Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀
Hiển thị các bài đăng có nhãn sĩ-nhiếp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sĩ-nhiếp. Hiển thị tất cả bài đăng

11/11/2025

Chùa Khúc Thủy (Thắng Nghiêm tự) - một ngôi chùa hiện mang màu sắc Mật Tông

Chúng tôi chú ý đến làng Khúc Thủy, bới đó là làng gốc của một bộ phận cư dân ở khu vực làng Cổ Lương (Hà Nội) - nay là khu vực Ngõ Gạch và Án sát Siêu (phố cổ Hà Nội). Chúng tôi đã khảo sát làng Cổ Lương và việc phụng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại đền Cổ Lương từ nhiều năm nay (ví dụ, xem lại ở đây).

Người của làng Khúc Thủy (huyện Thanh Oai trước đây) vào khoảng cuối thế kỉ 18 đã di cư ra sinh sống ở làng Cổ Lương (Hà Nội). Lúc đó, làng Cổ Lương là làng ở bên cạnh dòng sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch lúc đó còn thông với sông Hồng, thì đoạn gần cửa sông Tô Lịch ăn thông với sông Hồng có nhiều phố phường và làng mạc, một trong số đó là làng Cổ Lương.

Người làng Khúc Thủy khi ra Hà Nội (làng Cổ Lương) sinh sống còn mang theo cả vị thành hoàng của làng gốc (làng Khúc Thủy) ra để phối thờ vào đình làng Cổ Lương. Bởi vậy, sau này, đinh làng Cổ Lương có vị thần gọi là Phổ Tế đại vương, thì đó chính là thành hoàng của làng Khúc Thủy. Tên tục của vị thành hoàng ấy là Trần Thông - cụ là con trai của cụ Trần Khát Chân.

Đình làng Khúc Thủy thờ Trần Thông (đức Phổ Tế đại vương).

Còn chùa làng Khúc Thủy thì có thờ Trần Hưng Đạo (đức Thánh Trần).

Sau năm 2010, chùa Khúc Thủy được trùng tu và mang màu sắc Mật Tông.

03/07/2025

Vùng đất Giao Chỉ ở giai đoạn thú vị cuối tk II - tk III: nguồn gốc "Từ Liêm" và "sông Từ Liêm"

Ở giai đoạn thú vị cuối thể kỉ II - thế kỉ III này, vùng đất Giao Chỉ được văn nhân người Hán (thời Đông Hán, Ngô, Ngụy, Tấn) ghi chép, tuy không liền mạch, nhưng có nhiều thông tin thú vị.

Ví dụ về tên gọi "Từ Liêm" và "sông Từ Liêm" thì có thể thấy được ghi chép trong sách Giao Châu kí của Lưu Hân Kỳ (được xem là người thời Tấn). Hiện chúng ta chưa rõ hành trạng của Lưu Hân Kỳ, chỉ biết thông tin đại khái là ông là người thời Tấn mà thôi.

02/07/2025

Vùng đất Giao Chỉ ở giai đoạn thú vị cuối tk II - tk III: cuối thời thuộc Hán, rồi Tam Quốc (thuộc vào Ngô), Tấn (có xen chút thuộc Ngụy)

Cuối thời Hán, tức muộn hơn thời của Hai Bà Trưng (Trưng Nữ vương, 40-43) một thời gian, có nhân vật Sĩ Nhiếp (137-226) sau này được người trong nước tôn làm Sĩ Vương, rồi Nam Giao học tổ.  

Các nội dung dưới đây, tôi đã viết tản mát ở một số chỗ. Bây giờ tỉa gọn cho dễ quan sát với bạn đọc phổ thông. Đồng thời, cũng ghi chép nhanh mang tính đối sánh khu vực, cũng là để dễ hình dung.

Đại khái sẽ đề cập đến các nhân vật thú vị của giai đoạn lịch sử này: 

- Sĩ Nhiếp (ở Giao Chỉ từ 187-226, tức 50 tuổi - 90 tuổi; luc đầu là quan nhà Đông Hán, rồi chuyển sang làm quan nhà Ngô); 

- Mâu Bác (Mâu Tử, vào Giao Chỉ khoảng năm 190); 

- Khương Tăng Hội (vào đất Ngô năm 247, mất tại đó năm 280); 

- Triệu Ẩu (vùng Thanh Hóa ngày nay, sinh năm 226, nổi lên chống Ngô khoảng năm 248 --- lúc ấy, vùng Giao Chỉ thuộc Ngô); 

- Himiko (vùng Nhật Bản, sinh khoảng năm 170, mất khoảng năm 247-248, trị vì nước Yamatai khoảng năm 188-248, đã gặp sứ giả của nhà Ngụy đến từ phía Triều Tiên tới --- sứ giả đi từ kinh đô nhà Ngụy, tới bán đảo Triều Tiên, rồi vượt biển sang Nhật).

