Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

27/11/2025

Vấn đề "dân tộc" từ thuật ngữ quốc tế tới thực tiễn Việt Nam (trình bày của bạn Brain Wu)

Mấy năm trước, khi viết một bài học thuật về nhà dân tộc lớp tiên phong của nước Việt Nam mới, là cụ Lã Văn Lô - vốn là tri châu Hữu Lũng rồi theo cách mạng, phụ trách vấn đề dân tộc của trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thời kì đầu tiên (nhóm kề cận của ông có các nhà dân tộc đàn em như Nguyễn Hữu Thấu, Mạc Đường,...)- tôi đã bàn nhanh về thuật ngữ "dân tộc" được phổ cập trong xã hội Việt Nam từ cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Một trong những người góp công cho việc phổ cập thuật ngữ "dân tộc" này chính là cụ Đào Duy Anh.

Bài viết về Lã Văn Lô đó đã in vào sách chung, có thể xem lại ở đây (có bài từ 2017, tới 2020 mới in chính thức vào sách).

Đại khái, "dân tộc" và liên đới với nó là những thuật ngữ như "thành phần dân tộc" hay "tộc người", là nhóm thuật ngữ nền tảng của các ngành khoa học như Dân tộc học (nay quen gọi là Nhân loại học Văn hóa, Nhân học Văn hóa,...) và Văn hóa Dân gian (Việt Nam thì quen dùng là Văn hóa Dân gian, các nước Đông Á còn lại quen dùng là "Dân tục học" - môn học về phong tục tập quán của nhân dân).

Dĩ nhiên "dân tộc" cũng là vấn đề rất quan trọng của chính trị học, luật học, và nhiều chuyên ngành khoa học khác.

Ở thời điểm tháng 11 năm 2025 này, trên không gian mạng, có bạn Brain Wu đưa một tổng quan khá thú vị về vấn đề "dân tộc" từ thuật ngữ quốc tế tới thực tiễn Việt Nam. Giao Blog lấy về lưu ở đây, cập nhật dần theo bản lên bên Fb của bạn Brain Wu.

Đại khái, quan điểm chính của Brain Wu là:

"Người ta không thể và không nên tranh luận về chủ đề Dân tộc bằng cách lắp ghép bừa bãi, đánh tráo khái niệm, hoặc đồng nhất những mô hình lý thuyết Dân Tộc vốn không đồng nhất. Muốn nghiêm túc, thì người ta phải trước tiên xác định là họ sẽ tranh luận dựa vào lý thuyết dân tộc nào, chẳng hạn lý thuyết Renan, hay Stalin, hay Anderson, rồi từ đó mới có thể bàn tới chuyện đúng sai ra sao trong tranh luận"

Dưới là đăng nguyên văn lại từ Fb B.W.

