Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

29/08/2025

Quân lệnh số 1 (đêm 13/8) đã về đến Hà Nội ngày 15/8 và vai trò lãnh đạo của Nguyễn Khang (1919-1976)

Nhiều năm trước, nhiều người không biết Phùng Chí Kiên là ai, thì mình đã phải trả lời nhanh (có ghi nhanh trên Giao Blog ở đây).

Rồi trong một cuộc gặp mặt cuối năm, cũng khá lâu rồi, của anh chị em quê hương Trình Phố (trước ngày 1/7/2025 thì thuộc huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, nay thuộc xã Tiền Hải tỉnh Hưng Yên), một đàn anh chuẩn bị lên lon đại tá hỏi, đại khái: nhà anh ở gần đường Nguyễn Khang chạy men sông Tô Lịch, mà không rõ ông này là ông nào ? ! Ui, lúc ấy, mình giật mình, đại khái bảo: thưa "tá quân" (nói vui từ chữ "tướng quân"), cụ Nguyễn Khang là người ở sát quê hương Trình Phố của chúng ta đấy. Xưa là đồng hương huyện Kiến Xương đấy ! 

Bây giờ đàn anh chắc đã sắp lên tướng rồi, nên lần tới tôi sẽ gọi "tướng quân" một cách đàng hoàng.

Làng Trình Phố là quê hương của cụ Ngô Quang Bích và cụ Bùi Viện.

Về lịch sử biến đổi hành chính ở địa phương, thì làng Trình Phố của chúng tôi vốn thuộc huyện Kiến Xương. Cụ Nguyễn Khang cũng là người huyện Kiến Xương.

Làng Trình Phố với làng cụ Nguyễn Khang, rồi làng cụ Tạ Ngọc Phách (tức cụ Trần Độ), rồi làng của cụ Hoàng Văn Thái, đều nằm sát nhau ! Có thể gọi dân dã là các làng láng giềng của nhau.

Sau này, đến tận đầu thập niên 1960, thì làng Trình Phố của tôi, làng An Khang của cụ Hoàng Văn Thái, làng Thư Điền của cụ Trần Độ được cắt từ huyện Kiến Xương về huyện Tiền Hải. Riêng làng Nguyên Kinh của cụ Nguyễn Khang thì vẫn giữ nguyên ở huyện Kiến Xương. Kể từ đó mới là khác nhau vê huyện.

Nay thì huyện Tiền Hải với huyện Kiến Xương, sau ngày 1/7/2025, đều đã mất.

1. Nói tới cụ Nguyễn Khang là nói tới vai trò đứng đầu của cụ trong Cách mạng Tháng Tám tại thủ đô Hà Nội - lúc đó cụ là ủy viên Kỳ bộ Việt Minh Băc Kỳ phụ trách Thành bộ Hà Nội. Khi đó Nguyễn Khang mới 26 tuổi (27 tuổi ta).

2. Quân lệnh số 1, tức lệnh khởi nghĩa (tổng khởi nghĩa) đã được cụ Trần Huy Liệu thảo ngay trong đêm 13/8/1945 (ngày 13/8, phát xít Nhật đã tuyên bố đầu hàng Đồng Minh). Ngay trong đêm 13/8/1945 thì Quân lệnh số 1 đã được phát đi toàn quốc. 

3. Đến ngày 15/8, Nguyễn Khang đã nhận được Quân lệnh số 1, liền triệu tập Thành bộ Việt Minh Hà Nội và nhiều thành phần cốt cán khác để thành lập Ủy ban Quân sự Cách mạng (UBQSCM) chỉ huy cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở thủ đô.

4. Ngày trưa ngày 15/8, nhóm cụ Nguyễn Khang đã tới dinh Khâm Sai của cụ Phan Kế Toại. Lần đầu làm việc không mấy kết quả, nhưng chính cụ Phan Kế Toại đã nêu ý kiến là nên khôn khéo điều đình với quân đội Nhật để họ trao chính quyền.

5. Sau này, UBQSCM đã đưa ra đường lối là không đụng chạm với quân đội Nhật, và đã thành công trong việc thuyết phục quân đội Nhật không tham dự vào công việc chính trị. 

6. Ngày 19/8/1945 việc giành chính quyền tại thủ đô Hà Nội dưới sự lãnh đạo của UBQSCM đã thắng lợi (mà vai trò cá nhân của Nguyễn Khang là nổi bật).

Các thông tin chi tiết thì có thể đọc vào một bài viết dài (qua nhiều trang báo) của tác giả Như Phong đăng trên báo Cứu Quốc số đặc san ra ngày 19/8/1946 để kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám. Xem các ảnh đính kèm.












Tháng 8 năm 2025,

Giao Blog


---


Đã đưa ra Fb, ở địa chỉ sau

https://www.facebook.com/giao.blog/posts/pfbid0ByminEGYrj7K8HSCr8seRdVV8n38kpmYz4HLyNqXWB7qPjkvKdUs9RbHhE8if797l



---


BỔ SUNG


5.

Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và quyết định lịch sử của Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết

Song Thanh  26/12/2024 5:40

Đại tướng Nguyễn Quyết đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng vào những thời khắc lịch sử của đất nước. Một trong số đó là quyết định tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8-1945.

Bí thư Thành ủy Hà Nội khi vừa tròn 23 tuổi

a2.jpg
Đồng chí Nguyễn Quyết (hàng đầu thứ ba từ trái sang) trong lần gặp mặt các cán bộ từng tham gia cách mạng tháng 8-1945. Ảnh: Tư liệu

Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Nguyễn Quyết (tên thật là Nguyễn Tiến Văn) được Đảng, Nhà nước tin tưởng phân công đảm nhiệm nhiều trọng trách, như: Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam...

Đồng chí Nguyễn Quyết sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước ở xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Từ năm 15 tuổi, ông đã tích cực tham gia cách mạng, hoạt động trong phong trào của quần chúng tại Hà Nội. Đến năm 1940 khi 18 tuổi, ông được kết nạp Đảng cộng sản Đông Dương (nay là Đảng cộng sản Việt Nam).

Trải qua thử thách, ông được Trung ương tin tưởng giao trọng trách là Bí thư Thành ủy Hà Nội khi vừa tròn 23 tuổi. Trong hồi ký ông kể: “Mùa hè năm 1944, tôi được Trung ương Đảng triệu tập tham dự lớp học quân sự tại tỉnh Thái Nguyên để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Kết thúc lớp học tôi trở lại Hà Nội. Bấy giờ nhằm củng cố Ban lãnh đạo Thành ủy Hà Nội đủ sức lãnh đạo phong trào đang phát triển mạnh mẽ, Xứ ủy Bắc Kỳ đã bổ sung một số đồng chí vừa vượt ngục trở về hoạt động vào Thành ủy. Tôi được phân công đặc trách công tác quân sự, đồng chí Phương phụ trách công vận, đồng chí Vũ Oanh phụ trách thanh vận...

Chúng tôi nắm chắc các đội tự vệ vũ trang mới thành lập, tổ chức huấn luyện dưới những hình thức khác nhau. Đây sẽ là lực lượng vũ trang hậu thuẫn quan trọng cho nhân dân giành chính quyền ở Hà Nội. Đảm nhiệm công tác quân sự ít tháng, tôi được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Hà Nội thay anh Lê Quang Đạo bị lộ nên Trung ương điều đi nhận nhiệm vụ khác”.

Giữa tháng 8-1945, để trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa tại Hà Nội, Xứ ủy Bắc Kỳ đặc cách thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội (Ủy ban) gồm các đồng chí: Nguyễn Khang (sau là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội), Ủy viên Thường vụ Xứ ủy; Nguyễn Huy Khôi (tên thật là Vũ Đức Huề, còn có bí danh khác là Trần Quang Huy, sau là Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương), phụ trách Ban Công vận Xứ ủy; Lê Trọng Nghĩa (sau là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân báo), cán bộ của Xứ ủy: Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Quyết và Nguyễn Duy Thân (sau là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Liên khu 1), Thành ủy viên Hà Nội. Sáng 16-8-1945, Ủy ban họp phiên đầu tiên, trên cơ sở diễn biến thực tế, Ủy ban bàn việc chuẩn bị khởi nghĩa.

