Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

01/10/2021

Kế hoạch mấy trăm cuốn sách dịch - nhìn lại sau nhiều năm (2004-2021)

17 năm về trước, bác Ngô Tự Lập có nói đến kế hoạch 500 cuốn sách. Xem toàn văn ở bên dưới.

Hiện không thấy có chỗ nào nói đến kế hoạch ấy nữa. Hãy đọc lại bản viết của bác Lập vào năm 2004:

"Theo tôi, nếu nói riêng về khoa học xã hội và nhân văn thì trí tuệ Ðông Tây Kim Cổ về cơ bản có thể gói gọn trong khoảng 500 cuốn sách quan trọng nhất, trong đó chúng ta đã dịch được chừng 50 cuốn với chất lượng tương đối tốt (triết học Trung Hoa, Marx và một số tác giả phương Tây khác). Nếu chúng ta tổ chức dịch được 50 cuốn/năm thì sau 9 năm chúng ta có thể hoàn thành kế hoạch. Còn nếu chúng ta dịch được 100 cuốn/năm, thì chỉ mất 5 năm. Lúc đó chúng ta mới có thể bắt đầu nghĩ đến một đội ngũ trí thức thực thụ. Tất nhiên, điều này khó khăn hơn không phải gấp đôi mà rất nhiều lần."

Từ năm 2004 đến nay đã là 17 năm, tức là khoảng 2 lần so với kế hoạch 9 năm, và hơn 3 lần so với kế hoạch 5 năm được trình bày ở đoạn trên.

Vậy tạm đặt một entry này để thử nhìn lại.

Các thông tin được cập nhật dán ở bên dưới như mọi khi.

Tháng 10 năm 2021,

Giao Blog


---

13.2.2004
Ngô Tự Lập

Kế hoạch 500 cuốn sách


Muốn phát triển đất nước nhanh chóng và bền vững, nhất là trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay, chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ trí thức đông đảo và có chất lượng cao. Ðây là một vấn đề rất lớn, và đang được toàn xã hội quan tâm. Hàng năm chúng ta dành một ngân sách không nhỏ để cử người đi du học tại các nước phát triển. Tuy nhiên, có một việc vô cùng quan trọng mà theo tôi chúng ta cần phải và có thể làm ngay, đó là tạo điều kiện để người Việt tiếp cận với những tác phẩm quan trọng nhất của nhân loại.

Trí thức, như chúng ta đều biết, là người vừa có nhiều kiến thức, vừa có xu hướng và khả năng tìm tòi các vấn đề mới và cách giải quyết các vấn đề ấy. Ðể người học có thiên hướng sáng tạo, chúng ta cần phải có một phương pháp giáo dục phù hợp. Nhưng nền tảng của sáng tạo là một cơ sở kiến thức vững vàng. Trí thức Việt Nam chỉ có thể có sáng tạo ngang tầm thế giới nếu như kiến thức của anh/chị ta ngang tầm thế giới. Nói một cách nôm na, trí thức Việt Nam chỉ có thể không thua chị kém em nếu như họ biết mình biết người.

Tình hình hiện nay, nói một cách thẳng thắn, là hết sức bi đát. Chúng ta có một số nhà trí thức trình độ đáng tự hào, nhưng nhìn chung thì chưa có tầng lớp trí thức thực thụ. Vấn đề lớn nhất của trí thức, và cả sinh viên - những trí thức Việt Nam tương lai - là không có khả năng tiếp cận kho tàng trí tuệ nhân loại. Nếu bạn nói với một người châu Âu rằng James Joyce chưa được dịch sang tiếng Việt, người ta hơi ngạc nhiên, nhưng còn thông cảm được. Nhưng nếu bạn nói rằng bạn không thể tìm được sách của Platon bằng tiếng Việt (trừ một cuốn mỏng, nếu tôi nhớ không nhầm, đó là cuốn Gorgias hay kháng biện luận về tu từ pháp, được dịch ở miền Nam trước 1975) thì khó ai tin được. Nhưng đó là thực tế. Và đâu phải chỉ có Platon: hầu hết các kiệt tác triết học, mỹ học, ngôn ngữ học...chưa bao giờ được biết đến ở Việt Nam. Vậy trí thức Việt Nam đọc gì? Làm sao họ có thể tiếp cận với nhân loại? Và làm sao họ có thể đối thoại ngang hàng với trí thức của các quốc gia khác? Nếu không cải thiện được tình trạng ếch ngồi đáy giếng hiện nay, mọi nỗ lực cải cái giáo dục sẽ đều vô ích.

Nghiên cứu lịch sử thế giới, chúng ta có thể thấy rằng hầu hết các cuộc canh tân thành công ở hầu hết các quốc gia đều bắt đầu bằng, hoặc được thúc đẩy bởi, dịch thuật, trong đó vai trò của các vị minh quân là vô cùng quan trọng. Có những vị vua như Alfred Ðại đế (871 - 899) của nước Anh không chỉ là người cổ vũ, mà thậm chí còn trực tiếp dịch những tác phẩm quan trọng nhất.

Dĩ nhiên người ta có thế đọc trực tiếp bằng nguyên bản hoặc thông qua một ngôn ngữ thứ ba. Nhưng trên thực tế, số trí thức Việt Nam dùng được ngoại ngữ là rất ít, trong đó số người thật thông thạo còn ít hơn nữa. Và ngay cả những người được coi là giỏi ngoại ngữ, chỉ là một phần nhỏ trong số "rất ít" của "rất ít" ấy - trừ vài ngoại lệ song ngữ hoàn hảo như Phan Huy Ðường, Ðặng Tiến, Trần Thiện Ðạo...- vẫn phải tư duy bằng tiếng Việt, và vì thế đọc tiếng Việt vẫn nhanh hơn. Nếu đọc một cuốn sách bằng tiếng Việt hết 3 ngày thì anh ta phải mất hàng tháng trời để đọc cuốn sách ấy bằng ngoại ngữ. Ðó là chưa nói đọc tiếng Việt "thấm" hơn nhiều. Ngoài ra, còn có một vấn đề lớn hơn cả vấn đề ngôn ngữ, đó là kiến thức. Chúng ta chỉ có thể thông thạo một vài chuyên môn hẹp, vì thế sẽ khó khăn hơn rất nhiều khi đọc các tác phẩm thuộc các lĩnh vực xa lạ. Rõ ràng, chúng ta cần phải chuyên môn hoá trong lĩnh vực dịch thuật: mỗi dịch giả chỉ dịch trong lĩnh vực và từ ngôn ngữ mình thông thạo mà thôi.

Một Viện hàn lâm dịch thuật hoặc một trường đào tạo dịch thuật ở trình độ cao, theo tôi là điều vô cùng cần thiết, nhưng có lẽ vẫn chỉ là một mơ ước còn lâu mới trở thành hiện thực. Vì thế, tất cả những trí thức Việt Nam phải hợp sức nhau lại, và phải hợp sức càng sớm càng tốt. Tuy đây là một sự nghiệp rất lớn, rất khó khăn, nhưng so với thế hệ của Nguyễn Văn Vĩnh, chúng ta thuận lợi hơn nhiều.

