Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀
Hiển thị các bài đăng có nhãn cung-văn-lược. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cung-văn-lược. Hiển thị tất cả bài đăng

23/08/2025

Tưởng niệm học giả Hoàng Phương Mai (1976-2025) - chúng tôi đã cùng học chữ Nôm Tày - Nùng như thế

Tôi tự học về chữ Nôm Nùng, đặc biệt là các truyền bản Nôm của người Nùng An (một nhóm địa phương của Nùng, tập trung chủ yếu ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng trước đây), bắt đầu từ năm 1997 - sau một thời gian đã làm điều tra điền dã dài hạn và photo toàn bộ các truyền bản đó (phải photo ở khu phố huyện, hay ra thành phố Cao Bằng, nên phải làm bền bỉ trong một thời gian dài).

Các năm 1997-2000, tôi chủ yếu phỏng theo cách làm của các tiền bối chuyên về chữ Nôm vùng Choang - Tày - Nùng ở biên giới Việt Trung, như Lý Phương Quế (Trung Quốc) hay Nguyễn Văn Huyên (Việt Nam) và Cung Văn Lược (Việt Nam), để tự học, tự đọc, tự phiên âm ngay tại thực địa, và trao đi đổi lại với các trí thức người Nùng An tại chỗ - chủ yếu chính là nhóm các thầy Tào đang sử dụng các sách ghi bằng Nôm Nùng An.

13/07/2025

Về đạo sắc "Tử Dương thần từ" sớm nhất hiện còn (bài của Cung Văn Lược và Chu Quang Trứ, 1995)

Bài trên số 1 năm 1995 của hai học giả Cung Văn Lược và Chu Quang Trứ.

1. Thú vị nhất của làng Tía là cho cùng một vị thần, thì có hai văn bản sau:

- sắc phong niên hiệu Sùng Khang 9 (1574) là của nhà Mạc (nhà Mạc thời kì Thăng Long - Dương Kinh).

- thần tích thì mang niên đại Hồng Phúc 1 (1572) của nhà Lê (lúc đó nhà Lê còn ở vùng phía Nam, gọi là Nam triều, chưa có quyền lực gì ở ngoài Bắc).

2. Hai tác giả nhận định về việc này như sau:

"Với niên đại 1574, chúng tôi được biết đây là đạo sắc sớm nhất ở nước ta còn giữ được đến nay. Chỉ điều này thôi cũng khẳng định đạo sắc này là một di vật lịch sử - văn hoá - nghệ thuật quí báu. Niên hiệu Sùng Khang là của Mạc Mậu Hợp. Ông vua này lên ngai vàng từ khi còn 2 tuổi, rồi trị vì những 30 năm (1562-1592), là vua cuối cùng của triều nhà Mạc ở Thăng Long, từng thay đổi niên hiệu tới 6 làn với ý mỗi khi gặp phải “vận đen”, thì thay tên đổi hiệu, để tìm cầu vận hội mới tốt đẹp hơn. Chính đời Mạc Mậu Hợp chiến tranh với Lê - Trịnh diễn ra liên miên, song thủ công nghiệp và kinh tế hàng hoá lại phát triển, nhiều di tích văn hoá - nghệ thuật được xây dựng và rất được lòng dân, nhất là với xứ Đông quê hương của nhà Mạc."

Và như sau:

"Đạo Sắc đền Thần ở Tử Dương (Tía) cũng tương ứng với loạt Thần Phả sớm nhất, hiện được biết, do Hàn lâm Viện Đông Các Đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn, với niên đại Hồng Phúc nguyên niên (1572), theo niên hiệu của vua Lê Anh Tông thuộc Nam triều. Như vậy có lẽ vào nửa thế kỷ 16, trong lúc chiến tranh Nam-Bắc triều gia tăng, các triều đinh Lê-Trịnh và Mạc đều tìm đến sức mạnh Thần Linh, tranh thủ phong Thần và nâng cấp đến thờ Thần. Và nhờ đó, về văn hoá và lịch sử, chúng ta có thêm một nguồn tài liệu thành văn nữa là Thần phả và sắc phong, văn tự hoá được nhiều tư liệu truyền miệng đương thời."

3. Ý kiến bước đầu của tôi:

- Sắc phong thì chuẩn, bản nguyên thời Mạc, niên đại chính xác là Sùng Khang 9. Nhà Mạc đang thống quản Thăng Long và vùng phụ cận (mà lãnh thổ toàn bộ là cả miền Bắc ngày nay, xuyên cài những vùng ở miền Trung đang tranh giành với thế lực Lê - Trịnh - lúc là đất Mạc, lúc lại thành đất Lê, rồi lại thành đất Mạc, vân vân).