Tháng 11 năm 2025,

Giao Blog


---


Brain Wu

Ngày 25/11/2025


Bài 1 – Những vấn đề cần xét lại trong bài viết “Từ Ethnie đến Nation: Định vị lại tiến trình hình thành dân tộc Việt Nam” của anh Quang Phan
PHẦN 1
Bài viết của anh Quang Phan (sau đây gọi tắt là “tác giả”) thể hiện một tham vọng đáng ghi nhận: vận dụng các lý thuyết Dân Tộc phương Tây để tái kiến giải câu hỏi dân tộc Việt Nam được hình thành từ khi nào.
Trong khuôn khổ bài phê bình này, tôi muốn chỉ ra một số khuyết điểm học thuật mà tác giả đã mắc phải. Trọng tâm nhất là việc lẫn lộn giữa các phạm trù Nation (Dân tộc – với tư cách cộng đồng tinh thần – lịch sử) và Nation-State (Quốc gia–dân tộc – với tư cách hình thái nhà nước hiện đại), cùng với việc tác giả, theo tôi đánh giá, dường như chưa thật sự đọc đúng và đủ nội dung các văn bản lý thuyết được trích dẫn. Chính những sai sót này đã khiến cho toàn bộ bài viết trở thành một cấu trúc khái niệm áp đặt khiên cưỡng – vừa thiếu nhất quán nội tại, vừa tự phủ định lẫn nhau – để rồi dẫn đến một kết luận dường như đã được ấn định từ trước: dân tộc Việt Nam chỉ xuất hiện sau ngày 2/9/1945.
Tôi cũng mong bài phê bình này sẽ được đọc bởi những ai có câu hỏi về lẽ nào “dân tộc” Việt Nam chỉ có mặt vào thế kỷ XX mà không phải là trước đó. Những độc giả này theo tôi biết, họ có một niềm tin về người Việt Nam đã là một dân tộc trước thế kỷ XX nhưng họ vẫn chưa thể nào xác định được vì họ không có thời giờ nghiên cứu vấn đề Dân Tộc theo định nghĩa của các học giả phương Tây. Cái “biết” của họ chỉ là “hint”. Bài viết này sẽ chỉ ra rõ ràng rằng là nếu chúng ta dựa vào lý thuyết định nghĩa dân tộc Nation của Ernest Renan vào thế kỷ XIX, thì dân tộc Việt Nam đã có mặt từ trước thế kỷ XX rất lâu, muộn nhất là vào thời Lê thế kỷ XV và có thể là sớm hơn nữa.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh đến một nguyên tắc phương pháp luận tối quan trọng: đó là thời điểm con người đặt tên cho một khái niệm tuyệt đối KHÔNG PHẢI là thời điểm hiện tượng mà khái niệm ấy mô tả bắt đầu xuất hiện. Trong mọi lĩnh vực nghiên cứu, hiện tượng luôn tồn tại trước; còn khái niệm chỉ là nhãn gọi do con người sáng tạo ra sau này, dùng để nhận diện, mô tả hoặc lý thuyết hoá hiện tượng hoặc sự vật ấy. Ví dụ khủng long đã có mặt trên Trái Đất hơn 150 triệu năm, nhưng thuật ngữ khủng long (dinosaur) chỉ xuất hiện vào thế kỷ XIX; không ai có thể nghiêm túc nói rằng “loài khủng long chỉ sinh ra và có mặt trên Trái Đất bắt đầu từ thế kỷ XIX” chỉ vì thuật ngữ khủng long có mặt bắt đầu từ thế kỷ XIX. Ngôn ngữ và lý thuyết đến sau không hề tạo ra hiện tượng; chúng chỉ giúp ta nhìn rõ và phân tích tốt hơn cái đã hiện hữu từ trước.
Tương tự như thế, khi Renan nêu ra định nghĩa về dân tộc (nation) vào thế kỷ XIX, điều đó không có nghĩa rằng “dân tộc” chỉ mới bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XIX trở đi. Định nghĩa dân tộc của Renan chỉ đánh dấu thời điểm một học giả tìm được ngôn ngữ để mô tả một hiện tượng đã tồn tại từ lâu, chứ không phải thời điểm hiện tượng ấy ra đời. Nếu ta nói rằng dân tộc chỉ xuất hiện từ 1882 – năm Renan đọc hoặc viết bài diễn thuyết What Is A Nation? – thì điều này cũng vô lý như việc nói khủng long chỉ bắt đầu tồn tại từ năm 1842 khi thuật ngữ khủng long được đặt ra.
Renan không “sáng tạo” ra dân tộc; ông chỉ cố gắng khái niệm hóa và định hình qua ngôn ngữ một dạng cộng đồng mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến suốt hàng ngàn năm: một cộng đồng có chung ký ức, chung huyền thoại, chung đau thương và chiến thắng, chung cảm thức đoàn kết và hy sinh, và quan trọng nhất là có ý chí tiếp tục sống cùng nhau. Những yếu tố cấu thành dân tộc theo Renan rõ ràng là có thể – và trên thực tế đã – xuất hiện trước khi ông đặt tên và mô tả chúng. Nói cách khác, Renan đặt tên “dân tộc” muộn, nhưng cộng đồng “dân tộc” mà ông mô tả thì đã tồn tại từ trước đó rất lâu.
Trước khi đi vào phần phê bình chi tiết, tôi cũng xin nhấn mạnh một thực tế mà phần lớn những người viết về chủ đề Dân tộc thường bỏ qua vì vô tình hay cố ý: đó là đến tận hôm nay, trong học thuật phương Tây vẫn chưa hề tồn tại một định nghĩa thống nhất cho khái niệm “nation” (dân tộc). Các trường phái lịch sử, xã hội học và chính trị học khác nhau – từ primordialism, ethno-symbolism cho đến modernism – từ Renan cho đến Anderson đều đưa ra những tiêu chí và cách hiểu rất khác nhau về Dân Tộc là gì, thậm chí đôi khi mâu thuẫn trực tiếp với nhau, về những gì cấu thành nên một dân tộc.
Chính vì vậy, khi tranh luận về việc một cộng đồng từ khi nào đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành dân tộc, người ta cần phải dựa vào lý thuyết nhất định nào và của ai, ví dụ lý thuyết dân tộc của Renan, hay của Stalin, hoặc của Anderson để tranh luận. Điều mà chúng ta cần tránh xa là gán ghép các lý thuyết dân tộc hỗn độn vào một dòng chảy tư tưởng, dù chúng đối ngược nhau như nước với lửa, rồi tùy tiện cắt xén và trích dẫn các yếu tố cấu thành dân tộc nhằm để ủng hộ hay phản biện. Ví dụ như là, chúng ta không thể dùng lý thuyết dân tộc của Renan để khẳng định một cộng đồng người A đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành dân tộc, nhưng lại dùng lý thuyết dân tộc của Stalin, vốn đối nghịch với lý thuyết dân tộc của Renan, để phủ định cũng cộng đồng người A ấy không thỏa mãn các yếu tố cấu thành dân tộc. Áp dụng hỗn độn các lý thuyết dân tộc như thế này là ngụy biện, vì điều đó cho thấy, chúng ta lựa chọn lý thuyết dân tộc một cách chủ quan để tranh luận cùng nhau, hơn là cùng tập trung vào việc lựa chọn một lý thuyết dân tộc nhất định, và dựa vào đó mà tranh luận một cộng đồng người A đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành dân tộc theo lý thuyết ấy chưa.
Và vì thế mà, trong bài viết phê bình này, dựa trên những gì tôi đọc được, tôi nhận thấy tác giả khi viết bài đã đặt lập luận của anh dựa trên hai nền tảng lý thuyết dân tộc: đó là lý thuyết ethnie (tiền dân tộc) của Anthony D. Smith và lý thuyết nation (dân tộc) của Ernest Renan, để xác định mốc hình thành “Dân tộc Việt Nam”. Vì vậy, trong phạm vi phản biện này, tôi sẽ tập trung tuyệt đối vào hai khung lý thuyết Smith và Renan. Tôi chưa cần – và cũng không muốn – đem các học thuyết khác như Modernism, Stalin hay các hệ Marxist vào đây để làm nhiễu vấn đề. Những gì tác giả nêu ra về GS Phan Huy Lê viết về dân tộc theo lý thuyết Stalin, hay cách các Modernists như Anderson định nghĩa nation, tôi xin tạm gác lại. Nếu tôi có hiểu lầm, tôi mong tác giả (anh Quang Phan) lên tiếng xác nhận để tôi cập nhật lại nội dung bài phản biện này.
Cũng tương tự như thế, người ta không thể dùng khái niệm nation-state để khẳng định có hay không sự hiện hữu của một nation, bởi nation và nation-state là hai tầng khái niệm hoàn toàn khác nhau: một bên là cộng đồng văn hoá–lịch sử nation, một bên là mô hình tổ chức chính trị hiện đại nation-state. Và người ta cũng không nên giả định rằng tất cả các yếu tố cấu thành nên ethnic nationalism (chủ nghĩa dân tộc sắc tộc) cũng là các yếu tố cấu thành nên civic nationalism (chủ nghĩa dân tộc công dân).
Tóm lại: Người ta không thể và không nên tranh luận về chủ đề Dân tộc bằng cách lắp ghép bừa bãi, đánh tráo khái niệm, hoặc đồng nhất những mô hình lý thuyết Dân Tộc vốn không đồng nhất. Muốn nghiêm túc, thì người ta phải trước tiên xác định là họ sẽ tranh luận dựa vào lý thuyết dân tộc nào, chẳng hạn lý thuyết Renan, hay Stalin, hay Anderson, rồi từ đó mới có thể bàn tới chuyện đúng sai ra sao trong tranh luận.
Vì lý do trên, tôi xin đề nghị một cách rõ ràng: nếu tác giả, hoặc các anh chị khác, muốn phản biện lại tôi – hay phản biện lại chính tác giả bài viết – trong khuôn khổ cuộc trao đổi này, thì xin vui lòng giữ lập luận của các anh chị trong hai lý thuyết dân tộc của Ernest Renan và Anthony D. Smith. Đừng đánh tráo sân chơi: đừng lại viết trôi sang những mảnh vụn dân tộc học hời hợt, đừng cắt xén các lý thuyết mỗi nơi một ít – từ Rousseau, Stalin, Gellner, Anderson… – để chắp vá thành một “lý thuyết dân tộc” riêng rồi dùng nó làm thước đo đúng sai, hoặc tai hại hơn, tự biện hộ hoặc tưởng tượng ra các lý thuyết dân tộc nào đó vô căn cứ để tranh luận. Đây là một cuộc tranh luận học thuật; mà đã là tranh luận học thuật thì phải tranh luận đi đến tận gốc khái niệm, bám đúng trọng tâm, nói có sách mách có chứng, và sử dụng thuật ngữ cho chuẩn xác – chứ không phải là chỗ phô diễn chữ nghĩa hay trượt trên những ấn tượng mơ hồ và rồi phàn nàn là kẻ phản biện mình là một tên “thủ thư xẻ chữ” hoặc “tôi viết đại khái như vậy ai cũng hiểu, chỉ riêng anh / chị cố tình không hiểu”.
Ban đầu, tôi dự định chia bài viết này thành vài status ngắn, dễ đọc hơn. Nhưng nghĩ lại, tôi chỉ chia bài này thành ra 2 bài (vì Facebook không cho viết 1 bài dài quá), trước hết là để chính tôi đọc và tự soi lại về sau. Tôi không viết để tìm “fan”, không cần “follower”, và càng không có nhu cầu trở thành một “anh hùng bàn phím” trên Facebook. Tôi viết là để phản biện tác giả (là anh Quang Phan) để chúng tôi cùng nhau học hỏi, nhưng đồng thời cũng để tôi có cơ hội tự kiểm tra xem kiến thức của tôi về vấn đề này đang ở mức nào, và liệu lập luận của tôi có đứng vững khi đặt dưới lăng kính của Renan và Anthony D. Smith hay không. Vì vậy, tôi xin cáo lỗi trước nếu bài viết đã được viết rất chi tiết và rất dài, nặng về lý thuyết và trích dẫn, và có khả năng cao là không hợp với thói quen đọc mau và nhanh trên mạng xã hội của các anh chị. Nếu các anh chị chỉ muốn nắm ý chính mà tôi phản biện, các anh chị có thể đọc phần tóm tắt sáu điểm phản biện của tôi ngay dưới đây. Còn nếu các anh chị muốn tranh luận một cách tới nơi tới chốn, tôi mời các anh chị đọc toàn bộ phần phân tích chi tiết tiếp theo – bởi chỉ trên nền tảng lập luận nghiêm túc và khái niệm rõ ràng, chúng ta mới có thể trò chuyện và tranh luận với nhau một cách đường hoàng về câu hỏi tưởng đơn giản nhưng đầy gai góc: “Dân tộc Việt Nam đã có mặt từ bao giờ?”.
