Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

27/06/2020

Vĩnh biệt Giáo sư Phan Đăng Nhật (1931-2020) - tin tức hạ tuần tháng 6 từ các nơi

Về cuộc đời và sự nghiệp nghiên cứu văn hóa dân gian của Giáo sư Phan Đăng Nhật, thì đã có khá nhiều học giả đàn em viết bài từ lâu, trong đó có những bài khái lược, có những bài rất công phu.

Một điểm đặc biệt cần nhấn mạnh về Phan Đăng Nhật chính là ở đây. Tức là, đã có rất nhiều học giả đàn em viết rất sớm và chuyên sâu về ông cùng các công trình nghiên cứu. Không phải là theo lệ thường: sau khi qua đời rồi, người ta mới bắt đầu viết về người quá cố.

1. Người đầu tiên viết một cách công phu về Phan Đăng Nhật là học giả đàn em Nguyễn Xuân Kính (Giáo sư Tiến sĩ, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa). Bài đầu tiên in năm 1995.

Bài đó có tựa đề "Phan Đăng Nhật từ việc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người đến việc mở rộng phạm vi nghiên cứu", in trong cuốn sách Các tác gia nghiên cứu văn hóa dân gian (Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Hà Nội : Nxb Khoa học Xã hội, 1995). Sách gồm 415 trang, bài về Phan Đăng Nhật do Nguyễn Xuân Kính viết thì ở các trang 227-244.

2. Cuốn sách xuất bản năm 1995 này tôi được chủ biên Nguyễn Xuân Kính tặng từ tháng 1 năm 1995 (có lời đề tặng ghi bằng bút mực đỏ). Lúc ấy, chỉ nghe tiếng Phan Đăng Nhật và đọc các tác phẩm của ông, mà chưa từng gặp.

Thời điểm năm 1995, học giả danh tiếng Phan Đăng Nhật đã ở tuổi 64. Còn tôi mới là sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, mới ngoài 20 một chút. Chưa từng gặp nhau bao giờ. Cuộc đời thật nhân duyên, ở thời điểm đó, tôi chưa từng nghĩ rằng sau này trở thành con rể của ông. Mà rất nhanh, cũng chỉ sau năm 1995 một ít năm mà thôi.

3. Cuốn sách do Nguyễn Xuân Kính chủ biên là kết quả của một đề tài khoa học cấp Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian được thực hiện từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 4 năm 1993. Bài tựa với tiêu đề Lời nói đầu do Nguyễn Xuân Kính chấp bút cho biết như vậy, và bản thân bài đó được viết xong ngày 28 tháng 10 năm 1994.

Cuốn sách có viết chân dung của 15 học giả sau:
1). Vũ Ngọc Phan.
2). Nguyễn Đổng Chi.
3). Bùi Văn Nguyên.
4). Đinh Gia Khánh.
5). Cao Huy Đỉnh.
6). Hà Văn Cầu.
7). Nguyễn Huy Hồng.
8).Vũ Ngọc Khánh.
9). Võ Quang Nhơn.
10). Phan Đăng Nhật.
11). Đỗ Bình Trị.
12). Ninh Viết Giao.
13). Chu Xuân Diên.
14). Hoàng Tiến Tựu.
15). Nguyễn Văn Huyên --- ở phụ lục.

Tức là đến thời điểm đó, đã đình hình 15 gương mặt tiêu biểu trong nghiên cứu và truyền dạy môn Văn hóa Dân gian.

Sau năm 1995, Nguyễn Xuân Kính tiếp tục viết về Phan Đăng Nhật một cách sâu sắc hơn với hai bài viết công phu đã phát biểu năm 2005 và 2009.

4. Năm 2005, trên tạp chí Nguồn sáng Dân gian (cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam), Nguyễn Xuân Kính công bố bài "Giáo sư Phan Đăng Nhật và những nỗ lực không ngừng trên con đường học tập và nghiên cứu". Bài trên số 4 năm 2005, là một nâng cấp bài viết đã in năm 1995 của cùng tác giả.

Đến năm 2009, Nguyễn Xuân Kính tiếp tục chỉnh sửa bài viết (cập nhất mới và đưa thêm một số nhận định quan trọng). Vừa may, lúc đó, Phan Đăng Nhật đồng ý cho Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh in một tác phẩm lớn dày tới gần 800 trang của ông với tiêu đề Văn hóa các dân tộc thiểu số - Những giá trị đặc sắc, thế là bài viết mới năm 2009 của Nguyễn Xuân Kính đã được đưa in vào gần cuối cuốn sách như một lời giới thiệu về tác giả Phan Đăng Nhật.

Cuốn Văn hóa các dân tộc thiểu số - Những giá trị đặc sắc của Phan Đăng Nhật đã được in ngay năm 2009, bởi Nxb Khoa học Xã hội. Các trang 761 - 774 của sách ấy là bài "Giáo sư Phan Đăng Nhật và những nỗ lực không ngừng trên con đường học tập và nghiên cứu" của Nguyễn Xuân Kính. Cuối bài ghi "Hà Nội, 10/10/2009".

5. Như vậy, có thể nói, từ năm 1995 đến năm 2009, trong khoảng 15 năm ấy, Nguyễn Xuân Kính đã 3 lần viết về Phan Đăng Nhật. Có thể xem ông như một người chuyên đọc và hiểu sâu sắc các công trình khoa học của Phan Đăng Nhật.

Ở gần cuối bài viết năm 2009, Nguyễn Xuân Kính viết: "Con đường phấn đấu đi lên của Phan Đăng Nhật là con đường đầy khó khăn, vất vả gắn liền với một quyết tâm vượt khó, chịu khổ phi thường. Thời thiếu niên và tuổi trẻ, ông phải học tập trong điều kiện đất nước có chiến tranh. Sau này, khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông phải vừa công tác vừa học tại chức để hoàn thiện trình độ học vấn ở bậc đại học. Đến khi đạt được học vị Tiến sĩ Khoa học thì ông đã bước vào tuổi 59, cái tuổi mà theo chính sách của nhà nước, chỉ còn một năm nữa là ông được quyền nghỉ ngơi. Khi đã trên 60 tuổi, ông vẫn say mê và tích cực học thêm tiếng Anh, với nhiệt tình không kém thời ông học tiếng Nga lúc trên 40 tuổi".

Nguyễn Xuân Kính viết tiếp về người đàn anh: "Sở dĩ, ông có được những đóng góp cho khoa nghiên cứu văn hóa dân gian là nhờ sức làm việc phi thường, nhờ ông "biết là học trò của các bậc như Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Phan Ngọc,..." và trên cơ sở trân trọng những bậc ấy mà tìm ra một hướng đi riêng cho mình."

Lời kết của Nguyễn Xuân Kính: "Thiển nghĩ, tấm Huân chương Lao động hạng ba mà ông được nhận năm 1997 có phần "nhẹ cân" so với một người lao động bền bỉ với một cường độ phi thường và rất có hiệu quả như ông. Còn Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ mà tháng 9 năm 2005 Chủ tịch Nước trao cho cụm công trình Sử thi Ê Đê (1991) và Vùng sử thi Tây Nguyên (1999) mà ông là tác giả thì hoàn toàn xứng đáng".

6. Còn có một số người nữa viết về những đóng góp trên phương diện học thuật của Phan Đăng Nhật, mà có thể nhắc đến là học giả Phạm Việt Long - một học trò của Phan Đăng Nhật.

Vào tháng 3 năm 2017, Phạm Việt Long và đã viết và cho công bố một bài hết sức công phu với tựa đề "Giáo sư Phan Đăng Nhật, người thủy chung với văn hóa dân gian". Giao Blog đã đưa về ngay lúc đó, ở đây.

Ở đoạn kết của bài đó, Phạm Việt Long viết:
"Khi được hỏi người nghiên cứu văn hóa dân gian cần có những phẩm chất gì, Giáo sư trả lời: Trước hết yêu nghề, từ đó yêu đối tượng của mình và quý các nghệ nhân…

Một lòng một dạ với văn hóa dân gian, Giáo sư Phan Đăng Nhật luôn luôn mong mỏi Nhà nước quan tâm để có chính sách thỏa đáng, có những tổ chức xứng tầm làm công tác nghiên cứu văn hóa dân gian. Giáo sư vẫn nuối tiếc Viện Văn hóa dân gian vì đã bị nhập vào Viện Nghiên cứu văn hóa. Giáo sư mong rằng, Viện Văn hóa dân gian sẽ được trả lại tên, để cùng với viện Văn hóa song song tồn tại và phát triển.
"

7. Tạm điểm nhanh qua một lượt vậy.

Bây giờ là cập nhật tin tức về học giả Phan Đăng Nhật ở thời điểm hạ tuần tháng 6 năm 2020 (tang lễ của ông thì đã có cáo phó ở đây).

Mở đầu là tin của VTV, một viết ngắn của Nguyễn Thế Khoa trên Fb, và ca khúc Tiễn biệt thầy của Phạm Việt Long.

Các tin bổ sung thì dán ở dưới đó như mọi khi.

Ngày 27 tháng 6 năm 2020,
Giao Blog



---

Tiễn biệt Giáo sư Phan Đăng Nhật - Nhà nghiên cứu hàng đầu Việt Nam về sử thi

Theo TTXVN-Thứ tư, ngày 24/06/2020 10:34 GMT+7

GS.TSKH Phan Đăng Nhật (Ảnh: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam)

VTV.vn - Ngày 24/6, giới nghiên cứu văn hóa, bạn bè và gia đình đã tiễn biệt Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật - Nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi.

Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931-2020) là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu, quê xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng.
Ông từng là giáo viên cấp 2 ở Nghệ Tĩnh vào thập niên 1950, giáo viên cấp 3 và cán bộ nghiên cứu ở Sở Giáo dục Tây Bắc vào thập niên 1970. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian và nhiều năm là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam). Vào cuối thập niên 1990, sau khi nghỉ hưu, ông thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
Với những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu khoa học, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên.
Tiễn biệt Giáo sư Phan Đăng Nhật - Nhà nghiên cứu hàng đầu Việt Nam về sử thi - Ảnh 1.
GS.TSKH Phan Đăng Nhật được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi
Giáo sư Phan Đăng Nhật đến với ngành nghiên cứu văn hóa dân gian có phần muộn màng hơn so với nhiều tác giả khác nhưng ông rất tích cực và nghiêm túc trong nghề. Ông đã công bố 6 cuốn sách in riêng và 120 bài viết in trên các báo và tạp chí.
Giáo sư Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản sử thi - khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991). Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.
Giáo sư Phan Đăng Nhật còn mở rộng hướng nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như: Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai... Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
https://vtv.vn/xa-hoi/tien-biet-giao-su-phan-dang-nhat-nha-nghien-cuu-hang-dau-viet-nam-ve-su-thi-2020062410223086.htm








Tiễn Biệt Thầy - Nhạc: Phạm Viêt Long, Thơ: Nguyễn Đặng Hà Anh, Biểu diễn: Sao Mai Hiền Anh
Phạm Việt Long  395 người đăng ký
Ca khúc thể hiện tình cảm sâu nặng của học trò đối với người thầy kính yêu vừa qua đời.https://www.youtube.com/watch?v=nWnYJpqbZOE







Tôi thực sự bàng hoàng khi nghe tin sáng ngày 24/6/2020, GSTSKH Phan Đăng Nhật, người được coi là nhà khoa học hàng đầu về văn hóa dân gian VN, từng là Viện trưởng Viện Văn hóa Dân gian, hiện đang là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc của chúng tôi đã lặng lẽ ra đi ở tuổi 90. 

Ông là chuyên gia số 1 về sử thi các dân tộc thiểu số VN. Nhờ ông, các bộ sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, Chăm, Tây Bắc, Việt Bắc, Mường đã được sưu tầm, nghiên cứu xuất bản rất hệ thống. 

