Các sưu tập được đưa dần lên.
Mở đầu là bộ Đại Việt lịch đại long văn đồ của bạn Sên trên Fb.
Các sưu tập được đưa dần lên.
Mở đầu là bộ Đại Việt lịch đại long văn đồ của bạn Sên trên Fb.
Bạn Brian Wu - một Việt kiều (đúng hơn là người Việt gốc Hoa) đang ở Mĩ - mình chưa từng gặp, chưa từng liên lạc, nhưng có để ý đến các việc làm của bạn ấy liên quan đến học thuật Việt Nam mà đặc biệt là mảng Hán Nôm (có thể đọc lại ở đây hay ở đây).
Những năm gần đây, thấy bạn ấy đã xây dựng gia đình với một "cô gái Hán Nôm" (cách gọi của bạn ấy).
Cũng những năm gần đây, thấy bạn ấp ủ và thực hiện dần một chương trình số hóa để phát huy giá trị di sản Hán Nôm. Đáng kể sắp tới là số hóa thác bản văn bia (dựa trên các bộ biên mục và ấn ảnh thác bản văn bia đã xuất bản).
Đại khái là có một câu chuyện vẻ như rất bình dị, nhưng thật ra không bình dị !
Các tâm bia ấy vẫn được bảo lưu tốt trong vườn bia của Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) hiện nay.
Có những cách gọi như sau trong học giới Việt Nam đối với văn bia:
- truy dựng,
- truy lập,
- trùng lập (dựng lại),
- lập (dựng mới).
Một nước văn hiến cả ngàn năm, sản sinh ra hàng vạn tiến sĩ và hàng chục vạn cử nhân nho học (chưa tính bậc thấp hơn), nhưng rất lạ ở điểm sau: không có bản chép toàn bộ bia Văn Miếu (Hà Nội) cho đến khi chúng bị hao mòn, đổ sập một số vào nửa đầu thế kỉ XIX. Nhà nước bỏ bê, không cho người sao chép. Các trường học và bản thân các nhà khoa bảng cũng không có thời gian đến sao chép ư ?
Hay là có bản chép nằm ở đâu mà nay chúng ta chưa phát hiện ra ? Ai có thông tin hữu ích, mong hãy chia sẻ.
Bây giờ, cơ bản vẫn phải dựa vào thác bản do người Pháp chỉ đạo thực hiện đầu thế kỉ XX (sau khi đã có những hư hại đáng tiếc, nhiều tấm bia đã mất luôn). Tại hiện trường thì chỉ còn lại 82 bia.
Liên quan đến việc vua Mạc thời kì Thăng Long - Dương Kinh cho dựng lại và dựng mới bia đề danh tiến sĩ của các khoa thi do triều Lê tổ chức, thì mở đầu là một bài viết cũ của học giả Nguyễn Hữu Mùi.
Cùng năm 1484, vua Lê Thánh Tông (1442-1497, lên ngôi năm 1460) cho dựng nhiều bia Văn Miếu dể ghi danh các tiến sĩ đã đỗ nhiều khoa trước đó (khoa đầu tiên được khắc bia trong Văn Miếu hiện nay là khoa năm 1442, tiếp theo là các khoa: 1448, 1463, 1466, 1475, 1478, 1481).
Năm 1442 thuộc niên hiệu Đại Bảo (vua Lê Thái Tông).
Năm 1448 thuộc niên hiệu Thái Hòa (vua Lê Nhân Tông).
Năm 1463 và năm 1466 thuộc niên hiệu Quang Thuận (vua Lê Thánh Tông).
Các năm 1475-1478-1481 thuộc niên hiệu Hồng Đức (vua Lê Thánh Tông).
Đây là tấm bia cổ nhất trong 82 tấm bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) ghi tên địa danh "huyện Yên Lãng".
Huyện Yên Lãng thời xưa, sau nhiều lần biến đổi địa danh hành chính, phần cơ bản ngày nay là huyện Mê Linh (hiện huyện này đang thuộc Hà Nội - xem về sự thay đổi khá thú vị của huyện Mê Linh ở đây).