Số lượng tác phẩm trong kho tàng trí tuệ nhân loại thì bao la, nhưng chúng ta có thể và cần phải lựa chọn để đề ra một kế hoạch tối thiểu. Mục đích của kể hoạch này là giới thiệu một cách căn bản kho tàng trí tuệ của nhân loại một cách đáng tin cậy. Kế hoạch này phải được tiến hành một cách khách quan, kỹ lưỡng và khoa học, với sự tài trợ của nhà nước, kể từ khâu lựa chọn tác phẩm, chọn người dịch đến người biên tập và xuất bản tác phẩm. Việc dịch thuật các tác phẩm nằm ngoài kế hoạch tối thiểu này sẽ có thể làm đồng thời hoặc sau kế hoạch tối thiểu và có thể sẽ không cần có sự hỗ trợ của nhà nước nữa.

Mức tối thiểu là bao nhiêu cuốn?
Theo tôi, nếu nói riêng về khoa học xã hội và nhân văn thì trí tuệ Ðông Tây Kim Cổ về cơ bản có thể gói gọn trong khoảng 500 cuốn sách quan trọng nhất, trong đó chúng ta đã dịch được chừng 50 cuốn với chất lượng tương đối tốt (triết học Trung Hoa, Marx và một số tác giả phương Tây khác). Nếu chúng ta tổ chức dịch được 50 cuốn/năm thì sau 9 năm chúng ta có thể hoàn thành kế hoạch. Còn nếu chúng ta dịch được 100 cuốn/năm, thì chỉ mất 5 năm. Lúc đó chúng ta mới có thể bắt đầu nghĩ đến một đội ngũ trí thức thực thụ. Tất nhiên, điều này khó khăn hơn không phải gấp đôi mà rất nhiều lần.

Kế hoạch này có đắt không?
Các bạn thử tính: Nếu trung bình một dịch giả dịch 1 cuốn hết 12 tháng, và được trả mức lương 5 triệu/tháng (có thể được coi là rất cao) thì một năm chúng ta chỉ tốn có 3 tỷ đồng để có 50 cuốn sách. Nếu chúng ta có thể tài trợ cho 100 dịch giả để có 100 cuốn sách thì cũng chỉ hết có 6 tỷ đồng, tương đương với số tiền tài trợ cho 2-3 bộ phim truyện. Nếu lưu ý rằng những kiệt tác này được sử cho hàng triệu người dạy, học và nghiên cứu, trực tiếp hoặc gián tiếp trở thành hành trang trí tuệ của muôn đời con cháu chúng ta, bạn có thể hình dung lợi ích của nó đến mức nào.

Tất nhiên, khi đất nước còn nghèo thì vài tỷ cũng không phải là nhỏ. Nhưng theo tôi được biết, hàng năm các cơ quan nghiên cứu của ta đều được cấp một khoản kinh phí khá lớn cho nghiên cứu khoa học mà một phần không nhỏ bị lãng phí. Nhiều công trình chỉ hoàn thành lấy lệ mà không có giá trị thực tiễn. Tại sao chúng ta không sử dụng một phần nguồn kinh phí này, ít nhất là trong vài năm, để thực hiện việc dịch thuật các tác phẩm quan trọng của chính các ngành đó? Chuyện in ấn, theo tôi, hoàn toàn có thể dựa vào các tổ chức, các nhà sách tư nhân. Còn trong trường hợp xấu nhất, nếu không có nhà sách tư nhân nào nhận in, chúng ta cũng có thể đưa lên các bản dịch lên mạng cho mọi người tham khảo mà chẳng tốn kém gì. Ðó cũng chính là một hình thức giáo dục - một hình thức rẻ tiền, dân chủ, công bằng và với trình độ cao.

Kế hoạch nói trên là về khoa học xã hội và nhân văn, nhưng cũng có thể áp dụng cho khoa học tự nhiên.


© 2004 talawas

http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=171&rb=07




---


CẬP NHẬT


4.

Việt Nam học nhìn từ ngành xuất bản

Tác giả: Nguyễn Quang Diệu

Những công trình nghiên cứu về văn hóa – lịch sử Việt Nam nhìn từ bên ngoài được tổ chức dịch sang Việt ngữ và xuất bản trong 30 năm qua không nhiều, thiếu vắng sự hiện diện của nhiều nhà Việt Nam học lớn và các tuyến đề tài quan trọng.

Những công trình nghiên cứu của giới Việt Nam học quốc tế đã được dịch

Thời gian gần đây, độc giả trong nước ngày càng quan tâm nhiều hơn đến dòng sách khoa học nhân văn và lịch sử, đặc biệt là dòng sử Việt. Các cơ sở xuất bản (gồm nhà xuất bản và công ty sách) ở Việt Nam đã cố gắng khai thác dịch mới, hoặc tái bản, một số công trình nghiên cứu của các nhà Việt Nam học liên quan đến Việt Nam.

Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp của Eric T. Jennings, Làng báo Sài Gòn 1916-1930 của Philippe M.F. Peycam, Công giáo Việt Nam: Từ đế chế đến quốc gia của Charles Keith;[1] Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Chính sách của triều đình và phản ứng của địa phương của Choi Byung Wook, Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam của Emmanuel Poisson, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn của George Dutton, De Gaulle và Việt Nam (1945-1969) của Pierre Journoud, Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long của David Biggs, Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam của Edward Miller; Rút quân – Nhìn lại những năm cuối cùng của Mỹ tại Việt Nam của Gregory A. Daddis, Việt Nam thời dựng nước của Keith Weller Taylor, Lịch sử Hà Nội của Philippe Papin, Xứ Đàng Trong: Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18 của Li Tana, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa của Tsuboi Yoshinaru, Đề Thám (1846-1913): Một nghĩa sĩ Việt Nam chống lại thuộc địa Pháp của Claude Gendre, Buổi đầu quan hệ Mỹ-Việt (1787-1941) của Robert Hopkins Miller, Từ điển lịch sử Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh của Justin Corfield, Paul Doumer: Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), bàn đạp thuộc địa của Amaury Lorin. Trong đó, một số sách được phát triển từ luận án tiến sĩ của tác giả, 2/3 là sách dịch mới.

Ngoài ra, các cơ sở xuất bản cũng tổ chức dịch những công trình nghiên cứu của các nhà Việt Nam học thời kỳ trước, họ là những nhà nghiên cứu tiên phong và đã gặt hái được không ít thành tựu trong quá khứ. Những nghiên cứu ấy đến nay ít nhiều vẫn còn giá trị, là tài liệu tham khảo, trích dẫn cần thiết, như: Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV,[2] Tiểu luận về dân Bắc kỳ và Nghi thức tang lễ của người An Nam của Gustave Dumoutier, Kỹ thuật của người An Nam của Henri Oger, Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Pierre Gourou, Vương quốc Champa của Georges Maspero, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt của Léopold Cadière, Những người châu Âu ở nước An Nam của Charles Maybon, Phù thuật và tín ngưỡng An Nam và Tâm lý dân tộc An Nam của Paul Giran, Hội kín xứ An Nam của Georges Coulet, Đế quốc An Nam và người dân An Nam do Jules Silvestre cập nhật và chú thích, Đời Tổng giám mục Puginier của Louis-Eugène Louvet, Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp của Prosper Cultru, Nghệ thuật xứ An Nam của Henri Gourdon, Làng xã của người An Nam ở Bắc kỳ của Paul Ory, Đường sắt Pháp ở Đông Dương và Vân Nam của Frédéric Hulot, Điện thần và nghi thức hầu đồng Việt Nam của Maurice Durand.

