Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

08/03/2024

Phủ Gạch ở Thái Bình và Đệ tứ Khâm sai "Mai Hoa công chúa" của "Hệ thần Liễu Hạnh công chúa"

Phủ Gạch ở làng Gạch (tên chữ là Bích Cách) thuộc xã Đông Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Sưu tập này mở đầu là bài của bác Vũ Đức Thơm (Bảo tàng tỉnh Thái Bình). Bài của bác được lên Fb.

Các bổ sung và cập nhật sẽ dán dần lên ở bên dưới như mọi khi.

Tháng 3 năm 2024,

Giao Blog

"

Chiêu Dung công chúa là Lê Bạch Mai (nên cũng gọi là Bạch Mai công chúa). Nàng là dòng dõi Hoàng tộc nhà Lê. Ông Nội nàng là Duy Thịnh - chú của Vua Lê Anh Tông, làm quan tới chức Tả đô đốc kiêm Tổng tài khâm thiên giám Nghiêm quận công.

Do có loạn, ông về ẩn cư ở làng An Thái huyện Vụ Bản (nay thuộc xã Kim Thái) huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam, tỉnh Hà Nam. Tại đây Nghiêm quận công lấy vợ người cùng làng, sinh ra Lê Duy Cảnh. Lê Duy Cảnh làm quan tới Binh bộ thượng thư Thái bảo quốc công. Ông sinh ra Lê Bạch Mai vào ngày 09/9 năm Vĩnh Tô thứ 5 (1624).

Đời truyền rằng: Bà vốn là đệ tứ thiên cung trên thượng giới, vì có lỗi, bị giáng xuống trần, đầu thai vào nhà họ Lê. Bà là người con gái đức hạnh, tài sắc vẹn toàn, được học hành, làm nhiều điều nhân nghĩa. Bà lấy chồng người cùng làng An Thái, tên là Trần Lý. Lửa hương chưa bén, thì bà đã về trời vào ngày 14/3 năm Nhâm Ngọ (1642) lúc mới 19 tuổi.

Về trời, bà vẫn nhớ cảnh trần thế, nên Ngọc hoàng lại cho xuống làm thần cai quản vùng này, phong làm Bạch Mai công chúa. Bà giúp Thánh mẫu Liễu Hạnh làm nhiều điều linh dị, linh thiêng, giúp nước. Người trong họ, trong làng An Thái cho là linh trùng, lập miếu thờ.

Cùng với sự phát triển của tín ngưỡng Mẫu, Bạch Mai công chúa trở thành chầu đệ tứ khâm sai trong điện thần của Mẫu Liệu Hạnh.

Đầu đời Nguyễn, họ Lê và dân làng An Thái đã xây dựng hoàn chỉnh một ngôi đền mang tên gọi: "Khâm sai từ" tức đền Khâm Sai. Bà được tôn hiệu: "Đế tứ tùy tòng khâm sai Chiêu Dung công chúa Ngọc điện hạ", trở thành một trong tứ vị chầu bà của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Chầu đệ tứ giữ vai trò khâm sai, xem xét tứ phủ (thiên phủ, địa phủ, thủy phủ, sơn phủ). Vì thế, thanh đồng tín nữ coi đền Khâm Sai như "Văn phòng" của điện thần Thánh mẫu Liễu Hạnh.

Đền Khâm sai có cung cấm đặt tượng Chiêu Dung công chúa ngọc điện hạ và hai thị nữ là công chúa Hương Thanh và công chúa Phù Thanh.

Nằm trong hệ thống tín ngưỡng Mẫu ở vùng Sơn Nam, Phủ Dầy, Phủ Gạch... và nhiều nơi khác đều thờ Chiêu Dung công chúa ngọc điện hạ có lý lịch như trên.

Đối với Phủ Gạch, thuộc làng Gạch, tên chữ là Bình Cách, nay thuộc xã Đông Xá huyện Đông Hưng, cùng là một trong những trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu Thái Bình. Quần thể di tích kiến trúc thời Nguyễn Bình Cách trong đó có đền thờ Chiêu Dung công chúa, đệ tứ Khâm sai./.

