Thế cục Đại Việt ở nửa cuối thế kỉ XVIII chỉ còn hai đàng, tức Đàng Ngoài và Đàng Trong. Chúng tôi gọi là Lê mạt (thời kì cuối của nhà Lê) - xem luận giải của nhà lịch học Lê Thành Lân và các bài viết phân định về "Lê trung hưng" và "Lê mạt" của nhóm chúng tôi (một số đã đăng lại trên Giao Blog).
Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀
03/11/2025
Cụ Bảng Đôn (1726-1784) và những nỗi đa đoan quan trường (bài Đặng Đình Nguyên năm 2008)
20/09/2025
Nội chiến thời nước Việt có Ba Đàng - "cắt tai" hay là "cắt đầu" cánh quân đối lập, lấy số lượng định công trạng
Nước Việt gồm có Ba Đàng, tức Đàng Trên - Đàng Trong - Đàng Ngoài, là sử quan của tôi (chủ nhân Giao Blog). Chủ trương này thay cho sử quan nước Việt thời đó chỉ có Hai Đàng, là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Cụ thể thêm về Ba Đàng, gồm: Đàng Trên là nhà Mạc ở Cao Bằng (vương quốc Cao Bằng); Đàng Ngoài là vua Lê chúa Trịnh (vương quốc Thăng Long); Đàng Trong là chúa Nguyễn (vương quốc Quảng Nam).
Sử quan Ba Đàng này, tôi đã phát biểu từ nhiều năm nay, bắt đầu khoảng từ năm 2008, có nhiều bài viết học thuật đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành hay sách vở từ 2010 đến nay. Ví dụ một bài trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (Viện Sử học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), hay một bài in trong sách gần đây. Xem các ảnh đính kèm.
05/01/2024
Châu phê của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vẫn ghi rõ niên đại vua Lê ở Đàng Ngoài
Ở xuất bản hơn 10 năm về trước, khi nói về ba đàng (Đàng Ngoài, Đàng Trong, Đàng Trên), tôi đã đưa nhanh khái quát về sử dụng niên đại của ba đàng như sau:
- Đàng Ngoài và Đàng Trong, về thực chất, như hai vương quốc, nhưng Đàng Trong không đặt niên hiệu riêng, mà vẫn sử dụng niên hiệu của vua Lê ở Đàng Ngoài. Cả hai vương quốc đều tính thời gian chung, căn cứ theo niên hiệu của vua Lê (ví dụ: Vĩnh Trị, Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng,...).
- Chỉ có Đàng Trên của các vua nhà Mạc là có niên hiệu riêng. Đàng Trên tính thời gian theo lịch của riêng mình, theo niên hiệu của các vua nhà Mạc đang trị vì: Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương (xem lại trên Giao Blog, ở đây hay ở đây).
Bây giờ, xem châu phê của các chúa Nguyễn (trong triển làm "Bảo đạc trường minh寶鐸長鳴" tại Huế, đang diễn ra, gắn với Thiền phái Liễu Quán danh tiếng) thì thấy rõ niên hiệu vua Lê xuất hiện trong văn thư chính thức của hệ thống hành chính Đàng Trong.
10/12/2022
Cập nhật tình hình 2021 - 2022 về miếu Thanh Cẩm ở Hà Thành (đình Trung Yên phố Hàng Bạc)
7 năm trước, vào tháng 5 năm 2015, Giao Blog đã điểm tin về miếu Thanh Cẩm thờ một vị tiến sĩ triều Mạc đã xả thân cứu vua Mạc (xem lại ở đây).
Chuyện được chép vào một bản Việt điện u linh, cũng được chép vào Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án.
02/07/2022
Ki-tô giáo tại Việt Nam - những cái nhìn tổng quan
Mình sắp công bố một bài viết học thuật về Đàng Trên.
Đại khái, về Đàng Trên, trên Giao Blog thì đọc nhanh ở đây hay ở đây.
Sử quan của mình hiện nay là ba Đàng (tức Đàng Trong, Đàng Ngoài, Đàng Trên) mà không phải hai Đàng như quan niệm trước nay.