TÓM TẮT NHỮNG PHẢN BIỆN CHÍNH CỦA TÔI
1. Tác giả đã hiểu sai khái niệm homeland của Anthony D. Smith.
Trong Smith, homeland luôn là một mảnh đất cụ thể, được ký ức hoá và thiêng hoá (như Jasna Góra, Mecca…), chứ không phải một “lý tưởng văn minh” kiểu Hoa Hạ/Hán nhân. Việc dùng “Hoa Hạ”, “Trung Quốc nhân” để suy ra “đất tổ của ethnie Kinh” là đánh tráo phạm trù giữa ethnic homeland và civilizational ideal.
2. Mô hình “ba cuộc cách mạng tạo ra nation” mà tác giả gán cho Smith là sai nguồn.
Mô hình đó thuộc về Modernism (Gellner, Anderson…), hoàn toàn không phải của Smith. Trớ trêu thay: Ethnosymbolism của Smith được xây dựng để phản biện chính Modernism. Việc gắn mô hình Modernist vào Smith là sai hệ quy chiếu, dẫn đến sai toàn bộ lập luận phía sau.
3. Cách tác giả gọi ethnie Kinh là “lateral–aristocratic ethnie” là sai ngay từ nền tảng lý thuyết.
Trong Smith, lateral ethnie là elite gần như ngoại tộc, nói ngôn ngữ khác, tách khỏi dân bản địa.
Ngược lại, elite Đại Việt:
– là người Việt,
– nói tiếng Việt,
– chia sẻ tín ngưỡng, ký ức chiến tranh,
– được “tái sinh” từ làng xã qua khoa cử.
Theo tiêu chí Smith, Đại Việt là một vertical–demotic ethnie, không phải lateral–aristocratic ethnie như tác giả gán.
4. Toàn Thư không phải “gia phả dòng họ cai trị”, mà là một quốc sử kiến tạo mythomoteur cho ethnie Việt.
Toàn Thư sản sinh – và củng cố – huyền thoại chung, ký ức chung, biểu tượng chung, giá trị chung cho cộng đồng Đại Việt.
Dù chỉ giới tinh hoa đọc trực tiếp, Toàn Thư lan tỏa ký ức cộng đồng qua: lễ nghi, học quan, đình miếu, truyền thuyết, thần tích…Xét theo Renan và Smith, Toàn Thư là bằng chứng mạnh mẽ rằng một cộng đồng ethnie/nation Việt đã được định hình ít nhất từ thế kỷ XV, nếu không muốn nói là sớm hơn.
5. Tác giả đã đọc sai Renan.
“Cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” trong Renan không phải cơ chế dân chủ hay khế ước xã hội.
Đó chỉ là ẩn dụ cho:
– ý chí tiếp tục sống chung,
– ký ức lịch sử sâu dày,
– hy sinh được chia sẻ.
Không thể lấy sự thiếu vắng dân chủ hiện đại thời quân chủ Đại Việt để phủ nhận dân tộc tính của ethnie Kinh. Renan không bao giờ yêu cầu điều đó.
6. Việc kết luận rằng “Dân tộc Việt Nam chỉ xuất hiện sau 2–9–1945” là kết quả của sự lẫn lộn khái niệm.
Các sai lầm chính của tác giả gồm:
– lẫn lộn nation với nation–state,
– lẫn lộn state–building với nation–building,
– dùng tiêu chuẩn dân tộc của Anderson để phủ định mô hình dân tộc được xét theo Renan,
Ngoài ra, việc tác giả dựa vào các hoạt động xây dựng nhà nước thời Nguyễn (tập quyền, hành chính, lãnh thổ) để phủ định dân tộc tính là sai phương pháp – bởi những hoạt động đó không bao giờ là tiêu chí của Renan khi định nghĩa nation.
Dưới đây là phần tôi trình bày chi tiết từng sai sót trong bài viết của tác giả. Và như tôi sẽ chứng minh, nếu trung thành với chính hai hệ quy chiếu mà tác giả chọn – Renan và Anthony D. Smith – thì Dân tộc Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm, chứ tuyệt đối không phải chỉ sau ngày 2/9/1945 như tác giả khẳng định.
Bạn tải quyển The Ethnic Origins of Nations của Anthony D. Smith tại đây >> https://smerdaleos.wordpress.com/.../198589879-anthony...
Bạn tải quyển What Is A Nation tại đây >> https://english.hku.hk/.../PDF/engl55_kj_renan_nation.pdf
Mời bạn đọc.
****
THỨ NHẤT, về mối quan hệ giữa một cộng đồng tiền dân tộc (ethnie) và vùng quê hương đất tổ (homeland), Anthony D. Smith viết: “Territory is relevant to ethnicity, therefore, not because it is actually possessed, nor even for its objective characteristics of climate, terrain and location, though they influence ethnic conceptions, but because of an alleged and felt symbiosis between a certain piece of earth and ‘its’ community… This is well illustrated by three aspects of ethnic homelands: sacred centres, commemorative association and external recognition.” (Nguồn: The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 26)
Tạm dịch: “Vì thế, lãnh thổ có liên quan đến tính sắc tộc không phải vì nó thực sự được [cộng đồng ethnie ấy] sở hữu, cũng không phải vì những đặc tính khách quan như khí hậu, địa hình hay vị trí của nó — dù các đặc tính ấy có ảnh hưởng đến những quan niệm sắc tộc — mà bởi vì (dựa theo niềm tin vào) sự cộng sinh được cho là tồn tại và được cảm nhận giữa một MẢNH ĐẤT CỤ THỂ (a certain piece of earth) và cộng đồng [ethnie] của nó… Điều này được thể hiện rõ qua ba phương diện nêu bật bản chất của vùng đất tổ sắc tộc ấy (ethnic homelands): các trung tâm thiêng liêng, những gắn kết mang tính tưởng niệm, và sự thừa nhận từ bên ngoài.”
Và Smith minh họa homeland bằng những nơi có vị trí địa lý hoàn toàn cụ thể và hữu hình: đền Black Madonna tại Jasna Góra (Ba Lan), Kaaba ở Mecca, các thánh địa Qom và Mashhad ở Iran, Echmiadzin ở Armenia, hay Musasir thuộc vương quốc Urartu cổ đại. Những địa điểm này đều là minh chứng rằng homeland, trong định nghĩa của Smith, luôn phải là một vùng đất mang tính địa lý cụ thể, một mảnh đất được cộng đồng ký ức hóa, linh thiêng hóa, và coi là trung tâm biểu tượng của bản sắc chung. Homeland có thể được huyền thoại hóa thành “vùng đất trong mơ” (ví dụ Jerusalem của người Do Thái thời họ còn sống lưu vong), nhưng dù vậy, nó luôn vẫn là một khu vực địa lý hiện hữu (có thật), không bao giờ là một lý tưởng văn minh hay một chuẩn văn hiến trừu tượng.
Từ nền tảng lý thuyết này, ta thấy ngay sai lầm căn bản trong lập luận đầu tiên của tác giả: tác giả đã nhầm lẫn hoàn toàn giữa hai phạm trù đối lập—(1) homeland theo nghĩa địa lý – ký ức – thiêng hóa của Smith, và (2) homeland theo nghĩa civilizational ideal văn hiến – đạo lý trong thế giới Hán Quyển. Việc tác giả khẳng định rằng cộng đồng ethnie Kinh thời trung đại có “lãnh thổ cụ thể” theo nghĩa “Hán nhân”, “Hoa Hạ”, “Trung Quốc nhân”, “Đường triều”, “Hán triều” là một lỗi đánh tráo phạm trù điển hình. Những cụm danh từ “Hán nhân”, “Hoa Hạ”, “Trung Quốc nhân”, “Đường triều”, “Hán triều”không phải là một homeland theo nghĩa của Smith; đó chỉ là những tập hợp khái niệm mô tả trật tự văn hiến văn minh, không phải ký ức lãnh thổ. Nói cách khác, những dẫn chứng mà tác giả nêu ra làm sáng tỏ cho ta biết về một thế giới quan mang tính văn hiến văn minh của ethnie Kinh, chứ không phải một quê hương sắc tộc của ethnie Kinh theo nghĩa mà Smith sử dụng (English: these references illuminate a civilizational worldview, not an ethnic homeland in Smith’s sense).
Chính vì sự nhầm lẫn này mà việc tác giả trích dẫn tiếp theo lời của Đỗ Anh Vũ (“không để man mọi quấy rầy Hoa Hạ”) như một bằng chứng cho “đất tổ ethnie” chỉ là bằng chứng thể hiện ý thức bảo vệ nền văn minh Hoa–Di, chứ không liên quan gì đến đất tổ homeland theo nghĩa Smith — vốn phải là một không gian địa lý cụ thể, nơi cộng đồng tin rằng tổ tiên họ đã sinh ra, chết đi, và để lại ký ức tập thể. “Hoa Hạ” không phải một mảnh đất; đó là một hệ giá trị văn hóa. Đồng nhất hai thứ này là đi ngược trực tiếp với lý thuyết của Smith.
Và kết quả của sự nhầm lẫn này là chuẩn văn minh bị biến thành homeland, ý thức Hoa–Di bị biến thành territorial locus, và khát vọng tham dự trật tự văn minh Trung Hoa bị biến thành ký ức lãnh thổ. Đây là một sự lẫn lộn nghiêm trọng, làm lệch hẳn toàn bộ lập luận về “lãnh thổ ethnie Kinh” so với nền tảng lý thuyết đất tổ homeland của Anthony D. Smith. Tuy lầm lẫn này không liên quan trực tiếp đến định nghĩa nation, nhưng nó cho ta thấy tác giả có vẻ chưa nắm vững được yếu tố đất tổ homeland rất quan trọng trong việc định hình nên một tiền dân tộc ethnie.
****
THỨ HAI, tác giả khẳng định rằng “theo Anthony D. Smith, nation ở phương Tây ra đời sau ba cuộc cách mạng: (1) chuyển đổi từ phong kiến sang tư bản chủ nghĩa, (2) cách mạng hành chính – quân sự, (3) cách mạng văn hóa – giáo dục”.
Vấn đề ở đây rất rõ ràng: Anthony D. Smith chưa từng — trong bất kỳ tác phẩm nào — nêu ra mô hình “ba cuộc cách mạng” như tác giả trình bày.
Ba “cuộc cách mạng” này không phải của Smith; chúng thuộc hoàn toàn về trường phái Modernism, đặc biệt là:
* Ernest Gellner — người gắn sự hình thành dân tộc với công nghiệp hóa, nhà nước quan liêu, và giáo dục chuẩn hóa;
* Benedict Anderson — người nhấn mạnh vai trò của in ấn, báo chí, “print capitalism”, và tưởng tượng cộng đồng.
Đây là nền tảng lý thuyết hiện đại luận, vốn đối lập trực tiếp với thuyết ethnosymbolism của Smith.
Trong khi đó, Anthony D. Smith xây dựng thuyết ethnosymbolism chính là để phản biện Modernism, không phải để lặp lại nó.
Smith nhấn mạnh rằng nation không phải sản phẩm tức thời của các cuộc cách mạng hiện đại, mà là kết quả của một quá trình tích tụ lịch sử lâu dài của:
* ký ức chung,
* huyền thoại nguồn gốc,
* biểu tượng chung,
* nghi lễ,
* tên gọi chung,
* lãnh thổ ký ức hóa,
* và truyền thống văn hóa.
Nói cách khác, Smith chưa từng xem dân tộc là sản phẩm của “ba cuộc cách mạng” hành chính–kinh tế–văn hóa, và thậm chí ông phản đối kịch liệt cách định nghĩa dân tộc theo tiêu chuẩn hiện đại luận như vậy.
Do đó, việc tác giả gán mô hình Modernist cho Smith là một dạng source fabrication — gán ghép nguồn sai lệch, vừa thiếu trung thực với văn bản gốc, vừa làm lệch hoàn toàn vị trí lý thuyết của Smith trong bản đồ nghiên cứu dân tộc học. Đây không phải chỉ là một lỗi nhỏ về trích dẫn; nó là sai lầm phương pháp luận nghiêm trọng, dẫn tới việc hiểu sai trầm trọng về ethnosymbolism và làm đảo lộn toàn bộ cấu trúc lý thuyết mà tác giả đang dùng để tranh luận.