"

https://www.facebook.com/thom.vu.31586/posts/pfbid0yYa4BYi13MmCQC1tER4MSasYooSWte4PLeUcMWYG8y3Euod6GGqHTqC2tz1f82Anl

---


BỔ SUNG


3. Bài của trang Phủ Dầy năm 2021


Chầu Đệ tứ Khâm Sai là ai?

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai là vị thánh chầu thứ tư trong hàng Tứ phủ Chầu Bà, Chầu rất gần gũi và hầu cận kề bên cạnh Đức Thánh Mẫu thần chủ, cho đến nay tại thôn Tiên Hương (làng An Thái cũ) quê hương của chầu vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện, sự tích về sự anh linh hiển hách của chầu.

“Quê hương An Thái xã danh

Có Chầu Đệ Tứ hách danh phàm trần

Ra uy sát quỷ trừ tà

Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng

Khâm sai đệ tứ tuỳ tòng

Chiêu Dung công chúa ngự đồng cứu dân”

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai là ai ?

Chầu Đệ Tứ Khâm sai hay còn gọi là Chầu Bà Đệ Tứ khâm sai Quyền cai tứ phủ là vị thánh chầu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam tứ phủ của người Việt.

Là thánh chầu đứng thứ tư trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà. Chầu vốn là Bồng Lai Tiên Nữ trên thiên cung, giáng sinh xuống đất An Thái trấn Sơn Nam, nay là thôn Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, hầu cận kề bên Thánh Mẫu thần chủ.

Chính cung thờ Chầu bà Đệ tứ khâm sai tại đền thờ Chầu tại Phủ Dầy Nam Định

Gặp buổi giặc giã hoành hành, Chầu Đệ Tứ xông pha ra trận trở thành vị nữ tướng, vốn tính khảng khái chính trực, nếu có kẻ nào làm sai phép quân lệnh là “tiền trảm hậu tấu”, lập nhiều công lao giúp vua dẹp giặc và trấn giữ ở miền Hà Trung, Thanh Hóa nên được sắc phong là Chiêu Dung Công Chúa. Sau khi trở lại Thiên đình, chầu lại được Thánh Mẫu giao quyền khâm sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên phủ), biên chép sổ Thiên Đình, quyền cai bản mệnh các thanh đồng (là nhưng người thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu), trực tiếp giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến. Lúc thanh nhàn, chầu truyền các nàng tiên vân du, dạo cảnh  khắp chốn, từ miền quê  ra tới kinh kỳ.

 

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai khi về ngự đồng như nào ?

Chầu Đệ Tứ khi về ngự đồng vào dịp khai đàn mở phủ trong trang phục áo màu vàng, cầm quạt khai cuông rồi thường múa kiếm hoặc khai cờ lệnh, cũng có nơi hầu Chầu về múa quạt, múa mồi hoặc chỉ khai cuông rồi an tọa tùy tập tục từng nơi.

Thanh đồng Kim Huệ thủ nhang phủ Chính Tiên Hương hầu giá Chầu Bà Đệ Tứ

Đền thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai ở đâu ?

Đền thờ Chầu Đệ Tứ cũng được lập ở nhiều nơi nhưng Phủ Dầy là nơi chính cung thờ Chầu, hiện nay có 2 ngôi đền thờ Chầu Đệ Tứ tại Phủ Dầy:

  • Một đền thờ Chầu Đệ Tứ thuộc xóm 1 thôn Tiên Hương đây là quê nội của Chầu ngay đằng sau Phủ Chính.
  • Một đền thờ Chầu Đệ Tứ thuộc xóm 2 thôn Tiên Hương đây là quê ngoại của Chầu, ngay mặt đường 56 cách Phủ Chính chừng 1 km.

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

 

Ngoài ra còn Đền Cây Thị, Đền Chầu Đệ Tứ thuộc huyện Hà Trung, Thanh Hóa tương truyền là nơi chầu ra trận dẹp giặc và ngoài ra ở Hà Nội còn có  Đền Duyên Trường – Đền Chầu.

Khánh tiệc chầu Đệ Tứ Khâm Sai vào ngày nào ?