- Thần tích thì rất khó xác định ! Lúc đó, vua Lê còn ở tận tít mù khơi, làm sao mà thống quản được bách thần vùng Thăng Long và phụ cận. Cho nên, dù có ghi là Nguyễn Bính soạn ở niên hiệu Hồng Phúc 1 thì cũng là tạm biết vậy.

17/12/2024

Lại bàn về quốc học : "Muốn có “thương hiệu quốc gia” phải có nền quốc học" (Lê Huy Hoàng, 2018)

Về quốc học, trên Giao Blog, có thể đọc lại ở đây (Phan Khôi năm 1931) hay ở đây (Phạm Quỳnh 1931).

Khoảng trước năm 2000, trong những lần nói chuyện dài dài trong lớp học văn tự Nôm Tày - Nùng, mở tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cụ Cung Văn Lược (giảng viên chính của lớp) có nói nhiều lần: chúng ta nên có "Viện Quốc học và Văn tự phương Đông". Đại ý, cụ mường tượng, ngoài Hán Nôm của Kinh, thì còn Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Dao, chữ Chăm, chữ Khơ Me, chữ khác ở Việt Nam. Cụ cũng đã mường tượng là so sánh nó với chữ Nữ Chân, chữ Nhật Bản, chữ Triều Tiên. Nên cụ mường tượng ra "văn tự phương Đông". Đại khái, trước cụ, về văn tự phương Đông, có cụ Nguyễn Tài Cần đã mường tượng và viết thành sách từ năm 1985 (sách trước năm 1986). Nhưng ý tưởng của cụ Cung Văn Lược thì vu khoát hơn, nghĩ đến cả chữ Chăm và chữ Khơ Me, rồi các loại chữ khác có mặt ở Việt Nam.

Tôi tham gia lớp học vì tôi lúc ấy đang đánh vật với chữ Nôm Nùng. Chữ Nôm Nùng gần gũi với Nôm Tày và Nôm Việt, nhưng vẫn có bản sắc riêng.

Tôi đã ghi lại ý của cụ Cung Văn Lược ngay lúc đó. Cụ còn tiếp tục nói ý tưởng này ở các không gian khác (ngoài lớp học) hồi đó.

Đại khái, lúc đó, cụ Chu Hữu Quang ở Trung Quốc cũng đã cùng ý nghĩ, cùng ý tưởng, và ra luôn được sách rồi. Cụ Chu Hữu Quang đã xếp Nôm Việt vào một loại văn tự trên bản đồ văn tự toàn thế giới của cụ.

Bài dưới đây đã công bố trên báo năm 2018, của tác giả Lê Huy Hoàng.

03/03/2020

Với nghiên cứu về tiếng Việt thời Đắc Lộ, học giả Nguyễn Cung Thông nhận giải thưởng Văn Việt lần V

Loạt bài nghiên cứu về tiếng Việt thời Đắc Lộ, của học giả Nguyễn Cung Thông, đã được chính ông gửi cho bạn bè qua nhiều lần bằng thư điện tử, suốt trong mấy năm (ví dụ đọc một đoạn hồi năm 2017 ở đây). Công việc vẫn đang tiếp tục. Rồi là sự xuất hiện dần dần của nó trên nhiều phương tiện (báo chí mạng, mạng xã hội, sách báo).

1. Cuối năm 2019, Nguyễn Cung Thông đã về Đà Nẵng, tham dự hội thảo về chữ quốc ngữ, cũng là để trình bày một trích đoạn mới trong loạt bài đó, là về Kinh Lạy Cha với chữ quốc ngữ, ví dụ có thể đọc lại ở đây, hay ở đây, trên Giao Blog.

Sau hội thảo, là những trình bày tiếp về cùng chủ đề tại Viện Ngôn ngữ học (Hà Nội) hay Khoa Ngôn ngữ học (Tp. Hồ Chí Minh), trên Giao Blog có thể đọc nhanh ở đây.

2. Chuyến du Nam du Bắc của ông dịp tiền Cô Vy 19-20 vừa rồi, một thu hoạch khá hay của tôi, là: biết được rằng, học giả Nguyễn Cung Thông và học giả Cung Văn Lược có quan hệ anh em họ hàng gần với nhau. Kì lạ hơn, cụ Cung Văn Lược là hàng cháu, phải gọi học giả Nguyễn Cung Thông là chú (gọi thay cho con thì là ông).

Chữ "Cung" trong tên của học giả họ Nguyễn, thì lại chính cũng là họ Cung. Họ Cung ấy gốc ở làng Lủ, tức làng Kim Lũ --- nay là Đại Kim, hay gọi đại khái là khu Kim Giang. Câu chuyện họ Cung làng Lủ khá thú vị.