****
THỨ BA, tác giả khẳng định rằng tộc ethnie Đại Việt thời trung đại là một tộc lateral–aristocratic ethnie (ethnie bề ngang) vì “Ở đó tầng lớp quý tộc, những tinh hoa của xã hội dùng một thứ ngôn ngữ khác biệt với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân (tiếng Hán với chữ Hán/tiếng Việt – Mường, hay như John Phan định danh là Việt Mường siêu Hán hóa)”.
Nhưng tôi không hiểu tác giả đã có thật sự đọc thật kỹ những gì Smith viết về sự khác nhau giữa hai tộc ethnie Lateral và Vertical trong quyển The Ethnic Origins of Nations 1986 chưa ? Hay tác giả chỉ dựa vào bài viết nghiên cứu sơ sài của thầy Liam Kelly khẳng định rằng ethnie Kinh là tộc lateral ethnie tại đây >> https://leminhkhai.wordpress.com/.../how-did-vietnam....
Bởi vì nếu tác giả đã thật sự đọc kỹ những gì Smith viết về sự khác nhau giữa 2 tộc Lateral Ethnie vs Vertical Ethnie này, sẽ thấy rõ rằng lập luận cho rằng tộc ethnie Đại Việt thời trung đại là một lateral–aristocratic ethnie chỉ vì giới tinh hoa Đại Việt dùng Hán văn, còn người dân nói Việt–Mường, thì đó là một sự hiểu sai nghiêm trọng đối với lý thuyết của Smith ngay từ nền tảng, vì tiêu chuẩn để một tộc tiền dân tộc ethnie là Lateral không hề là dựa vào việc giới tinh hoa cai trị dùng một ngôn ngữ khác, mà là dựa vào một số tiêu chuẩn khác nhau mà tôi nêu ra dưới đây.
Smith khẳng định rất rõ rằng khi ông bàn về lateral ethnie, đó là:
(a) Cảm thức sắc tộc chung của tộc laternal là “the sense of common ethnicity was confined mainly to nobles and clerics whom it united in a broad, inclusive manner by concepts of blood affinity, arranged marriages and common rituals, it retained considerable social significance and durability - Cảm thức sắc tộc chung của tộc lateral chủ yếu chỉ giới hạn trong giới quý tộc và tăng lữ, những người được gắn kết với nhau một cách rộng mở và bao trùm thông qua các quan niệm về huyết thống, hôn nhân sắp đặt và những nghi lễ chung; tuy vậy, nó vẫn duy trì được ý nghĩa xã hội đáng kể và độ bền vững lớn” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 79)
(b) “Their limited social penetration in no way undermined the sense of common origins and descent, nor entailed their rapid dissolution as an ethnie - Mức độ thẩm thấu xã hội hạn chế của giới tinh hoa lateral ethnie hoàn toàn không làm suy giảm cảm thức về nguồn gốc và huyết thống chung, cũng không dẫn đến sự tan rã nhanh chóng của họ với tư cách là một ethnie” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 79)
Điều đó có nghĩa là: tầng lớp tinh hoa trong tộc lateral ethnie phải là một cộng đồng gần như ngoại tộc, với ngôn ngữ nói khác, nguồn gốc khác và bản sắc văn hóa sống tách biệt khỏi dân chúng. Đây chính là mô tả của các tầng lớp tinh hoa Hittite, Arya hay Latin mà Smith đưa ra làm ví dụ – chứ tuyệt đối không hề là cấu trúc xã hội Đại Việt thời quân chủ.
Vì chúng ta biết rõ là, giới tinh hoa Đại Việt thời quân chủ, ít nhất là bắt đầu vào thời Lê thế kỷ XV, không hề là ngoại tộc; họ là dân bản địa (Kinh hoặc Mường) ở trên đất Đại Việt, họ nói tiếng Việt hoặc Việt Mường, sống cùng tín ngưỡng Việt (Mường), cùng hệ thống thờ thành hoàng, thờ tổ tiên, và chia sẻ ký ức – thần thoại – kinh nghiệm lịch sử với cư dân làng xã bản địa Đại Việt. Sử liệu Việt Nam không hề cho thấy sự tồn tại của một tầng lớp tinh hoa Đại Việt tách rời khỏi hẳn đời sống văn hóa và phong tục bản địa; ngược lại, phần lớn giới tinh hoa Đại Việt nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác qua chế độ khoa cử, chứ không hề là “gắn kết với nhau một cách rộng mở và bao trùm thông qua các quan niệm về huyết thống, hôn nhân sắp đặt và những nghi lễ chung”. Và chính vì vậy mà, 2 tiêu chuẩn trên mà Sminh nêu ra liên quan đến bản sắc tộc lateral ethnie không thể áp dụng vào trường hợp Đại Việt thời quân chủ.
Không chỉ vậy, Smith còn xác định rõ “Lateral ethnie often failed to create a clear and compact location. Their boundaries often became ragged and indeterminate - Tộc lateral ethnie thường không thể hình thành một miền cư trú rõ ràng và tập trung; ranh giới của họ thường trở nên rời rạc và không [được] xác định [rõ ràng]” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 79). Nhưng đặc điểm này lại hoàn toàn trái ngược với tình hình biên giới Đại Việt từ thế kỷ X, vốn đã có ranh giới (dù không hoàn chỉnh và chi tiết như ngày nay) với Trung Hoa, Champa, Ai Lao, Xiêm – được khẳng định qua các cuộc chiến tranh, bang giao và pháp chế. Một cộng đồng ranh giới rõ như Đại Việt đứng ở cực đối lập với định nghĩa lateral ethnie của Smith.
Smith cũng cho ta thấy rất rõ cấu trúc tầng lớp xã hội trong tộc lateral ethnie qua trường hợp điển hình của tầng lớp quý tộc Hittite. Ông mô tả rằng “this warrior aristocracy… dominated native peasant ‘Hattian’ and ‘Kaneshite’ populations” – “tầng lớp quý tộc chiến binh này thống trị cư dân nông dân bản địa ‘Hattian’ và ‘Kaneshite’” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 80), và nhấn mạnh rằng những cư dân bị trị ấy, cùng với toàn bộ tầng lớp thường dân, “were excluded from the Hittite pankush” – “bị loại trừ khỏi hội đồng pankush” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr.80–81). Cấu trúc này biểu thị đúng đặc điểm của lateral ethnie: tầng lớp tinh hoa có nguồn gốc khác, cách biệt từ tầng lớp dân bản địa và tạo thành một cộng đồng khép kín chỉ gồm “nobles, royalty and priests - giới quý tộc, vương giả và tăng lữ”.
Điều này hoàn toàn trái ngược với Việt Nam. Giới tinh hoa Đại Việt không phải ngoại tộc, không tạo thành một giai tầng khép kín. Ngược lại, giới tinh hoa Đại Việt là người bản địa Việt, phần lớn liên tục được tái sinh qua hệ thống khoa cử, và không hề tồn tại một thiết chế tinh hoa kiểu “pankush” chỉ gồm quý tộc loại trừ dân thường bản địa. Một xã hội có cơ chế thăng tiến từ dưới lên qua chế độ khoa cử mạnh mẽ như xã hội Đại Việt thời quân chủ không thể mang cấu trúc lateral ethnie theo tiêu chí mà Smith nêu ra.
Và ngược lại, toàn bộ lịch sử Đại Việt thời quân chủ thì lại khớp rất chặt chẽ với mô hình vertical–demotic ethnie: đó là cộng đồng ethnie Kinh được gắn kết bởi ranh giới rõ ràng và “the ethnic bond that unites them against the stranger or enemy” – “sợi dây sắc tộc gắn kết cộng đồng chống lại kẻ lạ/kẻ thù” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr. 81). Từ chống Tống, Nguyên–Mông, Minh đến các xung đột kéo dài với Champa – Ai Lao – Xiêm, Việt Nam là trường hợp kinh điển cho mô tả của Smith rằng “frequent wars play a large part in cementing the community” – “những cuộc chiến diễn ra liên miên góp phần đáng kể vào việc củng cố và kết chặt cộng đồng” (The Ethnic Origins of Nations 1986, tr.81). Đây chính là cơ chế hình thành bản sắc bề dọc vertical ethnie của người Việt: chiến tranh, ký ức tập thể và kinh nghiệm sinh tồn toàn dân.
Smith còn nói rằng vertical ethnie sản sinh ra những lãnh tụ mang tính thiêng liêng, “embody the unique characteristics of the whole community” – “hiện thân cho bản sắc của toàn cộng đồng” (p.83). Việt Nam có Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung – những biểu tượng dân tộc được thần thánh hóa từ lòng dân, chứ không phải do giới quý tộc tự phong.
Tất cả những điều này tựu trung lại cho một kết luận duy nhất: theo đúng tiêu chí học thuật của Smith, Đại Việt thời quân chủ không thể là tộc lateral-aristocratic ethnie như tác giả hay thầy Liam Kelly khẳng định. Trái lại, Đại Việt thời quân chủ khớp toàn diện với mô hình vertical-demotic ethnie: bản sắc từ dưới lên, ranh giới rõ ràng, kinh nghiệm chiến tranh toàn dân, tinh thần chống “kẻ khác” và hệ biểu tượng lãnh tụ thiêng liêng bền vững. Nếu trung thành với Smith, thì Đại Việt thời quân chủ chỉ có thể được xếp vào tộc vertical ethnie, chứ không phải là tộc lateral ethnie – và đó là kết luận duy nhất hợp lý.
Và việc hiểu đúng – hay hiểu sai – điểm “thứ ba” này không phải chỉ là chuyện tranh luận lý thuyết. Nó quyết định toàn bộ cách ta đọc và hiểu về bản sắc dân tộc Việt Nam. Nếu ta chấp nhận một cách dễ dãi rằng Đại Việt thời trung đại là một lateral–aristocratic ethnie, thì ta mặc nhiên thừa nhận rằng suốt hơn cả ngàn năm lịch sử, người Việt không phải là một cộng đồng dân tộc theo nghĩa bền vững gắn bó từ dân bản địa lên đến vua quan, mà chỉ là một xã hội bị dẫn dắt bởi một tầng lớp tinh hoa tách biệt, ngoại tộc, và xa lạ với dân chúng. Đó là cách hiểu vừa trái với học thuật của Smith, vừa xuyên tạc lịch sử Việt Nam, nơi bản sắc dân tộc theo tôi đọc luôn được hình thành từ dưới lên – từ làng xã, từ ký ức chống ngoại xâm, từ những cuộc chiến của toàn dân.
Chính vì vậy, hiểu Đại Việt thời quân chủ là một vertical-demotic ethnie không chỉ là đúng theo định nghĩa của Smith, mà còn cho phép ta hiểu một cách chuẩn xác tinh thần của câu nói “Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Câu nói ấy không xuất hiện từ hư vô; nó là kết tinh của cả một lịch sử dài, nơi ý thức cộng đồng, ký ức chiến tranh, ranh giới văn hóa và bản sắc dân gian đã gắn kết người Việt thành một cộng đồng thống nhất từ rất lâu trước thời hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ nói lại – bằng ngôn từ chính trị thế kỷ XX – một sự thật lịch sử đã được hun đúc suốt cả ngàn năm: Việt Nam chưa bao giờ là một cộng đồng tinh hoa bề ngang lateral ethnie với giới tinh hoa ngoại tộc lãnh đạo tách biệt khỏi người dân, mà luôn là một cộng đồng tinh hoa cai trị bề dọc vertical ethnie, được hun đúc và gắn kết chặt chẽ với dân bản địa Việt (Kinh).