Cuộc đời hoạt động sôi nổi của đồng chí Nguyễn Quyết

a4.jpg
Đại tướng Nguyễn Quyết và người trợ lý thân thiết. Ảnh: Song Thanh

Tại nhà riêng của ông ở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, chúng tôi nhiều lần gặp và nghe ông kể về cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình. Nhất là thời gian “một ngày bằng hai mươi năm, chuẩn bị cho Hà Nội tổng khởi nghĩa”.

Nhớ về cuộc họp đầu tiên của Ủy ban, ông cho biết: "Nội dung nổi bật được chúng tôi thảo luận là vấn đề đối phó với lực lượng quân sự rất lớn của Nhật tập trung ở Hà Nội. Theo ước tính của ta, tại Hà Nội, Nhật có khoảng trên dưới 1 vạn trong số 4 vạn quân chiếm đóng ở Bắc Kỳ. Còn lực lượng vũ trang của ta ở Hà Nội mới có 3 chi đội tự vệ chiến đấu, mỗi chi đội gồm 3 đại đội, tổng số hơn 700 người, trang bị chủ yếu vũ khí thô sơ và mới qua một vài lớp quân sự cấp tốc. Vì vậy, nếu chỉ dùng lực lượng vũ trang (hoặc nửa vũ trang) thì ta khó lòng giành được thắng lợi".

Tra cứu nhiều tài liệu lịch sử chúng tôi được biết, phát huy tinh thần dân chủ của tất cả các thành viên trong Ủy ban, cuộc họp đi đến thống nhất vạch ra một kế hoạch hành động trước mắt. Theo đó, những cuộc mít tinh và diễn thuyết xung phong đã diễn ra liên tục ở nội và ngoại thành, cổ vũ tinh thần cách mạng của đồng bào.

Ủy ban thảo một truyền đơn, dịch ra tiếng Nhật, in với số lượng lớn và tung vào các trại lính Nhật. Nội dung của truyền đơn đã khoét sâu thêm tâm trạng hoang mang, chán chường của quân Nhật, kích động lòng nhớ quê hương và gia đình, khuyên họ tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân Việt Nam, nên coi trọng bảo toàn tính mạng chờ ngày trở về nước.

Qua những tin tức ta nắm được, cuộc mít tinh này nằm trong âm mưu của chính phủ Trần Trọng Kim nhằm chống lại cách mạng bằng cách đánh lạc hướng quần chúng. Bản thân Tổng hội Viên chức cũng công bố Lời hiệu triệu quốc dân, đại ý nói "vì tình thế nghiêm trọng, người Pháp đang âm mưu tàn sát dân Việt Nam. Giờ cứu nước đã đến, quốc dân hãy đứng lên, để đối phó với thời cục", kêu gọi quần chúng đi biểu tình để "ủng hộ nền độc lập và bài trừ chính sách thực dân".

Nhận thấy nếu cuộc mít tinh của Tổng hội Viên chức không bị phá thì trong tình hình phức tạp lúc đó có thể phát ra một tín hiệu sai lầm nghiêm trọng, làm cho quần chúng mơ hồ và hưởng lạc chính trị. Trong khuôn khổ kế hoạch hành động, Ủy ban và Thành ủy Hà Nội chủ trương kiên quyết phá cuộc mít tinh do Tổng hội Viên chức tổ chức và biến nó thành một cuộc mít tinh quần chúng lớn của Việt Minh.

Chiều 17-8-1945, cuộc mít tinh do Tổng hội Viên chức tổ chức ở Quảng trường Nhà hát Lớn. Theo kế hoạch đã định, Việt Minh huy động đông đảo quần chúng ở Hà Nội và một số phủ, huyện thuộc Hà Đông, nên số người tham dự lên đến vài vạn người. Các đội tự vệ chiến đấu, công nhân và thanh niên xung phong đã được bố trí phân tán trong quần chúng dự mít tinh.

Ông Lê Đức Vân (tên thật là Nguyễn Hữu Phúc), Trưởng ban liên lạc Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, hiện sống ở nhà riêng tại phố Bạch Mai (Hà Nội) kể: “Dưới sự chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban, trực tiếp là Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết, Đoàn thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ, phá được cuộc mít tinh. Tôi nhớ, ngay sau khi đại diện Ban tổ chức của Tổng hội Viên chức tuyên bố lý do thì từ giữa đám đông bất ngờ nhô lên một lá cờ đỏ sao vàng lớn, quần chúng hò reo vang dậy "Cờ Việt Minh!" và đổ xô về phía lá cờ. Lập tức ở phía bên phải lại nhô lên một lá cờ đỏ sao vàng nữa.

Tiếp đó nhiều lá cờ đỏ cỡ nhỏ xuất hiện ở nhiều điểm trong cuộc mít tinh. Các đội viên thanh niên xung phong tay giương cao cờ, rẽ đám đông chạy từ chỗ này sang chỗ khác. Biển người náo động, hô vang các khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh”.

Trật tự cuộc mít tinh hoàn toàn tan vỡ. Lính bảo an và cảnh sát bảo vệ như bị chôn chân tại chỗ, ngơ ngác hết nhìn theo lá cờ, lại nhìn đám đông hò reo không ngớt. Giữa lúc đó, anh em tự vệ chiến đấu chĩa súng dồn Ban tổ chức vào một góc, chiếm lấy diễn đàn. Cờ của chính quyền bù nhìn dựng giữa quảng trường "bỗng nhiên" rơi xuống đất, đồng thời, một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn từ bao lơn tầng gác Nhà hát Lớn được buông xuống, phủ kín một khoảng mặt trước nhà hát...

Thấy tình hình diễn biến thuận lợi, ta quyết định biến mít tinh của chính quyền bù nhìn thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Theo sự hướng dẫn của các đội viên tự vệ chiến đấu, quần chúng xếp thành hàng ngũ, đi từ Nhà hát Lớn, qua phố Tràng Tiền, sang đường Francis Garnier (nay là phố Đinh Tiên Hoàng)... Vừa đi họ vừa hô to khẩu hiệu cách mạng. Người tham gia đoàn biểu tình ngày càng đông. Đoàn đi, tiếng hô vang động của quần chúng và mấy phát súng do tự vệ chiến đấu bắn thị uy khiến bọn phản động thân Nhật hoảng hốt bỏ chạy, trong khi quân Nhật nhất loạt án binh bất động.

Về cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội

a3.jpg
Đồng đội chúc mừng Đại tướng Nguyễn Quyết dịp sinh nhật lần thứ 100. Ảnh: Song Thanh

Theo lời kể của Đại tướng Nguyễn Quyết, tối 17-8-1945, một số đồng chí trong Đội Văn hóa cứu quốc, Thanh niên xung phong và Tự vệ chiến đấu đã có sáng kiến viết một bản thông báo tường thuật cuộc mít tinh biểu tình, thuyết phục chủ báo "Tin mới" chấp nhận đăng bản thông báo vào số báo ngày hôm sau. Nhờ vậy, tin cuộc mít tinh và biểu tình rầm rộ tại Hà Nội đã lan nhanh đến nhiều tỉnh, thành phố, góp phần thúc đẩy phong trào chuẩn bị khởi nghĩa ở những địa phương đó.