Một số tác phẩm khác được viết theo lối du ký, hồi ký, ký sự hành trình nhưng ít nhiều có giá trị sử liệu về con người, xã hội và phong tục Việt Nam một thời cũng được dịch sang Việt ngữ gần đây: Hồi ký Xứ Đông Dương của Toàn quyền Paul Doumer, Hồi ký của một ông già Việt học của Cố Cả Léopold Cadière, Một chiến dịch ở Bắc kỳ của bác sĩ Hocquard, Du ký Trung kỳ theo đường cái quan của Camille Paris, Nam kỳ viễn chinh ký 1861 của Léopold Pallu, Đông Dương ngày ấy của Claude Bourrin, Hồi ức về kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX của Michel Đức Chaigneau, Nhà đoan, thuế muối, rượu cồn của nhóm tác giả, Nam biều ký của Shihōken Seishi… Trước đó nữa là các ghi chép, hồi ức của Châu Đạt Quan (周達觀), Christoforo Borri, Alexandre de Rhodes, Samuel Baron, William Dampier, Chu Thuấn Thủy (朱舜水), Thích Đại Sán (釋大汕), Pierre Poivre, John Barrow…

Cũng không quên nhắc đến những công trình nghiên cứu có giá trị đã xuất bản từ lâu nhưng đến nay đã tuyệt bản, hoặc vì in lưu hành nội bộ với số lượng hạn chế, nên độc giả rất khó tiếp cận như: Việt Nam 1946: Chiến tranh bắt đầu như thế nào? của Stein Tønnesson, Diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều: Từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam của Charles Benoit, Người Mường: Địa lý nhân văn và xã hội học của Jeanne Cuisinier, Người Pháp và người An Nam bạn hay thù của Philippe Devillers, Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông của Georges Cœdès, Hiểu biết về Việt Nam của Pierre Huard và Maurice Durand, Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV của A.B. Pôliacốp, Những cứ liệu mới về việc chép sử Việt Nam của A.L. Fedorin, Thế giới Hán hóa mới của Léon Vandermeersch, Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII của Insun Yu, Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939) của Jean-Pierre Aumiphin, Thừa sai Công giáo Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam (1857-1914) của Patrick J.N. Tuck, Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới (bộ 2 tập) và Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam (1951-1987) của Masaya Shiraishi, An Tĩnh cổ lục của Hippolyte Le Breton, Tỉnh Thanh Hóa của Charles Robequain, Lịch sử một thế kỷ nghiên cứu – Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam của Olivier Tessier và Pascal Bourdeaux, Thuốc phiện và chính quyền thuộc địa ở châu Á của Philippe Le Failler, Hà Nội: Tiểu sử một đô thị của William Logan…

Tây Nguyên là mảng tư liệu riêng khác, ở đó các nhà truyền giáo, nhân học, dân tộc học người Pháp đã đến định cư, định đô và để lại những di sản đồ sộ về văn hóa – lịch sử một vùng đất đặc biệt mà đến nay muốn tìm hiểu chúng ta buộc phải đọc các nghiên cứu, ghi chép của họ. Kể từ khi công trình kinh điển Pötao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai Đông Dương của Jacques Dournes được dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 2013, mãi đến năm 2021 mới có một nghiên cứu khác về Tây Nguyên được dịch mới, đó là Tọa độ: Cấu trúc gia đình và xã hội của người Jörai.[3]

Các công trình nghiên cứu của học giả người Việt

Bên cạnh những công trình của giới Việt Nam học quốc tế được liệt kê ở trên, các cơ sở xuất bản cũng đã tổ chức dịch những công trình nghiên cứu của các học giả người Việt đang sống và làm việc ở nước ngoài. Họ chủ yếu viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, mới nhất có hợp tuyển Việt Nam vận hội[4] của sử gia Nguyễn Thế Anh được in ở Việt Nam.

Một số luận án tiến sĩ được bảo vệ ở nước ngoài như: Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ, Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII của Nguyễn Thanh Nhã, Hoạt động ngoại giao của nước Pháp củng cố cơ sở tại Nam kỳ (1862-1874) của Trương Bá Cần, Giáo sĩ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) của Cao Huy Thuần, Giáo dục Việt Nam dưới thời thuộc địa: Huyền thoại đỏ và huyền thoại đen (phần 1 của luận án) của Nguyễn Thụy Phương… đều đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam trong nhiều năm qua.

Vài công trình nghiên cứu khác của các thế hệ học giả người Việt sống và làm việc ở nước ngoài như: Lịch sử Việt Nam: Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX của Lê Thành Khôi, Nhà trường Pháp ở Đông Dương và Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954): Nghiên cứu lịch sử xã hội của Trịnh Văn Thảo, Thiếu tiền: Văn hóa tiêu tiền trong các gia đình xuyên quốc gia với mức thu nhập thấp của Thái Cẩm Hưng,[5] Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận của Vĩnh Sính đã có bản dịch Việt ngữ. Trong đó, công trình của Lê Thành Khôi và Nhà trường Pháp ở Đông Dương của Trịnh Văn Thảo vẫn luôn được xem là những nghiên cứu nền tảng.

Một số công trình được xuất bản dưới dạng hợp tuyển, hoặc hợp tác nghiên cứu giữa các học giả người Việt với giới Việt Nam học quốc tế, có thể kể đến: Từ Đông sang Tây: Tập biên khảo về khoa học xã hội và nhân văn (hợp tuyển), Sư tử và rồng: Bốn thế kỷ quan hệ Hà Lan – Việt Nam (hợp tuyển), Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc, người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời (1862-1867) của Phan Thị Minh Lễ và Pierre Ph. Chanfreau, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam của Văn Tạo và Furuta Moto, mới đây nhất là ấn phẩm Phật bà bể Nam: Truyên Quán Âm Diệu Thiện tại Việt Nam của Nguyễn Tô Lan và Rostislav Berezkin.

Ngoài ra, còn một số bản dịch, hoặc trích dịch, của các nhà nghiên cứu người Việt liên quan đến sử liệu Việt Nam, như: Minh thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV-XVII và Thanh thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XX của Hồ Bạch Thảo, Khâm định An Nam kỷ lược của Nguyễn Duy Chính, An Nam truyện do Châu Hải Đường dịch và biên soạn, Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa của Cao Tự Thanh, Xiêm La quốc lộ trình tạp lục do Phạm Hoàng Quân dịch, chú.

Nhìn chung, trong nhiều năm qua, ngành xuất bản trong nước có xu hướng tập trung dịch thuật những công trình khảo cứu lịch sử chuyên sâu của giới nghiên cứu quốc tế, mang đến cho học giới và độc giả trong nước những góc nhìn mới từ bên ngoài, quan điểm tiếp cận mới, nhiều nguồn tài liệu sơ cấp cũng như phương pháp viết sử mới. Song song đó là tổ chức dịch thuật những sử liệu cũ liên quan đến Việt Nam từ nhiều nguồn giúp bổ sung, bổ khuyết cho chính sử. Ngoài ra, nguồn sử liệu về hình ảnh gần đây cũng được chú trọng khai thác.