https://www.facebook.com/brian.wu.121772/posts/pfbid02EUCMHmpzASpCBzciXFXTG4LMoLrDSUmyCtzwGfpRXPhXAqi15ugPKxYLHxbepTL5l


---


CẬP NHẬT



2. Ngày 27/11/2025

Sau khi tôi viết bài phản biện anh Quang Phan về chủ đề dân tộc Việt Nam có mặt từ khi nào, tôi nhận thấy có vài điểm sau đây mà các bạn nêu ra, và tôi xin trả lời chúng để chúng ta cần phải minh bạch và hiểu nhau hơn khi tranh luận về chủ đề Dân Tộc.
Bài phản biện (rất dài bao gồm 2 phần) của tôi là tại đây >> https://www.facebook.com/brian.wu.121772/posts/4030095107241421
Những điểm này là:
****
(1) KHÁI NIỆM ĐẾN SAU HIỆN TƯỢNG
Tôi muốn nhấn mạnh đến một nguyên tắc phương pháp luận tối quan trọng: đó là thời điểm con người đặt tên cho một khái niệm tuyệt đối KHÔNG PHẢI là thời điểm hiện tượng mà khái niệm ấy mô tả bắt đầu xuất hiện. Trong mọi lĩnh vực nghiên cứu, hiện tượng luôn tồn tại trước; còn khái niệm chỉ là nhãn gọi do con người sáng tạo ra sau này, dùng để nhận diện, mô tả hoặc lý thuyết hoá hiện tượng hoặc sự vật ấy. Ví dụ khủng long đã có mặt trên Trái Đất hơn 150 triệu năm, nhưng thuật ngữ khủng long (dinosaur) chỉ xuất hiện vào thế kỷ XIX; không ai có thể nghiêm túc nói rằng “loài khủng long chỉ sinh ra và có mặt trên Trái Đất bắt đầu từ thế kỷ XIX” chỉ vì thuật ngữ khủng long có mặt bắt đầu từ thế kỷ XIX. Ngôn ngữ và lý thuyết đến sau không hề tạo ra hiện tượng; chúng chỉ giúp ta nhìn rõ và phân tích tốt hơn cái đã hiện hữu từ trước.
Tương tự như thế, khi Renan nêu ra định nghĩa về dân tộc (nation) vào thế kỷ XIX, điều đó không có nghĩa rằng “dân tộc” chỉ mới bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XIX trở đi. Định nghĩa dân tộc của Renan chỉ đánh dấu thời điểm một học giả tìm được ngôn ngữ để mô tả một hiện tượng đã tồn tại từ lâu, chứ không phải thời điểm hiện tượng ấy ra đời. Nếu ta nói rằng dân tộc chỉ xuất hiện từ 1882 – năm Renan đọc hoặc viết bài diễn thuyết What Is A Nation? – thì điều này cũng vô lý như việc nói khủng long chỉ bắt đầu tồn tại từ năm 1842 khi thuật ngữ khủng long được đặt ra.
Renan không “sáng tạo” ra dân tộc; ông chỉ cố gắng khái niệm hóa và định hình qua ngôn ngữ một dạng cộng đồng mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến suốt hàng ngàn năm: một cộng đồng có chung ký ức, chung huyền thoại, chung đau thương và chiến thắng, chung cảm thức đoàn kết và hy sinh, và quan trọng nhất là có ý chí tiếp tục sống cùng nhau. Những yếu tố cấu thành dân tộc theo Renan rõ ràng là có thể – và trên thực tế đã – xuất hiện trước khi ông đặt tên và mô tả chúng. Nói cách khác, Renan đặt tên “dân tộc” muộn, nhưng cộng đồng “dân tộc” mà ông mô tả thì đã tồn tại từ trước đó rất lâu.
****
(2) ĐỪNG NHÉT CHỮ VÀO MIỆNG CÁC NHÀ DÂN TỘC HỌC
Ví dụ 1. Khi định nghĩa “Dân Tộc” (Nation) vào thế kỷ XIX, Renan chưa bao giờ khẳng định rằng khái niệm này chỉ có thể áp dụng cho các cộng đồng Tây phương hay chỉ tồn tại trong bối cảnh Âu châu. Ông mô tả dân tộc như một cộng đồng cảm thức tinh thần, gồm ký ức chung, những hy sinh đã chia sẻ và ý chí tiếp tục sống cùng nhau — những yếu tố mang tính phổ quát của nhân loại, không hề bị ràng buộc bởi lãnh thổ, địa lý, văn hoá hay truyền thống chính trị. Vì thế, khi bạn sử dụng định nghĩa “Dân Tộc” của Renan mà lại lập luận rằng vì Đại Việt là một xã hội Á Đông nên “không thể có khái niệm dân tộc”, thì đó không chỉ là một mâu thuẫn logic mà còn là hành vi gán ghép: tức là nhét vào miệng Renan một giới hạn mà ông không hề nêu ra. Người lập luận như vậy đã tạo ra một “Renan giả” theo ý mình, rồi dùng phiên bản ấy để phủ nhận lịch sử và thực tế của người Việt, thay vì dựa trên chính văn bản Renan đã để lại.
Ví dụ 2. Lại có người viện dẫn bối cảnh nước Pháp lúc Renan sống để khẳng định rằng định nghĩa “Dân Tộc” của ông không thể được hiểu theo đúng những gì ông viết, rằng khái niệm dân tộc của Renan không còn thuộc phạm trù cảm thức tinh thần, mà “phải được hiểu lại” theo các tiêu chuẩn hiện đại như công dân, nhà nước, chủ quyền nhân dân hay tự quyết chính trị. Cách suy luận này hoàn toàn sai, vì nó áp đặt một hệ tiêu chí của thế kỷ XX trở về sau vào một văn bản của thế kỷ XIX — tức là rơi vào anachronism, hay ngụy biện gán ghép sai niên đại. Đó là một lỗi phương pháp luận nghiêm trọng: dùng tiêu chuẩn và khái niệm của thời điểm sau để tái diễn giải hoặc bóp méo nội dung của một văn bản thuộc thời điểm trước.
Kết lại, cả hai ví dụ trên đều cho thấy cùng một vấn đề: sự tuỳ tiện gán ghép các giới hạn và tiêu chí hiện đại lên các học giả cổ điển, rồi dựa vào những gán ghép ấy để rút ra kết luận sai lệch về lịch sử dân tộc Việt Nam. Đọc Renan là phải dựa vào những gì ông viết trong văn bản, không phải dựa vào phiên bản Renan được nhào nặn từ suy luận chủ quan. Một khi phương pháp luận đã sai từ gốc — nhét chữ vào miệng học giả, và dùng tiêu chuẩn sai niên đại để diễn giải văn bản — thì mọi kết luận được xây dựng trên đó đều không có giá trị học thuật.
****
(3) VỀ LỜI PHÊ BÌNH RẰNG: “VIẾT VỀ DÂN TỘC BẰNG TIẾNG VIỆT MÀ CỨ TRÍCH DẪN ANH NGỮ, DÙNG KHÁI NIỆM TÂY PHƯƠNG RỐI RẮM, KHÓ HIỂU — CHUỘNG TÂY ĐẾN THẾ LÀ CÙNG, ANH NÊN VIẾT NGẮN GỌN BẰNG TIẾNG VIỆT DỄ HIỂU LẠI ĐI”
Tôi xin nói thẳng một điều mà chúng ta không thể phủ nhận: toàn bộ các lý thuyết dân tộc (nation) mà người Việt Nam đang dùng để tranh luận hôm nay đều là sản phẩm của học giới Tây phương. Đây là sự thật, không phải “chuộng Tây” hay “sính ngoại”. Bàn về dân tộc và nguồn gốc dân tộc Việt Nam không thể chỉ dựa vào vài câu ca dao kiểu “Quê hương là chùm khế ngọt” mà đưa ra kết luận học thuật được. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố “Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một”, lẽ ra — nếu muốn rõ ràng về mặt lý thuyết — ông phải chú thích xem ông đang dùng định nghĩa “Dân Tộc” của trường phái nào, bởi như tôi đã trình bày, học giới đến nay vẫn chưa có một lý thuyết thống nhất (unified theory) về Dân Tộc (Nation).
Nếu khái niệm “Dân Tộc” mà ông Cụ sử dụng đúng là theo Stalin — điều này đến nay vẫn còn bỏ ngỏ — thì “Dân tộc” ấy chính là Dân tộc Xã hội Chủ nghĩa (Socialist Nation), và như vậy khi người ta viết về dân tộc Việt Nam theo ý ông Cụ, thì người ta cần viết rõ đó là dân tộc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có liên quan gì đến thời Nguyễn Ánh vua Gia Long vì lúc ấy quốc gia Việt Nam thời Gia Long chưa đạt tiêu chuẩn dân tộc XHCN Socialist Nation để mà các anh chị mạt sát là Nguyễn Ánh vua Gia Long phản bội dân tộc XHCN đâu ạ.
Và chúng ta cũng đều biết, ông Cụ có rất nhiều phát biểu mang tính tuyên truyền chính trị hơn là dựa theo lý thuyết học thuật chuẩn mực; ví dụ ông Cụ từng nói “Nhân dân Việt Nam có Tổ quốc thứ hai là Liên Xô”, trích nguyên văn: “Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt Nam ta luôn luôn hướng về Liên Xô… và coi Liên Xô là Tổ quốc của cách mạng, Tổ quốc thứ hai của mình.” Việc tùy ý gán ghép định nghĩa Tổ Quốc như vậy — theo cách hiểu của tôi — chính là thói quen mà rất nhiều người Việt Nam hiện nay đang lặp lại: chọn bất cứ định nghĩa nào phù hợp với cảm xúc chính trị trước mắt, chứ không dựa trên nguyên tắc học thuật.
Bởi vậy, khi tranh luận về Dân Tộc, tôi không chỉ viết bằng tiếng Việt mà còn trích dẫn nguyên văn tiếng Anh để những ai muốn kiểm chứng có thể tự đối chiếu. Nếu các anh chị cảm thấy đọc Anh ngữ khó, không đủ kiên nhẫn để hiểu khái niệm gốc, và chỉ thích những bài viết ngắn gọn, “dễ nuốt”, hô hào cảm tính… thì tốt nhất đừng nên bước vào tranh luận học thuật về vấn đề Dân Tộc. Ở các nước Tây phương, đặc biệt là Mỹ, họ có cả một núi sách nghiên cứu về chủ đề này, trải dài từ triết học, xã hội học, sử học, nhân học cho đến chính trị học; chứ không phải chỉ dựa vào vài cuốn Toàn Thư, Cương Mục, Tiền Biên, Tục Biên hay Đại Nam Thực Lục để gánh cả ngàn năm lịch sử như ở Việt Nam.
Cho nên, nếu các anh chị đọc một bài viết nào đó bàn về “Dân tộc Việt Nam có từ khi nào”, mà tác giả không trích dẫn bất kỳ câu chữ Anh ngữ hay Pháp ngữ nào từ các học giả phương Tây, tôi nói thật: khả năng rất cao là người ấy chưa từng đọc sâu về chủ đề này. Muốn làm học thuật thì phải dựa vào lý thuyết gốc, văn bản gốc — còn nếu chỉ thích bài ngắn gọn, dễ hiểu, thuận tai, thì đó chỉ là tuyên truyền, không phải nghiên cứu.
****
(4) LẪN LỘN CÁC LÝ THUYẾT DÂN TỘC KHÁC NHAU VÀO TRONG MỘT “DÒNG CHẢY TƯ TƯỞNG”, RỒI TỪ ĐÓ KẾT LUẬN DÂN TỘC VIỆT NAM CHỈ BẮT ĐẦU Ở THỜI ĐIỂM NÀY HAY THỜI ĐIỂM NỌ TRONG LỊCH SỬ
Một trong những sai lầm phương pháp luận phổ biến nhất trong các tranh luận về dân tộc Việt Nam hiện nay là trộn lẫn các lý thuyết dân tộc vốn xuất phát từ những hệ tư tưởng hoàn toàn khác nhau — thậm chí đối lập nhau — rồi gọi đó là một “dòng chảy tư tưởng” thống nhất. Từ “dòng chảy giả tạo” này, người viết đi đến kết luận rằng dân tộc Việt Nam chỉ bắt đầu từ một mốc lịch sử nhất định nào đó. Đây là một lỗi rất nặng về mặt lý thuyết và phương pháp.
Các học giả lớn như Renan, Stalin, Anthony D. Smith, Benedict Anderson hay Gellner đều không đứng trong cùng một “truyền thống tư tưởng”. Họ thuộc về những trường phái khác nhau, với các tiền đề khác nhau, mục tiêu phân tích khác nhau, và định nghĩa “nation” khác nhau. Renan nhấn mạnh cảm thức tinh thần; Stalin dựa trên vật chất – kinh tế; Anderson nhấn mạnh tư bản in ấn và truyền thông; Smith đề cao ký ức lịch sử – huyền thoại và tính liên tục biểu tượng. Những lý thuyết này không thể được nối lại như một chuỗi tuyến tính hay như một quá trình tiến hóa tư tưởng. Chúng mâu thuẫn ngay từ nền tảng, chứ không phải chỉ “khác nhau đôi chút”.
Vậy nên, nếu ai đó gộp tất cả vào một “dòng chảy tư tưởng từ Rousseau – Renan – Stalin – Smith…”, rồi dựa vào đó để kết luận về thời điểm dân tộc Việt Nam “ra đời”, thì đó là ngụy biện lắp ghép (eclectic fallacy): lấy mỗi lý thuyết một chút theo ý muốn, lược bỏ những phần mâu thuẫn, rồi trộn lại thành một hỗn hợp phục vụ kết luận chủ quan. Phương pháp này chẳng khác gì việc trộn một công thức toán học, một câu thơ và một đoạn quảng cáo rồi tuyên bố rằng chúng “thuộc cùng một hệ hình tư tưởng”. Nó không hề hợp lệ trong khoa học xã hội.
Hơn nữa, việc áp dụng các tiêu chí của lý thuyết hiện đại để quyết định thời điểm “dân tộc Việt Nam bắt đầu tồn tại” thường dẫn thẳng đến ngụy biện anachronism — tức là áp tiêu chuẩn của thế kỷ XX vào thế kỷ XV, hoặc áp định nghĩa của một học giả phương Tây lên những cộng đồng lịch sử vốn vận hành theo logic văn hóa khác biệt. Không có lý thuyết dân tộc học nghiêm túc nào cho phép cách suy luận như vậy.
Khi các lý thuyết dân tộc bị trộn lẫn bừa bãi thành một “dòng chảy tư tưởng” để phục vụ kết luận có sẵn, thì thứ duy nhất bị bóp méo chính là lịch sử của chúng ta.
Chính vì mỗi lý thuyết dân tộc đều có những tiền đề và tiêu chí hoàn toàn khác nhau, nên thời điểm ra đời của dân tộc Việt Nam không thể được xác định bằng một “kết luận chung”, lại càng không thể dựa trên một hỗn hợp lý thuyết được lắp ghép tuỳ tiện. Thay vào đó, thời điểm dân tộc Việt Nam xuất hiện phải được xác định riêng biệt theo từng lý thuyết. Nói cách khác, tùy theo hệ hình lý thuyết áp dụng — Renan, Smith, Stalin, Anderson hay bất cứ ai — ta mới có thể khẳng định dân tộc Việt Nam đã có mặt từ bao giờ theo đúng logic của học thuyết đó. Không có, và cũng không thể có, một lập luận thống nhất tuyệt đối rằng “dân tộc Việt Nam bắt đầu từ năm X” nếu chúng ta dựa trên tổng hợp toàn bộ các lý thuyết dân tộc hiện có.
Một khi hiểu đúng điều này, chúng ta sẽ thấy rằng việc cố áp một mốc thời gian duy nhất cho sự ra đời của dân tộc Việt Nam không chỉ sai về mặt học thuật, mà còn phơi bày sự lẫn lộn trong phương pháp luận ngay từ nền tảng.
****
Các điều trên chính là những tiền đề tối thiểu mà tôi cho rằng chúng ta cần thống nhất trước khi bước vào bất kỳ cuộc tranh luận nghiêm túc nào về chủ đề Dân Tộc và câu hỏi “Dân tộc Việt Nam có từ bao giờ?”. Một cuộc đối thoại học thuật văn minh — kể cả trên Facebook — không thể vận hành nếu thiếu những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản hoặc những giả định xuất phát mà mọi người tham gia đều đồng ý tôn trọng. Chủ đề Dân Tộc không phải vấn đề cảm tính, càng không phải một khẩu hiệu chính trị; nó là một lĩnh vực học thuật rộng, phong phú, đầy thách thức và cũng vô cùng thú vị khi ta thực sự đào sâu vào nó.
Tôi tin rằng nếu chúng ta tranh luận đúng cách về chủ đề này, thì mỗi người trong chúng ta đều sẽ thu nhận thêm những hiểu biết mới mẻ và sắc bén hơn về những câu hỏi cốt lõi của chính cộng đồng mình: “Chúng ta là ai?”, “Chúng ta đến từ đâu?”, “Chúng ta khác với ai?”, “Vì sao chúng ta có quyền tồn tại như một cộng đồng riêng biệt?”. Đây là những câu hỏi nền tảng mà bất kỳ dân tộc nào cũng phải đối diện, phải trả lời cho chính mình — nhưng đáng tiếc thay, suốt thế kỷ XX, rất nhiều học giả Việt Nam đã vì lý do chính trị, tuyên truyền hay hạn chế học thuật mà diễn giải chúng một cách phiến diện, thậm chí sai lệch. Chính những diễn giải ấy đã định hình cách chúng ta nhìn chính mình suốt nhiều thập niên, đôi khi trở thành những “chân lý tưởng tượng” mà ít ai đủ can đảm đặt lại câu hỏi.
Nhưng giờ đây, ở thế kỷ XXI, Việt Nam đã thống nhất và yên bình hơn nửa thế kỷ; trí tuệ nhân tạo đã tham gia vào hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống; thế giới mở hơn, kiến thức tiếp cận dễ dàng hơn bao giờ hết. Chúng ta — những người đang quan tâm đến học thuật, đến dân tộc, đến lịch sử — không còn lý do gì để tiếp tục sợ hãi những tranh luận lý thuyết thuần túy, hay lo lắng rằng một cuộc thảo luận về “nation” và “nationalism” lại có thể “đe doạ” ai đó hoặc “lật đổ” điều gì đó. Những nỗi sợ ấy thuộc về một thời kỳ đã qua; còn chúng ta, thế hệ này, có trách nhiệm bước ra khỏi những bóng mờ vô hình ấy để trả lại cho tri thức sự tự do, cho học thuật sự trung thực, và cho lịch sử sự trong sáng cần thiết.
Chỉ khi dám tranh luận đúng nghĩa, dám chất vấn những định nghĩa, dám đối chiếu lý thuyết với văn bản và thực tiễn, chúng ta mới có thể từng bước hé mở câu trả lời thật sự về cội nguồn của cộng đồng Việt Nam, và quan trọng hơn, về chúng ta — những con người đang sống trong cái cộng đồng ấy hôm nay.
Regards,
Brianoicuenhiuaada

https://www.facebook.com/brian.wu.121772/posts/pfbid02V6DJmVLxx7L2aRfZnWUz59Y2Ye1cMRZ6BM8cN3nr2UYxgPjoyWg2vMqe5dMJpZyxl


1.