Sự kiện chiều 17-8 là cơ sở giúp Thành ủy Hà Nội xác định căn cứ vững chắc những vấn đề then chốt liên quan đến cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Vì vậy, ngay tối 17-8, tại nhà bà Hai Nhã - một cơ sở cách mạng ở ngoại thành, Thành ủy và Ủy ban đã họp hội nghị mở rộng. Đồng chí Nguyễn Huy Khôi và đồng chí Nguyễn Quyết chủ trì hội nghị. Trên cơ sở những nhận định thực tế, Ủy ban đã quyết định cụ thể phương thức, kế hoạch và ngày giờ khởi nghĩa.

Sáng 18-8, tại Vạn Phúc - Hà Đông, sau khi nghe báo cáo của Thành ủy Hà Nội, Thường vụ Xứ ủy đã chuẩn y toàn bộ kế hoạch, đồng thời chủ trương huy động thêm quần chúng cách mạng tham gia cuộc mít tinh ngày 19-8, trợ lực cho Hà Nội khởi nghĩa.

Đại tướng Nguyễn Quyết nhớ lại: "Đêm 18-8, Ủy ban đã họp duyệt lần cuối kế hoạch khởi nghĩa, thông qua lời hiệu triệu sẽ đọc trong cuộc mít tinh sáng hôm sau và phân công lãnh đạo các khối quần chúng chiếm lĩnh những cơ quan trọng yếu trong thành phố. Mặc dù đêm đã khuya, đèn điện vẫn sáng trong các phòng làm việc ở trụ sở Ủy ban".

Theo lời kể và hồi ức của ông cùng nhiều cán bộ thời kỳ ấy, cả Hà Nội đã không ngủ. Tiếng máy khâu hối hả may cờ, tiếng mài gươm, dao, mã tấu, tiếng rì rầm bàn bạc của các đội viên xung phong, tự vệ chiến đấu về những nhiệm vụ được giao, tiếng tập hát các bài ca cách mạng... diễn ra đến tận sáng. Quần chúng cách mạng náo nức và tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.

Quyết định Hà Nội tiến hành khởi nghĩa vào ngày 19-8-1945, bằng lực lượng tại chỗ, không chờ Quân giải phóng từ chiến khu về tại Hội nghị do Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết chủ trì, là một quyết định táo bạo, khẳng định tầm nhìn và quyết tâm dám nghĩ, dám làm của người lãnh đạo.

Nhắc về sự kiện này, sinh thời Đại tướng Nguyễn Quyết nhiều lần khẳng định, đây là kết quả của cả quá trình chuẩn bị lâu dài và được cân nhắc kỹ lưỡng. Ông cho biết: “Khi đó, tôi biết chắc chắn rằng nếu không giành được thắng lợi thì người đứng đầu phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nhưng tôi tin, đây là một quyết định sáng suốt của cả một tập thể những người đã gắn bó, sống chết với phong trào thành phố trong nhiều năm, những người nắm rõ tình hình địch - ta diễn biến qua từng ngày hơn ai hết, trên sự phân tích tình hình cụ thể, chứ không phải là một quyết định nóng vội chủ quan bởi tình cảm khát khao được giải phóng chi phối. Hơn nữa, nếu để tuột thời cơ ngàn năm có một đó, để nó trôi qua rồi mới tiến hành khởi nghĩa, hay cứ kiên quyết đánh Nhật thì chưa biết hậu quả sẽ ra sao khi quân Đồng minh đến Hà Nội”.

Về quyết định trên, trong một bài phát biểu, đồng chí Trường Chinh (nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) nói: "Trong thời cơ lịch sử có một không hai đó đã xuất hiện những con người thông tuệ được tôi luyện trong môi trường cách mạng, những trái tim và khối óc không chỉ dựa vào lòng yêu nước nồng nàn mà còn có tư chất tuyệt vời, phán đoán sắc sảo về khả năng thắng lợi của cách mạng... Ban lãnh đạo của Hà Nội khi đó toàn những người trẻ tuổi, dưới 30, mà người đứng đầu là Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết mới ở tuổi 23 và kinh qua 6 năm tôi luyện đấu tranh cách mạng. Thật là tuyệt vời".

Thực tế cách mạng đã chứng minh, Hà Nội khởi nghĩa theo đúng kế hoạch vào ngày 19-8-1945, giành thắng lợi, không đổ máu, là sự cổ vũ lớn, động lực hành động đối với các địa phương chưa khởi nghĩa trong toàn quốc.


https://hanoimoi.vn/tong-khoi-nghia-o-ha-noi-va-quyet-dinh-lich-su-cua-bi-thu-thanh-uy-nguyen-quyet-688621.html



4.






Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Nguyễn Khang


 
(Phần 1)




 20/08/2017  00:00  2698
Năm 1970, kỷ niệm 25 năm cách mạng tháng Tám, ông Nguyễn Khang, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng (UBQSCM) đã nhớ lại những giây phút sôi sục của toàn dân trong hồi ký “Hà Nội khởi nghĩa”: “Từ các ngả đường đi vào trung tâm thành phố, đã thấy những đoàn người biểu tình kéo đi không ngớt… Bên Bờ Hồ, các đoàn trước khi vào quảng trường, dừng lại nghỉ, tập hát bài Tiến quân ca. Đúng, khởi nghĩa là ngày hội lớn nhất của quần chúng không sao quên được”.

Năm 1970, kỷ niệm 25 năm cách mạng tháng Tám, ông Nguyễn Khang, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng (UBQSCM) đã nhớ lại những giây phút sôi sục của toàn dân trong hồi ký “Hà Nội khởi nghĩa”: “Từ các ngả đường đi vào trung tâm thành phố, đã thấy những đoàn người biểu tình kéo đi không ngớt… Bên Bờ Hồ, các đoàn trước khi vào quảng trường, dừng lại nghỉ, tập hát bài Tiến quân ca. Đúng, khởi nghĩa là ngày hội lớn nhất của quần chúng không sao quên được”.

Trong ngôi nhà dành cho lão thành cách mạng thuộc phường Trung Hòa, tôi đã may mắn gặp chị Nguyễn Thanh Hương, con gái Cụ, và hiểu thêm nhiều điều từ những tư liệu, hồi ký của các cụ hoạt động cùng thời mà chị còn giữ được và cả những kỷ niệm của gia đình với nỗi niềm riêng, chị đã chia sẻ cùng tôi.

Thoát ngục Sơn La, làm báo Cứu Quốc

Ông Nguyễn Khang, tên khai sinh là Nguyễn Văn Đệ, chào đời tại quê hương Nguyên Kinh, xã Minh Hưng, Tổng Cao Mại, huyện Kiến Xương (Thái Bình). 16 tuổi, nhờ có ông Đặng Kim Giang, Nguyễn Vực giác ngộ, ông đã bí mật in truyền đơn, tài liệu của Xứ ủy Bắc kỳ (vì Xứ ủy có cơ sở in bí mật đặt ở vùng này). Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng. Từ đây, bắt đầu con đường mới - đấu tranh cho lý tưởng giải phóng dân tộc

Những năm 1939-1941, tại Hà Nội, lấy bí danh là Phúc, ông tiếp tục hoạt động trong phong trào Thanh niên dân chủ và Thanh niên phản đế. Theo di cảo để lại và gia đình cung cấp tư liệu, năm 1940, ông được Xứ ủy chỉ định làm Bí thư Đảng đoàn Thanh niên phản đế Liên tỉnh Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây. Những cuộc rải truyền đơn bí mật của thanh niên ở các trường Bưởi, Gia Long, Kỹ nghệ thực hành… phản đối chiến tranh, chống phát xít vẫn diễn ra. Cuối năm 1940, công nhân ga Hà Nội chặn tàu tốc hành hoặc lấy pháo hiệu đặt trên đường ray ở gần ga Văn Điển, bắt tàu hãm lại để rải truyền đơn, phản đối thực dân Pháp đàn áp nhân dân sau khởi nghĩa Nam Kỳ. Mật thám Pháp dò ra manh mối của cuộc đấu tranh này và bắt ông ở phố Sinh Từ đúng ngày 1-5-1941. Chúng kết án ông 20 năm tù khổ sai, đầy đi ngục Sơn La.