Những tiềm năng và triển vọng còn bỏ ngỏ

Nhìn vào danh sách ấn phẩm đã xuất bản, chúng ta thấy thiếu vắng nhiều tác giả, sử gia uy tín: Philippe Langlet, Charles Fourniau, Pierre Brocheux, Daniel Hémery, Georges Taboulet, Étienne François Aymonier, Henri Parmentier, Jean Przyluski, Paul Pelliot, John Whitmore, David Marr, William J. Duiker, Alexander Woodside, Shawn McHale, Victor Leiberman, Peter Zinoman, Nola Cooke, Christopher Goscha, Bernard Fall, Stanley Karnow, Joseph Buttinger, Peter Phan, Matsumoto Nobuhiro, Fujiwara Riichiro, Yamamoto Tatsuro, Trần Kinh Hòa, Kim Vĩnh Kiện… Với các tác giả người Việt, vẫn còn đó những nghiên cứu (và luận án) của: Bùi Quang Tung (EFEO), Tạ Trọng Hiệp, Nhung Tuyet Tran, Hồ Tài Huệ Tâm, Ngô Vĩnh Long, Trương Bửu Lâm, Đặng Phương Nghi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thị Hạnh, Bùi Trân Phượng, Nguyễn Văn Ký, Phạm Thị Kiều Ly, Hoàng Anh Tuấn, Trần Quốc Anh… chưa được dịch.

Với sử gia Keith Weller Taylor, mãi đến năm 2020 ở Việt Nam mới chính thức ấn hành bản Việt ngữ Việt Nam thời dựng nước (Thiếu Khanh dịch), nguyên là luận án tiến sĩ được ông bảo vệ năm 1983. Hai mươi năm sau khi bảo vệ, chính Taylor đã hoài nghi những gì mình từng nhận thức về lịch sử Việt Nam, ông đã viết lại cuốn sách với quan niệm, nhận thức khác và đặt nhan đề là A history of the Vietnamese (Lịch sử của người Việt, Cambridge University Press, 2013). Năm 2003, K. Taylor trả lời trong một bài báo rằng, “trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ. Tôi đã nghĩ rằng chúng ta có thể nói về người Việt trong những thế kỷ trước kia như ta nói về người Việt hiện nay. Nhưng bây giờ tôi không nghĩ như thế nữa. […] Tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học.”[6]

Taylor lâu nay được nhìn nhận là nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất trong giới Việt học, để tìm thấy chính mình trong một khoảnh khắc vào 49 năm trước (năm 1972), ông đã đặc biệt cảm ơn và vinh danh một người, đó là giáo sư John Kremers Whitmore (1940-2020).[7] Đáng tiếc là cho đến bây giờ, chưa có công trình nào của Whitmore được xuất bản chính thức ở Việt Nam. Theo thống kê, John K. Whitmore đã xuất bản một chuyên khảo, có ba bộ sách viết chung, đứng tên chủ biên hoặc đồng chủ biên ba cuốn sách khác và là tác giả của hơn 40 bài báo khoa học. Luận án tiến sĩ The development of Le government in 15th century Vietnam (Sự phát triển của chính quyền Lê thế kỷ XV) được ông bảo vệ tại Đại học Cornell năm 1968 hoặc chuyên khảo Vietnam, Hồ Quý Ly, and the Ming (1371-1421) (Việt Nam, Hồ Quý Ly và nhà Minh (1371-1421))[8] là hai trong số những công trình nghiên cứu của Whitmore được trích dẫn rất nhiều.[9]

Đối với trường hợp Nguyễn Thế Anh, ông là một trong những sử gia người Việt nổi tiếng trên thế giới, được giới Việt Nam học quốc tế nể trọng, những công trình viết bằng tiếng Việt của ông từ trước năm 1975 vẫn được tái bản nhiều lần trong nước, nhưng Nguyễn Thế Anh đâu chỉ có vậy. Nguyễn Thế Anh có hơn 100 bài nghiên cứu, tiểu luận được viết bằng tiếng Anh và Pháp, Việt Nam vận hội (Nguyễn Thanh Hải, Trần Phương Hoa, Trần Hoài, Huỳnh Thị Anh Vân và Việt Anh dịch) chỉ là một phần rất nhỏ trong di sản đồ sộ của vị sử gia lão thành này. Đặc biệt, công trình Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam (1875-1925): Le crépuscule d’un ordre traditionnel (Chế độ quân chủ và yếu tố thuộc địa tại Việt Nam (1875-1925): Buổi hoàng hôn của một trật tự truyền thống, L’Harmattan, 1992) của ông là một nghiên cứu mẫu mực về triều Nguyễn, rất cần được dịch sang Việt ngữ.

Indochine, la colonisation ambiguë 1858-1954 (Đông Dương: Một nền thuộc địa nhập nhằng, giai đoạn 1858-1954, La Découverte, 1995) của hai sử gia Pierre Brocheux và Daniel Hémery có thể nói là cuốn sách gối đầu giường của mọi nhà nghiên cứu về Đông Dương thuộc Pháp; công trình nghiên cứu mẫu mực, khoa học và toàn diện về thực dân hóa của Pháp ở Đông Dương này đến nay vẫn chưa được tổ chức xuất bản chính thức ở Việt Nam. Khi nói đến hệ thống giáo dục (chính sách, chương trình, phương pháp, đội ngũ giáo viên…) của Liên bang Đông Dương, công trình nghiên cứu Une colonisation éducatrice: L’expérience indochinoise, 1860-1945 (Một chế độ thuộc địa vì giáo dục: Kinh nghiệm của Đông Dương (1860-1945), L’Harmattan, 2002) của Pascale Bezançon chắc chắn là tài liệu tham khảo, trích dẫn hữu ích không thể bỏ qua. Với chủ đề chính trị – xã hội Đông Dương, các ấn phẩm La vie quotidienne des français en Indochine 1860-1910 (Đời sống thường ngày của người Pháp tại Đông Dương (1860-1910), Hachette, 1985) của Charles Meyer, La société vietnamienne face à la modernité: Le Tonkin de la fin du XIXe siècle à la seconde guerre mondiale (Xã hội Việt Nam trước ngưỡng cửa hiện đại: Bắc kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đệ nhị thế chiến, L’Harmattan, 1995) của Nguyen Van Ky (tức Nguyễn Văn Ký) và Vietnam: domination coloniale et résistance nationale (1858-1914) (Việt Nam: Đô hộ thực dân và kháng chiến dân tộc (1858-1914), Les Indes savantes, 2003) của Charles Fourniau đều là những tài liệu tham chiếu quan trọng cần phải dịch.