Các nhân vật nữ xuất chúng được ghi nhận ở giai đoạn này: Triệu Ẩu (vùng Cửu Chân - Việt Nam ngày nay), Himiko (vùng Yamatai - Nhật Bản ngày nay).

1. Sĩ Nhiếp là quan nhà Hán và rất được lòng dân Giao Chỉ. Đại khái ta tính là cuối thế kỉ I và đầu thế kỉ II.

Sĩ Nhiếp là Nho sĩ truyền bá đạo Khổng Mạnh. Bên cạnh Sĩ Nhiếp là các đạo sĩ phương Bắc cao tay.

Thời Sĩ Nhiếp, Phật giáo Giao Chỉ phát triển. Có ông Mâu Bác từ phương Bắc theo nhóm Sĩ Nhiếp xuống An Nam, tị nạn, học Phật tại Giao Chỉ, rồi viết cuốn sách xuất sắc Lý học luận (nội dung cơ bản là tranh luận Đạo giáo hay Phật giáo là thức thời ở thời đại đó, câu trả lời của Mâu Bác là: Phật giáo).

25/03/2022

Mộ và bia mộ của Đô úy quận Giao Chỉ họ Thẩm thời Hán (thế kỉ 2) tại quê nhà Tứ Xuyên

Đây là một di sản văn hóa trọng yếu của Trung Quốc.

1. Nhân vật họ Thẩm đã từng được nhà Hán cử xuống trấn nhậm quận Giao Chỉ với chức danh đô úy. Tên của họ Thẩm không xuất hiện trong chính sử, mà chỉ thấy trên bia mộ hiện còn tại Tứ Xuyên. Đại khái là nhân vật sau thời Hai Bà Trưng (những năm 40 SCN) khoảng hơn nửa thế kỉ.

Cũng đại khái mường tượng là nhân vật đời sau của các nhân vật sau: Nhâm Diên (thái thú quận Cửu Chân từ năm 25 SCN), Tô Định (thái thú quận Giao Chỉ, đã bị Hai Bà Trưng trừng trị do tham lam), Lý Thiện (thái thú quận Nhật Nam rồi lại chuyển sang thái thú quận Cửu Chân). 

Họ Thẩm tới trị nhậm Giao Chỉ trước thời của Trương Tân (nhân vật đã tâu xin đổi "Giao Chỉ quận" thành "Giao Châu"), của Sĩ Nhiếp (nhân vật được tôn xưng là Nam Giao học tổ).

Bởi vậy, có thể tạm định vị họ Thẩm là sau thời Hai Bà Trưng và trước Sĩ Nhiếp.

03/05/2020

Người Việt thờ cả Khổng Tử, cả Sĩ Nhiếp, và cả Mã Viện đấy chứ

Trong một bài viết về chữ quốc ngữ trên tuần báo Văn Nghệ (Tp. Hồ Chí Minh), ông Nguyễn Ngọc Quang viết một câu xanh rờn thế này:

"Dù chữ Hán theo chân kẻ xâm lược, nhưng bản chất nó là kết tinh trí tuệ của nhân dân. Nếu được tiếp thu tự nguyện, qua giao thương trao đổi kinh tế – văn hóa thì Sỹ Nhiếp đáng dựng tượng vàng. Nhưng vì… như thế, nên sự đối xử cũng một vừa hai phải. Người Việt thờ Khổng Tử, bậc vạn thế sư biểu nhưng không thờ Sỹ Nhiếp hay Mã Viện."

Ông Quang thử bình tĩnh tra cứu một chút sẽ biết: người Việt thờ Sĩ Nhiếp ở nhiều nơi, còn tôn cụ ấy là Sĩ Vương hay Nam Giao học tổ. Mã Viện cũng được thờ ở rất nhiều làng xã.

Tôi cũng không làm sao hiểu được đoạn ông viết trên. Làm sao mà "chữ Hán theo chân kẻ xâm lược, nhưng bản chất nó là kết tinh trí tuệ của nhân dân". Vậy là thế nào. Rồi đã "xâm lược", thì lại còn "tiếp thu tự nguyện" nữa, là sao ?

10/04/2020

17/01/2018

Tấm bia đá mang niên đại cổ nhất Việt Nam ở huyện Thuận Thành (tỉnh Bắc Ninh)

Niên đại đang được xem là thế kỉ 4.

Di vật tìm thấy gần đây ở huyện Thuận Thành - một địa bàn đặc biệt quan trọng, nơi còn thấy các di tích liên quan đến Sĩ Nhiếp và xung quanh thời điểm đó. Cũng liên quan với Sĩ Nhiếp (Nam Giao học tổ) là hệ thống Tứ Pháp.

Tấm bia này thì liên quan tới nhân vật Đào Hoàng - người Hán được cử tới làm quan ở Giao Châu.