Là người đứng đầu Hội đồng Mạc tộc cả nước, ông đã nghiên cứu và cho xuất bản hai cuốn sách về một triều đại lớn từng bị lịch sử ngộ nhận, bỏ quên. 

Gần đây, khi thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại, Phan Đăng Nhật cho rằng hiện tượng văn hóa kỳ thú này của dân tộc ta chưa được nghiên cứu đến nơi đến chốn. Bởi thế, ở tuổi 87 ông đã hào hứng bắt đầu công trình nghiên cứu về hầu đồng, khởi động bằng bài viết về các hiện tượng kết nối con người hai cõi âm dương ở các nền văn hóa thế giới và các dân tộc thiểu số VN đã được tôi trích đăng 12 trang trên tạp chí Văn hiến VN số Giai phẩm xuân 2017. 

Kể từ ngày rời Nha Trang ra lại Hà Nội, gần 20 năm qua, tôi khá thân thiết với ông. Phan Đăng Nhật thường gửi bài ủng hộ tôi làm Văn hiến. Khi tôi ra cuốn tạp bút "Kẻ tàng hình không còn biết tàng hình" ông rất thích thú đọc và viết bài giới thiệu ngay cho báo chí. 

Tôi thỉnh thoảng đến thăm ông khi ông ở căn phòng chật chội trong một biệt thự ở Đặng Tất hay sau này chuyến đến ngôi nhà ba tầng rộng rãi trong ngõ Cầu Giấy. Tài sản lớn nhất của ông là sách. Sách lúc nào cũng đầy chật nhà ông khi chỉ là một căn phòng đến cả khi một nhà ba tầng. Ông rất chăm tập thể dục và nhiều lúc tự chế thuốc cho sức khỏe của mình. Có dạo ông mua máy làm tỏi đen "thần dược". Tôi đến chơi, ông lấy tỏi đen cho tôi ăn và khuyên tôi nên mua máy làm tỏi mà dùng. 

Ba năm nay, ông dốc sức chuẩn bị một hội thảo thực sự khoa học về tín ngưỡng thờ mẫu. Năm trước, ông phải đi cấp cứu và nằm viện khá lâu nhưng vừa khỏe lại, được về nhà, ông đã điện ngay cho tôi hỏi tôi đã xong tham luận mà ông giao tôi viết cho Hội thảo tâm huyết của ông chưa? 

Cứ nghĩ ông luôn biết cách giữ gìn sức khỏe, vẫn minh mẫn, vẫn làm việc say sưa như thế ở tuổi 90, chắc ông sẽ còn sống thêm nhiều năm nữa để hoàn thành những dư định khoa học còn dang dở. Nhưng ông đã bất ngờ dừng bước vào ngay trước tết Đoan Ngọ năm Canh Tý 2020. 

Báo chí chưa kịp đưa tin. Nhiều bạn bè học trò, đồng nghiệp chưa kịp đến với ông, không có phúng viếng linh đình, không có tang lễ hoành tráng ở Nhà tang lễ Quốc gia...Hình như nhà khoa học luôn lặng lẽ, khiêm nhường khi sống đã chuẩn bị cho mình một cuộc ra đi khiêm nhường, lặng lẽ như thế về cõi vĩnh hằng. Với Phan Đăng Nhật đây không hề là chấm dứt, dừng bước mà sẽ là cuộc điền dã mới khám phá cõi tâm linh đầy bí ẩn mà ông đang không ngừng theo đuổi nghiên cứu...

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=2600407653621666&id=100009573691787



---



BỔ SUNG


10. Truy cập website tạp chí Văn Hiến Việt Nam, ngày 5 tháng 7 năm 2020:

"
Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam
Cơ quan chủ quản: Viện Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
Tổng biên tập: TS. Phạm Việt Long
Phó tổng biên tập: Nhà báo Vũ Xuân Bân
Trưởng ban chuyên đề: Vương Xuân Nguyên
Giấy phép số: 1900/ GP- BTTTT cấp ngày 15/11/2011;
Địa chỉ: Số 9 ngõ 26, phố Hoàng Cầu, Đống Đa, Hà Nội – ĐT: 024.3511.2850
Chủ Nhiệm: GS Hoàng Chương
Hội đồng biên tập: GS NSND Trần Bảng, GSVS Hỗ Sĩ Vịnh, NB Phạm Đức Lượng, GSTS Thái Kim Lan, NSND. TS. Phạm Thị Thành, NSND Đặng Nhật Minh, TS. Đoàn Thị Tình, GSTS. Nguyễn Thuyết Phong, NVK Nguyễn Thế Kỷ
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn vanhien.vn khi sử dụng lại thông tin trên vanhien.vn

Trưởng cơ quan đại diện phía Nam
NB Nguyễn Hữu Thi
Địa chỉ: 1/2 đường Đồ Sơn, phường 4, quận Tân Bình, TP. HCM
Điện thoại: (08) 39485713
Fax: (08) 39485712
Email: toasoan@vanhien.vn


Thiết kế và vận hành bởi ESVN - Hosting Windows
"
http://vanhien.vn/news/tags/Phan%20%C4%90%C4%83ng%20Nh%E1%BA%ADt





9.

Làng Đông, xã Tràng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An (nay là xóm Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tài năng, nhân sĩ trí thức, trong đó có GS.TSKH Phan Đăng Nhật - Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
GG.TSKH Phan Đăng Nhật sinh ra trong một gia đình địa chủ yêu nước, gọi nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu là bác ruột, thuộc dòng dõi Vương triều (Triều Mạc).

Là một nhân cách lớn, một trí tuệ uyên bác, Giáo sư là nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi, bằng chứng là được tặng giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên. Ngoài ra Giáo sư còn có 6 cuốn sách in riêng và hơn 120 bài viết, công trình nghiên cứu. Bên cạnh nghiên cứu khoa học người còn dày công nghiên cứu và công bố nhiều tài liệu, công trình về Vương triều Mạc.
Về cá nhân, Giáo sư là người nặng tình với quê hương, dòng họ. Với cha tôi, giáo sư hơn 8 tuổi nhưng gọi cha tôi bằng anh (vì ngánh Phan Xuân là ngánh trên của ngánh Phan Đăng). Giáo sư luôn dành cho cha tôi những tình cảm, quý mến. Ngày còn nghèo khó, giáo sư thường biếu cha tôi khi cái quần, lúc chiếc áo (thời bao cấp quần áo là kinh lắm chứ chẵng chơi), mỗi lần xuất bản cuốn sách nào, giáo sư đều gửi về biếu cha tôi, vì người và cha tôi đều có điểm chung là đam mê đọc sách.
SINH - LÃO - BỆNH - TỬ là quy luật cuộc đời con người mà bất cứ ai cũng phải trải qua, không ai tránh được. Vẫn biết là vậy, vẫn biết ở tuổi 90 xưa nay hiếm nhưng Giáo sư ra đi để lại nhiều nuối tiếc, mất mát và đau thương!
Cánh hạc đã về trời, thế giới bên kia vĩnh hằng đã đón một nhân cách lớn, một trí tuệ uyên bác. Cầu mong người siêu thoát và phù hộ độ trì cho quê hương đất nước luôn được thanh bình, phù hộ con cháu để luôn xứng danh là hậu duệ của một Vương Triều.










8.



Phạm Hoa - 09:00 27/06/2020 GMT+7

Suckhoedoisong.vn - Giáo sư, TSKH Phan Đăng Nhật - nhà nghiên cứu văn học dân gian về các dân tộc thiểu số, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hoá thuộc viện Hàn lâm KHXH Việt Nam vừa qua đời, hưởng thọ 90 tuổi.
Giáo sư Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên.
Ông là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản sử thi - khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991). Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.

Giáo sư Phan Đăng Nhật (1931 - 2020)


Bên cạnh đó, công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
Theo nhà văn – nhà báo Nguyễn Thế Khoa, nhờ Giáo sư Phan Đăng Nhật , các bộ sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, Chăm, Tây Bắc, Việt Bắc, Mường đã được sưu tầm, nghiên cứu xuất bản rất hệ thống. Là người đứng đầu Hội đồng Mạc tộc cả nước, ông đã nghiên cứu và cho xuất bản hai cuốn sách về một triều đại lớn từng bị lịch sử ngộ nhận, bỏ quên. Gần đây, khi thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại, Phan Đăng Nhật cho rằng hiện tượng văn hóa kỳ thú này của dân tộc ta chưa được nghiên cứu đến nơi đến chốn. Bởi thế, ở tuổi 87 ông đã hào hứng bắt đầu công trình nghiên cứu về hầu đồng, khởi động bằng bài viết về các hiện tượng kết nối con người hai cõi âm dương ở các nền văn hóa thế giới và các dân tộc thiểu số Việt Nam.


"Khi tôi ra cuốn tạp bút Kẻ tàng hình không còn biết tàng hình ông rất thích thú đọc và viết bài giới thiệu ngay cho báo chí. Tôi thỉnh thoảng đến thăm ông khi ông ở căn phòng chật chội trong một biệt thự ở Đặng Tất hay sau này chuyến đến ngôi nhà ba tầng rộng rãi trong ngõ Cầu Giấy. Tài sản lớn nhất của ông là sách. Sách lúc nào cũng đầy chật nhà ông khi chỉ là một căn phòng đến cả khi một nhà ba tầng. Ông rất chăm tập thể dục và nhiều lúc tự chế thuốc cho sức khỏe của mình. Có dạo ông mua máy làm tỏi đen “thần dược”. Tôi đến chơi, ông lấy tỏi đen cho tôi ăn và khuyên tôi nên mua máy làm tỏi mà dùng. Ba năm nay, ông dốc sức chuẩn bị một hội thảo thực sự khoa học về tín ngưỡng thờ mẫu. Năm trước, ông phải đi cấp cứu và nằm viện khá lâu nhưng vừa khỏe lại, được về nhà...

Cứ nghĩ ông luôn biết cách giữ gìn sức khỏe, vẫn minh mẫn, vẫn làm việc say sưa như thế ở tuổi 90, chắc ông sẽ còn sống thêm nhiều năm nữa để hoàn thành những dư định khoa học còn dang dở. Nhưng ông đã bất ngờ dừng bước vào ngay trước tết Đoan Ngọ năm Canh Tý 2020. Với Phan Đăng Nhật đây không hề là chấm dứt, dừng bước mà sẽ là cuộc điền dã mới khám phá cõi tâm linh đầy bí ẩn mà ông đang không ngừng theo đuổi nghiên cứu..." – nhà báo Nguyễn Thế Khoa chia sẻ.
Phạm Hoa
https://suckhoedoisong.vn/giao-su-phan-dang-nhat-cay-dai-thu-nghien-cuu-van-hoc-dan-gian-do-bong-n176257.html





7.

Vĩnh biệt Giáo sư Phan Đăng Nhật

Phạm Việt Long | Thứ Năm, 25/06/2020 05:51 GMT


Ngày 24 tháng 6 năm 2020, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhật, nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi Việt Nam, đã qua đời, Thế là cuộc Hội thảo về Tín ngưỡng thờ Mẫu mà Giáo sư đề xướng và đang cùng chúng tôi chuẩn bị tiến hành đành gác lại.

Giáo sư Phan Đăng Nhật là thầy tôi - hướng dẫn tôi làm Nghiên cứu sinh, là tấm gương sáng về lao động - nghiên cứu khoa học. Với những công trình nghiên cứu - bộ sách đồ sộ về sử thi các dân tộc Việt Nam, ông có nhiều phát hiện tinh tường, giúp đánh giá đúng đắn về Sử thi các dân tộc thiểu số Việt Nam. Khi đã cao tuổi, ông vẫn miệt mài nghiên cứu, công bố nhiều công trình nghiên cứu công phu về Nhà Mạc, Gần đây nhất, ông đề xướng, viết báo cáo đề dẫn và tập hợp một số trò, trong đó có tôi, để tổ chức một cuộc hội thảo về tín ngưỡng thờ Mẫu. 