Với Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long (David Biggs) đã được Trịnh Ngọc Minh dịch sang Việt ngữ năm 2019, độc giả trong nước có cơ hội thưởng thức một công trình nghiên cứu độc đáo về lịch sử môi trường, chủ đề khá xa lạ trong đời sống sách vở ở Việt Nam. Một nghiên cứu khác có nhan đề Rubber and the making of Vietnam: An ecological history, 1897-1975 (Cao su và nguyên nhân thành công của Việt Nam: Lịch sử về sinh thái giai đoạn 1897-1975, University of North Carolina Press, 2018) của sử gia môi trường Michitake Aso cũng là một dạng sách như vậy – lịch sử nhìn từ sinh thái học. Rubber and the Making of Vietnam: An Ecological History, 1897-1975, hiện chưa có bản Việt ngữ, nằm trong loạt sách “Flows, Migrations, and Exchanges” (Nhập hàng, Di chuyển và Trao đổi) do Mart A. Stewart và Harriet Ritvo biên tập, tập trung “xuất bản những công trình mới về lịch sử môi trường nhằm khám phá những hoạt động xuyên biên giới của con người và vật chất, hình thành nên một thế giới hiện đại, cũng như nhiều nỗ lực khác nhau của con người để tìm hiểu, điều hòa và quản trị những hoạt động đó.”[10]

Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp của Eric T. Jennings (Phạm Viêm Phương và Bùi Thanh Châu dịch), Công giáo Việt Nam: Từ đế chế đến quốc gia của Charles Keith (Phạm Nguyên Trường dịch), Việt Nam 1946: Chiến tranh bắt đầu như thế nào? của Stein Tønnesson (Lê Đức Hạnh, Phạm Đức Tuệ, Nguyễn Văn Sự và Nguyễn Xuân Thắng dịch) nằm trong loạt sách “From Indochina to Vietnam: Revolution and war in a global perspective”[11] (gồm tám ấn phẩm) để tưởng nhớ và tôn vinh biên tập viên Philip E. Lilienthal của University of California Press “nổi tiếng trong lĩnh vực sách nghiên cứu về châu Á bởi chất lượng công việc xuất sắc và sự ưu ái dành cho các tác giả trẻ”, do hai sử gia Christopher E. Goscha (Université du Québec à Montréal) và Fredrik Logevall (Cornell University) tổ chức, là bộ sách rất quan trọng về lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Công việc của các cơ sở xuất bản Việt Nam với bộ sách này vẫn chưa thể kết thúc.

Những tác giả đã từng được in ở Việt Nam như Gustave Dumoutier, Charles Maybon, Louis Malleret, Léopold Cadière, Maurice Durand, Pierre Gourou, Georges Coulet, Henri Maspéro, Auguste Bonifacy, Insun Yu, Li Tana, Philippe Papin, Andrew Hardy, David Biggs… vẫn còn những công trình quan trọng khác chưa được khai thác.

Những chủ đề về chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam, di dân và nhà nước ở vùng cao, khảo cổ học Đông Dương, mỹ thuật Đông Dương, công việc chép sử của người Việt xưa và hoạt động của Quốc sử quán, lịch sử chữ quốc ngữ, Phật giáo Á Đông và Việt Nam, chiến tranh Pháp – Thanh… vẫn còn đó những mảng trống lớn, hoặc vùng cấm, cần phải tổ chức dịch thuật những nghiên cứu từ bên ngoài.

Có những ấn phẩm khi dịch sang Việt ngữ không còn hoàn chỉnh, hoặc bị lược dịch, hoặc bị cắt bỏ nhiều ý, nhiều đoạn, một chương… so với nguyên bản. Điều này vô tình phá hỏng đi không khí phản biện, tranh luận, trao đổi học thuật từ học giới trong nước đối với các học giả quốc tế bởi cái nhìn từ bên trong và bên ngoài luôn cần bổ khuyết cho nhau.

Một vấn đề nữa, hiện tại các cơ sở xuất bản có xu hướng tập trung khai thác dòng sách viết bằng tiếng Pháp và Anh, nhưng Việt Nam học đâu chỉ có mỗi giới học giả phương Tây. Ở Nhật Bản, học giả Yamamoto Tatsuro (山本達郎, Sơn Bản Đạt Lang) đã rất nổi tiếng với bộ sách安南史研究 (An Nam sử nghiên cứu, 1950), học giả Momoki Shirou (桃木至朗, Đào Mộc Chí Lãng) với công trình中世大越國家の成立と变 (Sự hình thành và tiếp biến của nhà nước Đại Việt thời trung đại, Hội xuất bản Đại học Osaka, 2011). Ở Đài Loan, học giả Trịnh Vĩnh Thường (鄭永常) đã xuất bản血紅的桂冠:十六至十九世紀越南基督教政策研究 (Vòng nguyệt quế màu đỏ: Nghiên cứu chính sách Công giáo Việt Nam thế kỷ XVII-XIX, Đạo Hương xuất bản xã, 2015) và 征戰與棄守:明代中越關係研究 (Chinh chiến và từ bỏ: Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đời Minh, Tổ xuất bản Đại học Quốc lập Thành Công, 1998). Nhà Việt Nam học lừng danh từng sống và nghiên cứu ở Việt Nam là giáo sư Chen Ching Ho (陳荆和, Trần Kinh Hòa), hoặc giáo sư Kim Vĩnh Kiện (金永鍵, nghiên cứu Nhật Bản tại EFEO) với công trình印度支那と日本との関係 (Quan hệ Đông Dương và Nhật Bản, Fuzanbo, 1943) đến nay vẫn chưa được dịch và giới thiệu bài bản ở Việt Nam. Từ Trung Quốc, nhà Hán học Nhiêu Tông Di (饒宗頤), nhà sử học Trương Tú Dân (张秀民) cũng rất đáng chú ý…

Sự chung tay của giới xuất bản và nghiên cứu

Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, có nhiều nhà xuất bản trực thuộc trường đại học, quy tụ được các chuyên gia tổ chức xuất bản hoặc biên tập viên có trình độ, đã cho ra đời những công trình nghiên cứu mang tính tiên phong, ví dụ: Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyen and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century (Việt Nam và mô hình Trung Hoa: Nghiên cứu so sánh về chính quyền dân sự nhà Nguyễn và nhà Thanh nửa đầu thế kỷ XIX, Harvard University Press, 1971, chưa có bản Việt ngữ) của Alexander Woodside, Vietnamese anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân (1885-1925), University of California Press, 1971, chưa có bản Việt ngữ) của David Marr, hay Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the seventeenth and eighteenth centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Miền Nam Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Cornell University Southeast Asia Program, 1998, chưa có bản dịch trọn vẹn từ nguyên bản) của Li Tana…

Trong nhiều năm qua, một số Viện/Trung tâm nghiên cứu, Khoa sử ở Việt Nam đã tổ chức dịch một số sách dưới dạng dịch tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ, hoặc phục vụ cho công tác biên soạn những bộ quốc sử. Gần đây, vài tài liệu được đem ra xuất bản dưới hình thức liên kết, ví dụ: An Nam chí nguyênChân Lạp phong thổ kýVương quốc Champa. Vẫn còn đó những bản dịch quan trọng khác đang lưu hành nội bộ cần nâng cấp, tổ chức hiệu đính để xuất bản rộng rãi thay vì phủ chiếu đắp chăn trong bối cảnh nguồn lực của cả hai phía đều khá hạn chế.