Đầu tiên, chúng tôi cảm ơn độc giả đã thảo luận về vấn đề sự hình thành dân tộc Việt Nam. Thay vì sa đà vào những tranh luận mang tính cá nhân, chúng tôi coi đây là cơ hội để cùng nhau làm rõ những khái niệm nền tảng, từ đó giải những ngộ nhận phổ biến về tiến trình kiến tạo quốc gia – dân tộc.
Chúng tôi, trình bày quan điểm của mình dựa trên sự tiếp nối của dòng chảy tư tưởng từ Jean-Jacques Rousseau – Chủ quyền thuộc về nhân dân, được Ernest Renan kế thừa và khái quát thành dân tộc luận với nguyên lý tinh thần. Được các nhà lý luận Mác Xít tái định nghĩa (J. Stalin 1913) (1). Chúng tôi cũng sử dụng lý thuyết nguồn gốc tộc người của các quốc gia của Anthony D. Smith đồng thời đề cập tới lý thuyết Dân tộc là một cộng đồng tưởng tượng của Benedict Anderson.
Chúng tôi cho rằng: Đọc Rousseau để hiểu nền tảng. Đọc Renan để thấy sự hào hoa của tinh thần Khai sáng. Đọc Stalin để thấy khung vật chất lạnh lùng, dân tộc chỉ được kết nối bởi ¼ là giá trị tinh thần. Đọc Anthony D. Smith để vượt qua những trở lực mà thế hệ đi trước chưa giải quyết được. Cuối cùng, đọc Anderson để hồ nghi rằng: Phải chăng lòng tự hào dân tộc chỉ là một trạng thái tâm lý được "cấp phép"?
1. Một cuộc luận bàn “Dân tộc Việt Nam có từ bao giờ?”
Câu hỏi về thời điểm ra đời của Dân tộc Việt Nam không phải là vấn đề mới. Năm 1980, tại Việt Nam nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Sử học, đã có “cuộc thảo luận về vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam”. Khung lý thuyết cho buổi thảo luận này là lý thuyết dân tộc của J. Stalin (1913).
Tại cuộc thảo luận này có hai hai luận điểm. Luận điểm thứ nhất cho rằng Dân tộc Việt Nam được hình thành sớm, thế kỷ thứ X, XV hoặc XVIII. Luận điểm thứ 2 phủ định sự hình thành dân tộc trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Lưu ý trong báo cáo Hội thảo hình thành Dân tộc Việt Nam, GS Phan Huy Lê đã rất tinh tế khi dùng cụm uyển ngữ: “có người phủ nhận sự hình thành dân tộc trước Cách mạng tháng 8 năm 1945”(2).
Tổng kết thảo luận, Gs Phan Huy Lê cho biết: “Mọi người tham luận và phát biểu ý kiến trong cuộc hội thảo này đều tỏ ý tán thành với nhận định dân tộc Việt Nam hình thành sớm trước chủ nghĩa tư bản” (3). Một lần nữa, ta thấy Gs Phan Huy Lê tinh tế đến mức nào khi … tiếp tục sử dụng uyển ngữ “tỏ ý tán thành” chứ phải là kết luận vấn đề. Ông cũng khuyến cáo: “để giải quyết vấn đề một cách thực sự khoa học, chúng ta còn đứng trước hàng loạt vấn đề lý luận và thực tế lịch sử dân tộc cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa, thảo luận rộng hơn nữa” (4). Lời khuyến cáo này dường như đã đặt việc “tỏ ý tán thành với nhận định dân tộc Việt Nam hình thành sớm trước chủ nghĩa tư bản” sẽ phải đối diện với những thách thức về lý luận và thực tế.
Sự lúng túng và cả tinh tế trong sử dụng uyển ngữ cho thấy nội lực của nền khoa học lịch sử Việt Nam chưa đủ sức phân tầng các khái niệm Dân tộc (nation), ethnie là (tiền dân tộc hay cộng đồng sắc tộc). Đến năm 2008, Gs Phan Huy Lê còn than thở về “tình trạng bế tắc trong một thời gian kéo dài chính là hệ quả của sự vận dụng thiếu sáng tạo lí thuyết về dân tộc theo mô hình phương Tây”. Rất may mắn lý thuyết “Nguồn gốc tộc người của các quốc gia” từ Anthony D. Smith đã cung cấp cho chúng ta chìa khóa để giải quyết nan đề này. Qua đó việc phân tầng Proto Nation, Pre Nation và National sẽ gọn gàng, chính xác và khoa học hơn.
2. Ethnie kiến tạo bản sắc quốc gia
Ethnie là một thuật ngữ tiếng Pháp được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (ethnos). Ethnos nghĩa là một nhóm đồng đội, một nhóm người đồng chủng, dần dần khái niệm này được mở rộng ra. Anthony D. Smith cho biết trong cách sử dụng ethnos có “mẫu số chung dường như ý thức về một số người hoặc động vật sống cùng nhau và hành động cùng nhau mặc dù không nhất thiết phải thuộc cùng một thị tộc hoặc bộ lạc” (5)
Các Ethnie như vậy có một lịch sử chung. Anthony D. Smith cho rằng “các cộng đồng tộc người không là gì cả nếu không phải là những cộng đồng lịch sử được xây dựng trên những ký ức được chia sẻ (tức là những ký ức chung). Ý thức về một lịch sử chung gắn kết các thế hệ kế tiếp nhau … (6). Ứng dụng lý thuyết này, tùy theo từng dạng thức biểu hiện cụ thể mà ta có thể xếp thành pre (hay proto) nation hoặc pre - National.
Ethnie – Sắc tộc tiền dân tộc có một nền văn hóa chung đặc thù và được phân biệt với nhau bởi một hay nhiều yếu tố văn hóa. Ethnie có một lãnh thổ cụ thể nói như Anthony D. Smith là vùng lãnh thổ mà họ tự nhận là của riêng họ. Trong trường hợp Việt Nam trung đại, tầng lớp tinh hoa của sắc tộc Kinh (Kinh ethnic group) tự nhận mình là Hán nhân, Trung quốc nhân và là chủ nhân của vùng đất Trung Châu. Sử liệu sơ cấp đã minh xác vấn đề này: Trần Thái Tông trong Khóa hư lục viết: “ba là đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm [...] tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt như ở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ sáu căn, há chẳng quý lắm sao” (7). Nguyễn Phi Khanh trong Phụng chiếu Trường An đạo trung tác viết: “Vũ phu cảm khấp quan Đường chiếu/Phụ lão phù lê thính Hán triều” (.8.).
Lãnh thổ gắn với quê hương, xứ sở đôi khi không phải chỉ đơn thuần là là một thực thể hiện hữu với đường biên giới rõ ràng mà đơn giản chỉ là … nơi mà những người trong ethnie cảm thấy mình thuộc về. Anthony D. Smith cho rằng “một vùng đất của những giấc mơ có ý nghĩa hơn rất nhiều so với bất cứ một vùng đất thực tế nào” (9). Với người Kinh, trách nhiệm của thần dân, trí thức, quý tộc là phải bảo vệ triều đình, lãnh thổ và văn hiến. Thậm chí triệt để đến mức … không để cho man mọi quấy rầy Hoa Hạ (không để các sắc dân phi Kinh làm ảnh hưởng tới văn hiến của người Kinh Lộ): “Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần [...] Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hoàng hóa” – Thái úy Đỗ Anh Vũ (10).
Như vậy, Ethnie (Cộng đồng tiền dân tộc – Pre Nation) có giao điểm rất lớn với Nation: ký ức chung, không gian và đặc chung văn hóa chung, có lãnh thổ (thậm chí là lãnh thổ tưởng tượng). Chính giao điểm này đã dẫn tới sự ngộ nhận dân tộc Việt Nam ra đời trước chủ nghĩa tư bản. Vậy nation ra đời khi nào? Theo Anthony D. Smith thì ở phương tây, nation ra đời sau 3 cuộc cách mạng: Thứ nhất là cuộc cách mạng chuyển đổi từ chế độ phong kiến lên tư bản chủ nghĩa. Thứ hai là cuộc cách mạng hành chính và quân sự với một thiết chế nhà nước mới ra đời đi kèm theo đó là hệ thống công chức và vận hành quân sự kiểu mới. Thứ 3 là cuộc cách mạng văn hóa và giáo dục nơi mà “nhà nước pháp quyền hành chính lại đóng vai trò trung tâm không chỉ với tư cách là vị á thần mà còn là nguyên tắc tích cực của sự thay đổi văn hóa” (11).
Tại Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 19 có thể gọi là gì? Và cả giai đoạn thế kỷ 15 trước đó? Theo Anthony D. Smith ta có một lateral-aristocratic ethnie – Tức là cộng đồng tiền dân tộc - cộng đồng sắc tộc quý tộc. Ở đó tầng lớp quý tộc, những tinh hoa của xã hội dùng một thứ ngôn ngữ khác biệt với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân (tiếng Hán với chữ Hán/tiếng Việt – Mường, hay như John Phan định danh là Việt Mường siêu Hán hóa). Kết cấu của cộng đồng sắc tộc quý tộc này bền vững và chỉ bị thay thế vào sau năm 1945, khi mà chúng ta có một ngôn ngữ chung thống nhất cho toàn bộ quốc gia, tất nhiên lateral-aristocratic Ethnie đã làm nên tính cổ xưa của dân tộc như Anthony D. Smith đã trình bày.
3. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: kiến tạo bản sắc của cộng đồng tinh hoa Đại Việt
Một số quan điểm cho rằng Đại Việt thời Lê đã là một "Nation" vì có ký ức chung được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Tuy nhiên, cách tiếp cận này dường như đã bỏ qua bối cảnh xã hội thời kỳ đó. Độc giả Brian Wu viết: “vì chính định nghĩa Nation của Renan đã chứng minh rằng người Việt Nam từ rất xưa, muộn nhất là từ thời nhà Lê với bộ sử Toàn Thư, đã sống chung với nhau như một Nation (dân tộc)”.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Toàn Thư) là chính sử của triều đình, chính sử quốc gia được viết bởi sử quan Ngô Sĩ Liên – Phan Phu Tiên và các sử thần triều Lê (Hậu Lê), trên sự kế thừa từ Lê Văn Hưu (Đại Việt Sử Ký). Toàn Thư là ghi chép lại … hành trạng của nhà vua. Là một cuốn gia phả mở rộng của dòng họ cai trị, phản ảnh thuyết thiên mệnh, thiên hạ.
Đối tượng người đọc: Nhà vua, tầng lớp quý tộc, quan lại và các tinh hoa trong xã hội Đại Việt. Đại đa số thần dân trong vương quốc Đại Việt không thể tiếp cận văn bản này. Hơn nữa nội dung ấy có phản ảnh đúng “di sản ký ức của dân tộc” hay không? Lưu ý rằng dân tộc có nhiều sắc tộc. Một trường hợp mà ta có thể soi xét đến ký ức Hùng Vương con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ có phản ảnh ký ức cội nguồn của người Proto Việt Mường? Ký ức của người Tày Thái? Hay ký ức của những người Hán Annam vốn tới từ vùng Động Đình Hồ, Trường Sa, Hồ Nam?
Toàn Thư có kiến tạo bản sắc cộng đồng, bản sắc tộc người tiền dân tộc (ethnie) nhưng chưa kiến tạo ra được bản sắc dân tộc hiểu theo nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân. Cuốn sách của giới tinh hoa không tạo ra một nguyên lý tinh thần chung cho toàn dân chúng. Điều này chỉ đến từ thời cận hiện đại khi mà các phương tiện truyền thông nở rộ và liên tục cấy ghép ký ức vào đại đa số dân chúng trong một quốc gia (Về điểm này tham khảo thêm Dân tộc: Cộng đồng tưởng tượng của Benedict Anderson). Như vậy dẫn chứng Toàn Thư để chứng minh rằng “Dân Tộc là một tâm hồn, một nguyên tắc tinh thần” là chưa phù hợp với bối cảnh lịch sử của khái niệm.
Chúng tôi cho rằng: “cần phân biệt giữa các thực thể 'tiền dân tộc' (pre-nation), vốn sở hữu một số đặc điểm của các nhà nước hiện đại (thống nhất lãnh thổ, hành chính trung ương) với dân tộc (nation - state). Về cơ bản Pre – Nation dựa trên lòng trung thành triều đại, với cấu trúc ý thức hệ trung quân và tự hào văn hiến. Điều đó chưa làm nên dân tộc (nation)”. Và: “Trước khi có tinh thần dân tộc (theo nghĩa Nation-State hiện đại), Việt Nam tồn tại tinh thần văn hiến và tự chủ triều đại được xây dựng bởi những tinh hoa của sắc tộc chủ thể (người Kinh)”.
4. Nhưng dân tộc còn là sự đồng thuận sống chung giữa con người, giữa các tộc người
Đó là cái mà chúng ta gọi là tinh thần tự nhận, tức là ta tự nhận ta thuộc về cái quốc gia ấy, cái cộng đồng ấy. Vậy thì có hay không cái gọi là "sự đồng thuận sống cùng nhau" của cư dân Đại Việt từ thế kỷ XV? Ernest Renan, trong tác phẩm kinh điển “Qu’est-ce qu’une nation?”, đã đưa ra định nghĩa về dân tộc dựa trên "Sự đồng thuận" (Consent) (12) và ví von đó là "cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày".
Về mặt bản chất, thời phong kiến của context Đông Bắc Á nhà vua là con trời (thiên tử) – với Nhật Bản còn là Thiên Hoàng. Dân chúng có trách nhiệm thần phục trước Thiên tử (hoặc Thiên hoàng). Họ là tài sản của Đế Vương, họ không có quyền lựa chọn … sống cùng nhau. Người dân không có cơ chế nào để rút lại sự đồng thuận đó mà không bị quy tội phản nghịch. Trong trường hợp không đồng thuận với nhà vua họ chỉ có một phương án duy nhất … làm loạn với tinh thần … “được làm vua, thua làm giặc”.
Còn Renan khi đó khi đặt ra câu hỏi Dân tộc là gì? Ông đã nói về Consent (đồng thuận) trong bối cảnh hậu Cách mạng Pháp, tức là sự đồng thuận của những Công dân tự do, dựa trên Khế ước xã hội. Dân tộc là cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày – đây chính là nền tảng cho sự đồng thuận cùng sống chung, một thỏa ước giữa người dân và nhà nước.
Nói về điều này, Renan dùng “metaphor” nhưng nhiều bạn đọc đã bỏ qua sự tinh tế của ông. Brian Wu cho rằng "không có một quốc gia hay một dân tộc nào có thể thỏa mãn được điều này cả. Cho nên khái niệm “cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” mà Renan nêu ra, nó chỉ là một lý thuyết hay lý tưởng, chứ chưa bao giờ thực hành được cả từ xưa đến nay". Ở đây, chúng ta cần lưu ý Renan - người được rọi đèn bởi Rousseau - không ngây thơ như vậy: “Cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” được thể hiện thông qua media, các loại hình nghệ thuật (vở kịch hay bức tranh…) để bày tỏ ý kiến công dân với Chính quyền.
5. "Dòng họ phong kiến tạo ra Dân tộc"
Trong “What is a nation?” (tiếng Pháp Qu’est-ce qu’une nation?), Renan viết như sau: “It is quite true that the majority of modern nations were made by a family of feudal origin, which had contracted a marriage with the soil and which was in some sense a nucleus of centralization”. Chúng tôi dịch như sau: “Sự thật, đa số các quốc gia hiện đại được tạo nên bởi một gia tộc lãnh chúa, những người đã kết duyên với lãnh thổ và theo một khía cạnh nào đó trở thành một hạt nhân của sự tập trung quyền lực" (13).
Bạn đọc Brian Wu cho rằng “Cho nên, nếu đúng là thế, thì các chúa Nguyễn chính là các “cha già dân tộc” của dân Đàng Trong đó anh ạ, chứ không phải là chủ tịch Hồ Chí Minh đâu”. Nhưng có lẽ chính người viết nên dòng này đã quên việc chúng tôi đã khẳng định Gia Long (đại diện dòng họ phong kiến) là người kiến tạo Pre-nation (cơ sở vật chất, lãnh thổ, sự tập quyền). Renan gọi đó là "nucleus of centralization" (hạt nhân tập quyền). Ở đây, cần phân định rõ ràng: Khi Renan nói về 'hạt nhân của sự tập trung quyền lực', ông đang nói về quá trình kiến tạo Nhà nước. Và Gia Long là hạt nhân tập quyền ở một không gian rộng và toàn vẹn hơn xứ Đàng Trong, đó là cả quốc gia Việt Nam.
Ở khía cạnh này, vua Gia Long và triều Nguyễn đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử: thống nhất lãnh thổ, thiết lập nền hành chính và tạo ra 'khung xương' vật chất cho quốc gia. Nhưng một 'ngôi nhà' (State) chưa phải là một 'tổ ấm' (Nation) nếu thiếu đi ngọn lửa gắn kết. Khung xương tập quyền ấy cần một linh hồn, đó là Ý chí Nhân dân - thứ chỉ thực sự bùng nổ, phổ quát và chuyển hóa thân phận 'thần dân' thành 'quốc dân' sau năm 1945. Nhầm lẫn giữa vai trò 'xây nhà' (của các vương triều) và vai trò 'thổi hồn' (của thời đại dân chủ cộng hòa) là sự nhầm lẫn cơ bản giữa điều kiện cần và điều kiện đủ của một dân tộc.
6. Vậy thì cuối cùng dân tộc Việt Nam ra đời khi nào?
Vẫn lại trở về với cuộc thảo luân năm 1980, nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Sử học. Trên cơ sở soi chiếu dòng chảy tư tưởng từ Jean-Jacques Rousseau – Ernest Renan – J. Stalin đến Anthony D. Smith chúng tôi ủng hộ những ý kiến đã bị khỏa lấp: Dân tộc Việt Nam chỉ ra đời sau ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Mốc thời điểm này đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về vật chất, ý niệm tinh thần, quyền công dân để tạo thành một dân tộc hiểu theo nghĩa hiện đại (nation – state). Vua Gia Long chính là người đã tạo dựng nền móng vững vàng cho sự ra đời của dân tộc ấy. Hồ Chí Minh là người thổi vào những giá trị tinh thần và phổ cập lòng mong muốn được sống chung giữa các cộng đồng, các sắc tộc của chính dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn nhà Nguyễn trị vì, giai đoạn Thực dân nửa thuộc địa (1802 – 1945) chính là giai đoạn được định danh bằng Pre – Nation. Những hoạt động kiến tạo truyền thống của sắc tộc Kinh hay tinh hoa của sắc tộc ấy chính là Ethnie chưa phải là của một Nation.
Nhìn lại toàn bộ tiến trình, điều quan trọng nhất không phải là việc chọn đứng về phía quan điểm “dân tộc hình thành sớm” hay “hình thành muộn”, mà là khả năng phân biệt đúng cấp độ khái niệm và bối cảnh lịch sử của từng giai đoạn. Ethnie, pre-nation và nation không phải những cái tên hoa mỹ dành cho cùng một thực thể, mà là những cấu trúc xã hội – văn hóa – chính trị thuộc những giai đoạn lịch sử khác nhau, vận hành theo những quy luật khác nhau. Nhầm lẫn, giữa các khái niệm này sẽ bỏ sự tinh vi, đa sắc, đa nội hàm của lịch sử Việt Nam.
7. Thảo luận
Tranh luận về dân tộc không phải là chứng minh ai giàu lòng ái quốc hơn mà là phép thử về khả năng đọc lịch sử - không áp đặt hiện tại lên quá khứ. Lịch sử không phải tấm gương để làm đẹp, mà là một cấu trúc cần được giải mã bằng phương pháp và khái niệm chính xác. Khi phân biệt được ethnie với nation, pre-nation với nation-state, chúng ta không làm nghèo đi chiều sâu của lịch sử Việt Nam, mà ngược lại, đặt nó vào đúng vị trí trong tiến trình phát triển của nhân loại: một tiến trình phức tạp, nhiều tầng lớp và không cần đến những lãng mạn hóa hậu kỳ.
Hiểu đúng lịch sử giúp chúng ta có thêm tự trọng trí tuệ, giúp chúng ta tiến bước và giải quyết những nan đề mà thế hệ trước vì nhiều lý do chưa thể vượt qua được. Cuối cùng, dân tộc - như Renan nói - là “một cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày”. Điều đó có nghĩa là: Mỗi ngày chúng ta phải tự quyết định mình sẽ sống như những công dân tự do có trách nhiệm, hay buông xuôi để rồi bị phong kiến hóa, thậm chí “bảo hoàng hơn vua”. Di sản của tiền nhân là nền móng, nhưng di sản ấy có giữ được linh hồn dân chủ hay trượt dài bởi giáo điều và những tín điều cũ kỹ lại phụ thuộc vào sự thức tỉnh của chúng ta.
--------
Chúng tôi trân trọng cảm ơn Nhà nghiên cứu Lê Tư đã hỗ trợ, cung cấp thêm tư liệu và ý tưởng để chúng tôi hoàn thiện bài viết này. Xin cảm ơn độc giả Brian Wu cùng nhiều độc giả khác đã quan tâm và bày tỏ chính kiến xung quan vấn đề Dân tộc Việt Nam ra đời vào thời điểm nào.
Chú thích, tài liệu tham khảo chính, chú thích ảnh minh họa: Xem dưới comment