Xin đăng lại bài viết của tôi về Giáo sư Phan Đăng Nhật cách đây 3 năm để thể hiện lòng thương nhớ ông.


Giáo sư Phan Đăng Nhật, người thủy chung với văn hóa dân gian

Tính theo Âm lịch, năm Đinh Dậu 2017 này, Giáo sư Phan Đăng Nhật vừa tròn 87 mùa xuân. Giáo sư sớm chọn cho mình một nghề để theo đuổi suốt đời, đó là nghiên cứu văn hóa dân gian. Năm tháng qua đi, cuộc đời bể dâu, con đường khoa học gập ghềnh gian nan, nhưng Giáo sư nhất quyết đi tới cùng. Tới tận bây giờ, gần 90 tuổi rồi, Giáo sư Phan Đăng Nhật vẫn say mê nghiên cứu, để cho ra đời những công trình khoa học giá trị. Nhiều công trình của ông đã góp thêm  nhận thức mới của cộng đồng, trong đó có những công trình nghiên cứu về Sử thi, về Luật tục, về nhà Mạc và dòng họ Mạc, về nhà cách mạng Phan Đăng Lưu đã và đang được xuất bản thành những bộ sách lớn.
Có thể nói, trời đã phú cho Giáo sư Phan Đăng Nhật khả năng nhận biết những giá trị thật sự của cuộc sống để từ đó định hướng đường đời chính xác. Nhìn vào lịch sử, ông thấy rằng văn hóa dân gian là môt giá trị tinh thần đặc sắc của Viêt Nam: một kho tàng giàu có vô tận, là trí tuệ, tri thức (tri thức dân gian=folk knowledge), văn học, thơ ca, nghệ thuật… rất bổ ích, hấp dẫn, thú vị… Vì vậy, từ xưa đến nay, nhiều học giả lớn đều đi sâu vào văn hóa dân gian: Về sáng tác có các tác phẩm thơ, văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu. Về sưu tầm nghiên cứu có Lĩnh nam chích quái (Vũ Quỳnh –Kiều Phú), Nam phong giải trào (Trần Danh Án), Phong dao (Nguyễn Văn Ngọc), công trình nghiên cứu về nhiều loại, tổng hợp (Nguyễn Văn Huyên),  (Đinh Gia Khánh)… Trong nền văn hóa của dân tộc, có văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là văn hóa dân gian, một bộ phận quan trọng lại là cội nguồn của văn hóa  chung, nên có vai trò quan trọng. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn , ông đi sâu vào đời sống dân dã, tìm hiểu thấu dáo, xây dựng nên những đề tài nghiên cứu chuyên về văn hóa dân gian, đi từ nhỏ tới lớn, từ bề mặt tới chiều sâu để cuối cùng tạo ra những công trình mang tầm vóc quốc gia và có tiếng vang trên trường quốc tế.
Không thể giới thiệu dầy đủ trong một bài viết về giáo sư Phan Đăng Nhật, chỉ xin ghi lại một vài sự kiện, công trình tiêu biểu mà Giáo sư đã cống hiến cho cuộc sống này.
Duyên nợ sử thi
Như là có mối duyên tiền kiếp, chàng giáo viên trẻ Phan Đăng Nhật khi mới vào nghề ở vùng Tây Bắc Tổ quốc vào những năm 60 của thế kỷ XX đã mơ màng nghĩ đến sử thi các dân tộc thiểu số Việt Nam. Lúc ấy, ở nước ta, hầu như chưa ai nhắc đến anh hùng ca/sử thi. Nhưng với vốn kiến thức học hỏi được và vốn thực tế tích hợp được trong quá trình công tác, Phan Đăng Nhật vẫn đinh ninh rằng nước ta có sử thi, và vì vậy, anh quyết đi tìm bằng được sử thi.
Miệt mài mãi, anh cùng Giáo sư Cầm Trọng tìm đến một tác phẩm văn học dân gian nổi tiếng lưu truyền trong đồng bào Thái với  tên “Chương Han”. Tài liệu thu thập được chưa đầy đủ, nhưng đã khiến anh rung động mạnh mẽ và có một niềm tin vững chắc rằng đó chính là sử thi. Nhưng chiến tranh ác liệt, bom đạn Mỹ đốt cháy sạch tài liệu về Chương Han. Chàng thanh niên Phan Đăng Nhật ngẩn ngơ như vừa giáp mặt người đẹp đã phải chia xa. Và chàng nhủ lòng phải đi tìm, đi tìm cho đến khi đầu bạc răng long…
Năm 1969, Phan Đăng Nhật được chuyển về làm việc tại Viện Văn học. Lúc này, Giáo sư Cao Huy Đỉnh đã sưu tầm được “Anh hùng làng Dóng”, hy vọng tìm ra sử thi người Việt. Công việc đang dang dở thì Giáo sư Cao Huy Đỉnh qua đời (1974). Tấm gương lao động miệt mài và kết quả bước đầu của nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh càng khích lệ Phan Đăng Nhật đi sâu hơn nữa vào đời sống văn học dân gian để tìm ra những gì tinh hoa ẩn giấu trong đó. Cũng với tinh thần lao động hăng say, nhưng Phan Đăng Nhật có hướng đi mới. Anh không đi tìm sử thi của riêng người Việt, mà tìm sử thi trong vốn văn học dân gian của tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Kinh nghiệm trên thế giới dạy bảo anh rằng, không phải dân tộc nào cũng có sử thi, nhưng sử thi cũng có thể là vốn quý của bất kỳ dân tộc nào, không phân biệt lớn nhỏ, văn minh hay lạc hậu. Hướng đi của anh là tìm về miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Lý thuyết “hoá thạch ngoại biên về văn hoá” dẫn đường cho anh để anh tin rằng ở những dân tộc thiểu số vùng núi, giao thông khó khăn, giao lưu hạn chế, thì dễ đọng lại những vốn quý cổ xưa về văn hoá của dân tộc bản địa cũng như lưu giũ “hộ” những dân tộc khác vốn văn hoá của họ di trú về đây.
Đầu những năm 70, Phan Đăng Nhật về Thanh Hoá, hỗ trợ Vương Anh sưu tầm “Đẻ đất đẻ nước”. Hồi đó không ai nghĩ đó là sử thi vì nó khác hẳn Ilyade Odyssée là sử thi kiểu mẫu của thế giới. Nhưng trong báo cáo khoa học năm 1974, Phan Đăng Nhật mạnh dạn xác định “Đẻ đất đẻ nước” là sử thi. Sau này, điều đó đã được khẳng định.
Sau ngày giải phóng miền Nam, Phan Đăng Nhật hăm hở lên Tây Nguyên, mà việc đầu tiên là tìm sử thi. Tới Kon Tum, Đắc Lắc, chỉ thấy điệp trùng rừng núi và những mối đe doạ chết chóc do bọn phản động FULRO gây ra. Phan Đăng Nhật lần mò xuống Phan Rang, đến cơ sở cũ của Gérard Moussey. Đọc trong một số sách vở, tài liệu còn lưu giữ tại cơ sở này, Phan Đăng Nhật bỗng khám phá ra một điều tâm hợp: Gérard Moussey cũng đi tìm sử thi - sử thi Chăm. Căn nhà bằng gỗ phủ đầy hoa giấy rực rỡ ẩn chứa niềm khao khát cháy bỏng của chủ nhân nó về sử thi như tiếp thêm sức mạnh cho Phan Đăng Nhật… Nhưng quyết tâm vẫn chỉ là quyết tâm, còn “người tình" sử thi vẫn biệt vô âm tín.
Năm 1978, vẫn ở Viện Văn học, Phan đăng Nhật tổ chức một đoàn sưu tầm văn hoá dân gian (có anh Trần Lâm Biền, Nông Quốc Thắng tham gia) đi lên Gia Lai, về tận vùng Ya Yunpa. Lúc này, đường đi vẫn đầy di vật chiến tranh - ô tô, mũ sắt, thắt lưng, giày lính. Lăn lội trong núi rừng viêm nhiệt, chưa tìm được “người trong mộng”, Phan Đăng Nhật bị những trận sốt kinh khủng quật ngã… Người yếu, phải chống gậy, nhưng nỗi khao khát về sử thi vẫn trào lên mạnh mẽ trong anh.
Mãi đến năm 1983, cơ hội “hợp duyên kỳ ngộ” mới đến. Lúc ấy, Phan Đăng Nhật là Phó Trưởng Ban, Ban Văn học dân gian. Được Trưởng Ban là Giáo sư Đinh Gia Khánh chỉ đạo, Phan Đăng Nhật huy động hầu như toàn Ban tham gia một đợt sưu tầm văn hoá dân gian ở Đắc Lắc. Anh sững người vì sung sướng khi gặp áng sử thi đầu tiên, rồi những áng sử thi tiếp theo như Đăm Xăn, Khinh Dú... được phát hiện trong các buôn làng Tây Nguyên. Tài liệu của đợt sưu tầm là cơ sở để Phan Đăng Nhật viết Luận án TS khoa học bảo vệ năm 1989 ở Bungari và viết tác phẩm “Sử thi Ê đê”, xuất bản năm 1991. Luận án cũng như tác phẩm của Phan Đăng Nhật được đánh giá cao. Giáo sư, Tiến sĩ khoa học N.I. Niculin, một chuyên gia về văn học Việt Nam của Liên Xô cũ và nước Nga hiện nay, cho rằng "công trình khảo cứu nổi tiếng Sử thi Ê Đê của Phan Đăng Nhật có ý nghĩa khó có thể đánh giá được hết".
Sưu tầm được nhiều sử thi Tây Nguyên, đã bước vào tuổi không còn được gọi bằng “anh” nữa, nhưng Phan đăng Nhật vẫn không nguôi tình yêu đầu đời với sử thi của dân tộc Thái Tây Bắc “Chương Han”. May mắn, ông được Nguyễn Hữu Ưng giúp khi giao cho bản “Chương Han” còn giữ được của anh vợ tên là Nguyễn Ngọc Tuấn. Tiếc rằng, đây chỉ là bản dịch ra tiếng Việt, dày khoảng 100 trang, không có bản gốc tiếng Thái. Với ngần ấy không thể ra sách, thầy Nhật đã bổ sung thêm và nhờ Viện Đông Nam Á xuất bản, sử thi Chương Han bắt đầu ra mắt độc giả toàn quốc.
Tạm yên “nỗi lo Chương Han”, Phan Đăng Nhật lại lên Tây Nguyên. Linh cảm của một nhà khoa học giàu tâm huyết và kiến thức mách bảo ông rằng đây là địa bàn tập trung các áng sử thi quý giá của nhiều dân tộc thiểu số. Tác phẩn “Đăm Xăn” của dân tộc Ê Đê do L. Xabachiê sưu tầm được mấy thập kỷ trước luôn khích lệ Phan Đăng Nhật đi sâu hơn nữa vào đời sống đồng bào bản địa. Năm 1995, ông đăng ký đề tài cấp Bộ "Vùng sử thi Tây Nguyên" rồi chủ trì thực hiện. Ông cùng anh chị em cán bộ nghiên cứu đi về các vùng sử thi ở miền Trung, về Nu Păng, Đồng Xuân (Phú Yên)… Hoà vào cuộc sống cộng đồng người bản địa, có khi Phan Đăng Nhật bỏ tiền mua hẳn một con lợn thết đãi bà con vào dịp sau Tết. Có tình thì được đáp lại bằng tình, về với đồng bào Raglai, nơi mà mọi người chưa hề nghĩ đến là vùng có sử thi, Phan Đăng Nhật đã khẳng định  Uđai Ujà là sử thi, động viên anh Nguyễn Thế Sang và anh Chamaleh Tiến sưu tầm và dịch tác phẩm này. Tới khi Dự án sử thi của Nhà nước được thực hiện, với 622 sử thi được sưu tầm ở vùng Tây Nguyên và phụ cận, niềm tin sớm xuất hiện của Phan Đăng Nhật về "vùng sử thi Tây Nguyên" đã được minh chứng.
Đau đáu với duyên thì “duyên kỳ ngộ”, năm 2002, không hiểu là bất ngờ hay có hẹn trước, đi nghiên cứu ở Quỳ Châu (Nghệ An), trên chính quê hương mình, Phan Đăng Nhật gặp được “người tình trong mộng Chương Han”, có tên là “Khủn Chưởng”. Niềm vui không chỉ đến với Phan Đăng Nhật, mà tràn ngập trong lòng đồng bào dân tộc nơi đây, bởi bà con nói rằng nếu ông đến chậm, chắc “Khủn Chưởng” sẽ bị mất sạch sành sanh. Phát hiện được dấu vết , nhưng rồi phải mất 5 năm lặn lội đến khắp hang cùng ngõ hẻm, ông mới sưu tầm hoàn chỉnh sử thi “Khủn Chưởng” và xuất bản thành sách “Khủn Chưởng - Anh hùng ca Thái”, dày 800 trang khổ lớn, in bản dịch tiếng Việt kèm theo bản chữ Thái cổ. “Khủn Chưởng/anh hùng ca Thái” của Phan Đăng Nhật là đỉnh cao sề sách sử thi của ông, về các mặt tri thức, phương pháp sưu tầm, phương pháp nghiên cứu, phương pháp trả lại cho nhân dân những giá trị do chính họ sáng tạo nên. Sách lại in đẹp, một lúc được hai giải thưởng Quốc gia về sách , sách đẹp và sách hay. Phát huy kết quả nghiên cứu, Giáo sư Phan Đăng Nhật còn viết hẳn một cuốn sách chuyên sâu về Sử thì: “Lý thuyết về ba nhiệm vụ anh hùng của Sử thi”, sau đổi tên thành “Góp phần tìm hiểu sử thi/anh hùng ca Việt Nam”.
Tại Hội thảo  về sử thi Việt Nam do Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Đắc Lắc tổ chức, Giáo sư Phan Đăng Nhật khẳng định: “Theo kết quả nghiên cứu mới đây của chúng tôi cho thấy: Không phải vì những tác động mạnh mẽ của đời sống kinh tế-xã hội mà người Tây Nguyên ngày nay đã hoàn toàn quay lưng lại với sử thi. Mặc dù đại bộ phận người Tây Nguyên hiện nay hầu như không nhớ và không thuộc sử thi, tuy vậy họ vẫn không ngừng yêu mến và tự hào về gia tài văn hoá này. Họ rất khát khao được học về sử thi, và mong muốn sử thi được đưa vào hệ thống giáo dục của Nhà nước, lên vô tuyến, lên sân khấu, dựng thành phim, dựng thành kịch, chuyển sang truyện tranh”. Với ý tưởng đưa sử thi trở lại sống động trong đời sống văn hoá của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên-chủ thể sáng tạo của sử thi, Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật kiến nghị: “Cần khuyến khích, động viên, tạo mọi điều kiện để nhân dân hát kể sử thi trong chính môi trường sống và lao động của mình; từng bước đưa dần sử thi vào các lớp học chính quy và không chính quy ở địa bàn Tây Nguyên thông qua sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành, các cấp và sự đầu tư của Nhà nước”. Ý kiến này của Giáo sư mang tính định hướng chiến lược đúng đắn để hiện thực hóa quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 