Những đảng viên cộng sản đã biến ngục tù thành trường học cộng sản chủ nghĩa, và ông đã được Chi bộ nhà tù Sơn La phân công tham gia Ban huấn luyện. Tháng 2-1944, ông được Chi bộ tổ chức trốn và thoát được khi đang trên đường giải từ Sơn La về Hà Nội để ra Côn Đảo.

Như cánh chim bay về bầu trời tự do, ông lao ngay vào cuộc đấu tranh của Đảng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa.

Theo tư liệu của gia đình mà chị Nguyễn Thanh Hương nhớ lại, thì tháng 3-1944, ông Nguyễn Khang được vào ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây và An toàn khu của Xứ ủy(1)

1

Báo Cứu Quốc, số Xuân năm 1942.

Cuối năm 1944, ông Nguyễn Khang và ông Lê Quang Đạo - mà những người cùng hoạt động thường gọi là ông Mẫn kính trắng, là ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ, đã gặp ông Xuân Thủy ở một địa điểm bí mật của huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Sau cuộc gặp gỡ này, tòa soạn và cơ sở in báo - nhà in Phan Đình Phùng chuyển về xã Sài Sơn dưới chân núi Thầy. Gọi là Tòa soạn, thì cũng chỉ có ba người: ông Khang, ông Đạo, ông Xuân Thủy. Ông Xuân Thủy đã từng kể: Cách làm việc phải rất nhanh gọn: Giấy từ Hà Nội chuyển về một cách bí mật. Mỗi số báo được bao nhiêu trang, trọng tâm là vấn đề gì, có những mục gì, bài gì, mỗi bài mấy dòng, mỗi dòng mấy chữ… tòa soạn nhất trí xong, ai nhận viết bài nào thì hẹn ngày nộp bài, rồi mỗi người đi một ngả(2). Cứ như thế, báo Cứu Quốc sống giữa lòng dân Sài Sơn che chở. Số báo Xuân Ất Dậu (1945) vừa in xong, chưa kịp phát hành hết thì vào giáp Tết, địch lùng sục, nên mỗi người đi mỗi ngả.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (tháng 3-1945), ông Nguyễn Khang và ông Lê Quang Đạo đi nhận nhiệm vụ mới.

Những quyết định hệ trọng trong thời khắc lịch sử dân tộc

Theo hồi ký của ông Nguyễn Văn Trân, trong sách Cách mạng và cuộc đời tôi, tháng 7-1945, ông Nguyễn Văn Trân, Bí thư Xứ ủy đi họp Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào nên giao lại trách nhiệm phụ trách Xứ ủy cho ông Nguyễn Khang. Ở làng Vạn Phúc, nhờ có cái máy thu phát cà khổ đã được ông Tô Hữu Hạnh sửa chữa để phục vụ Xứ ủy mà ông Khang nghe tin tức thế giới, biết được ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật; ngày 15-8, Nhật Hoàng đầu hàng đồng minh không điều kiện. Ông nhận ra rằng, thời cơ đã đến, không thể bỏ lỡ, dù Quân lệnh khởi nghĩa chưa về đến Hà Nội. Nắm chắc tinh thần cơ bản của Đảng trong Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, trong cuộc họp chiều 15-8, Xứ ủy đã quyết định: “Xúc tiến khởi nghĩa trong các tỉnh do Xứ ủy phụ trách, mở rộng khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện và tiến vào thị xã, các thành phố, đồng thời hoàn thành việc giành chính quyền ở nông thôn”(3). Cũng tại cuộc họp, Thường vụ Xứ ủy quyết định thành lập Ủy ban Quân sự Cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội và chỉ định các thành viên của Ủy ban đặc biệt này gồm các ông: Nguyễn Huy Khôi, cán bộ Ban công vận Xứ ủy; Nguyễn Quyết, Bí thư Thành ủy; Lê Trọng Nghĩa, cán bộ Xứ ủy, Bí thư đảng đoàn Dân chủ đảng; Nguyễn Duy Thân, phụ trách Việt Nam Cứu quốc Hội trong Mặt trận Việt Minh. Ông Nguyễn Khang, ủy viên Thường vụ Xứ ủy là Chủ tịch UBQSCM.

Lịch sử đang trong bước đi thần tốc một ngày bằng 20 năm! Trong ngày 16-8, ông Nguyễn Khang đã có ba quyết định mang tầm chiến lược của cuộc cách mạng:

- Chủ trì cuộc họp đầu tiên của UBQSCM tại 101 Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo) để thảo luận về biện pháp đối phó với hơn 1 vạn quân Nhật có vũ khí khá hiện đại tập trung ở Hà Nội trong khi ta chỉ có hơn 700 đội viên tự vệ, vũ khí rất thô sơ? Hội nghị đã bàn bạc kỹ và chuyển hướng theo giải pháp mới là: tránh xung đột vũ trang, đổ máu; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động diễn thuyết, mít tinh, biểu tình của quần chúng để thăm dò thái độ của quân Nhật, vận động Nhật không can thiệp vào nội bộ của ta, nhưng không được sao lãng việc tăng cường lực lượng vũ trang và nửa vũ trang.

2

Căn nhà số 101 phố Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo, Hà Nội), nơi ông Nguyễn Khang chủ trì phiên họp đầu tiên của UBQSCM, ngày 16-8-1945.

- Dứt khoát bác bỏ nhã ý mời Việt Minh hợp tác với Chính phủ Trần Trọng Kim khi ông cùng cố vấn Trần Đình Long và ông Lê Trọng Nghĩa gặp cụ Phan Kế Toại để trao đổi quan điểm về chính quyền trong tình thế mới.

- Phá bằng được cuộc mít tinh của Tổng hội công chức hô hào quốc dân “Ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim”,“Ủng hộ nền độc lập” sẽ diễn ra chiều 17-8-1945 tại Quảng trường Nhà Hát Lớn. Thường vụ Xứ ủy giao cho Thành ủy Hà Nội đảm trách việc quan trọng này. Phương châm hành động là “phá rồi rút lui ”.

3

Nhân dân Hà Nội mít tinh tại Nhà Hát Lớn, ngày 17-8-1945.

Ths. Phạm Kim Thanh

Ghi chú:

(1) Ý kiến của chị Nguyễn Thanh Hương, từ nguồn tư liệu của gia đình, chúng tôi tôn trọng và đưa vào bài viết coi như một nguồn tư liệu bổ sung, để tiếp tục nghiên cứu.

(2) Xuân Thủy, Nguyễn Thành Lê: Những chặng đường báo Cứu Quốc, NXBHN, H. 1987, tr 33, 36.

(3) Hà Nội khởi nghĩa, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Hà Nội xuất bản năm 1970, tr 21; 24-25; 29

https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/62032/chu-tich-uy-ban-quan-su-cach-mang-nguyen-khang-phan-1.html


Thực tế chiều ngày 17-8 đã diễn ra hơn cả mong đợi, vượt ra khỏi kế hoạch ban đầu của UBQSCM bởi sức mạnh như nước vỡ bờ của hàng vạn quần chúng. Sau khi ông Lê Phan và bà Từ Ngọc Trang, đại diện của Đoàn Tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu; bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, đại biểu của Dân chủ Đảng lên diễn thuyết, nhân dân hô to khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh, giương cao hàng trăm lá cờ trên quảng trường, tự nguyện đứng vào đội ngũ.

Thực tế chiều ngày 17-8 đã diễn ra hơn cả mong đợi, vượt ra khỏi kế hoạch ban đầu của UBQSCM bởi sức mạnh như nước vỡ bờ của hàng vạn quần chúng. Sau khi ông Lê Phan và bà Từ Ngọc Trang, đại diện của Đoàn Tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu; bà Nguyễn Khoa Diệu Hồng, đại biểu của Dân chủ Đảng lên diễn thuyết, nhân dân hô to khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh, giương cao hàng trăm lá cờ trên quảng trường, tự nguyện đứng vào đội ngũ.