Chính tiệc của Chầu Đệ Tứ Khâm Sai là vào ngày 14/3 âm lịch.

Văn Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Đấng Nam thiên nữ trang Nghiêu Thuấn

Đất Sơn Nam có đấng trâm anh

Quê hương An Thái xã danh

Có Chầu Đệ Tứ hách danh còn truyền

Điều thời phụng sắc Hoàng thiên

Ngự đồng ánh bóng khắp miền gần xa

Ra uy sát quỷ trừ tà

Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng

Khâm sai tứ phủ tuỳ tòng

Chiêu Dung công chú ngự đồng cứu dân

Trong nghĩa thân ngoài thời nghĩa dưỡng

Nương uy trời độ lượng bao dung

Mặt hoa tươi tốt má hồng

Gồm lo tứ đức tam tòng vẻ vang

Mày ngài tóc phượng vấn vương

Lưng ong má phấn xem càng tốt tươi

Miệng chầu cười trăm hoa đua nở

Đáng lên tài tiên nữ bống lai

Vào tâu ra rộng khoan thai

Đã trong hiển ứng lại ngoài tối linh

Chốn thiên đình ca ngâm chầu chực

Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa

Chầu thôi lại trở ra về

Khi ra Thiên Bản lúc về Đồi Ngang

Miếu giữa đường gia ban sắc chỉ

Bốn chữ vàng chính khí nghiêm trang

Lân vờn phượng múa nhà vàng

Thị tòng bộ chúng các nàng đôi bên

Có phen lên thanh sơn tú thuỷ

Hoá phép mầu lục trí thần thông

Quản cai tam phủ công đồng

Quyền chầu coi sóc đền rồng vào ra

Sổ tam toà chép biên sau truớc

Lại sửa sang gương lược trầu cau

Dù ai tiếp cũng khẩn cầu

Quyền chầu ra rộng vào tâu thông hành

Lên thiên đình ngự về thuỷ phủ

Tiến văn chầu kích cổ tam không

Mời chầu trắc giáng điện trung

Hay còn nam bắc tây đông chốn nào

Trên thiên tào còn đang tra sổ

Hay chầu còn đổi số cho ai

Có phen chơi cảnh bồng lai

Hay về An Thái là nơi quê nhà

Có phen ra kinh đô thành thị

Vào kính thiên toạ vị hồng lâu

Rong chơi năm cửa nhà lầu

Hay chơi Phố Mới,cầu Châu,cầu Rền

Lên trên đến Cầu Đông,cầu Giác

Trở ra về Hàng Bạc, Hàng Ngang

Hàng Buồm chầu lại dạo sang

Mã Mây,Phố Mới,Hàng Đường,Đồng Xuân

Dạo chơi khắp hết xa gần

Hàng Đồng,Hàng Thiếc,Hàng Cân,Hàng Đào

Chợ huyện,Chùa Tháp,Đình Ngang

Cấm chỉ,đền Cờn các vạn dưới sông

Có phen chầu ngự thuyền rồng

Qua hồ Trúc Bạch lại dong Tây Hồ

Lệnh truyền tiên nữ chèo đua

Qua đền Trấn Võ lên chùa Huyền Thiên

Vực Kim Ngưu có đền An Thái

Cảnh hội đồng có dải Tô giang

Thiên Tích chầu lại dạo sang

Sai các tiên nàng chầu chực dâng hoa

Phút thôi chầu chở ra về

Ngự trong bản điện sớm khuya hội đồng

Có phen chầu ngự đường trong

Dạo khắp phủ tía lầu hồng vào ra

Có phen chơi Đồi Ngang,Phố Cát

Đứng nhởn nhơ bóng mát cây cao

Nghệ An chầu lại từng vào

Dạo chơi các chốn lầu cao Kinh Thành

Có phen chầu chực tỉnh Thanh

Sòng Sơn Ba Dội tập tành vui chơi

Thường vãng lai bán hàng chiều khách

Thấy ai là ngang ngược ra tay

Mặc ai phù phép tìm thầy

Thành tâm lễ bái chầu dày lại tha

Lòng kính chúc hương hoa tịnh thuỷ

Hoá phép màu lục trí thần thông

Kiêm tri tam phủ công đồng

Tốc lai giáng hạ từ trung thay là

https://phuday.com/chau-de-tu-kham-sai-la-ai.html




2. Bài của Quang Viện năm 2019


Bát vị linh thần

Thứ 3, 26/11/2019 | 08:52:04

 

