảnh cả - người thì máy ảnh chuyên dụng, người thì máy ảnh của điện thoại di động).
Bất giác thấy có một số điểm thú vị, cần xem chậm lại, đồng thời sẽ tiến hành điều tra bổ sung, nên đi thêm một entry này để cập nhật.
Mình đã viết từ nhiều năm trước (năm 2018 và năm 2020):
- Chu Xuân Giao, 2018, “Vũ trụ quan Phật giáo phản ánh trong nhóm sắc phong sớm nhất cho Liễu Hạnh công chúa vào nửa cuối thế kỉ XVII”. Tạp chí Văn hóa Dân gian số 5 (179) : 25-37. .
- Chu Xuân Giao, 2020, “Vũ trụ quan Phật giáo Mật tông với trung tâm là núi lớn Tu Di ở tầng trời Đao Lợi của Đế Thích, phản ánh trong nhóm sắc phong sớm nhất cho Liễu Hạnh công chúa vào nửa cuối thế kỉ XVII”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 1 (155): 34-54.
Có Phủ Giầy Nam Định gắn với dòng họ Trần Lê - dòng họ đã sản sinh ra hệ thần Liễu Hạnh công chúa.
Lại có Phủ Giầy Sài Gòn cũng gắn với dòng họ Trần Lê - dòng họ đã từ quê hương Tiên Hương (xã Tiên Hương thời Nguyễn --- trước đó là xã An Thái thời Lê và đầu thời Nguyễn) đã di cư vào lập nghiệp tại Gia Định - Sài Gòn.
Phủ Giầy ở hai đầu đất nước đều gắn bó với dòng họ Trần Lê.
Bài đã đăng trong năm 2024, trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (cơ quan ngôn luận của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Đây là ghi chép linh tinh. Tiện khi nào thì ghi lại.
Các phát ngôn phải là ở dạng tôi trực tiếp nghe hoặc trực tiếp đọc.
Bài gồm nhiều kì đã đăng trên trang web của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, vào năm 2020.
Bản ở đây là đăng lại.
Các bô lão ở các làng, khi gặp mình hay hỏi về kĩ thuật này. Nay có bài viết khá chi tiết. Nhóm các tác giả ở Viện Bảo tồn Di tích.
(Một người bạn mới cho biết thông tin cập nhật: Đây là chương trình nằm trong Đề án "Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm của Việt Nam và về Việt Nam" do Bộ Nội vụ chủ trì (Quyết định số 644/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) giai đoạn 2012 - 2020). Tra cứu nhanh thì đây là dự án được chính phủ phê duyệt từ năm 2012.