Chính ông Nguyễn Khang, với cương vị Chủ tịch UBQSCM đã lên diễn đàn. Trong hồi ký, ông kể: Thấy rõ tinh thần của quần chúng đã lên cao và đương đòi hỏi chủ trương, mà những lời kêu gọi của Đội tuyên truyền xung phong vừa rồi chưa thật cụ thể, trực tiếp, tôi bèn chạy lên diễn đàn, nói thêm ít lời, vạch ra rằng thời cơ cách mạng đã đến, nhân dân ta hãy hăng hái đứng lên giành lấy độc lập thật sự, đánh đổ phát xít Nhật và bọn bù nhìn…Sau buổi chiều 17-8 ấy, chúng tôi thấy rằng rất có thể khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội được”(4)

Thực tiễn sinh động đã cho ông lời giải mà cuộc họp sáng 16-8, mới chỉ là dự đoán. Ông Khang phóng xe đạp như bay về Vạn Phúc chiều tối 17-8. Họp Xứ ủy, ông nêu ý kiến: “tất cả đã chín muồi, phải khởi nghĩa ngay !” Sự quyết đoán, vững vàng, chủ động và hết sức nhạy bén của vị Chủ tịch UBQSCM và Thường vụ Xứ ủy đã đánh một dấu mốc quan trọng nhất trong tiến trình Tổng khởi nghĩa toàn quốc!

Trong khi đó, tại nhà bà Hai Nhã, thôn Dịch Vọng Tiền, Thành ủy họp Hội nghị mở rộng dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Huy Khôi và Nguyễn Quyết, bàn bạc và quyết định phương thức, kế hoạch, ngày giờ khởi nghĩa là 10 giờ sáng 19-8. Tất cả đã được Xứ ủy chuẩn y ngay sáng 18-8; sau đó, ông Nguyễn Khang cùng UBQSCM dời hẳn trụ sở vào 101 phố Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo), chuẩn bị mọi việc cho toàn dân “xông lên đoạt trời” ngày 19-8. Ra-đi-ô loại tốt và chiếc ôtô do ông Mười Hương đi kiếm về, cũng khiến mọi người phấn chấn.

Lúc này, bắt mạch tình thế chuẩn xác để đề ra khẩu hiệu đấu tranh sát hợp sẽ có sức mạnh hơn cả một đạo quân. Ông Nguyễn Khang quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi giặc Nhật” khi Nhật đảo chính Pháp bằng khẩu hiệu: “Chống mọi hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam”. Vì vậy, tự ông đi tìm một người thạo tiếng Nhật ở phố Hàng Da để dịch truyền đơn vận động binh lính Nhật.

Ngày 19-8, ông Nguyễn Khang cùng ông Lê Trọng Nghĩa chỉ huy cánh quân chiếm Phủ Khâm Sai. Giờ phút lịch sử huy hoàng, đánh dấu sự cáo chung của chế độ cũ, ông đã từng kể với ông Như Phong: “Người chỉ huy đội lính bảo an còn dùng dằng thì tự vệ lao qua rào sắt nhảy vào trong sân; lính bảo an xếp súng thành đống và xin hàng. Cờ đỏ sao vàng được treo lên ngay trên đỉnh cao nhất của Phủ Khâm Sai”(5).

4

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, ngày 19-8-1945.

Các cánh quân đi chiếm Trại bảo an binh do ông Nguyễn Quyết chỉ huy, chiếm Tòa Thị chính, Ty Liêm phóng, Hỏa Lò do ông Nguyễn Huy Khôi chỉ huy…đều nhanh chóng giành thắng lợi. Cả Hà Nội tràn ngập trong rừng cờ, trong niềm vui bất tuyệt của ngày chiến thắng. Chiều 19-8-1945, Xứ uỷ cử ông Nguyễn Khang làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ, ông Nguyễn Huy Khôi làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội. Tối 19-8, cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ đã họp tại Bắc Bộ phủ, chuẩn bị cho sáng 20-8, ra mắt nhân dân tại vườn hoa Con Cóc (nay dân vẫn quen gọi tên cũ, vườn hoa ở trước mặt Nhà khách Chính phủ).

5

Ông Nguyễn Khang và vợ tại chiến khu Việt Bắc
thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Đêm không ngủ, hạnh phúc tột đỉnh không lời nào diễn tả hết. Các ông bàn bạc, lấy tên mới để ra hoạt động công khai. Và như thế, tên Nguyễn Khang của vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ đã gắn liền với lịch sử mùa thu tháng Tám. Sau này, ông còn phụ trách công tác đối với cách mạng Lào.

Ông đã đi xa hơn 40 năm, nhưng đức độ và nhân cách người cán bộ cách mạng của ông vẫn luôn được đồng chí, đồng bào nhắc nhớ. Tên ông đã được Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đặt cho một đường phố thuộc quận Cầu Giấy, chạy dọc theo bờ sông Tô Lịch, song song với đường Láng.

Ths. Phạm Kim Thanh

Ghi chú:

(4), (5) Hà Nội khởi nghĩa, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Hà Nội xuất bản năm 1970, tr 21; 24-25; 29


https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/62031/chu-tich-uy-ban-quan-su-cach-mang-nguyen-khang-phan-2-va-het.html


3.

Sơn Dương (t/h)  01/10/2023 11:36

Ngôi nhà 101 Trần Hưng Đạo, trụ sở Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội nay thuộc phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

nhung-dia-danh-gan-voi-cmt8-o-ha-noi-2-1598947939085190734411.png
Nhà số 101 phố Trần Hưng Đạo ngày nay

Tháng 8/1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển, tạo thuận lợi cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của dân tộc ta. Phát xít Đức bị tiêu diệt. Nhật đầu hàng Đồng minh. Chính quyền bù nhìn và các đảng phái tay sai của Nhật tan rã. Cả nước đã sẵn sàng xông lên. Cả Hà Nội sôi sục khí thế cách mạng.

Đến 13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Tối 15/8, Thành uỷ Hà Nội triệu tập Hội nghị bất thường gồm các cán bộ và đội trưởng đội thanh niên xung phong, công nhân xung phong tại chùa Hà (Dịch Vọng, Cầu Giấy) để rà soát lực lượng và bàn công việc cấp bách chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.

Sáng 16/8, tại số nhà 101 phố Gambetta, (nay là phố Trần Hưng Đạo), đồng chí Nguyễn Khang, Thường vụ Xứ uỷ, triệu tập họp với Thành uỷ Hà Nội để phổ biến nghị quyết của Xứ uỷ về thành lập Uỷ ban quân sự cách mạng Hà Nội (tức Uỷ ban khởi nghĩa) gồm 5 đồng chí: Nguyễn Khang, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ, Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy), cán bộ Ban công vận Xứ uỷ, Nguyễn Quyết, Bí thư Thành uỷ, Nguyễn Duy Thân, Thành uỷ viên và Lê Trọng Nghĩa, cán bộ Xứ uỷ. Đồng chí Trần Đình Long được cử làm cố vấn cho Uỷ ban.

Theo Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội, lúc này toàn Thành phố có 3 đội tự vệ chiến đấu, hàng nghìn hội viên các đoàn thể cứu quốc vừa chuyển sang tổ chức tự vệ. Súng đạn còn quá ít và rất thô sơ, nhưng điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi.