Điều hiện nay chưa rõ là vào nửa cuối thế kỉ XVII, Ki-tô giáo đã có mặt ở Đàng Trên hay chưa. Tư liệu quá thiếu thốn, hiện chưa làm sao để có một chút gợi ý nào.
Dĩ nhiên, từ hồi đó, giáo sĩ Đắc Lộ đã mấy lần muốn vượt lên Cao Bằng để tham quan. Nhưng bộ máy an ninh của Đàng Ngoài đã biết, tìm cách ngăn trở. Tư liệu về việc này thì rất rõ ràng.
Đặt một entry này để sưu tầm những cái nhìn tổng quan về lịch sử Ki-tô giáo tại Việt Nam.
Mở đầu là một tóm tắt khá thú vị của học giả Trần Quốc Anh - ông đưa lên Fb cá nhân vào ngày hôm nay.
27/03/2022
Đọc lại "Ngọa Long cương vãn" thơ Nôm lục bát viết khoảng 1620s của Đào Duy Từ (1572-1634)
Lúc đó, Đại Việt hình thành thế chân vạc gồm Ba Đàng, là Đàng Ngoài - Đàng Trong - Đàng Trên.
Đào Duy Từ đã bỏ Đàng Ngoài (vua Lê chúa Trịnh) mà vào tìm và giúp minh chủ ở Đàng Trong (chúa Nguyễn). Một số người giúp việc quan trọng cho chúa Nguyễn lúc đó lại xuất thân từ Đàng Ngoài (ví dụ như Đào Duy Từ) và Đàng Trên (tức Cao Bằng, lúc đó nhà Mạc vẫn cai quản). Nhóm xuất thân từ Đàng Trên thì đáng chú ý nhất là con cháu Mạc Cảnh Huống - sau được ban họ Nguyễn (rồi thành Nguyễn Hữu).
"Ngọa Long cương vãn" tương truyền là thơ quốc âm (chữ Nôm) theo thể lục bát mà Đào Duy Từ đã dâng lên chúa Nguyễn. Chúa đã khởi dụng họ Đào nhờ bài vãn danh tiếng này.
16/05/2021
Đàng Trên - Đàng Ngoài - Đàng Trong, với Chúa Khánh - Chúa Bằng - Chúa Sãi (bài Nguyễn Cung Thông)
Một phát hiện thú vị của học giả Nguyễn Cung Thông là: ở thời điểm 1630s-1650s, cùng một chữ Hán平, nhưng có hai âm đọc là "Bình" và "Bằng".
Ở khoảng thời gian đó, tức 1630s-1650s, thì đã có cách gọi phổ thông là "Cao Bằng" và "Quảng Bình". "Bằng" và "Bình" ấy là cùng một mã chữ Hán.
Có nghĩa là: tên gọi Cao Bằng đã được phổ biến từ lâu lắm rồi, chứ không phải đợi đến tận Tây Sơn mới có (như quan điểm của một số học giả khác - lấy nguyên cớ là phải kiêng húy tên "Quang Bình" của vua Tây Sơn mà phải đổi "Cao Bình" thành "Cao Bằng").
08/03/2021
Về hai tấm bản đồ Việt Nam trong các sách đã in đầu thập niên 1650 của Đắc Lộ
13/07/2020
Nhớ lại 10 năm và hơn 50 năm : khai quật và hoàn táng thi hài vua Lê Dụ Tông (1958, 2010)
Ông vua Lê Dụ Tông có hai niên hiệu quan trọng: Vĩnh Thịnh và Bảo Thái. Thời Bảo Thái thì gắn với danh nhân Nguyễn Tông Quai (1693-1767, thầy của Lê Quý Đôn) - là một chủ đề nghiên cứu lâu năm của tôi (ví dụ đọc ở đây và ở đây).
27/11/2019
Năm 2019 nhìn lại giáo dục và khoa cử Nho giáo Việt Nam từ Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội)
23/11/2019
Đắc Lộ bản cập nhật 2019 : vẫn chưa yên với "chữ quốc ngữ" suốt từ 1650s
Bộ sách được chuẩn bị từ mấy chục năm trước, nhưng đến thập niên 1650 mới được in thành sách và phổ biến rộng rãi ở châu Âu.