Có thể nói, những công trình nghiên cứu về sử thi /anh hùng ca gồm: sủ thi Ê đê, sử thi Mường, sử thi Thái (Chương Han, Khủn Chưởng), sử thi Chăm, sử thi Tây Nguyên thu hút nhiều tâm lực  của ông. Đồng thời, sử thi cũng giúp giáo sư cất cánh khoa học – từ Luận án Tiến sĩ khoa học ở Bun ga ri tới các bộ sách được xuất bản sau này và những phần thưởng quý giá tầm cỡ quốc gia. Công trình của GS Nhật không những có giá trị về mặt lý luận mà còn có ảnh hưởng tốt trong đời sống: “Khối công trình Sử thi Tây Nguyên, xuất hiện liên tục 14 năm qua, với khối lượng lớn những sách, bài viết, bài giảng, bài nói; đã làm nền tảng khoa học, đóng góp một phần nhất định cho việc hoạch định các hoạt động thực tiễn về sử thi nhất là sử thi Tây Nguyên, như: Hội thảo khoa học toàn quốc về sử thi Tây Nguyên – 1997, đề tài cấp bộ về về sử thi Đắc Lắc -1998 và Dự án cấp Nhà nước, Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên được triển khai từ năm 2001 đến nay”
Tháng 9/2005, Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước cho cụm công trình "Sử thi Ê Đê" (1991) và “Vùng sử thi Tây Nguyên" (1999) của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhật. Giới nghiên cứu văn hoá tôn vinh ông là nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi. Đây là vinh dự lớn đối với ông. Nhưng điều làm ông sung sướng nhất là đã vẹn tình với “Chương Han” . Một tình yêu chân chính đối với khoa học có khi dẫn tới thành công nhưng cũng có khi dẫn tới thất bại.  Ông vẫn thầm cảm ơn cuộc sống và Tròi Phật, tổ tiên đã đem lại may mắn cho ông.
Những câu chuyện thú vị trong cuộc đời làm khoa học của Giáo sư Phan Đăng Nhật  
Làm khoa học vất vả, gian nan vô chừng, nhưng với tình yêu tha thiết văn hóa dân gian, coi văn hóa dân gian như máu thịt của mình, Giáo sư Phan Đăng Nhật đã tìm thấy biết bao nhiêu điều thú vị, khiến cuộc đời ông thêm thăng hoa, ý nghĩa.
Giáo sư viết về một chuyện thú vị - đi tìm vợ của Léopold Sabatier - như sau:
“Léopold Sabatier, người Pháp, đã từng làm công sứ Đắc Lắc từ những năm thuộc thập kỷ 20 của thế kỷ 20… là người có công sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian Tây nguyên, cụ thể là dân tộc Êđê. Ông đã có công sưu tầm, dịch và công bố sử thi Đăm Xăn và in hai lần, lần đầu ở Paris, năm 1927, lần sau ở Hà Nội, năm 1933. Ông lại là người mở đầu việc sưu tầm, dịch và công bố luật tục Êđê. Việc này được toàn quyền Pierre Pasquier nêu gương và khuyến khích người Pháp làm theo. Từ đó, nhiều luật tục của các dân tộc Tây Nguyên khác được người Pháp công bố: Bana, Jrai, Mạ...
…Ngoài việc yêu quý sử thi Tây Nguyên, ông còn yêu một cô gái Tây Nguyên, kết hôn và đưa cô về Pháp. Trên con đường miệt mài đi tìm sử thi Tây nguyên mấy chục năm qua, tôi rất quan tâm đến thông tin trên và cố tìm hiểu về nó.
Sinh thời, Bác Y Ngông có cho biết cô gái này là người Lào, ở Buôn Đôn. Khi Sabatier tổ chức diễn kịch Đăm Xăn, đã mời cô đóng vai Hơ Nhị còn mình đóng vai Đăm Xăn. Năm 1999, trong cuộc họp về luật tục Tây Nguyên mà tôi đồng chủ tọa với GS Condominas, tôi có hỏi về cô vợ Tây Nguyên của Sabatier. GS nói có biết việc này, và họ đã sinh hạ được một con gái. “Nhưng rất tiếc - lời ông - ngoài ra tôi không biết gì hơn vì họ ở tỉnh, không ở Paris”. Tôi có nhờ GS khi về Pháp, nếu có điều kiện, tìm địa chỉ của cô gái Tây Nguyên và nhờ báo cho tôi biết.         
Vừa rồi, tháng 12-2003, tôi có dịp về Buôn Đôn tìm hiểu về văn hóa dân gian, như nghề nghiệp của tôi, đinh ninh sẽ kết hợp hỏi về “nàng Hơ Nhí”, người đã kết hôn với “chàng Đăm Xăn” - Sabatier. Đến nơi, hóa ra Buôn Đôn bây giờ là một huyện mênh mông, một cô gái sống ở đây cách  70 năm, bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm”
Cứ thế, Giáo sư Phan Đăng Nhật gặp các già làng, nghệ nhân ở Buôn Trí A, xã Krông Ana, để tìm một cô gái người Lào, ở vùng này, cách đây khoảng 70 năm, đã lấy công sứ Đắc Lắc, L. Sabatier, và được biết người ấy tên là Sao Nhuôn, người Jrai, nói tiếng Lào, đã qua đời ở đây, được an táng tại nghĩa địa Buôn Đôn.
Tiếp tục đi sâu tìm hiểu, Giáo sư Phan Đăng Nhật vui mừng khôn xiết khi gặp được Ama Phôn, cháu họ của Sao Nhuôn. Ama Phôn tên lúc đẻ là Y Siáp Mlô, con của Y Tul Niê (chế độ mẫu hệ). Y Tul Niê là em của Hơ Nhuôn Niê (thường gọi là Sao Nhuôn). Như vậy, Y Siáp Mlô gọi Hơ Nhuôn Niê là bá (chị của mẹ). Trên con đường di dạo quanh buôn, Aê Nô còn kể cho Giáo sư biết, Sao Nhuôn lúc trẻ đẹp nổi tiếng. Giáo sư còn được cụ Aê Nô dẫn đến mảnh vườn của Nhuôn, chỉ cho thấy địa giới từ gốc me già đến bờ rào. Thế là, sau nhiều năm, cuối cùng Giáo sư Phan Đăng Nhật đã tìm ra dấu vết của người xưa,  nhân vật có thật trong muôn vàn huyền thoại về Tây Nguyên huyền bí.
Giáo sư Phan Đăng Nhật viết tiếp: “Tôi viết bài này không phải chỉ cung cấp một thông tin khoa học cho những ai quan tâm đến sử thi Đăm Xăn mà đó là một tác phẩm kiệt xuất và cho đến nay vẫn là một kiệt tác của folklore Tây Nguyên, không thể chối cãi được” (ý của Georges Condominas). Hơn thế nữa, và chủ yếu là, qua bài báo, tôi muốn nhờ nhắn giùm với Annie rằng: nơi đây chị còn nhiều: bà con thân thích, ngôi mộ mẹ, mảnh vườn xưa... và đặc biệt là tấm lòng mến khách của quê hương. Lần này, quê hương đã đổi mới, nếu về, chị sẽ không có cảm giác ghẻ lạnh như 18 năm trước đây. Lại nữa, quê mẹ chị đã trở thành một điểm du lịch có tiếng, biết bao du khách Âu Mỹ được đón tiếp nồng hậu, huống gì chị là người con quê hương.”  
Một hoạt động làm cho Giáo sư Phan Đăng Nhật rất vui, mà lại đem niềm vui đến với biết bao nhiêu người, đó là việc đem lại sự công bằng lịch sử cho nhà Mạc. Qua nhiều biến động lịch sử, nhà Mạc bị nhiều tiếng nhơ oan ức. Giáo sư Phan Đăng Nhật đã đào sâu vào các tài liệu của quá khứ, tìm bằng được sự thật về triều vua và dòng họ này. Giáo sư tìm hướng tiếp cận mới, và đã cho ra đời cuốn sách: “Nhà Mạc & họ Mạc: Ý chí và mục tiêu chiến lược”. Trong lời nói đầu cuốn sách, GS Văn Tạo viết: “Chúng tôi tán thành và cổ vũ cho sự tiếp cận này để thực sự có được “công bằng xã hội” trong việc biểu dương và tôn vinh đúng mức công lao của họ Mạc”; PGS TS Đinh Khắc Thuân viết: “Những nghiên cứu này là sự kế thừa kết quả nghiên cứu gần đây của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, đồng thời là sự phát triển, đi sâu nghiên cứu mới của tác giả”… “Tôi hết sức trân trọng tâm huyết của tác giả trong tập sách này”… Cách đây 7 năm, Giáo sư Mạc Văn Trang viết về Giáo sư Phan Đăng Nhật: “Đúng tuổi 80 nhưng Cụ vẫn đang gánh trọng trách là Giám đốc Trung tâm bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống (thuộc Hội khoa học Lịch sử Việt Nam), và mới đây tại Đại hội đại biểu Mạc tộc Việt Nam lần thứ nhất Cụ được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Mạc tộc Việt Nam.”… “PHAN ĐĂNG NHẬT hôm nay 80 tuổi tròn: Một Cụ Trưởng lão hết lòng vì dòng tộc; một GS TSKH kinh nghiệm lão luyện kết hợp với tư duy năng động, mới mẻ, làm việc miệt mài và hiệu quả; một con người yêu đời, lạc quan và tin rằng Tổ tiên luôn ở bên mình, dẫn dắt và phù trợ!” Đánh giá cao cuốn sách nói trên, Giáo sư Mạc Văn Trang chỉ ra ba điểm mới trong nghiên cứu của Phan Đăng Nhật: Thứ nhất là “Quan điểm nhìn nhận các sự kiện lịch sử phải xuất phát từ tính khách quan, hợp với quy luật của tiến trình lịch sử, tránh bị giam cầm trong ý thức hệ lỗi thời. Chẳng hạn với quan niệm Nho giáo phong kiến, việc người anh hùng phế bỏ những ông vua không còn khả năng trị vì đất nước để lên ngôi, trị quốc, an dân, luôn bị khép vào tội “phản nghịch”, “cướp ngôi” và bị cọi là “ngụy”, là “nhuận”; những triều đại đó không những không có chỗ đứng trong sử sách mà còn bị bôi nhọ, phỉ báng bởi các sử gia nặng đầu óc “trung quân” mù quáng, như họ đã miệt thị: “nhuận Hồ”, “ngụy Mạc”, “ngụy Tây Sơn”…Quan điểm này không mới, nhưng Phan Đăng Nhật đi sâu hơn, triệt để hơn, bằng cách xác lập chỗ đứng của tác giả là đặt quyền lợi của nhân dân và dân tộc lên cao nhất (trên tư tưởng Nho giáo về “trung quân”, trên cả quyền lợi của vương triều, trên sĩ diện của cá nhân ông vua). Thứ hai, Phan Đăng Nhật đứng về phía lợi ích của đất nước, của nhân dân để xem xét và với những cơ sở sử liệu mới, đủ tin cậy nên có cái nhìn sâu sắc hơn, triệt để hơn, mới hơn khẳng định: “Thái tổ Mạc Đăng Dung đã lựa chọn một phương thức đấu tranh tổng hợp rất thông minh, vừa làm cho địch đủ ngại ngần, lo sợ, vừa đủ cho thiên triều đỡ mất mặt. Ông đã đặt quyền lợi tối cao của đất nước lên trên sĩ diện cá nhân. Nhờ vậy mà đẩy lùi được 22 vạn quân Minh mà không tốn một mũi tên, không mất một giọt máu”(…) “Lịch sử nước nhà cần ghi nhận công ơn này”. (trang 94 – 95). Thứ ba, cách tiếp cận lịch sử không “cắt khúc” từng sự kiện, từng thời điểm riêng lẻ để phán xét mà nhìn bao quát một triều đại từ lúc lên ngôi, trị vì cho đến lúc mất ngôi; không chỉ đánh giá những thành tựu của nó lúc trị vì mà còn đi tìm sức sống vẫn tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó trong không gian rộng lớn và thời gian lâu dài đối với tiến trình lịch sử dân tộc. Với cách tiếp cận đó Phan Đăng Nhật đã đặt vương triều Mạc gắn kết vào trong dòng họ Mạc và xét nó như một dòng chảy liên tuc trong lòng dân tộc. Từ đó ông phát hiện ra “Ý CHÍ VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC” xuyên suốt của nhà Mạc từ 65 năm trị vì ở Thăng Long đến 90 năm “sơ tán” ở Cao Bằng và được tiếp nối trong dòng máu, trong lý tưởng của hậu duệ nhà Mạc lâu dài về sau”…
Một chuyện khác vừa vui, vừa có điều đáng tiếc liên quan đến Giáo sư. Trong số bài viết của mình đã công bố, ông rất tâm đắc bài: “Nhà rông-nhà gươl, bài học về ứng xử văn hoá”, được đăng trên nhiều tờ báo, tạp chí. Vào khoảng những năm 1990 – 2000, rộ lên phong trào xây dựng nhà rông cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Là người am hiểu sâu về văn hóa nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng, bên cạnh niềm vui vì thấy các cấp chính quyền quan tâm đến đời sống tinh thần của đồng bào, giáo sư lại lo lắng vì “phong trào” xây dựng nhà rông thể hiện nhiệt tình nhưng thiếu hiểu biết về đặc trưng văn hóa cổ truyền dân tộc. Giáo sư thẳng thắn viết: “Đó là việc không ít nhà rông, không được đồng bào sử dụng, không phải đồng bào không có nhu cầu, mà “lẳng lặng đi làm nhà khác” cho cộng đồng”. Lý giải cho tình hình này, Giáo sư chỉ rõ “nhà cộng đồng là một công trình nguyên hợp đa chức năng, chức năng sinh hoạt cộng đồng, chức năng văn hóa nghệ thuật và chức năng tâm linh. Để thực sự được nhân dân hưởng ứng, nhà cộng đồng phải đáp ứng được tính chất đa chức năng của nó”... “Nguyên nhân cơ bản là có nơi chúng ta đã thực hiện đồng loạt, không chú ý đến tính đa dạng của nhà cộng đồng, không thấy rõ tính đa chức năng của nhà cộng đồng”, đưa các hoạt động văn hóa thông tin thời nay vào nhà cộng đồng một cách khiên cưỡng. Giáo sư đề xuất: “chúng ta không ứng xử đồng loạt, không đơn giản, thô thiển hoá nhà cộng đồng, nếu như vậy sẽ vi phạm đến các giá trị văn hoá, nghệ thuật, tín ngưỡng truyền thống của đồng bào. Với tính đa chức năng phong phú và tinh tế như trên, nhà cộng đồng không thể, không cần thiết phải dung nạp thêm các chức năng thông tin tuyên truyền của văn hoá mới. Làm như thế sẽ không hiệu quả, hơn nữa sẽ bất lợi. Có nơi ở Trường Sơn-Tây Nguyên đã  thực hiện các chức năng văn hoá mới ở một ngôi nhà riêng trong làng (Quảng Nam), cũng giống như ở miền xuôi, giữ nguyên đình làng mà làm nhà văn hóa mới  riêng”...