Ngày 17/8, các tổ chức cứu quốc ở nội ngoại thành và cả một số phủ huyện thuộc Hà Đông, được lệnh của Uỷ ban quân sự cách mạng đã bí mật huy động hàng vạn quần chúng đến tham dự cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức tổ chức tại Quảng trường Nhà hát Lớn, biến cuộc mít tinh thành cuộc biểu tình tuần hành. ngày 17/8, tại nhà bà Hai Nhã (Dịch Vọng, Cầu Giấy), Thành uỷ khởi nghĩa họp mở rộng, chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa dự kiến vào ngày 19/8.

Sáng sớm 18/8, Uỷ ban quân sự cách mạng chuyển vào nội thành, đóng tại số nhà 101 Gambetta để kịp thời chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tại Hà Nội ngày 19/8/1945.

Ngày 19/8, 20 vạn người từ cuộc mít tinh khổng lồ đã biến thành cuộc biểu tình thị uy, có các đơn vị tự vệ, tuyên truyền xung phong dẫn đầu đi chiếm các vị trí trọng yếu của Thành phố. Cuộc khởi nghĩa tháng Tám ở Hà Nội diễn ra với một sức mạnh quật khởi và tốc độ phi thường, giành thắng lợi nhanh gọn, giòn giã, ảnh hưởng vang dội.

Trong những ngày tiếp sau đó, kế hoạch của Uỷ ban quân sự cách mạng đã được thực hiện thành công. Uỷ ban nhân dân cách mạng đã được thành lập.

Tại ngôi nhà 101 Trần Hưng Đạo, Thành uỷ, Uỷ ban quân sự cách mạng đã có những ngày giờ làm việc khẩn trương, ban hành những chỉ thị, chủ trương, mệnh lệnh đúng đắn, kịp thời, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội thành công rực rỡ.

Nhà 101 Trần Hưng Đạo được xây vào khoảng năm 1910 - 1911, trên diện tích 150m, nhà gồm 3 tầng (cả tầng hầm) theo lối kiến trúc Pháp. Xung quanh có các giậu sắt gắn lên tường, cao 3m. Cổng cao 5m, rộng 7m, 2 bên xây trụ bê tông vuông, có lắp 2 cánh cửa sắt.

Ngoài ngôi nhà chính trên, hiện nay có ngôi nhà bê tông 5 tầng ở phía sau (xưa kia là nhà ngang, chỗ ở của gia nhân, con cháu) và ngôi nhà 2 tầng đều do Viện Khoa học giáo dục (thuộc Bộ Giáo dục - Đào tạo) xây dựng những năm sau này dùng để làm việc.

Theo sự khảo sát của Ban quản lý di tích danh thắng Hà Nội, chỗ Uỷ ban quân sự cách mạng làm việc có thể ở tầng hầm của ngôi nhà, vì nó được xây kiên cố và cao tới 1,2m lên xuống dễ dàng.

Ngôi nhà 101 Trần Hưng Đạo đã đi vào lịch sử vẻ vang của thủ đô Hà Nội như một mốc son, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội.

Ngôi nhà 101 Trần Hưng Đạo đã được gắn biển di tích cách mạng kháng chiến: “Ngày 18/8/1945, nơi đây là trụ sở Uỷ ban quân sự cách mạng (Uỷ ban khởi nghĩa)”.

Để phát huy giá trị của di tích, cần thiết phải bảo tồn ngôi nhà chính, làm lại tấm biển đá quá nhỏ và đã mờ chữ, đồng thời tuyên truyền giới thiệu cho nhân dân trong phường, quận và đông đảo mọi người biết./.

Theo Hà Nội Danh thắng và Di tích tập 02

https://nguoihanoi.vn/nha-so-101-pho-tran-hung-dao-tru-so-uy-ban-khoi-nghia-ha-noi-quan-hoan-kiem-77264.html

2.




Nhà văn NHƯ PHONG (1917 – 1985)

1. Tiểu sử

Nhà văn Như Phong có nhiều bút danh: Như Phong, Lâm Vũ, Nguyễn Kiên Trì, Hồng Hà. Ông tên khai sinh là Nguyễn Đình Thạc. Sinh ngày 25 tháng 10 năm 1917 tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông mất ngày 01 tháng 02 năm 1985.

  1. Quá trình công tác:

Nhà văn Như Phong tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1937, ông công tác trong Đoàn Thanh niên Dân chủ. Năm 1938, ông phụ trách phần văn nghệ của báo Thế giới, Mới và Người mới, là cơ quan ngôn luận của Đoàn thanh niên dân chủ.

Từ năm 1942, Như Phong bí mật tham gia thành lập Hội Văn hóa Cứu quốc và được bầu vào Ban chấp hành hội cùng với ông Vũ Quốc Uy, Học Phi, Ngô Lê Động. Trong thời kỳ này, ông viết nhiều truyện ngắn và tiểu luận văn học đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảyThời vụMớiNgười mới

Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám, ông là ủy viên Ban Tuyên truyền Ủy ban Khởi nghĩa Bắc bộ và phụ trách Sở Kiểm duyệt báo chí.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt là Chủ nhiệm kiêm Tổng biên tập các báo Cứu quốc khu XIICứu quốc khu XCứu quốc liên khu ba và Cứu quốc dặc khu Hà Nội.

Thời gian trước và sau tiếp quản Thủ đô, ông công tác tại Văn phòng Trung ương Đảng, sau đó làm Phó Giám đốc Sở Báo chí, rồi Phó Chủ bút báo Cứu quốc trung ương. Từ giữa năm 1957 đến 1965, là Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ và tham gia biên ủy báo Nhân Dân. Từ tháng 10 năm 1965 đến khi nghỉ hưu ( năm 1980), ông là giám đốc Nhà xuất bản Văn học, ủy viên Đảng đoàn Văn nghệ Trung ương, ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa II).

  1. Tác phẩm:

– Bình luận văn học (tiểu luận phê bình, 1964, 1969, 1977);

– Thơ văn Trần Mai Ninh (sưu tầm giới thiệu, 1980).

Ông viết nhiều bài phê bình, bình luận văn học trên các báo Nhân dân, Tạp chí Văn nghệ, Tạp chí Văn học. Một số tác phẩm khác của ông đã xuất bản bao gồm: Gõ cửa, Trường tư ngoại ô, Buổi học cuối cùng…

Ông cũng là người đầu tiên dịch tiểu thuyết “Sông Đông Êm Đềm” của Mikhain Solokhov ra tiếng Việt, bản dịch được in từ số 231 ra ngày 04 tháng 05 năm 1946 của báo Cứu Quốc, dưới tên “Trên sông Đông êm đềm”.

  1. Giải thưởng:

Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

https://baotangvanhoc.vn/giai-thuong-nha-nuoc/dot-2-giai-thuong-nha-nuoc/nha-van-nhu-phong-1917-1985/




1.


Trình Phố: Vùng đất, con người và truyền thống

Thứ 2, 12/05/2025 | 15:22:18

 

 12,973 lượt xem
Mang đậm dấu ấn của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, làng Trình Phố (nay là xã An Ninh, huyện Tiền Hải) có những nét độc đáo riêng biệt với phiên chợ Giếng cả năm chỉ họp một phiên vào ngày mùng một tết Nguyên đán. Đây còn là vùng quê giàu truyền thống cách mạng với nhiều danh nhân như Nguyễn Quang Bích, Bùi Viện, Ngô Quang Đoan...

Nhà tưởng niệm danh nhân văn hóa Bùi Viện, tại xã An Ninh (Tiền Hải).