Tên "huyện Yên Lãng" xuất hiện năm 1484 này đi kèm với tên tuổi nhà khoa bảng Nguyễn Li Châu. Hay chính xác hơn, là nhà vua, vào năm 1484 đã cho dựng tấm bia ghi tên các nhà khoa bảng đã đỗ trong kì thi năm 1475 (tức bia được dựng muộn lại 9 năm), mà tên đó thì được ghi kèm với địa danh quê hương.
Bia có ghi dòng đó như sau: NGUYỄN LI CHÂU 阮驪珠 người huyện Yên Lãng phủ Tam Đới.
Quê nhà của cụ Nguyễn Li Châu hiện là xã Văn Khê huyện Mê Linh.
"Vua Bụt" là cách gọi của chính thời Trần để chỉ vua Trần Nhân Tông. Ngày nay, chúng ta quen gọi là "Phật Hoàng" (cũng có nghĩa nôm là "vua Bụt").
Hơn 20 trước, giới khoa học Việt Nam đã phát hiện một tấm bia chùa có niên đại 1366 (niên hiệu Đại Trị 9, thời Trần) có tạc hình tượng vua Bụt (cũng có ý kiến cho là hình tượng Ngọc Hoàng). Đó là bia chủa Giàu (Giầu/Dầu), tức Khánh Long tự, ở thành phố Phủ Lý - tỉnh Hà Nam.
Bia này gắn với công lao phát hiện và nghiên cứu của các học giả: Dương Văn Vượng, Hồ Đức Thọ, Tống Trung Tín, Phạm Văn Thắm, Chu Quang Trứ,...
Do tính trọng yếu về phương diện tư liệu lịch sử và mĩ thuật, nhiều học giả đã đề cử tấm bia 1366 này là bảo vật quốc gia.
Vào ngày 30/1/2023, chính phủ đã ra quyết định công nhận 27 bảo vật quốc gia mới, trong đó có tấm bia chùa Giàu.
Đây là một di sản văn hóa trọng yếu của Trung Quốc.
1. Nhân vật họ Thẩm đã từng được nhà Hán cử xuống trấn nhậm quận Giao Chỉ với chức danh đô úy. Tên của họ Thẩm không xuất hiện trong chính sử, mà chỉ thấy trên bia mộ hiện còn tại Tứ Xuyên. Đại khái là nhân vật sau thời Hai Bà Trưng (những năm 40 SCN) khoảng hơn nửa thế kỉ.
Cũng đại khái mường tượng là nhân vật đời sau của các nhân vật sau: Nhâm Diên (thái thú quận Cửu Chân từ năm 25 SCN), Tô Định (thái thú quận Giao Chỉ, đã bị Hai Bà Trưng trừng trị do tham lam), Lý Thiện (thái thú quận Nhật Nam rồi lại chuyển sang thái thú quận Cửu Chân).
Họ Thẩm tới trị nhậm Giao Chỉ trước thời của Trương Tân (nhân vật đã tâu xin đổi "Giao Chỉ quận" thành "Giao Châu"), của Sĩ Nhiếp (nhân vật được tôn xưng là Nam Giao học tổ).
Bởi vậy, có thể tạm định vị họ Thẩm là sau thời Hai Bà Trưng và trước Sĩ Nhiếp.
Đó là năm 2001. Lúc bài in ra thì tôi đang ở Tokyo, sau ít tháng thì đọc được trong thư viện trường (trường tôi đặt dài hạn nhiều tạp chí của Việt Nam).
Lúc ấy, tức thời điểm các năm 1997-2001, xã Phúc Sen vẫn thuộc huyện Quảng Hòa. Sau đó, thì huyện Quảng Hòa tách ra làm hai thành "huyện Quảng Uyên" và "huyện Phục Hòa". Rồi bây giờ, sau 20 năm, thì hai huyện ấy lại nhập lại thành ra "huyện Quảng Hòa" như ngày xưa !
Hôm nay, ngẫu nhiên phát hiện là mới có bản PDF trên mạng (xem ở đây).