Nhà cộng đồng thực sự và hoàn toàn thuộc về cộng đồng làng. Phải thực sự thông suốt nguyên tắc này về nhận thức cũng như hành động. Có như vậy mới khắc phục được những khó khăn trong xây dựng cũng như quản lý, mới tránh được  khuyết điểm đồng loạt hoá, đơn giản hoá, mới thực sự đem lại cho nhân dân những ngôi nhà cộng đồng mà họ chờ mong.” ... “Xây dựng nhà cộng đồng với tầm nhìn toàn Trường Sơn –Tây Nguyên là nhằm chiến lược phát triển ổn định bền vững Trường Sơn – Tay Nguyên. Ngược lại, sự phát triển bền vững mỗi làng cũng như toàn Trường Sơn – Tây Nguyên là nền tảng vững chắc của nhà cộng đồng. Do đó đồng thời với việc xây dựng nhà cộng đồng cần quan tâm củng cố và phát triển làng, đảm bảo sự điều hòa tự nhiên của các thành tố cơ bản là cộng đồng sở hữu tài nguyên, cộng đồng văn hoá, cộng đồng tín ngưỡng với sự điều hành của già làng bằng luật tục”.Thủ tướng Phan Văn Khải tình cờ đọc được bài viết này, đã viết thư khen, đồng thời có thư yêu cầu bộ trường Văn hóa bố trí gặp Giáo sư để hỏi về vấn đề xây dựng nhà rông Tây Nguyên và văn hóa dân gian. Sau đó, chuyện lắng lại và chìm vào im lặng. Giáo sư thản nhiên, cho là chuyện bình thường. Bởi, Giáo sư quan niệm rằng, một bài viết khoa học được công bố của mình về một vấn đề liên quan đến văn hóa dân tộc, đã được người đứng đầu Chính phủ quan tâm, tán thưởng, tức là quan điểm của mình về vấn đề đó được công nhận. Còn tiếc, là tiếc rằng, do sao nhãng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa lúc đó đã không bố trí để  gặp Giáo sư, tạo điều kiện cho  được trực tiếp trao đổi với một nhà khoa học, hiểu sâu hơn về thực tế, hiểu sâu hơn về các luận cứ khoa học, ngõ hầu điều chỉnh được chính sách văn hóa có lợi hơn cho đất nước. một việc làm rất cần thiết với một chính quyền của dân, do dân, vì dân. Qua vài chục năm, tới nay, thực tế đã chứng mình rằng vấn đề mà Giáo sư Phan Đăng Nhật nêu lên là hoàn toàn chính xác, người ta không còn hăm hở xây dựng nhà văn hóa thông tin mới lẫn với nhà rông – nhà gươl truyền thống một cách gượng ép, theo kiểu phong trào nữa.
Góp phần tạo nên lớp người kế tiếp nghiên cứu văn hóa dân gian
Dạy học là nghề xuât thân của Giáo sư Phan Đăng Nhật từ khi 25 tuổi, nay đã gần 90, Giáo sư vẫn không ngừng “chèo đò” chở lớp người trẻ tuổi vượt biển cả tri thức đến bến bờ khoa học. Yêu quý văn hóa dân gian, tích lũy được bao nhiêu kiến thức, kinh nghiệm về nghiên cứu văn hóa dân gian, Giáo sư tìm mọi cách trao truyền lại cho thế hệ tiếp bước mình.
Với bản tính chu đáo, vô tư vì khoa học, Giáo sư không nề hà là dạy ở bậc nào – đại học hay trên đại học (bây giờ, nhiều người có trình độ cao một chút lại ngại dạy đại học), dạy ở Hà Nội hay nơi xa xôi nào đó. Vào tận thành phố Hồ Chí Minh giảng dạy từ bậc đại học tới trên đại học, bên cạnh hành trang là vốn tri thức của mình cùng nhiều tài liệu quý giá, Giáo sư còn tự trang bị một bộ máy phóng thanh di động, để đem theo khi lên lớp, giúp học viên nghe rõ lời giảng của mình.
Giáo sư có khả năng thổi bùng lên trong lòng học viên tình yêu văn hóa dân gian, ngọn lửa đam mê nghiên cứu khoa học, cho nên môn sinh của ông ai cũng chuyên tâm với những công trình được ông hướng dẫn, từ đó tạo ra những giá trị khoa học đích thực. Ông vừa giỏi về định hướng đề tài, lại chú trọng về phương pháp nghiên cứu, cho nên giúp người học chọn được đề tài nghiên cứu và trang bị được cho mình phương pháp nghiên cứu thích hợp, từ đó mà tạo hiệu quả cao. Trong nghiên cứu khoa học, xác định được đề tài, hướng đi mang tính chất quyết định bước đầu của sự thành bại. Chẳng hạn như, xác định rằng sử thi có trong cộng đồng người Việt, là một hướng đi sai, cho nên người nghiên cứu mất hàng chục năm vẫn không đi tới đích. Còn Giáo sư Phan Đăng Nhật xác định hướng đề tài là sử thi các dân tộc thiểu số, thì chính hướng đi đúng đã dẫn Giáo sư tới kho báu của văn hóa dân gian. Bản thân người viết bài này, khi làm nghiên cứu sinh, do lúc thi đầu vào chưa có kinh nghiệm, đã đăng ký một đề tài quá rộng. Sau khi tập hợp tài liệu, mất gần một năm loay hoay mà chưa viết được một chữ nào. Nếu đổi đề tài thì rất phiền hà, đụng chạm tới nhiều quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trình bày ý kiến “Không đổi đề tài, nhưng phải thực thi”, tôi được Giáo sư đáp: “Để tìm hiểu một tuần rồi trả lời”. Đúng sau một tuần, Giáo sư đưa ra giải pháp: Giữ nguyên tên của đề tài - “Tục ngữ, ca dao với phong tục tập quán của người Việt” - nhưng ghi thêm “Trong quan hệ gia đình”, có tính chất giới hạn đối tượng nghiên cứu. Hướng đi đúng đắn đã giúp tôi thoát ra khỏi sự bế tắc, để tiến nhanh và vững trên đường thực hiện Luận sán Tiến sĩ của mình. Về phương pháp, Giáo sư nhấn mạnh phải vận dụng phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, trong đó kết hợp giữa thao tác định tính là thao tác thông thường của ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, với thao tác định lượng là thao tác thông thường của ngành nghiên cứu khoa học tự nhiên, để cố gắng đạt được sự chính xác trong nhận định, đánh giá đối tượng nghiên cứu. Với văn hóa, nhất là văn học, nghệ thuật, thì sự cảm nhận, rung cảm… là vô cùng quan trọng. Thế nhưng, nếu chỉ với cảm tính, chỉ định tính, thì việc nghiên cứu khoa học khó mà tránh khỏi thiếu sót, thậm chí là sai lầm. Do vậy, cần phải kết hợp thêm với định lượng - lý tính. Điều này, cách đây hơn một trăm năm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Prốp đã nói đại ý: Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội hãy toán học hóa phương pháp nghiên cứu của mình. Giáo sư Phan Đăng Nhật đã hướng dẫn tôi vận dụng phương pháp này: kết hợp giữa thao tác định tính là thao tác thông thường của ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, với thao tác định lượng là thao tác thông thường của ngành nghiên cứu khoa học tự nhiên, để cố gắng đạt được sự chính xác trong nhận định, đánh giá đối tượng nghiên cứu.Với công nghệ thông tin, tôi nhờ xây dựng một phần mềm có khả năng dung nạp, phân loại tục ngữ, ca dao để thống kê, tính toán, kết hợp với cảm nhận mà đưa ra những luận cứ khoa học xác đáng cho công trình của mình. Kết quả, chưa hết thời hạn nghiên cứu, tôi đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ với điểm xuất sắc tuyệt đối, và sau này, chuyển thành sách với tên gọi “Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình”, do Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành, Hội Văn nghệ dân gian tái bản theo Dự án “Sưu tầm, công bố di sản văn hóa dân gian”. Giáo sư Phan Đăng Nhật ủng hộ và truyền bá triệt để cho phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp định lượng, giúp nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học hoàn thành xuất sắc công trình của mình. Ông cũng cùng một nhóm nhà khoa học viết cuốn giáo trình về phương pháp chính xác hóa khoa nghiên văn hóa dân gian để giảng dạy tại các trường Đại học và chuẩn bị in thành sách, phổ biến rộng rãi ra xã hội.
Vậy đó, với người Thày ở bậc đại học trở lên, điều quan trọng nhất không phải là truyền dạy kiến thức cho học trò, mà là thổi bùng lên tình yêu, nhiệt huyết nghiên cứu cùng với vận dụng đúng đắn phương pháp nghiên cứu. Giáo sư Phan Đăng Nhật là người có nhiệt huyết ấy, phương pháp ấy, và đã truyền lại cho nhiều học trò của mình để họ tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học mà ông suốt dời theo đuổi.
Theo học Giáo sư Phan Đăng Nhật, học viên không chỉ tiếp thu những điều thầy giảng giải, truyền thụ, mà còn noi theo tinh thần nghiên cứu cực kỳ nghiêm túc, cẩn trọng, phong thái ung dung tự tại, khiêm nhường, ghét thói khoa trương, lộng ngôn, lấn lướt người khác, tranh giành vinh quang. Chính vì thế, trên các phương tiện truyền thông, tên GS Phan Đăng Nhật xuất hiện không nhiều, mặc dù số công trình, sách đã xuất bản cũng như những cống hiến khoa học của ông thực sự là lớn lao. Có trường hợp, mặc dù đã dày công điền dã, phát kiến, tạo ra kết quả của công trình nghiên cứu ở một vùng đặc biệt, mà khi công trình phát triển lên bước mới , lại không được tiếp tục tham gia, Giáo sư chẳng oán thán mà lẳng lặng đi nghiên cứu ở khu vực khác, miền núi Nghệ An. Có lẽ Trời thấu hiểu được lòng người, đã run rủi cho Giáo sư gặp được “Khủn Chưởng”, anh hùng ca Thái, một tuyệt tác sử thi, tạo ra sự vượt trội, khác biệt về nghiên cứu của Giáo sư, đã nói ở trên.
 Môn sinh cũng học được ở Giáo sư Phan Đăng Nhật sự kiên trì, biết chờ đợi và cẩn trọng. Ví dụ như trường hợp nghiên cứu về sử thi Đăm Săn: Thời kỳ đầu, hầu hết các nhà khoa học nước ta đều phát biểu theo quan điểm của L. Xabachiê rằng sử thi Đăm Săn thể hiện tinh thần chống lại tập tục nối nòi (nối dây) của người Ê Đê “từ đầu đến cuối”. Suy nghĩ rằng, Đăm Săn là tác phẩm văn học của dân tộc Ê Đê, không bao giờ lại chuyên chở tư tưởng chống lại tập tục của chính dân tộc mình, Phan Đăng Nhật tìm hiểu kỹ và thấy đó là quan điểm sai lầm. Tuy vậy, nếu công bố quan điểm của mình vào lúc còn chưa đủ uy tín khoa học, đi ngược hẳn lại trào lưu chung, sẽ dễ dàng bị thất bại, Phan Đăng Nhật nén lòng giữ lấy quan điểm của riêng mình, đồng thời nghiên cứu sâu hơn, tìm nhiều luận cứ hơn, để  mười năm sau mới công bố, tại bài: “Sử thi Đăm Săn và phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, 1986” Khi ấy, không một ai phản đối quan điểm của Ông. Cũng từ đấy, lý thuyết về ba nhiệm vụ của người anh hùng trong sử thi của Phan Đăng Nhật được nhiều người vận dụng trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều sách viết về sử thi. Một ví dụ mà thầy Nhật rất phấn khởi là “Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10-năm 2003”. Ở đây các thầy, cô  không nhận định chủ đề/đề tài của Đăm Săn là chống nối nòi nữa mà là ba nhiệm vụ anh hùng:  “Nhìn chung, sử thi anh hùng Tây Nguyên có ba đề tài chính: hôn nhân, chiến tranh và lao động xây dựng. Đề tài chiến tranh quan trọng hơn cả, là đề tài trung tâm của sử thi anh hùng và thu hút các sự kiện thuộc hai loại đề tài kia”(tr.37).
Khi được hỏi người nghiên cứu văn hóa dân gian cần có những phẩm chất gì, Giáo sư trả lời: Trước hết yêu nghề, từ đó yêu đối tượng của mình và quý các nghệ nhân…
Một lòng một dạ với văn hóa dân gian, Giáo sư Phan Đăng Nhật luôn luôn mong mỏi Nhà nước quan tâm để có chính sách thỏa đáng, có những tổ chức xứng tầm làm công tác nghiên cứu văn hóa dân gian. Giáo sư vẫn nuối tiếc Viện Văn hóa dân gian vì đã bị nhập vào Viện Nghiên cứu văn hóa. Giáo sư mong rằng, Viện Văn hóa dân gian sẽ được trả lại tên, để cùng với viện Văn hóa song song tồn tại và phát triển.
Hà nội, tháng 3 năm 2017 - Phạm Việt Long