https://www.facebook.com/song.han.9461/posts/pfbid032NjndadHyKh33u8izvxsRcdyCHdL9MKzuMUSxh8fh4xBGEtQTujqGZSdkZUajivwl


1.

Ngày 25/11/2025


****
THỨ TƯ, tác giả cho rằng “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là ghi chép lại … hành trạng của nhà vua. Là một cuốn gia phả mở rộng của dòng họ cai trị, phản ảnh thuyết thiên mệnh, thiên hạ.”
Rồi tác giả lập luận rằng: “Đối tượng người đọc: Nhà vua, tầng lớp quý tộc, quan lại và các tinh hoa trong xã hội Đại Việt. Đại đa số thần dân trong vương quốc Đại Việt không thể tiếp cận văn bản này. Hơn nữa nội dung ấy có phản ảnh đúng “di sản ký ức của dân tộc” hay không? Lưu ý rằng dân tộc có nhiều sắc tộc. Một trường hợp mà ta có thể soi xét đến ký ức Hùng Vương con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ có phản ảnh ký ức cội nguồn của người Proto Việt Mường? Ký ức của người Tày Thái? Hay ký ức của những người Hán Annam vốn tới từ vùng Động Đình Hồ, Trường Sa, Hồ Nam?”
Và do vậy mà, theo tác giả “Toàn Thư có kiến tạo bản sắc cộng đồng, bản sắc tộc người tiền dân tộc (ethnie) nhưng chưa kiến tạo ra được bản sắc dân tộc hiểu theo nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân. Cuốn sách của giới tinh hoa không tạo ra một nguyên lý tinh thần chung cho toàn dân chúng. Điều này chỉ đến từ thời cận hiện đại khi mà các phương tiện truyền thông nở rộ và liên tục cấy ghép ký ức vào đại đa số dân chúng trong một quốc gia (Về điểm này tham khảo thêm Dân tộc: Cộng đồng tưởng tượng của Benedict Anderson). Như vậy dẫn chứng Toàn Thư để chứng minh rằng “Dân Tộc là một tâm hồn, một nguyên tắc tinh thần” là chưa phù hợp với bối cảnh lịch sử của khái niệm.”
Nhưng các lập luận trên của tác giả là một chuỗi lập luận sai lầm nghiêm trọng, vì nó thể hiện sự hiểu sai của tác giả về truyền thống chép sử Đông Á, lẫn hiễu sai các lý thuyết Renan – Smith mà chính tác giả đang dựa vào.
Trước hết, trong toàn bộ truyền thống chép sử Hán – Việt – Triều – Nhật trong thế giới Hán quyển, chính sử (quốc sử) chưa bao giờ là gia phả. Gia phả chỉ ghi huyết thống một dòng họ (ví dụ dòng họ Lê), còn chính sử trong thế giới Hán quyển là văn bản chính trị – tinh thần của cả cộng đồng tiền dân tộc ethnie. Nó là “hiến pháp đạo lý” (moral constitution) của một quốc 國 gắn liền với ethnie ấy. Nó thiết lập trật tự biểu tượng, truyền thừa ký ức, kiến tạo bản sắc. Quốc sử không ghi “hành trạng vua” theo kiểu gia phả; quốc sử kiến thiết một tự sự tiền dân tộc (ethnie narrative), trả lời bốn câu hỏi cốt lõi mà mọi ethnie đều cần:
(1) Chúng ta là ai?
(2) Chúng ta đến từ đâu?
(3) Chúng ta khác với ai?
(4) Tại sao chúng ta có quyền tồn tại?
Toàn Thư đã làm đúng bốn việc đó.
Nếu Toàn Thư chỉ là “cuốn gia phả mở rộng của dòng họ cai trị” và “ghi chép lại … hành trạng của nhà vua” nhằm phản ánh thuyết “thiên mệnh” như tác giả nêu ra, vậy tại sao nội dung Toàn Thư lại còn viết cả về những huyền sử tộc Việt: Hồng Bàng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, An Dương Vương cho đến các các cuộc đấu tranh giành độc lập chống phương Bắc của Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, và những cuộc kháng chiến chống Tống – Nguyên – Minh – Thanh ? Những huyền sử và sử kiện này hoàn toàn không có quan hệ huyết thống, chính trị hay di truyền trực tiếp nào với hoàng tộc Hậu Lê cơ mà. Vậy thì vì lý do gì mà các sử quan triều Hậu Lê phải dày công biên soạn, hệ thống hóa và bảo tồn toàn bộ những ký ức tập thể ấy trong Toàn Thư? Một “gia phả” (của riêng dòng họ cai trị Lê) thì đâu đời nào lại dựng nên cả một hệ thống mythomoteur — những “động cơ huyền thoại” tạo khung ý nghĩa chung — cho toàn bộ cộng đồng ethnie Kinh trải qua cả ngàn năm lịch sử? Và cũng không có gia phả nào lại chủ động ghi lại những ký ức chiến tranh, ký ức biên giới, ký ức anh hùng và ký ức hy sinh vì sự tồn vong của cả cộng đồng, để từ đó hình thành nên một nền tảng tinh thần của một “ngã Việt 我越 chúng ta”, một thuật ngữ tràn đầy trong Toàn Thư, vượt xa mọi dòng họ như thế.
Vì vậy mà, việc gán Toàn Thư cho chức năng “gia phả mở rộng của dòng họ cai trị” không chỉ giản lược quá mức, mà còn bỏ qua toàn bộ cấu trúc biểu tượng, ký ức và khung diễn ngôn mà các sử quan Hậu Lê đã kiến tạo. Toàn Thư không chỉ nhằm hợp thức hóa thiên mệnh của một dòng họ [Lê]; nó thực hiện một dự án lớn hơn rất nhiều: kiến tạo một lịch sử chung, một ký ức chung và một không gian tinh thần chung cho cộng đồng cư dân ethnie Kinh. Một bản gia phả không thể và không cần làm điều đó. Chỉ khi đặt Toàn Thư vào đúng bản chất của nó — một công trình biên soạn lịch sử có chức năng tạo dựng myths, memories, values and symbols (những huyền thoại, ký ức, giá trị và biểu tượng cấu thành cốt lõi của bản sắc một cộng đồng) — ta mới hiểu vì sao nó lại ghi lại những gì vượt xa mọi giới hạn hoàng tộc.
Nói cách khác, chính sự hiện diện của toàn bộ chuỗi mythomoteur và ký ức tập thể trong Toàn Thư đã chứng minh rằng Toàn Thư không hề là một “gia phả mở rộng”; ngược lại, nó là minh chứng sống động cho việc các sử quan Hậu Lê đang cố gắng định hình và củng cố một cộng đồng tiền dân tộc ethnie Kinh, gắn bó với nhau qua thuật ngữ “ngã Việt 我越” vượt trội và bao trùm lên mọi dòng tộc riêng lẻ. Đây mới là bản chất thật sự của Toàn Thư — và cũng là điểm mà lập luận của tác giả đã bỏ lỡ ngay từ nền tảng của vấn đề.
Tiếp đến, việc tác giả khẳng định rằng “Toàn Thư chỉ dành cho giới tinh hoa, dân chúng không đọc được nên không thể trở thành ký ức chung”. Nhưng đây là một sai lầm nghiêm trọng về phương pháp luận. Lập luận của tác giả đánh đồng trực tiếp giữa “khả năng văn bản phải được toàn dân đọc” thì mới có thể “trở thành ký ức chung”, trong khi toàn bộ lịch sử tiền hiện đại — từ Đông Á, Trung Á, Nam Á cho tới châu Âu trung đại — đều cho thấy một thực tế hoàn toàn ngược lại. Trước thời đại in ấn, không một xã hội nào có khả năng để “toàn dân” trực tiếp đọc những bộ quốc sử; nhưng điều đó không hề ngăn cản sự hình thành và duy trì ký ức tập thể của từng ethnie, cũng như không hề cản trở tiến trình hình thành một cộng đồng ethnie hay thậm chí cấu thành của một dân tộc nation.
Tại sao vậy ?
Vì ở thế giới quân chủ Đông Á, trước khi có kỹ thuật in ấn gỗ hoặc in khắc bản được phổ biến, ngay cả Sử Ký, Hán Thư, Tả Truyện, Quốc Ngữ, hay Nhật Bản Thư Kỷ, Tam Quốc Sử Ký của Hàn Quốc cũng chỉ nằm trong tay giới quan lại và học sĩ. Thế nhưng ký ức lịch sử Trung Hoa, Nhật Bản hay Triều Tiên không hề vì thế mà thiếu một hệ thống biểu tượng chung về tổ tiên, chiến tranh, biên giới hay huyền thoại khai sinh. Mọi tiền dân tộc ethnie đều vận hành ký ức của mình thông qua tầng truyền thuyết dân gian, nghi lễ, tế tự, truyện kể truyền khẩu, ca vãn, thần tích, thần phả, và cả những diễn giải do chính giới tinh hoa tái tạo và lan tỏa xuống dân gian.
Nếu áp đặt tiêu chuẩn mà tác giả nêu ra — rằng chỉ khi toàn dân có thể trực tiếp đọc được văn bản sử thì văn bản ấy mới cấu thành ký ức chung của dân tộc — thì không một dân tộc tiền hiện đại nào trên thế giới đạt chuẩn để trở thành nation, kể cả Anh, Pháp, Nhật hay Trung Hoa. Không ai đòi hỏi nông dân Pháp thế kỷ XII phải tự đọc được Chroniques de Saint-Denis, hay đòi hỏi cư dân Nhật Bản thời Nara tự đọc được Nihon Shoki thì ký ức chung của các ethnie này mới hợp lệ. Tương tự như thế, cũng không ai cho rằng vì đa số dân chúng Trung Quốc không đọc được Sử Ký nên Trung Hoa không có ký ức dân tộc hay không có ethnie Hoa Hạ.
Do đó, kết luận của tác giả rằng Toàn Thư “không thể là ký ức chung” vì dân chúng không đọc được, không những sai về mặt thực chứng lịch sử, mà còn tự mâu thuẫn với toàn bộ các lý thuyết về ký ức tập thể (collective memory), về truyền thống sáng tạo (invented tradition), và về mythomoteur trong nghiên cứu dân tộc học hiện đại. Ký ức chung không đòi hỏi mỗi cá nhân trong ethnie phải tiếp xúc trực tiếp với văn bản; ký ức chung tồn tại vì nó được hệ thống hóa ở tầng elite và lan tỏa xuống dân gian qua nghi lễ, truyền thống, biểu tượng, giáo huấn, phong tục, thần tích, và vô số hình thức truyền thông tư tưởng phi văn bản khác.
Vì vậy, lập luận của tác giả rằng là Toàn Thư “chỉ dành cho tinh hoa” nên không thể tạo ra ký ức chung, đã bỏ sót toàn bộ cơ chế vận hành của ký ức tập thể trong xã hội tiền in ấn và dẫn đến một kết luận không thể đứng vững về mặt lý thuyết lẫn lịch sử.
Hơn thế nữa, tác giả lại lập luận rằng “Hơn nữa nội dung ấy có phản ảnh đúng “di sản ký ức của dân tộc” hay không? Lưu ý rằng dân tộc có nhiều sắc tộc. Một trường hợp mà ta có thể soi xét đến ký ức Hùng Vương con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ có phản ảnh ký ức cội nguồn của người Proto Việt Mường? Ký ức của người Tày Thái? Hay ký ức của những người Hán Annam vốn tới từ vùng Động Đình Hồ, Trường Sa, Hồ Nam?”
Nhưng lập luận cho rằng Toàn Thư “không thể là ký ức chung của dân tộc” vì Việt Nam có nhiều sắc tộc, và vì huyền sử Hùng Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ “không phản ánh được ký ức của người Tày–Thái, Proto Việt–Mường hay nhóm Hán An Nam di cư từ Hồ Nam”, thực chất là một sai lầm phương pháp nghiêm trọng. Không một nation đa sắc tộc nào trên thế giới – từ Nhật Bản, Trung Hoa, Iran–Ba Tư cho tới Anh–Britain – có một hệ thống ký ức bao trùm toàn bộ mọi nhóm sắc tộc ngay từ điểm khởi đầu; ký ức chung của các cộng đồng này luôn xuất phát từ một nhóm trung tâm, một “core ethnie”, rồi lan tỏa dần theo thời gian thông qua nhà nước trung ương hóa, hành chính hóa, giáo dục, nghi lễ, truyền thống, thần tích, văn khắc, và vô số hình thức tiếp biến văn hóa khác.
Nếu áp đặt tiêu chuẩn của tác giả – rằng ký ức chung chỉ hợp lệ khi ngay lập tức phản ánh đầy đủ tất cả ký ức của mọi sắc tộc – thì huyền sử Yamato của Nhật Bản sẽ không bao giờ trở thành ký ức chung của người Nhật vì không bao gồm Ainu và Ryukyu; huyền thoại Hoàng Đế – Viêm Đế của Trung Hoa sẽ không bao giờ trở thành ký ức chung vì không bao gồm ký ức của các tộc Man, Di, Nhung, Địch; ký ức Anglo-Saxon sẽ không bao giờ trở thành ký ức chung của Britain vì không phản ánh nguồn gốc của Scots, Welsh và Cornish; và ký ức Achaemenid của Iran sẽ không bao giờ đại diện được cho Azeri, Kurds hay Baluch. Nhưng thực tế, tất cả những cộng đồng ethnie này vẫn hình thành được một khối ký ức chung – và ký ức chung đó không phải là “điều kiện tiên nghiệm” có sẵn, mà chính là “kết quả” của một quá trình tái cấu trúc, lan tỏa, chuẩn hóa, và nhà nước hóa ký ức qua nhiều thế kỷ.
Vì vậy, việc tác giả đặt câu hỏi “ký ức Hùng Vương có thuộc về Tày–Thái hay người Hán An Nam không?” để phủ nhận vai trò của Toàn Thư là một lỗi phương pháp luận căn bản, bởi nó đảo ngược trình tự nhân–quả cause-effect của tiến trình hình thành dân tộc nation. Ký ức chung không phải là một thực thể cố định bao gồm hết toàn bộ các ký ức của mọi sắc tộc xuất hiện từ đầu, mà là sản phẩm của một quá trình ethnogenesis, trong đó một hệ thống myth-symbol complexes – những huyền thoại, biểu tượng và giá trị nền tảng – được nhóm tộc trung tâm core ethnie hình thành, được các sử quan chuẩn hóa, rồi được lan truyền, tiếp thu, mở rộng ra thêm, và nội hóa dần dần bởi các cộng đồng khác nhau trong một không gian chính trị đang ngày càng tích hợp. Toàn Thư, với tư cách là quốc sử chính thống của một nhà nước trung ương đang mở rộng và củng cố quyền lực, chính là công cụ để chuẩn hóa, diễn giải và kinh điển hóa kho ký ức chung ấy, bắt đầu từ ethnie Việt–Kinh vùng châu thổ rồi lan rộng ra toàn cộng đồng Đại Việt. Nói cách khác, Toàn Thư không cần phải “ngay lập tức” phản ánh ký ức của mọi sắc tộc thì mới có khả năng trở thành ký ức chung; điều quyết định không nằm ở phạm vi bao phủ tại thời điểm văn bản được biên soạn, mà nằm ở vai trò của nó trong quá trình tạo dựng và lan truyền một hệ thống ký ức, một nền tảng tinh thần và một bản sắc lịch sử chung của cộng đồng.
Chính vì thế, kết luận của tác giả rằng Toàn Thư “không thể là ký ức chung” vì Việt Nam có nhiều sắc tộc với nhiều ký ức tộc khác nhau không chỉ sai lệch về lý thuyết ký ức và dân tộc học, mà còn đi ngược lại toàn bộ thực tiễn lịch sử của mọi nation tiền hiện đại trên thế giới. Toàn Thư, xét đúng bản chất, không phải đang “loại trừ” ai hay sắc tộc nào khỏi ký ức chung, mà Toàn Thư lúc ấy đang dựng nên một trục ký ức trung tâm – một core mythomoteur – có khả năng dung nạp, kết nối và tái cấu trúc các cộng đồng cư dân trong một không gian chính trị rộng lớn hơn, vốn cũng là điều đã diễn ra trong mọi tiến trình hình thành quốc gia trên toàn thế giới.
Cuối cùng, tác giả kết luận “Toàn Thư có kiến tạo bản sắc cộng đồng, bản sắc tộc người tiền dân tộc (ethnie) nhưng chưa kiến tạo ra được bản sắc dân tộc hiểu theo nghĩa quyền lực thuộc về nhân dân. Cuốn sách của giới tinh hoa không tạo ra một nguyên lý tinh thần chung cho toàn dân chúng. Điều này chỉ đến từ thời cận hiện đại khi mà các phương tiện truyền thông nở rộ và liên tục cấy ghép ký ức vào đại đa số dân chúng trong một quốc gia (Về điểm này tham khảo thêm Dân tộc: Cộng đồng tưởng tượng của Benedict Anderson). Như vậy dẫn chứng Toàn Thư để chứng minh rằng “Dân Tộc là một tâm hồn, một nguyên tắc tinh thần” là chưa phù hợp với bối cảnh lịch sử của khái niệm.”
Chính tại điểm này, toàn bộ sự lẫn lộn khái niệm của tác giả bộc lộ rõ ràng nhất. Tác giả đã đánh đồng định nghĩa Nation của Renan với khái niệm Nation-State hiện đại, rồi tiếp tục trộn lẫn lý thuyết của Renan với lý thuyết của Anderson theo một cách sai lệch hoàn toàn: tác giả đọc Renan bằng tiêu chuẩn của Anderson, và lại đọc Anderson bằng tiêu chuẩn của Renan, khiến hai khái niệm vốn độc lập bị hòa trộn thành một hỗn hợp mơ hồ. Nation theo Renan không phải là Nation-State; Renan chưa bao giờ đòi hỏi một Nation phải dựa trên chủ quyền nhân dân, phổ cập biết chữ hay truyền thông đại chúng. Ngược lại, Renan định nghĩa Nation trước hết và trên hết là một nguyên tắc tinh thần – “A nation is a soul, a spiritual principle - Một dân tộc là một tâm hồn, một nguyên tắc tinh thần” – và nền tảng của nguyên tắc tinh thần ấy chính là “the possession in common of a rich legacy of memories - cùng chia sẻ một di sản dày dặn của những ký ức chung”.
Nói cách khác, đối với Renan, điều kiện cốt lõi để hình thành một Dân Tộc Nation là ký ức chung, shared memory, chứ không phải mass literacy, truyền thông đại chúng, hay việc mỗi thành viên trong cộng đồng Dân Tộc ấy phải trực tiếp đọc văn bản lịch sử. Thế nhưng tác giả lại áp tiêu chuẩn của Nation-State hiện đại – từ chủ quyền nhân dân đến báo chí, in ấn – để đánh giá một Nation theo nghĩa văn hóa–tinh thần của thời tiền hiện đại, rồi từ đó kết luận rằng Toàn Thư “không thể kiến tạo bản sắc dân tộc”. Đây là một lỗi phạm trù nghiêm trọng: thay vì đọc Toàn Thư như một dự án quốc sử được biên soạn nhằm chuẩn hóa ký ức chung của cộng đồng Đại Việt, tác giả lại buộc nó phải vận hành như một bộ máy nation-building kiểu thế kỷ XIX–XX.
Không chỉ vậy, theo tôi đọc, có vẻ tác giả còn hiểu sai cả Benedict Anderson khi cho rằng Anderson phủ nhận vai trò của ký ức chung tiền hiện đại, trong khi thực tế Anderson chỉ phân tích cơ chế print capitalism như lực đẩy giúp chuẩn hóa và tăng tốc ý thức dân tộc; ông hoàn toàn không phủ định những hình thức imagined community cộng đồng tưởng tượng tiền in ấn, đặc biệt ở Đông Á – nơi Anderson thừa nhận có những “deep cultural roots - gốc rễ văn hóa sâu thẩm” khiến quá trình kiến tạo nation diễn ra thuận lợi hơn phương Tây. Việc viện dẫn Anderson để phủ nhận vai trò của Toàn Thư chưa kiến tạo ra được bản sắc dân tộc chỉ vì nó là sản phẩm được viết và đọc bởi giới tinh hoa Đại Việt vừa sai với Renan, vừa trái ngược tinh thần Anderson.