 4,976 lượt xem
Làng Bình Cách (xưa có tên Nôm là làng Gạch) một vùng đất địa linh có long chầu, hổ phục là nơi “ngự” của các thiên thần, nhân thần và huyệt vị tụ khí được dân làng chọn làm nơi xây dựng đình, đền, chùa, miếu huyền bí linh thiêng và cổ kính. Đình Bình Cách thờ bái vọng 8 vị linh thần của 8 Giáp...

Cụm đình, đền, chùa, miếu Bình Cách, di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Tương truyền, thời nhà Lý, khi đánh tan giặc Vĩnh Trinh, Hoàng Lang Thái tử (con vua Lý Thánh Tông) tung chiếc cờ dài 10 thước lên trời, cờ cuốn theo chiều gió bay đến làng Gạch (nay là thôn Bình Cách, xã Đông Xá, huyện Đông Hưng) thì rơi xuống, Hoàng Lang cưỡi voi cùng đoàn quân cả nghìn người trùng trùng điệp điệp về làng Gạch dựng trại ăn mừng chiến thắng, dân làng Gạch mừng vui đón thiên tướng, mổ lợn, gà, trâu, bò khao quân. Hoàng Lang dâng hương bái lạy Quý Minh Đại vương tại đền Gạch và nghỉ lại nơi đây một đêm...

Làng Bình Cách (xưa có tên Nôm là làng Gạch) một vùng đất địa linh có long chầu, hổ phục là nơi “ngự” của các thiên thần, nhân thần và huyệt vị tụ khí được dân làng chọn làm nơi xây dựng đình, đền, chùa, miếu huyền bí linh thiêng và cổ kính. Đình Bình Cách thờ bái vọng 8 vị linh thần của 8 Giáp gồm Quý Minh Đại vương thượng đẳng thần miếu Giáp Đoài; Linh Lang Đại vương thượng đẳng thần miếu Giáp Đông; Thái Bảo tôn thần miếu Giáp Móc; Trần Triều Chiêu Dung Công chúa miếu Giáp Cả; Ngô Đồng Đại vương miếu Giáp Vân; Ngã Ba kẻ giữa tôn thần miếu Giáp Trung; Mã Cả tôn thần miếu Giáp Bắc; Linh Công Bản lễ tôn thần miếu Giáp Hậu... Đáng chú ý đình Bình Cách còn lưu giữ tấm bia đá “Trung nghĩa từ” ghi công lao các nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ làng, bảo vệ quê hương đất nước trước khi giặc Pháp chiếm đóng hoàn toàn Bắc kỳ.