Dịch sách và biên tập sách khảo cứu chưa bao giờ là công việc dễ dàng, dịch giả chỉ biết tiếng (Anh hoặc Pháp) thôi chưa đủ, cần phải có kiến thức nền, có sự tìm/am hiểu về chủ đề, lĩnh vực, thuật ngữ liên quan trong công trình mình dịch, đối với biên tập viên cũng vậy. Dịch sách lịch sử cũng khó làm việc độc lập, vẫn cần có sự hỗ trợ ít nhiều từ các chuyên gia/giới nghiên cứu biết Hán Nôm đối với một dịch giả chuyên dịch tiếng Anh và Pháp… Đối với các nguồn sử liệu Hán Nôm được tác giả dịch sang tiếng Tây khi viết sách, đôi khi được dịch ngược lại trong các bản Việt ngữ, khi đó nội dung trích dẫn chỉ còn diễn ý, khác biệt so với nguyên bản ít nhiều, điều này thường gặp trong các ấn phẩm đã xuất bản.[12]

Ngành xuất bản không chỉ thiếu dịch giả có chuyên môn mà còn đang rất thiếu chuyên gia thẩm định, khai thác, tư/cố vấn bản thảo. Độc giả mảng văn hóa – lịch sử trong nước cũng ít được đọc hoặc tiếp cận sớm (bản dịch) những nghiên cứu mới của thế giới hơn so với mảng kinh tế – quản trị hay văn chương. Trách nhiệm chính đến từ các cơ sở xuất bản, từ định hướng kinh doanh, từ thị trường, từ nghiên cứu dòng sản phẩm phù hợp tránh rủi ro tồn kho… và một phần là trách nhiệm của giới nghiên cứu. Cả hai bên chưa chủ động tìm đến nhau để hình thành sợi dây liên kết, để có những tham mưu, tư vấn, hình thành nên một dạng hội đồng cố vấn trong việc chọn sách, tổ chức dịch thuật, hiệu đính, viết lời giới thiệu/dẫn nhập… trong từng lĩnh vực, thay vì chỉ có những người có nhiều ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOL) giúp truyền thông, quảng bá sản phẩm như hiện nay.

Dịch sách triết học, văn hóa – lịch sử từ lâu đã là nhu cầu cấp thiết đối với nhiều quốc gia, người Nhật đã triển khai quy mô bài bản từ thời Minh Trị; người Trung Quốc cũng đã làm trăm năm nay với những dự án tùng thư dài hơi về các chủ đề lịch sử, chính trị, kinh tế, quân sự Đông Á nói chung, trong đó có không ít tác giả Việt Nam được dịch sang tiếng Trung; ở Đài Loan, quá trình dịch thuật đã diễn ra sôi nổi từ thập niên 1920[13]… Ở Việt Nam, cho đến nay, quá trình giao lưu dịch thuật hay nói khác đi là giao lưu học thuật qua con đường phiên dịch gần như là rất chậm.

Một tuyến đề tài khác chưa thấy các cơ sở xuất bản ở Việt Nam triển khai, rất cần được tổ chức, đó là tuyển chọn những bài tiểu luận/nghiên cứu lịch sử theo chủ đề đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín trên thế giới, quy tụ những góc nhìn của các chuyên gia Việt Nam học hàng đầu trong một cuốn sách. Có thể tổ chức dịch một số sách dạng “Tiểu luận” có sẵn, hoặc tự tổ chức riêng theo quan điểm tuyển chọn của nhóm cố vấn và ban biên tập từng cơ sở xuất bản cụ thể.

Viết sử, làm sử, nghiên cứu sử, phê bình sử không thể đi con đường độc đạo, không thể thiếu giao lưu học hỏi lẫn nhau. Dịch sách Pháp, Mỹ, Nhật, Trung, Hàn trước hết là để học hỏi từ họ những quan điểm mới, phương pháp, lối viết, học từ nhà nghiên cứu cho đến độc giả, sau là để hiểu thế giới họ đang nghiên cứu gì và nghĩ gì về mình. Chỉ khi tiếp cận được những công trình đỉnh cao để học tập, để giảng dạy, thì khi đó mới cải thiện được trình độ, mặt bằng chung của nền sử học nước nhà, ngành xuất bản cũng được hưởng lợi từ đó.

Xuất bản và nghiên cứu có mối dây liên kết chặt chẽ, không thể tách rời, đặc biệt trong ngành Việt Nam học. Với sự dịch chuyển trong nội bộ ngành xuất bản, sự vươn lên của các công ty sách tư nhân trong quan hệ liên kết với các nhà xuất bản nhà nước, vai trò tổ chức xuất bản (mua bản quyền, tổ chức dịch, hiệu đính, phát hành) đang thuộc về khối xuất bản tư nhân năng động. Để đi xa, phải đi cùng thay vì “độc hành kỳ đạo” như lúc này.

————–

[1] Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020. Sách lưu hành nội bộ, không bán.

[2] Xem thêm: “Cửa biển Việt Nam thế kỷ XV: Những khúc xạ địa lý học lịch sử” (link: https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/Cua-bien-Viet-Nam-the-ky-XV-Nhung-khuc-xa-dia-ly-hoc-lich-su-24194, truy cập ngày 29-10-2021).

[3] Xem thêm: “Tây Nguyên qua khám phá của các học giả Pháp” (link: http://nghiencuuquocte.org/2021/05/01/tay-nguyen-qua-kham-pha-cua-cac-hoc-gia-nguoi-phap/#_ftnref7, truy cập ngày 26-10-2021).

[4] Xem thêm: “‘Việt Nam vận hội’, góc nhìn Việt sử độc đáo từ bên ngoài của Nguyễn Thế Anh” (link: https://thanhnien.vn/viet-nam-van-hoi-goc-nhin-viet-su-doc-dao-tu-ben-ngoai-cua-nguyen-the-anh-post1100697.html, truy cập ngày 26-10-2021).

[5] Cuốn sách được hội Xã hội học Hoa Kỳ vinh danh là công trình nghiên cứu về châu Á xuất sắc nhất năm 2015, nghiên cứu về kiều hối – lượng tiền do người dân di cư hay làm việc ở nước ngoài gửi về cho thân nhân Việt Nam trong nước, một nguồn lực tài chính không nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển. Nguyên tác tiếng Anh: Insufficient funds: The culture of money in low-wage transnational families.

[6] Taylor trả lời phỏng vấn BBC: “Cái nhìn mới về Việt Nam” (link: https://www.bbc.com/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor, truy cập ngày 26-10-2021).

[7] Xem thêm: “Vietnam’s pathfinder” (link: https://mekongreview.com/vietnams-pathfinder/?fbclid=IwAR0ME3Pr7ddWEkn5vywxsuEgO7FrNknDiLBp_uV5P0v1PBpNQOubNVujUxA, truy cập ngày 26-10-2021).

[8] Yale Center for International and Area Studies, New Haven, Connecticut, 1985, 214 trang.

[9] Xem thêm: “John Whitmore, nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt về quá khứ của Đại Việt” (link: https://thanhnien.vn/john-whitmore-nha-nghien-cuu-quan-tam-dac-biet-ve-qua-khu-cua-dai-viet-post1059645.html, truy cập ngày 26-10-2021).

[10] Xem thêm: https://uncpress.org/series/flows-migrations-exchanges/.

[11] Xem thêm: https://www.ucpress.edu/series/iv/from-indochina-to-vietnam-revolution-and-war-in-a-global-perspective?fbclid=IwAR3XCKVpFub5aHlhqflCHYJpaIx-zCOqriX70ievPAThGCyHeN0yjejtTYo.

[12] Xem thêm: “Muốn nghiên cứu sử Việt, hãy học thêm chữ Hán và chữ Pháp” (link: https://tuoitre.vn/muon-nghien-cuu-su-viet-hay-hoc-them-chu-han-va-chu-phap-201803230954486.htm, truy cập ngày 1-11-2021).