Chợ Giếng cả năm chỉ họp một phiên 

Theo gia phả các dòng họ và người xưa truyền lại thì làng Trình Phố được lập từ thế kỷ XV, thuộc tổng An Bồi, huyện Chân Định, phủ Kiến Xương nay là xã An Ninh (Tiền Hải). Người làng Trình Phố hiện nay có gốc gác từ Diêm Phố - Trình Phả xứ Thanh. Làng Trình Phố xưa có một ngôi đình, dân thường gọi đình Sành ở giữa làng (tên gọi là đình Sành vì làng xưa có nhiều người buôn tiểu sành). Những chiếc tiểu bị vênh cong... không ai mua, các gia đình đem hiến cho làng. Dân làng trộn cát với vôi để xây tường đình nên đình có tên ấy. Trước cửa đình có sân rộng và một giếng đá. Lệ làng từ khi lập làng cứ sáng mùng một tết dân làng lại tập trung ra đình để các nhà chức trách nói về lịch sử của làng, về các tiên công mở đất. Từ khi có đình Sành, có giếng đá, thì đây chính là nơi tụ tập, lâu dần hình thành chợ Giếng. Chợ Giếng chỉ họp mỗi năm một lần vào sáng ngày mùng một tết. Từ 27 tết, ông thủ từ đã cho quét dọn trong đình, ngoài sân sạch sẽ, treo cờ hội trước cửa đình. Rạng sáng ngày mùng một tết thủ từ thắp hương, cắm lên bát hương và bỏ hương vào đỉnh đồng rồi khấn cầu các thần linh, các tiên công phù hộ cho dân làng năm mới làm ăn phát đạt, làng được bình yên. Khấn xong cụ lên gác chuông đánh ba hồi chuông, đánh trống báo cho dân làng đã đến giờ dâng hương bái tổ. Theo hiệu lệnh mọi người kéo về đình và mang theo các sản phẩm do chính mình sản xuất ra hoặc những hàng mua nơi xa về hợp thị hiếu dân làng đem đến chợ Giếng bày bán.

Người Trình Phố đổ về chợ rất đông, những người quanh vùng cũng đến dự, người đi lại tấp nập. Trong đình, trên sân đình có hát ả đào, đánh tổ tôm, cờ tướng, vật võ... chung quanh giếng những mẹt hàng, quầy hàng bày la liệt bánh trái, tranh ảnh; những lời mời chào vồn vã. Ngoài bánh trái hoa quả, nhiều sản phẩm khác như rổ rá, quang gánh... cũng được đem bán để lấy may. Những năm chống Pháp, chống Mỹ, chợ Giếng Trình Phố phải ngừng hoạt động, đình Sành bị phá, giếng đá bị lấy nung vôi. Ông Nguyễn Văn Giáo, cán bộ văn hóa xã An Ninh cho biết: Mặc dù đình Sành bị mất nhưng để lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, hơn một thập kỷ nay chợ Giếng đã được địa phương khôi phục lại. Ngày tết trai gái trong làng, người già người trẻ lại đến chợ, thay cho lời giảng giải về làng Trình của ông từ đền, đồng chí Chủ tịch UBND xã lên chúc tết dân trước, tiếp đến là các tiết mục múa hát, trò chơi. Địa phương đang từng bước làm sống lại những truyền thống văn hóa của quê hương.

Làng của các danh nhân văn hóa 

Là vùng đất có truyền thống hiếu học, từ thế kỷ XIX – XX, Trình Phố xuất hiện nhiều người kiệt xuất trong đó có các danh nhân như: Bùi Viện, Nguyễn Quang Bích, Ngô Quang Đoan, Chu Ngạn, Vũ Trọng. Nguyễn Quang Bích, hiệu Ngư Phong (1832 - 1890), là nhà yêu nước, nhà thơ, thủ lĩnh Cần Vương chống Pháp số một ở Bắc Kỳ lẫy lừng võ công, văn nghiệp. Bùi Viện (1841-1878) từng được sử sách khẳng định là một nhân vật xuất chúng ở thế kỷ XIX và là một nhà kinh bang tế thế, có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra tuần dương quân (lực lượng hải quân thường trực) và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển. Hiện nay, tại xã An Ninh có 2 khu di tích khu lưu niệm văn thân yêu nước Nguyễn Quang Bích và nhà lưu niệm Bùi Viện (gồm từ đường, phần mộ) đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Những di tích này không chỉ thể hiện sự tri ân mà còn là nơi giáo dục truyền thống, một điểm đến văn hóa tâm linh của người dân khi đến với huyện Tiền Hải.

Trường học tại xã An Ninh được đầu tư đồng bộ, hiện đại.

Giàu truyền thống cách mạng 

Là vùng đất có truyền thống hiếu học, giàu lòng yêu nước, quê hương Trình Phố đã sớm hình thành phong trào cách mạng, chống thực dân Pháp ngay từ giai đoạn 1833 – 1913. Tuy nhiên, phải đến tháng 7/1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Trình Phố ra đời - là 1 trong 6 chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh, đưa phong trào đấu tranh cách mạng ở Trình Phố phát triển mạnh mẽ, quyết liệt hơn, đỉnh cao là lãnh đạo quần chúng tham gia cuộc biểu tình ngày 14/10/1930 tại Tiền Hải. Trong cao trào năm 1929 - 1931, Trình Phố xứng đáng là một trong những cái nôi và trung tâm cách mạng tiêu biểu của tỉnh Thái Bình. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Cộng sản Trình Phố (từ năm 1929 - cuối năm 1946), Chi bộ Đảng xã An Ninh (từ đầu năm 1947 - 1960), Đảng bộ xã An Ninh (từ năm 1960 đến nay), nhân dân Trình Phố, An Ninh đã cùng nhân dân trong huyện, tỉnh và cả nước đánh đuổi thực dân, phong kiến, đế quốc, tay sai xây dựng quê hương vững bước đi lên. Năm 2000, Đảng bộ và nhân dân xã An Ninh vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông Phạm Ngọc Tú, Chủ tịch UBND xã cho biết: Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã An Ninh đã đoàn kết, chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn để xây dựng quê hương ngày càng phát triển, giàu đẹp. Đặc biệt, trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, An Ninh tự hào là một trong những xã đầu tiên của tỉnh đạt xã nông thôn mới kiểu mẫu vào năm 2024. Diện mạo làng quê An Ninh ngày nay khang trang, hiện đại, sáng, xanh, sạch, đẹp, văn minh, tiến bộ. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nâng lên rõ rệt, xứng đáng với những cống hiến, hy sinh của lớp lớp thế hệ cha ông, cán bộ, đảng viên và nhân dân Trình Phố xưa.

Trần Tuấn 


https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/39/223676/trinh-pho-vung-dat-con-nguoi-va-truyen-thong

...


Nguyễn Khang: Người con ưu tú của Thái Bình lãnh đạo giành chính quyền tại Hà Nội

Thứ 2, 15/08/2016
Làng Kênh Son, xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương là địa phương sớm có phong trào cách mạng từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Làng được Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm địa điểm đặt cơ quan ấn loát tài liệu tuyên truyền cách mạng của cả Xứ ủy và Tỉnh ủy Thái Bình. Nguyễn Khang - một thanh niên trong làng được giác ngộ cách mạng, lại đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ đã nhanh chóng được Xứ ủy tin tưởng, tuyển chọn làm nhiệm vụ biên tập, soạn thảo và in ấn các tài liệu tuyên truyền phục vụ cách m

Chùa Son, làng Kênh Son.

 

Nguyễn Khang - tên khai sinh là Nguyễn Văn Đệ, sinh năm 1919 tại thôn Nguyên Kinh, làng Kênh Son, xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương trong một gia đình thuộc tầng lớp trung nông. Thuở thiếu thời, ông được gia đình gửi sang quê ngoại ở làng Hành Thiện (Nam Định) học chữ. Vốn thông minh, hay chữ, Nguyễn Khang là trò giỏi của trường. Tại đây, được tiếp cận với lớp thanh niên có tư tưởng yêu nước, tiến bộ, trong ông đã nung nấu ý chí cách mạng đập tan xiềng xích quân xâm lược, giải phóng quê hương, đất nước.