http://vanhien.vn/news/vinh-biet-giao-su-phan-dang-nhat-77646?fbclid=IwAR2Xgd0n3nQuVpCiOA4mKfeJQBUoRvb6SDSBjXLaLc0DAbqhTqQGdMyhGLQ


Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam
Cơ quan chủ quản: Viện Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
Tổng biên tập: TS. Phạm Việt Long
Phó tổng biên tập: Nhà báo Vũ Xuân Bân
Trưởng ban chuyên đề: Vương Xuân Nguyên
Giấy phép số: 1900/ GP- BTTTT cấp ngày 15/11/2011;
Địa chỉ: Số 9 ngõ 26, phố Hoàng Cầu, Đống Đa, Hà Nội – ĐT: 024.3511.2850
Chủ Nhiệm: GS Hoàng Chương
Hội đồng biên tập: GS.TSKH Phan Đăng Nhật, GS NSND Trần Bảng, GSVS Hỗ Sĩ Vịnh, NB Phạm Đức Lượng, GSTS Thái Kim Lan, NSND. TS. Phạm Thị Thành, NSND Đặng Nhật Minh, TS. Đoàn Thị Tình, GSTS. Nguyễn Thuyết Phong, NVK Nguyễn Thế Kỷ
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn vanhien.vn khi sử dụng lại thông tin trên vanhien.vn

Trưởng cơ quan đại diện phía Nam
NB Nguyễn Hữu Thi
Địa chỉ: 1/2 đường Đồ Sơn, phường 4, quận Tân Bình, TP. HCM
Điện thoại: (08) 39485713
Fax: (08) 39485712
Email: toasoan@vanhien.vn


Thiết kế và vận hành bởi ESVN - Hosting Windows



6.


Một cô ca sĩ nào đó mang bầu, hơn 30 báo/chí đưa tin, bài.
Một cô cán bộ đoàn trót dại... hơn 40 báo/chí đào bới.
Một vị Giáo sư có công lớn nghiên cứu, phát hiện, công bố nhiều công trình có giá trị về văn hóa dân tộc, được bạn bè quốc tế biết đến, được Giải thưởng Nhà nước... qua đời, chỉ có 6 báo/chí đăng tin/bài, và riêng Văn hiến (vanhien.vn) có bài đầy đặn về Giáo sư!
Nhân đây xin nói rõ, vanhien.vn không bao giờ đăng loại thông tin về bê bối của giới giải trí và các loại khác tương tự. Ai chịu khó đọc những bài nghiêm túc thì hãy vào trang này.
https://www.facebook.com/phamviet.long.46/posts/1774151402724043





Phạm Việt Long

Cách đây gần 2 tháng, tôi viết ca khúc TIỄN BIỆT THẦY, lời thơ Nguyễn Đặng Hà Anh. Không ngờ, hôm nay tôi lại phải tiễn biệt Thầy tôi, GS.TSKH Phan Đăng Nhật.

Tôi xin đăng lên đây thư điện tử cuối cùng mà GS Phan Đăng Nhật gửi cho tôi ngày 11 tháng 3 năm 2020, bàn về tổ chức hội thảo, cho thấy tới những ngày cuối đời, Thầy tôi vẫn đau đáu với văn hóa dân tộc, và nhạc phẩm TIỄN BIỆT THÂY thể hiện lòng thương nhớ của học trò với Thầy.

DỰ THẢO CHI TIẾT

HỘI THẢO VỀ DI SẢN THỜ MẪU TỨ PHỦ

(Chi tiết hóa bản đề cương ngày 5-2-2020 và tập hợp ý kiến hai cuộc tọa đàm với anh Tuấn và anh Long).