****

THỨ NĂM, tác giả lập luận rằng một dân tộc phải dựa trên “sự đồng thuận sống cùng nhau”, và vì cư dân Đại Việt thời quân chủ sống trong trật tự Thiên tử — tức không có quyền lựa chọn sống cùng nhau — nên họ không thể có “tinh thần tự nhận” hay không thể có “cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” theo Renan. Từ đó tác giả kết luận rằng Đại Việt thời quân chủ không thể mang dân tộc tính. Tác giả còn nhấn mạnh rằng Renan đưa ra quan niệm về consent trong bối cảnh “công dân tự do hậu Cách mạng Pháp”, và rằng “dân tộc là cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” nghĩa là một cơ chế “thỏa thuận chính trị” giữa người dân và nhà nước.
Nhưng bàn về định nghĩa Dân Tộc Nation, Renan hoàn toàn không hề nói những điều ấy. Ông chưa bao giờ định nghĩa dân tộc dựa trên “khế ước xã hội”, chưa bao giờ dùng khái niệm consent theo nghĩa pháp lý, chính trị, hay dân chủ hiện đại, và càng chưa bao giờ liên hệ nó với quyền bầu cử, quyền rút lui, hay quyền tham gia của công dân theo mô hình hậu Cách mạng Pháp. Ngược lại, Renan tự chú thích rõ trong chính đoạn ông viết cụm “daily plebiscite - cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày” rằng đây chỉ là một phép ẩn dụ tinh thần, chỉ về ý chí tồn tại cùng nhau, một trạng thái tình cảm — không phải một cơ chế pháp lý hay chính trị. Renan không nói về lá phiếu. Renan không nói về quyền công dân. Renan không nói về báo chí, về media, về tranh ảnh, về đời sống công khai. Tất cả những thứ tác giả gán vào Renan đều không tồn tại trong văn bản gốc; đó chỉ là sự hiện đại hoá tuỳ tiện, chiếu theo Rousseau và dân chủ hiện đại để diễn giải Renan một cách sai lạc.
Thực tế, Renan chỉ định nghĩa dân tộc bằng hai yếu tố tinh thần (spiritual elements) duy nhất:
1. A rich legacy of memories — “Di sản phong phú của ký ức chung,” và
2. Present-day consent, the desire to live together — “Sự đồng thuận của hiện tại, tức ý chí muốn sống cùng nhau.”
Ở đây, consent (sự đồng thuận) mà Renan nói đến không phải quyền bầu phiếu, không phải quyền chống lại nhà vua, không phải quyền rút lại sự đồng thuận, mà là một trạng thái tâm lý – văn hoá – tình cảm của một cộng đồng có chung ký ức và chung vận mệnh. Nếu áp đặt tiêu chuẩn “dân chủ phổ thông” mà tác giả gán sai cho Renan, thì toàn bộ châu Âu tiền hiện đại — kể cả Pháp và Đức thế kỷ XIX — đều không phải là “dân tộc”. Đây là một kết luận phi lý, hoàn toàn trái ngược với chính Renan — người đã cố tình tách khái niệm dân tộc khỏi chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, và cả thể chế chính trị.
Chính vì không hiểu rõ khái niệm ẩn dụ “Daily Plebiscite” ấy mà tác giả mới rơi vào sai lầm khi cho rằng cư dân Đại Việt — vì không có cơ chế “tự do lựa chọn sống chung” — nên không thể có dân tộc tính. Nhưng Renan không hề đòi hỏi sự tự do công dân để tạo thành dân tộc. Ông đòi hỏi ký ức chung và ý chí chung, và nếu áp đúng hai tiêu chí Renanian ấy, Đại Việt thậm chí còn “Renanian” hơn rất nhiều quốc gia châu Âu: ký ức chiến tranh chống Tống, Nguyên–Mông, Minh; ký ức về Bạch Đằng, Như Nguyệt, Đông Bộ Đầu; ký ức về anh hùng, về biên giới, về tổ tiên, về hy sinh; và quan trọng hơn, là ý thức vận mệnh chung biểu hiện qua chính những cuộc kháng chiến mà người dân cùng nhau (dù bị bắt buộc hoặc tự nguyện) chiến đấu, tự đặt sống chết của mình vào sự tồn vong của cộng đồng. Đó chính là dạng hy sinh — sacrifice — mà Renan xem là điều kiện sống còn để một dân tộc tồn tại. Renan nói: “A nation is a great solidarity, constituted by the feeling of sacrifices made in the past and of those that one is prepared to make in the future - Một dân tộc là một khối đoàn kết lớn, được hình thành bởi cảm thức về những hy sinh đã được thực hiện trong quá khứ và về những hy sinh mà người ta sẵn sàng thực hiện trong tương lai.” (What Is A Nation, 1990 tr. 19)
Sai lầm lớn nhất trong lập luận này của tác giả là đã hiểu sai bản chất phép ẩn dụ “Daily Plebiscite – Cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày”. Ở Renan, đây không phải một thủ tục chính trị, không phải một thiết chế dân chủ, mà là một cách nói giàu tính thi ca để nhấn mạnh rằng dân tộc là một cộng đồng của ý chí — một cộng đồng tinh thần gắn kết bởi ký ức và hy sinh. Renan dùng phép ẩn dụ ấy để khẳng định dân tộc không phụ thuộc vào chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, hay thể chế, mà phụ thuộc vào tình cảm, vào ký ức, vào ý chí tiếp tục tồn tại cùng nhau. Chính vì thế, khi tác giả cố viện dẫn Renan, rồi ghép vào với định nghĩa dân tộc của Anderson, để phủ nhận rằng Đại Việt là một dân tộc trước 1945 không chỉ sai, mà còn đi ngược hoàn toàn tinh thần Renan: Renan đứng về phía những cộng đồng người có lịch sử chung, ký ức chung và ý chí chung — những điều đã hiện diện rất rõ trong ethnie Việt suốt nhiều thế kỷ, chứ không hề đòi hỏi báo chí, dân chủ hay media hiện đại như tác giả áp đặt vậy.

****

THỨ SÁU, tác giả lập luận rằng Gia Long và triều Nguyễn chỉ tạo dựng nhà nước – tức “khung xương vật chất” như lãnh thổ, hành chính và sự tập quyền mà Renan gọi là “nucleus of centralization” (hạt nhân của sự tập trung quyền lực). Theo tác giả, việc xây dựng nhà nước không đồng nghĩa với việc hình thành dân tộc; dân tộc chỉ ra đời khi xuất hiện “ý chí nhân dân”, “ngọn lửa gắn kết” biến thần dân thành quốc dân – và điều đó chỉ thực sự diễn ra sau năm 1945. Từ đó, tác giả cho rằng nhầm lẫn giữa vai trò “xây nhà” của các vương triều và “thổi hồn” của thời đại dân chủ cộng hòa chính là sự lẫn lộn giữa điều kiện cần và điều kiện đủ của một dân tộc.
Nhưng lập luận này xuất phát từ một sự nhầm lẫn rất căn bản giữa khái niệm nhà nước hiện đại (nation-state) và cộng đồng dân tộc (nation) theo nghĩa học thuật. Khi trích Renan về “hạt nhân của sự tập trung quyền lực”, tác giả đã tách câu nói ấy khỏi bối cảnh: Renan chỉ mô tả một giai đoạn state-building, chứ không dùng nó làm tiêu chí phân biệt giữa “xây nhà” và “thổi hồn” cho một nation. Cái “hồn” của một nation, trong tư tưởng Renan, không phải là sự kiện chính trị “ý chí nhân dân” năm 1945, mà là sự tiếp nối ký ức chung, những hy sinh chung, di sản lịch sử được thừa nhận chung và ý thức thuộc về cùng một cộng đồng qua thời gian. Việc tác giả gán “ý chí nhân dân” bùng nổ năm 1945 để diễn giải rằng đây mới chính là tiêu chí cấu thành dân tộc của Renan là một diễn giải sai tinh thần Renan.
Cốt lõi của sai lầm nằm ở chỗ tác giả đánh đồng tư cách “công dân” của nhà nước dân chủ hiện đại với quá trình hình thành của một cộng đồng dân tộc mà Renan nêu ra. Trong lý thuyết dân tộc học của Renan, nation không được xác định bằng phổ thông đầu phiếu hay “ý chí nhân dân” theo nghĩa pháp lý–chính trị. Renan nhấn mạnh rằng dân tộc được cấu thành từ ký ức chung, nỗi đau chung, chiến công chung, những giá trị và biểu tượng chung, và một ý thức tiếp tục chung sống – những yếu tố có chiều sâu lịch sử lâu dài hơn bất kỳ mô hình nhà nước nào và hoàn toàn không thể quy giản vào một mốc chính trị như 1945.
Hơn nữa, Renan còn viết rất dứt khoát: “A nation can exist without a dynastic principle; and nations formed by dynasties can separate from them without therefore ceasing to exist - Một quốc gia có thể tồn tại mà không cần đến nguyên tắc hoàng triều; và những dân tộc do các triều đại tạo thành hoàn toàn có thể tách khỏi các triều đại ấy mà không vì thế ngừng tồn tại..” (What Is A Nation, 1990 tr. 13). Quan hệ giữa dân tộc và các dòng họ phong kiến chỉ là một ngẫu hợp lịch sử (contingence), không phải quan hệ nhân–quả cause-effect. Do vậy, khi tác giả xem Gia Long như một mốc “pre-nation”, tức là đang nhảy từ “nucleus of centralization” của các hoạt động kiến tạo nhà nước state-building sang khái niệm “tiền dân tộc” của Nation, đó là sai phương pháp luận. Nếu chúng ta muốn xác định thời Gia Long đã có một dân tộc Việt Nam theo định nghĩa của Renan hay không, thì chúng ta cần xác định rằng trong cộng đồng ethnie Kinh lúc này đây đã có mặt hai yếu tố tinh thần - “A rich legacy of memories — Di sản phong phú của ký ức chung” và “Present-day consent, the desire to live together — Sự đồng thuận của hiện tại, tức ý chí muốn sống cùng nhau” hay là chưa. Tôi để các anh chị và tác giả tự khẳng định vậy.
Và tôi xin lặp lại, là theo chính định nghĩa của Renan, dân tộc Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm. Từ thế kỷ XV, bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã kiến tạo một ký ức cộng đồng, một truyền thống chung, một lịch sử chung – những yếu tố cốt lõi của nation. Và nếu nhìn rộng hơn, ngay cả trước thời Lê thế kỷ XV, ý chí cộng đồng của ethnie Kinh – theo đúng nghĩa Renan – đã hiện hữu mạnh mẽ. Thời Trần, khi Nguyên–Mông xâm lược, người Việt không cần chờ đến thế kỷ XX để “trở thành quốc dân”. Tinh thần cộng đồng đã bùng nổ vô cùng mạnh mẽ qua việc họ cùng nhau xăm hai chữ “Sát Thát” lên tay. Hành động ấy không thể nào giải thích bằng mô hình “thần dân phục tùng” mà tác giả đang gán cho xã hội Đại Việt quân chủ tiền hiện đại. Đó là biểu hiện rõ ràng nhất của một cộng đồng tự ý thức về “chúng ta”, về vùng đất tổ (homeland), về ký ức chung và vận mệnh chung. Người Đại Việt thời Trần chiến đấu không phải vì họ mù quáng tuân phục triều đình, mà vì họ đã mang trong mình một bản sắc cộng đồng được hun đúc qua nhiều thế hệ Lý–Trần. Và chúng ta còn đó cả tấm gương của Trần Bình Trọng, vị tướng nhà Trần đã khẳng khái tuyên bố, khi bị bắt và bị quân Nguyên Mông dụ hàng: “Ta thà làm quỷ [phương] Nam, chứ không làm vương [phương] Bắc 寧為南鬼不為北王”? Tâm thế “Nam quỷ 南鬼” ấy lẽ nào chỉ là tâm lý “trung quân” mù quáng của một thần dân bị trói buộc trong trật tự quân chủ “không có quyền lựa chọn sống cùng nhau”? Lẽ nào lời nói ấy là không là biểu tượng rất mạnh của một người dân với “ý thức sẵn sàng hy sinh cho cộng đồng” mà Ernest Renan xem là hạt nhân tinh thần quan trọng để tạo dựng ra một Dân tộc?
Vì vậy, việc tác giả khẳng định rằng dân tộc Việt chỉ xuất hiện sau năm 1945 là một cách diễn giải sai lạc, phẳng hóa lịch sử và đi ngược lại cả tư tưởng Renan lẫn thực tế Việt Nam. Sự cấu thành của Dân tộc Việt (hoặc Việt Nam) không phải do vì nó được “thổi hồn” trong một khoảnh khắc chính trị vào năm 1945; mà ngược lại nó là kết quả của hàng thiên niên ký ức, biểu tượng, huyền thoại, văn hóa và ý thức cộng đồng ethnie Việt (Kinh) – tiến trình liên tục mà các vương triều, trong đó có triều Nguyễn, đều góp phần tạo dựng. Nhầm lẫn giữa các khái niệm nation và nation-state, giữa state building và nation building activities, giữa community và citizenry, giữa dòng chảy văn hóa–lịch sử và sự kiện chính trị hiện đại, mới chính là sai lầm nền tảng trong lập luận của tác giả.
****
Tôi cảm ơn anh Quang Phan đã viết bài để tôi đọc, nâng cao kiến thức và phản biện. Nếu anh và các anh chị đã đọc bài phê bình này của tôi và muốn phản biện, xin cứ tự nhiên nêu ra các ý kiến của các anh chị để chúng ta cùng tranh luận và học hỏi cùng nhau.
Regards,
Brian

https://www.facebook.com/brian.wu.121772/posts/pfbid0agEsanuM22ZrjwSuzyDuhrfVnmNevRSmxyc83vAFWWz1ZQrCr9YAZwH4uHB8pZ8el

---


BỔ SUNG



...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.