Tương truyền, thời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054), ở trang Bồng Lai, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây (nay là quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) có gia đình chồng tên là Dương Đạo, vợ là Nguyễn Thị Từ làm nghề buôn bán tơ lụa nhưng vẫn chưa có con. Một đêm bà Từ nằm mộng thấy ánh sáng đỏ bay vào nhà, ngay lúc đó xuất hiện một cụ già trên tay bế đứa trẻ xưng là Thiếu âm tinh sẽ đầu thai vào nhà bà. Kể từ đêm ấy bà có thai, sau 9 tháng 10 ngày sinh hạ được bé gái, ông bà đặt tên cho con là Phương Nương. Năm Phương Nương 18 tuổi nhan sắc tuyệt trần, đủ công dung ngôn hạnh. Rồi một ngày kia vua Lý Thái Tông ra ngoại thành du ngoạn đến trang Thị Lệ (bên bờ Hồ Tây) chợt thấy cô gái xinh đẹp đang hái dâu bên đường, nhà vua đem lòng thương mến. Về cung, vua sai quan đến hỏi và đem 100 lượng vàng làm sính lễ rước nàng về cung lập làm Đệ nhị cung phi đồng thời cho xây một cung riêng ở trại Thị Lệ. 4 năm sống trong nhung lụa chốn điện vàng, Phương Nương vẫn một lòng canh cánh nhớ quê. Một hôm nghe tin cậu ruột của Phương Nương bị bệnh qua đời, nàng xin vua cho về quê chịu tang. Mãn tang cậu, Phương Nương trở lại kinh thành. Khi qua Hồ Tây tắm gội để vào yết kiến vua, bỗng nhiên trời đất tối sầm, nước hồ cuộn sóng, nàng thấy một con giao long dài hai trượng, đầu đội mũ hoa, mình đầy vẩy cá hiện lên quấn một vòng quanh nàng. Cung phi hồi triều và có thai, sau 12 tháng, đến ngày 4 tháng Giêng mùa xuân năm Giáp Thìn (1064) sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú, sau lưng có 28 vết hằn trông như vẩy rồng và trên ngực có bảy hàng chấm, óng ánh như hạt ngọc. Vua thấy con mình hình mạo khác thường cho là “Long hầu giáng thế” bèn đặt tên con là Hoàng Lang và cho mở tiệc lớn khao mừng. Ba năm sau, giặc Vĩnh Trinh nổi lên làm loạn ở vùng núi phía Bắc, binh hùng, tướng mạnh lại thêm bạo tàn nên thiên hạ ai ai cũng khiếp sợ. Nhà vua cho lập đàn cầu hiền tài trị giặc giúp nước. Đang lúc cầu đảo, bỗng trên trời xuất hiện đám mây trắng, vang vẳng tiếng tiên hiền giáng đàn: “Thế nước gieo neo có thánh tài/Vận trời đã định há lo hoài/Nếu cầu người giỏi nơi phường Trại/Giặc Vĩnh Trinh kia chết chẳng sai”. Nghe lời phán bảo của tiên hiền, vua sai xá nhân rao tìm. Khi ấy Hoàng Lang ở trại Thị Lệ nghe tiếng quan rao, bỗng ngồi dậy cất tiếng gọi mẹ. Hoàng Lang giục mẹ mời xá nhân vào nhà và nói rằng: “Ngươi hãy mau mau về báo với vua cha, sắm cho ta một lá cờ dài 10 thước và một con voi thật lớn rồi mang lại ngay cho ta, ta sẽ đánh tan giặc, xin vua cha đừng lo”. Nghe vậy xá nhân về bẩm lại với vua, nhà vua hết sức kinh ngạc. Hôm sau sai người mang đến cờ và một thớt voi cùng 5 nghìn binh lính cho làm gia thần. 

Nhìn thấy thớt voi chiến đầy uy vũ, cờ dài 10 thước Hoàng Lang cười lớn rồi nghiêng mình lắc mạnh, thân hình cao 9 trượng, tay cầm lá cờ 10 thước nhảy lên lưng voi thét lớn, tiếng rung chuyển như sấm rền: “Ta là thiên tướng”. Voi chiến lồng lên lao như tên bắn thẳng đến đồn giặc. Tướng giặc Vĩnh Trinh nhìn thấy sợ ngã lăn ra, quân lính chạy toán loạn vì khiếp sợ. Đánh tan quân giặc Vĩnh Trinh, vua Lý mừng vui khôn xiết, triệu Hoàng Lang về cung ban thưởng. Truyền ngôn, khi nhận ân điển của nhà vua, Hoàng Lang cười hả hê, tay cầm lá cờ 10 thước ném lên trời, cờ bay đến đâu thì vua sẽ ban sinh từ cho Hoàng Lang đến đó. Vua vừa ban chiếu, bỗng cuồng phong nổi lên, cờ của Hoàng Lang cuốn theo gió bay đi, dân gian đếm được cả thảy 269 làng được cờ chạm xuống đất rồi lại bốc lên cao bay đi trong đó có làng Gạch. Chiểu theo chiếu chỉ của vua Lý, làng nào có cờ của Hoàng Lang rơi xuống, nơi đó được dựng đền thờ Hoàng Lang (Hiện chỉ còn đền thờ ngài ở Hà Nội, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình). Bờ cõi đã yên, sứ mệnh vua trao Hoàng Lang đã phụng sự đủ đầy, ngài trở về vùng đất Thị Lệ vui cảnh sông hồ. Không ngờ, chỉ vài ngày về trang Thị Lệ, chưa kịp “ngắm trăng hỏi gió” thì Hoàng Lang mắc phải chứng bệnh đậu mùa, vua biết tin xa giá đến thăm con. Biết mệnh mình sắp hết, Hoàng Lang tâu với vua rằng: “Muôn  tâu bệ hạ, con thuộc dòng dõi Lạc Long, là 1 trong số 50 người con theo cha xuống biển, phụng mệnh Ngọc Hoàng thác sinh vào cung son gác tía. Nay giặc đã quét sạch, muôn dân được no ấm, con phải trở lại chốn thủy cung”. Nói xong Hoàng Lang biến thành Giao Long, trườn mình ra Hồ Tây và biến mất. Vua thương xót sắc phong “Linh Lang Đại vương Thượng đẳng tôn thần”, sắc chỉ cho 269 làng phụng thờ. Dân làng Gạch (Bình Cách) đã dựng miếu Giáp Đông thờ phụng ngài.