 

Với nỗ lực vượt bậc của mình, người thanh niên quê lúa giàu nhiệt huyết cách mạng sau một năm được tổ chức giao nhiệm vụ đã vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đến năm 1939, tình hình quốc tế có chiều hướng thuận lợi đối với phong trào cách mạng của nước ta, thời cơ chuẩn bị cho cuộc cách mạng lớn đang dần chín muồi, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định điều động Nguyễn Khang lên Hà Nội hoạt động trong Đoàn Thanh niên xã hội và phản đế. Đây là điều kiện để “hạt giống đỏ” của Thái Bình thâm nhập sâu vào quần chúng, từ đó có kế hoạch tham mưu cho Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo phong trào cách mạng tại Hà Nội. Không lâu sau đó, vào những năm 1940 - 1941, ông được giao các nhiệm vụ: phụ trách Đoàn Thanh niên phản đế Hà Nội, Bí thư Ban Chấp hành và Bí thư Đảng đoàn Thanh niên phản đế liên tỉnh: Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây - Bắc Ninh. Ông cũng được chỉ định tham gia Thường vụ Thành ủy Hà Nội, phụ trách thanh niên, Báo Tiền phong và nhóm thợ nhà máy xe lửa Gia Lâm. Ngày Quốc tế lao động 1/5/1942, trong lúc đang làm nhiệm vụ tại Hà Nội, ông đã bị địch vây bắt và đưa về giam tại nhà tù Hỏa Lò. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp đưa ra xét xử, kết án 5 năm tù và 15 năm khổ sai, bị đày đi nhà tù Sơn La. Trong thời gian giam cầm, ông bị địch tra tấn dã man nhưng với khí phách kiên cường của người cộng sản, với lòng trung trinh với Đảng, với phong trào cách mạng, với đồng chí, đồng đội của mình, ông đã cắn răng chịu đựng những trận đòn tra tấn chết đi sống lại của địch, kiên quyết không khai đường dây hoạt động cách mạng. Tra tấn cực hình không xong, địch bày mưu mua chuộc, dụ dỗ, ly gián… nhưng tất cả mưu ma chước quỷ của chúng vẫn không làm cho ý chí cách mạng kiên trung của Nguyễn Khang lung lay. Ông cùng các đảng viên khác trong nhà tù xây dựng Chi bộ nhà tù Sơn La, tổ chức các hoạt động đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của bọn cai ngục, vận động tù nhân tương thân tương ái, giúp đỡ nhau vượt qua gian khổ, tin tưởng vào chính nghĩa. Bọn cai tù Sơn La thấy tù nhân thương nhau như anh em một nhà, bị tra tấn vẫn một lòng tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, chúng đặt nghi vấn có người tổ chức, vận động và nhằm tới Nguyễn Khang. Chúng nhanh chóng đày ải Nguyễn Khang ra Côn Đảo nhằm cắt đứt mối liên hệ mật thiết của ông với tù nhân trong ngục tù Sơn La. Thực dân Pháp không ngờ rằng, trong lúc giải Nguyễn Khang ra Côn Đảo, lợi dụng sơ hở của địch, ông đã tìm cách trốn thoát, tìm về Xứ ủy Bắc Kỳ và được Xứ ủy đưa về hoạt động bí mật. Tháng 3 năm 1944, Nguyễn Khang tham dự hội nghị cán bộ của Xứ ủy Bắc Kỳ và được Xứ ủy cử giữ chức vụ Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp phụ trách địa bàn Hà Đông - Sơn Tây - An toàn khu của Xứ ủy và làm biên tập viên Báo Cứu quốc, Báo Hồn nước. Ngày 11/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tình thế cách mạng chuyển biến tích cực, thời cơ cách mạng đã đến, Trung ương ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Với cương vị Chủ tịch Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội, ông đã chủ động đánh giá, phân tích tình hình, thay mặt Xứ ủy Bắc Kỳ kịp thời ra quyết định vào thời điểm quan trọng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại các tỉnh trong địa bàn hoạt động của Xứ ủy. Ông trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ huy cuộc đánh úp tước vũ khí của quân Pháp tại đồn Bản (Yên Nhân) làm cho kẻ địch hoảng loạn. Trong điều kiện mỏng về lực lượng, khó khăn về vũ khí, đạn dược nhưng với tinh thần dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, bám sát, nắm chắc tình hình, thời cơ cách mạng, ông vừa là chỉ huy cao nhất vừa là người trực tiếp tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô thành công ngoài mong đợi, nổ phát súng tiêu diệt thành lũy của thực dân Pháp và các thế lực xâm lược ngoại bang, tạo tiền đề cho phong trào đấu tranh giành chính quyền ở các địa phương còn lại mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân.

 

Hồi ký của đồng chí Trường Chinh, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, có đoạn viết: “Về đến Hà Nội mấy hôm sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, tôi đến ngay trụ sở Thành ủy nghe Ủy ban Khởi nghĩa (lúc ấy gọi là Ủy ban Quân sự cách mạng) báo cáo. Đồng chí Nguyễn Khang, Ủy viên Xứ ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa trình bày. Qua báo cáo tôi nhận thấy Thành ủy đã nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, của Bác, đã biết nắm chắc thời cơ, phân tích đúng tình hình, so sánh lực lượng, biết sử dụng sức mạnh áp đảo của quần chúng, buộc quân Nhật phải nhường bước cho cách mạng giành chính quyền... Lúc ra về, tôi nhìn một lượt các đồng chí trong Thành ủy, đều là những người ở lứa tuổi 20, đồng chí Nguyễn Khang khi ấy 26 tuổi. Cách mạng và tuổi trẻ đã hòa với nhau trong một mùa thu lịch sử và cách mạng đã làm cho cả dân tộc ta hồi sinh và trẻ lại”.

 

 

Bà Vũ Thị Hợi, Phó Giám đốc Bảo tàng Thái Bình

 

Năm 2009, Bảo tàng Thái Bình tiếp nhận một số tài liệu, hiện vật về đồng chí Nguyễn Khang, người con Thái Bình đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội. Đây là những hiện vật quý để Bảo tàng trưng bày, giới thiệu về thế hệ cách mạng tiền bối trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, niềm tự hào của nhân dân Thái Bình.

 

Ông Trần Văn Phương, Bí thư Ðảng ủy xã Minh Hưng, huyện Kiến Xương

 

Minh Hưng là xã có phong trào cách mạng từ rất sớm. Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, xã đã có tổ chức cơ sở đảng, làng Kênh Son có chi bộ đảng. Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, lớp lớp thanh niên ưu tú của xã đã tìm đến với Đảng, tham gia hoạt động cách mạng và trưởng thành, đặc biệt là đồng chí Nguyễn Khang. Hiện toàn xã có 39 người được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu lão thành cách mạng, 13 bà mẹ được phong tặng, truy tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Tấm gương cống hiến hết mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân của đồng chí Nguyễn Khang sẽ mãi mãi là niềm tự hào của quê hương chúng tôi.

 

Ông Nguyễn Văn Nam, cựu chiến binh, cháu ruột đồng chí Nguyễn Khang

 

Tôi được biết bác Nguyễn Khang tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, 26 tuổi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa quy mô lớn ở Hà Nội. Là con cháu của bác Nguyễn Khang, chúng tôi tiếp tục phát huy truyền thống của gia đình, giáo dục cháu con tiếp nối truyền thống cách mạng, góp sức xây dựng quê hương Minh Hưng ngày càng giàu đẹp.


https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/39/47763/nguyen-khang-nguoi-c-111-n-uu-tu-cua-thai-binh-lanh-dao-gianh-chinh-quyen-tai-ha-noi-47763

...

1 nhận xét:

  1. Đã đưa ra Fb, ở địa chỉ sau: https://www.facebook.com/giao.blog/posts/pfbid0ByminEGYrj7K8HSCr8seRdVV8n38kpmYz4HLyNqXWB7qPjkvKdUs9RbHhE8if797l

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.