[13] Xem thêm: “Dịch thuật sử học VN trong thế giới phẳng” (link: https://tuoitre.vn/dich-thuat-su-hoc-vn-trong-the-gioi-phang-711192.htm, truy cập ngày 1-11-2021).

http://nghiencuuquocte.org/2021/11/09/viet-nam-hoc-nhin-tu-nganh-xuat-ban/?fbclid=IwAR3aaQ4Y0BH-0Gat7YIJzR8BG0Dwx4QzcPNr940j8dqiS54hYpKpxoTLheM


3.

Thụy Khuê, nhà phê bình văn học mành mành

Trong cuốn Phê bình văn học thế kỷ XX, khi đăng trên Văn Việt, Thụy Khuê phê phán quyết liệt một “nạn dịch” của phê bình Việt Nam, đó là “cái gì người ta cũng muốn biết, biết nhanh, biết gấp, cho nên, tất cả đều chớp nhoáng, đến độ chóng mặt”. Trong bài Trả lời nhà báo Thụy Khuê (2016), chúng tôi đã chỉ ra rằng những điều đó thật ra lại rất phù hợp để nói về bà. Đó là chưa kể việc bà thuổng ý của Zenkin. Không trả lời, nhưng khi in thành sách, bà ngấm ngầm cắt bỏ những đoạn bị phê phán và hai đoạn thuổng của Zenkin.

Nhưng sự kiêu ngạo thì không đổi. Bà trả lời Tuổi trẻ: “Đúng là phê bình của chúng ta còn khá phôi thai. Sau khi đọc một số sách về lý luận phê bình văn học đã xuất bản trong nước, tôi nhận thấy phần lớn các sách ấy đều trình bày những lý thuyết phê bình thế giới theo lối: hoặc dịch hay chia các lý thuyết ra thành từng mảnh rời rạc, hoặc không đi đến tận cùng một vấn đề, hoặc đưa vấn đề ra một cách phiến diện, có thể gây hiểu lầm. Chưa kể chúng ta còn có thói quen không tiếp cận thẳng tác phẩm, mà thường đọc qua nhà nghiên cứu này, nhà phê bình kia của phương Tây, mà những “ông phương Tây” được chọn nhiều khi lại không phải là chuyên gia về vấn đề đó, hoặc có những sai lầm trầm trọng”1.  Bà chê bai không chỉ các tác giả Việt Nam, từ Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh (tr. 70) đến Trần Đình Sử (tr. 132-133), mà cả các tác giả nước ngoài, từ Pháp, Nga đến Mỹ, như ta sẽ thấy dưới đây. 

Tạ Duy Anh, người biên tập sách Phê bình văn học thế kỷ XX, ca ngợi: “Đây có lẽ là cuốn sách mà những người yêu văn học nước nhà chờ đợi từ lâu. Thụy Khuê, bản thân tên bà đã là một đảm bảo bằng vàng về sự nghiêm túc cũng như tinh thần khai phóng trong học thuật, không chỉ khảo cứu rất công phu những xu hướng chủ đạo bao trùm suốt thế kỷ 20 về sáng tác, phê bình văn học trên thế giới, mà còn – đây là phần đáng biểu dương nhất – có khả năng phi thường trong việc truyền đạt, diễn giải kiến thức đến bạn đọc khó có thể súc tích và rành mạch hơn, khiến những tư tưởng, những quan điểm lớn vốn vô cùng rắc rối, trừu tượng thậm chí mù mờ trở nên thú vị, hấp dẫn, sáng tỏ…”

Nhận xét của tôi hoàn toàn ngược lại. Cuốn sách của Thụy Khuê hết sức lộn xộn, cẩu thả và có vô số sai lầm mà nguyên nhân là bà rất ham nói to về những điều bà không biết và không hiểu.

Thụy Khuê tuyên bố rằng công trình của bà “là cuốn sách toàn cảnh về nền phê bình thế giới thế kỷ 20, nó sẽ giúp người nghiên cứu biết bản chất của văn chương và công việc của mình” 2. Hãy giở cuốn sách. Cái đầu tiên là Mục lục, và nó làm ta bật cười. Để viết một công trình toàn cảnh, ta phải có tư duy hệ thống để trình bày vấn đề dựa trên những tiêu chí thống nhất. Chẳng hạn, theo trường phái (Phê bình cấu trúc, Phê bình tâm phân học, Phê bình Marxist…), hoặc theo thời kỳ (Tiền hiện đại, Hiện đại, Hậu hiện đại), hoặc theo quốc gia (Nga, Pháp, Đức…). Còn đây là cách của Thụy Khuê: 

Chương 04: Phê bình phân tâm học của Freud

Chương 05: Ngôn ngữ học

Chương 06: Trường phái hình thức Nga

Chương 07: Những nhà cấu trúc Nga

Chương 11: Erich Auerbach (1892-1957)

Chương 13: Phê bình văn học Pháp – Jean-Paul Sartres

Chương 15: Maurice Blanchot – sự im lặng của văn chương

Thật chẳng khác gì phân loại bò thành bò tây, bò ta, bò cái và bò bị mất trộm! Nhưng xin các bạn đừng cười to quá, vì còn nhiều điều buồn cười hơn.

Thiếu tư duy khoa học đối với Thụy Khuê hóa ra lại là một ưu thế, vì nó cho phép bà viết một cuốn sách đồ sộ mà không cần nhiều công sức. Cách làm đặc trưng của bà là kể lể dông dài, đôi khi rất ngôn tình, về đời tư của nhân vật, kiểu: “Nhờ bài phê bình tập thơ Odes et Ballades của Victor Hugo mà Sainte-Beuve quen với nhà thơ nổi tiếng này; kết thân với gia đình Hugo và khoảng 1831, ông trở thành người tình của bà Hugo. Năm 1834, Sainte-Beuve đoạn tuyệt với Hugo, hai năm sau, chia tay với Adèle Hugo, rồi sang Lausanne ở một năm…” (tr. 44-45). Một cách khác mà bà hay sử dụng là đưa vào những đoạn trích dẫn rất dài (các trang 51-52; 53-54; 55-57 và rất nhiều chỗ khác) thay vì chiết xuất ra nội dung chính của chúng. 