Năm Quý Mùi (1883), một đoàn tàu chiến gồm 600 tên giặc Pháp theo cửa sông Trà Lý ngược đến Bình Cách, chúng tấn công đoàn thuyền lương của triều đình nhà Nguyễn và bắn chết Lãnh binh Phạm Độ Sự. Ghi nhớ sự kiện này, dân làng Gạch khắc bia “trung nghĩa từ”, sau chuyển về đình Bình Cách thờ. Cùng năm này, huyện lỵ Đông Quan chuyển về làng Bình Cách, Đề đốc Tạ Hiện và quan Ngự sử Phạm Huy Quang treo ấn từ quan về làng Gạch xây dựng lực lượng chống giặc Pháp. Phong trào chống giặc Pháp xâm lược do hai ông khởi xướng đã làm cho giặc Pháp thất kinh, bát đảo. Cuối năm 1888, Phạm Huy Quang bị giặc Pháp bắt và xử tử. Không chịu khuất phục, Đốc Nhưỡng và Đốc Đen tiếp tục lấy làng Gạch xây dựng căn cứ chống giặc Pháp, làm nên bản anh hùng ca bất tử ngay tại làng Gạch bình dị chốn thôn quê. Cuối thế kỷ XIX, đình Bình Cách trở thành căn cứ hoạt động của phong trào Cần Vương...

Ông Lê Thế Triền, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Đông Xá, huyện Đông Hưng


Hội Cựu chiến binh Đông Xá và Chi hội Cựu chiến binh các thôn Bình Cách tích cực tham gia các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, nhân rộng mô hình tổ tự quản giữ gìn an ninh trật tự, đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền, vận động nhân dân bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hóa của địa phương như cụm đình, đền, chùa, miếu Bình Cách.

Cựu du kích Hoàng Công Khanh, thôn Bình Cách Bắc, xã Đông Xá, huyện Đông Hưng


Đầu năm 1950, cụm đình, đền, chùa, miếu Bình Cách là cơ sở hoạt động của huyện Đông Quan. Căn hầm bí mật nuôi giấu cán bộ cách mạng và in ấn tài liệu, truyền đơn tuyên truyền cách mạng được đào ngay dưới nền chùa Bình Cách do sư Sang trụ trì chùa và chú tiểu đào.
Cựu chiến binh Hoàng Công Củng, thôn Bình Cách Bắc, xã Đông Xá, huyện Đông Hưng

Cụm đình, đền, chùa, miếu Bình Cách có giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa và cách mạng của nhân dân Đông Xá, nơi các anh hùng, hào kiệt tụ hội về đây dấy binh, khởi nghĩa, nơi hoàng thân quốc thích Trần triều (Chiêu Dung Công chúa) từng về tu ở chùa Bình Cách.


Quang Viện

1. Video 2021


"



291 lượt xem 26 thg 10, 2021

"

https://www.youtube.com/watch?v=HGdQumBrJDg


..


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.