-Dự kiến ngày họp: Trung tuần tháng 6-2020

-Dịa điểm: Phủ Tây Hồ, nhờ anh Tuấn chi tiết hóa để ghi vào giấy mời.
-Các công việc theo thời gian
I.Trước hội thảo:
1.Xin tiền , dự trù chi tiêu: anh Tuấn. Gồm các khoản:
-Tiền in kỷ yếu.
-Tiền nhuận bút,
-Bữa ăn trưa , 50 người
-Khoản đột xuất.
2.Hội trường, khoảng 50 người : anh Tuấn. Gồm các khoản:
-Màn chiếu power-point, máy vi tính cho chiếu hình.
- Băng role về hội thảo.
3. Giấy mời:
-anh Tuấn làm giấy mời chung, chuyển anh Long 20 bản, phần còn lại anh viết giấy mời đai biểu đại trà (trước khi gửi, liên hệ với đại biểu, phần lớn là con nhang đệ tử Phủ Tây Hồ)
-anh Long trao đổi trước với đại biểu-tác giả.
3.Về Kỷ yếu: anh Long, cố gắng trước hội thảo, gồm các việc:
-Đặt bài báo cáo, thu bài
-In
-Biên tập 3 người (Long , Nhật, Tuấn)
4.Tổ chức đi gặp ban tôn giáo (Tuấn)
II. Trong hội thảo
-Chủ tịch đoàn: GS Đỗ Quang Hưng, Long, Tuấn, Đại diện phủ Tây Hồ.
-Thư ký đoàn:
- Mở đầu ,giới thiệu: Tuấn.
III. Sau hội thảo.
-Viết bài tuyên truyền cho hội thảo (Long , Nhật, Tuấn)
Hà Nội ngày 11-3-2020

https://www.facebook.com/phamviet.long.46/posts/1773021866170330


5.

Tiễn biệt Giáo sư Phan Đăng Nhật - nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi


Thứ Tư, 24/06/2020, 14:15 [GMT+7]

Ngày 24/6, giới nghiên cứu văn hóa, bạn bè và gia đình đã tiễn biệt Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Phan Đăng Nhật - nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi.

Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931-2020) là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu, quê xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng.

Ông từng là giáo viên cấp 2 ở Nghệ Tĩnh vào thập niên 1950, giáo viên cấp 3 và cán bộ nghiên cứu ở Sở Giáo dục Tây Bắc vào thập niên 1970.

Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian và nhiều năm là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam).

Vào cuối thập niên 1990, sau khi nghỉ hưu, ông thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Với những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu khoa học, Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên.

Giáo sư Phan Đăng Nhật đến với ngành nghiên cứu văn hóa dân gian có phần muộn màng hơn so với nhiều tác giả khác nhưng ông rất tích cực và nghiêm túc trong nghề. Ông đã công bố 6 cuốn sách in riêng và 120 bài viết in trên các báo và tạp chí.

Giáo sư Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sỹ Những đặc điểm cơ bản sử thi-khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991).

Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.

Giáo sư Phan Đăng Nhật còn mở rộng hướng nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai...

Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt.

Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
Theo Minh Nguyệt (TTXVN/Vietnam+)
https://www.baogialai.com.vn/channel/8213/202006/tien-biet-giao-su-phan-dang-nhat-nha-nghien-cuu-hang-dau-ve-su-thi-5687770/



4.

Phan Đăng Nhật

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931- 24/06/2020) là nhà nghiên cứu văn học dân gian về các dân tộc thiểu số Tây Nguyên[1], viện trưởng Viện nghiên cứu văn hoá thuộc viện Hàn lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam (1991-1994).

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Đăng Nhật sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng tại xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1950, ông từng là giáo viên cấp 2 ở Nghệ Tĩnh. Từ những năm 1970, ông được điều chuyển công tác và làm giáo viên cấp 3 và cán bộ nghiên cứu ở Sở Giáo dục Tây Bắc.
Phan Đăng Nhật dành nhiều thời gian để nghiên cứu về văn học, văn hoá dân gian với nhiều công trình nghiên cứu khoa học và nhận nhiều giải thưởng của Nhà nước. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian.
Từ năm 1991 – 1994, ông giữ chức Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam).
Từ năm 1995, sau khi nghỉ hưu, Phan Đăng Nhật thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).

Công trình nghiên cứu[sửa | sửa mã nguồn]

Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia hiếm hoi tại Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản sử thi - khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991), sử thi Tây Nguyên (1999)[2]. Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.
Ngoài ra, ông còn nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như: Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai... Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Đặc biệt, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
Phan Đăng Nhật đã xuất bản 6 cuốn sách in riêng về văn hoá dân gian của các dân tộc thiểu số và hơn 120 bài viết trên các báo, tạp chí uy tín.

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng Nhà nước năm 2005[3]: Cụm công trình về Sử thi Tây Nguyên
Cụm công trình sử thi Êđê
Kho tàng Ca dao người Việt (đồng tác giả)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]


https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_%C4%90%C4%83ng_Nh%E1%BA%ADt




3.

Giáo sư Phan Đăng Nhật-Nhà nghiên cứu hàng đầu Việt Nam về sử thi từ trần

Cập nhật: Thứ năm, 25/6/2020 - 14h22'


Ngày 24-6, giới nghiên cứu văn hóa, bạn bè và gia đình đã tiễn biệt Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật.
Giáo sư Phan Đăng Nhật được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi.

Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931-2020) là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu, quê xã Hoa Thành, H. Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian và nhiều năm là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam). Vào cuối thập niên 1990, sau khi nghỉ hưu, ông thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).

Với những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu khoa học, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương Lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Ê Đê và Vùng sử thi Tây Nguyên.

Giáo sư Phan Đăng Nhật đã công bố 6 cuốn sách in riêng và 120 bài viết in trên các báo và tạp chí. Ông là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là tác giả cuốn sách Sử thi Ê Đê (1991).

Giáo sư Phan Đăng Nhật còn mở rộng hướng nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như: Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai... Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.

MINH NGUYỆT
http://cadn.com.vn/news/71_226992_giao-su-phan-dang-nhat-nha-nghien-cuu-hang-dau-viet-nam-ve-su-thi-tu-tran.aspx



2.




Ngày 24/6, giới nghiên cứu văn hóa, bạn bè và gia đình đã tiễn biệt Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật - Nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi.


Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931-2020) là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu, quê xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng.
Ông từng là giáo viên cấp 2 ở Nghệ Tĩnh vào thập niên 1950, giáo viên cấp 3 và cán bộ nghiên cứu ở Sở Giáo dục Tây Bắc vào thập niên 1970. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian và nhiều năm là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam). Vào cuối thập niên 1990, sau khi nghỉ hưu, ông thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
Với những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu khoa học, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên.
Giáo sư Phan Đăng Nhật đến với ngành nghiên cứu văn hóa dân gian có phần muộn màng hơn so với nhiều tác giả khác nhưng ông rất tích cực và nghiêm túc trong nghề. Ông đã công bố 6 cuốn sách in riêng và 120 bài viết in trên các báo và tạp chí.
Giáo sư Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản sử thi - khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991). Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.
Giáo sư Phan Đăng Nhật còn mở rộng hướng nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như: Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai... Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
Minh Nguyệt (TTXVN)


1.






TT&VH

4ng trước
(Thethaovanhoa.vn) - Ngày 24/6, giới nghiên cứu văn hóa, bạn bè và gia đình đã tiễn biệt Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật - Nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về sử thi.
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật (1931-2020) là cháu ruột của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu, quê xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng.
Ông từng là giáo viên cấp 2 ở Nghệ Tĩnh vào thập niên 1950, giáo viên cấp 3 và cán bộ nghiên cứu ở Sở Giáo dục Tây Bắc vào thập niên 1970. Ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Văn hóa dân gian và nhiều năm là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa dân gian (nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam). Vào cuối thập niên 1990, sau khi nghỉ hưu, ông thành lập và là Giám đốc Trung tâm Bảo trợ Văn hóa và Kỹ thuật Truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
Với những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu khoa học, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huân chương lao động hạng Ba; Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005 cho cụm công trình Sử thi Êđê và Vùng sử thi Tây Nguyên.
Giáo sư Phan Đăng Nhật đến với ngành nghiên cứu văn hóa dân gian có phần muộn màng hơn so với nhiều tác giả khác nhưng ông rất tích cực và nghiêm túc trong nghề. Ông đã công bố 6 cuốn sách in riêng và 120 bài viết in trên các báo và tạp chí.


Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đăng Nhật. Nguồn:vanhien.vn
Giáo sư Phan Đăng Nhật là một trong những chuyên gia hiếm hoi ở Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được giới nghiên cứu văn hóa tôn vinh là nhà nghiên cứu hàng đầu về sử thi. Ông có đóng góp quan trọng trong hướng nghiên cứu về sử thi các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông đã dày công nghiên cứu về sử thi Mường, huyền thoại Mường và rồi đọng lại ở sử thi các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản sử thi - khan ở Việt Nam (bảo vệ ở Bungari năm 1989) và cuốn sách Sử thi Êđê (1991). Với hai công trình này, lần đầu tiên ông đã giới thiệu được toàn diện và có sức thuyết phục về sử thi Êđê ở Việt Nam, được các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận.
Giáo sư Phan Đăng Nhật còn mở rộng hướng nghiên cứu đến nhiều lĩnh vực khác như: Nghiên cứu về Luật tục dân tộc Gia Lai, Chăm, Raglai... Công trình đồ sộ Kho tàng ca dao người Việt mà ông là đồng soạn giả đã trở thành bộ sách công cụ có giá trị và là dấu mốc quan trọng không thể không nhắc đến trong lịch sử sưu tầm và biên soạn ca dao người Việt. Ngoài ra, các chủ đề nghiên cứu về lễ hội dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, phương pháp nghiên cứu văn học dân gian đều được ông quan tâm và công bố những bài viết có giá trị.
Minh Nguyệt/TTXVN




..







O. Một số bài viết trước đây về Gs Phan Đăng Nhật

(2). Sử Gia Trang viết năm 2017

Cảm tưởng của một sinh viên về GS Phan Đăng Nhật khi được nghe GS giảng bài

Sử Thị Gia Trang | Chủ Nhật, 12/03/2017 14:41 GMT +7
Từ năm 2005 đến nay, tôi vẫn còn nhớ như in hình bóng khi lần đầu tiên bắt gặp một hình ảnh của một GS già cần mẫn, say mê giảng bài tại giảng đường Trường Đại học Văn hóa Tp Hồ Chí Minh nơi tôi đang học, đó là GS Phan Đang Nhật. Sự thật, tôi được nghe tiếng GS rất lâu qua ông Sử Văn Ngọc và ông Trương Văn Món nói về sự đam mê của GS trong quá trình nghiên cứu về các dân tộc thiểu số. Thật lòng tôi cũng như người khác không tin lắm vì trăm nghe không bằng mắt thấy nên khi biết là có GS đến Trường Đại học Văn hóa Tp Hồ Chí Minh dạy tôi rất lấy làm vui và muốn tìm cách làm sao để được học lớp do GS giảng dạy.
Vào năm 2005, GS được Trường Đại học Văn hóa Tp Hồ Chí Minh chỉ mời thỉnh giảng lớp Quản lý Văn hóa cho nên lớp tôi (Bảo tàng ) không được giáo sư dạy. 
Khi có GS đến dạy, mọi người trong lớp Quản lí Văn hóa đã nói với tôi rằng: có thầy Phan Đăng Nhật dạy rất hay và rủ tôi tham gia học đi. Lúc đó tôi đang học môn dân tộc học. Quả thật lúc đó, tôi cũng khó xử khi cả hai môn đó, môn nào tôi cũng quan tâm cả. Thế là tôi bắt đầu quyết định chọn lựa một trong hai: một là bỏ lớp Dân tộc học để đi nghe GS giảng về văn hóa các dân tộc thiểu số cũng như về sử thi Tây Nguyên; hai là học môn dân tộc do một thầy khác đứng lớp. Mặc dù biết, môn học Dân tộc học là môn chính mà tôi sẽ thi vấn đáp, nhưng tôi vẫn quyết định bỏ lớp này nhảy qua lớp văn hóa để nghe GS giảng bài. Quả thật lúc đó tôi thật không diễn tả được nỗi lòng của tôi khi nghe GS giảng bài, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Với một tấm lòng nhiệt tình, cần mẫn và đầy đam mê của một giảng viên nên khi giảng bài GS đã khiến cho cả lớp phải ngồi nghe một cách chăm chú và nhiệt tình. Trước khi lên lớp việc đầu tiên GS làm đó là giao những tài liệu liên quan đến môn học cho lớp trưởng đi photo phát cho lớp mang về nghiên cứu trước, dĩ nhiên tôi cũng có phần trong đó. Trong quá trình giảng dạy GS luôn hỏi sinh viên một cách thật bất ngờ những câu hỏi liên quan đến bài giảng. Với sự nhiệt tình và phương pháp dạy đó, không những đã làm cho lớp học sôi động mà còn khiến cho sinh viên cùng tập trung làm việc với GS.
Trong quá trình đi học, tôi ít được thầy giáo nào truyền đạt cách dạy như thế, đa số là thầy nói trò nghe và ghi ghi chép chép rồi phát lại y hệt thầy đã phát trong khi thi. Nhưng với GS thì khác, tập trung làm việc là chính rồi hết môn học GS đưa đi thực tế vào dip lễ “Chôl Chnam Thmay” của đồng bào Khmer ở Trà Vinh, sau khi về cả lớp đã được phân công viết bài theo nhóm để lấy điểm cho môn học, nhưng vì tôi không phải là sinh viên chính thức của lớp nên không cần làm bài để lấy điểm. Tuy nhiên tôi vẫn tự thử xem, khả năng của tôi nhận thức như thế nào qua buổi thực tế này. Cuối cùng tôi cũng tham gia viết bài và nhờ GS xem giúp, rồi bài viết của tôi được GS cho 9 điểm. Tôi rất vui không phải vì điểm 9 mà tôi vui vì đã biết cách tiếp cận vấn đề và bước đầu tập nhận diện được một lễ hội văn hóa. Kết quả đó là nhờ tôi dự học những buổi thỉnh giảng của GS.
Mặc dù chỉ là một sinh viên thính giảng nhưng mỗi khi thiếu vắng tôi, GS thường hay hỏi lớp, sao bữa nay không thấy cô bé người Chăm đó đến học. Các bạn trong lớp bảo bữa nay lớp bạn ấy thi. Thế là GS nói với các bạn trong lớp, nhớ kêu cô bé đến học nhé. Không riêng gì tôi mà là tất cả những sinh viên trong lớp, ai mà quan tâm cũng như làm việc liên quan đến văn hóa dân tộc thiểu số đều được GS để ý và luôn nhắc nhở họ phải tiếp thu thật nhanh và nghiêm túc vì họ là những người sẽ gần gũi với dân tộc thiểu số. GS luôn căn dặn, khi đi nghiên cứu, cán bộ chúng ta cần phải chân thật và phải có một tấm lòng yêu nghề và luôn biết cảm thông với dân tộc thiểu số, phải biết vận dụng lý thuyết vào thực tế nhiều hơn, đừng nên nói suông. Ai làm được điều đó mới thành công.
Tuy tuổi đã cao nhưng với niềm đam mê và lòng yêu nghề, đặc biệt là một tấm lòng tha thiết với các dân tộc thiểu số, GS đã truyền đạt một cách say sưa về những vấn đề dân tộc thiểu số khiến tôi nghĩ không phải ai cũng làm được như GS. Trong khi dạy GS không nghĩ đến giờ giải lao mặc dù đã thấm mệt. Hình như trong lúc giảng, cảm giác GS không muốn thời gian trôi đi, cứ dồn nén, tranh thủ truyền tải những nội dung bài giảng từng chữ một cho đến một buổi dạy cuối cùng.. Qua đó, tự nhiên tôi cảm thấy rất xúc động và tôn kính GS vô cùng. Không những thế, khi biết tôi là con ông Sử Văn Ngọc cũng là một người làm nghiên cứu văn hóa Chăm nên GS luôn quan tâm, động viên tôi cũng như hỏi thăm ông Sử Văn Ngọc. GS còn gửi tặng tôi hai cuốn sách mà GS viết về: Luật tục và đời sống và cuốn Sử Thi vùng Tây Nguyên. Tôi cảm thấy rất vui khi nhận được quà mà GS đã tặng cho tôi và xem đây như món quà vô giá để động viên, khích lệ tôi ý thức để việc nghiên cứu và bảo tồn văn hóa dân tộc thiễu số.
Qua đó, tôi cảm thấy tôi là người thứ 4 trong làng Chăm Bầu Trúc nhỏ bé này rất vinh hạnh được gặp và tiếp xúc với GS. Những người trước là: 1. Ông Đàng Năng Thọ; 2 . Ông Trương Văn Món; 3. Ông Sử Văn Ngọc được sự chỉ dẫn của GS. Ngày này những ông này đã ít nhiều có tên tuổi được nhiều nhà nghiên cứu biết đến. Có lẽ không riêng gì họ, mà còn rất nhiều người Chăm cũng như các bác, chú, anh chị ở vùng Tây Nguyên, nơi mà GS đã đi qua sẽ thầm cảm ơn và cầu phúc đến GS rất nhiều khi biết GS bước sang tuổi 80 vẫn mạnh khỏe và vẫn đang rất cần mẫn nghiên cứu đến các dân tộc thiểu số. GS người hết lòng vì dân tộc thiểu số thật sự. Hy vọng, những lớp người trẻ đang và muốn nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có một tấm lòng thân thiện, nhiệt huyết như GS. Một vài giờ giảng của GS đã để lại cho tôi một ấn tượng khó quên. Ấn tượng này mãi mãi là gương sáng cho tôi sắp bước vào công việc nghiên cứu văn hóa Chăm và văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
http://vanhien.vn/news/cam-tuong-cua-mot-sinh-vien-ve-gs-phan-dang-nhat-khi-duoc-nghe-gs-giang-bai-51180




(1). Mạc Văn Trang viết đầu năm 2016

Thăm Giáo sư Phan Đăng Nhật


Mạc Văn Trang | Thứ Năm, 11/02/2016 12:14 GMT


Chiều qua, rồi sáng nay gọi điện cho Cụ Nhật, đều thấy trả lời “Hiện tại số máy này không liên lạc được”! Sốt ruột quá, hay Cụ lại đi nằm viện như năm trước? Năm nay Cụ 86 tuổi rồi, mỗi tuổi một yếu thêm… Vội phóng đến nhà xem sao. Cụ bà bảo, ông ấy đang viết lách gì trên tầng 3 ấy… 


Giời ạ, Cụ đang ngồi giữa một đống sách; chung quanh phòng Cụ, bốn bề sách xếp từ sàn đến trần!
- Gọi điện cho Cụ mấy lần không được, sốt ruột quá!
- À mình tắt máy để tập trung vào viết. Hôm nào cũng làm việc từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối. Trưa nghỉ hơn 1 tiếng. Làm việc hiệu quả lắm. Hiệu quả lắm!
- Cụ đang viết gì thế?
- Viết về Phan Đăng Lưu. Ông Lưu là một trí thức lớn, tiếng Pháp, tiếng Anh, chữ Hán đều thông thạo; đọc, viết rất nhiều. 39 tuổi đã chết, tiếc quá. Người ta chỉ biết ông là chiến sĩ cách mạng, chứ không biết ông là một trí thức tài năng. Phải viết để mọi người biết ông là một trí thức...
Tôi liếc trên bàn thấy mấy quyển sách cũ úa vàng, in từ những năm 1936- 1939 của Phan Đăng Lưu viết về Lịch sử Kinh tế học, Tư tưởng Triết học, Xã hội học … (Giờ mới tiếc đã không chụp hình mấy quyển sách quý)!
Giáp Tết, GS. Phan Đăng Nhật bị ốm, khách đến thăm, cụ chưa nói chuyện được. Vậy mà chỉ sau vài ba ngày, cụ đã ngồi làm việc say sưa. Sức sống và năng lực sáng tạo của cụ thật là phi thường.
Cụ rời bàn làm việc, pha nước, bóc cam mời khách… Cụ bảo chán, không muốn quan tâm đến chính trị, xã hội, tập trung vào viết mấy quyển sách… Thế nhưng trò chuyện một lúc, Cụ lại toàn hỏi sang chuyện chính trị, thời sự… Cụ bảo, những trí thức như Phan Đăng Lưu vào Đảng, hết lòng tận tụy hy sinh là vì dân, vì nước, chứ đâu ngờ… (Cụ là cháu gọi Phan Đăng Lưu bằng bác; Cụ không nói ra, nhưng tôi biết nỗi niềm cay đắng: Bố của Phan Đăng Lưu hồi cải cách ruộng đất bị nông dân lôi ra đấu tố, đánh đập đến chết. Ngôi nhà bị tịch thu chia cho cố nông. Sau này chính quyền lại phải bỏ tiền ra mua lại ngôi nhà đó để làm Nhà tưởng niệm Phan Đăng Lưu)… Đầu Năm mới, không ai muốn gợi chuyện buồn, nhưng ký ức xa xăm từ trong vô thức cứ hiện về!

Để Cụ vui, tôi nói chuyện việc Họ ở khắp các địa phương đang hoạt động rất tốt (Cụ là người gốc họ Mạc và hết lòng hoạt động để khôi phục dòng họ). Đặc biệt nhiều cháu thanh niên hăng hái tham gia việc họ với nhiều hình thức hay lắm…Thế là Cụ lại phấn chấn…
Mồng 3 Tết Bính Thân

http://vanhien.vn/news/tham-giao-su-phan-dang-nhat-41096


..

2 nhận xét:

  1. 9.

    Mạc Diện
    2 giờ ·
    GS.TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT - CHIM HẠC ĐÃ VỀ TRỜI
    Làng Đông, xã Tràng Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An (nay là xóm Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tài năng, nhân sĩ trí thức, trong đó có GS.TSKH Phan Đăng Nhật - Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
    GG.TSKH Phan Đăng Nhật sinh ra trong một gia đình địa chủ yêu nước, gọi nhà cách mạng tiền bối Phan Đăng Lưu là bác ruột, thuộc dòng dõi Vương triều (Triều Mạc).

    Trả lờiXóa
  2. 10. Truy cập website tạp chí Văn Hiến Việt Nam, ngày 5 tháng 7 năm 2020:

    "
    Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam
    Cơ quan chủ quản: Viện Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
    Tổng biên tập: TS. Phạm Việt Long
    Phó tổng biên tập: Nhà báo Vũ Xuân Bân
    Trưởng ban chuyên đề: Vương Xuân Nguyên
    Giấy phép số: 1900/ GP- BTTTT cấp ngày 15/11/2011;
    Địa chỉ: Số 9 ngõ 26, phố Hoàng Cầu, Đống Đa, Hà Nội – ĐT: 024.3511.2850
    Chủ Nhiệm: GS Hoàng Chương
    Hội đồng biên tập: GS NSND Trần Bảng, GSVS Hỗ Sĩ Vịnh, NB Phạm Đức Lượng, GSTS Thái Kim Lan, NSND. TS. Phạm Thị Thành, NSND Đặng Nhật Minh, TS. Đoàn Thị Tình, GSTS. Nguyễn Thuyết Phong, NVK Nguyễn Thế Kỷ
    Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn vanhien.vn khi sử dụng lại thông tin trên vanhien.vn

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.