Phần lớn những điều bà đưa vào sách là thông tin thiếu kiểm chứng, được lượm lặt một cách dễ dãi. Ví dụ về Bakhtin. Chuyện như sau: Vì mắc bệnh từ nhỏ, Bakhtin chưa bao giờ học đại học, làm nghề kế toán, nhưng chơi với một nhóm bạn, trong đó có Medvedev và Voloshinov, hai giáo sư đại học nổi tiếng. Tại nhà thủ lĩnh Medvedev, nhóm bạn thường tranh luận về học thuật. Theo lời Bakhtin, ông chỉ ngồi chầu rìa. Khi Bakhtin bị bắt giam vì chống chính quyền, Voloshinov và Medvedev, khi đó là trưởng đại diện NXB Quốc gia tại Leningrad, đã sửa chữa bản thảo cuốn sách về Dostoievsky của Bakhtin và đem in để gỡ tội cho bạn. Năm 1936, khi Bakhtin mãn hạn đi đày, Voloshinov đã chết vì lao phổi. Medvedev xin cho Bakhtin làm giáo viên tại một trường trung cấp sư phạm dành cho các dân tộc thiểu số mới thành lập, chỉ có 10 giáo viên (Năm 1957, trường này được nâng cấp thành đại học). Năm 1938, Medvedev bị Stalin xử tử. Năm 1946, Bakhtin được đặc cách bảo vệ luận án phó tiến sĩ. Những năm 1960, Bakhtin tuyên bố rằng ông là người viết tất cả các công trình kiệt xuất của hai người bạn đã chết. Nhiều người đã tin vào chuyện bịa đặt đó, như Jakobson trong Lời tựa bản dịch cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov (Minuit, 1977) và Aucouturier trong Lời tựa cuốn Mỹ học và lý luận tiểu thuyết của Bakhtin (Gallimard, 1978). Sau khi Liên Xô sụp đổ, việc khảo sát tài liệu lưu trữ đã bác bỏ những tuyên bố của Bakhtin. Tại Nga, người ta đã từ bỏ dự định gộp các công trình của Voloshinov và Medvedev vào Toàn tập Bakhtin. Hai tác giả Thụy Sĩ, Bronckart và Bota, trong cuốn sách hơn 600 trang Lột mặt nạ Bakhtin – câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bợm và một cơn mê sảng tập thể (Droz, 2011), bằng những khảo sát hết sức thuyết phục, đã khôi phục danh dự và tác quyền cho Voloshinov và Medvedev.

Tất nhiên, Thụy Khuê có quyền phản bác. Nhưng thay vì dựa trên cứ liệu, bà lại trích hai Lời tựa những năm 1970 của Jakobson và Aucouturier rồi phán: “Lời hai nhà nghiên cứu có uy tín trên đây giúp ta hiểu rõ hơn tình hình…”. Thật buồn cười. Hãy tưởng tượng: Ông X. dẫn ở đâu đó về mấy con chó. Vị trưởng thôn khả kính hỏi, ông X. nói: “Chó tôi nhờ người nuôi”. Về sau, công an thấy có đủ bằng chứng buộc tội ông X. ăn trộm, bèn tịch thu lũ chó để trả lại cho chủ cũ. Nhưng nhà phê bình uyên bác của chúng ta vẫn khăng khăng: “Ông X. không ăn trộm. Vị trưởng thôn khả kính giúp ta hiểu rõ tình hình!”

Một ưu thế khác của Thụy Khuê là ít hạ cố đọc ai. Một phê bình thực thụ khi bắt đầu viết về bất cứ điều gì đều bắt đầu bằng “Tổng quan tài liệu” - đó vừa là sự tôn trọng tiền bối, đồng thời là cách để chúng ta tiếp thu thành tựu và tránh sai lầm của. Nhưng Thụy Khuê không ứng xử như thế. Bà tung hoành như ở chỗ không người, hào hứng và cao ngạo phát minh lại những điều ai cũng biết.

Ví dụ là lý thuyết ngôn ngữ của Ferdinand de Saussure. Cuốn Cours de linguistique générale của ông đã có ít nhất hai bản dịch khá tốt, một của ĐH Tổng hợp Hà Nội (Khoa học Xã hội, 1973); một của Cao Xuân Hạo, cũng do NXB Khoa học Xã hội ấn hành. Hàng vạn sinh viên đã sử dụng các bản dịch này và đã quen với nhiều thuật ngữ như “Langue” (Ngôn ngữ), “Langage” (Hoạt động ngôn ngữ), “Parole” (Lời nói) v.v…

Nhưng Thụy Khuê dịch lại: “Langue là tiếng nói (như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt…); Langage là ngôn ngữ, bao gồm nhiều cách diễn đạt khác nhau (như ngôn ngữ loài chim, ngôn ngữ điện tử, ngôn ngữ con người, ngôn ngữ nhà văn…); Parole là lời nói (như lời anh Năm, chị Bảy…” (tr. 151)

Đoạn văn cho thấy rằng Thụy Khuê hoàn toàn không hiểu lý thuyết của Saussure. Xin hãy đọc chính Saussure qua bản dịch của Cao Xuân Hạo: “Nhưng ngôn ngữ (langue) là gì? Đối với chúng tôi, nó không đồng nhất với hoạt động ngôn ngữ (langage); nó chỉ là một bộ phận nhất định của hoạt động ngôn ngữ, tuy là bộ phận cốt yếu. Nó vừa là một sản phẩm xã hội của năng lực ngôn ngữ, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu được tập thể xã hội chấp nhận, để cho phép các cá nhân vận dụng năng lực này. Nhìn chung toàn bộ, hoạt động ngôn ngữ vốn đa dạng và kỳ lạ; nó cưỡi lên nhiều lĩnh vực, vừa vật lý, vừa sinh lý, vừa tâm lý, lại còn liên quan đến lĩnh vực cá nhân, lĩnh vực xã hội nữa; không thể đem xếp nó vào một phạm trù nào của các sự kiện nhân loại, vì người ta không biết làm thế nào để xác định tính thống nhất của nó. Ngược lại, ngôn ngữ tự nó là một thể hoàn chỉnh và một nguyên lý phân loại. Hễ đặt nó lên hàng đầu các sự kiện trong hoạt động ngôn ngữ, thì chúng ta đưa ngay được một trật tự tự nhiên vào một tổng thể vốn không thích ứng với cách phân loại nào khác”3.

Bất kỳ ai có kiến thức phổ thông về ngôn ngữ học cũng thấy rằng Thụy Khuê không hiểu bản chất cấu trúc luận trong lý thuyết của Saussure, nhất là sự phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói. Vì vậy, bà đồng nhất ngôn ngữ học với lý thuyết ngôn ngữ cấu trúc của Saussure và không biết rằng lý thuyết này đã bị Voloshinov (1929) và nhiều tác giả khác phê phán (Bà làm ra vẻ biết Voloshinov, nhưng nếu đã đọc, hẳn bà phải biết rằng Voloshinov chính là tác giả của Nguyên lý đối thoại cũng như các khái niệm Liên văn bản, Diễn ngôn, Thể loại diễn ngôn, Tiểu thuyết phức điệu và nhiều ý tưởng kiệt xuất khác). Chính sự phê phán ngôn ngữ học cấu trúc của Saussure đã mở đường cho Chủ nghĩa Hậu cấu trúc, về cơ bản là một tên gọi khác của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.

Có hàng trăm thuật ngữ thông dụng bị Thụy Khuê dịch lại như vậy, không phải là vì chúng không chính xác, mà vì bà không hiểu. Chẳng hạn, cặp thuật ngữ signifiant/signifié vẫn được dịch là “cái biểu hiện/ cái được biểu hiện” hoặc “cái năng biểu/ cái sở biểu”, được bà dịch lại là “chữ/ nghĩa”: “Từ sự phân tích hành trình của lời nói trên đây, Saussure mới định danh ba thành phần chính của tiếng nói, là ký hiệu (sign), chữ (signifiant) và nghĩa (signifié)” (tr. 157). Bà không hiểu rằng trong ngôn ngữ nói, signifiant là “âm” chứ không phải là “chữ”.

Từ arbitraire vẫn được dịch là “võ đoán” (Hoàng Tuệ, Cao Xuân Hạo), hoặc “tùy ước” (Nguyễn Văn Độ). Nay Thụy Khuê dịch lại là “Bất kỳ”. Sao lại “bất kỳ”? Sự tương ứng giữa “âm” và “nghĩa” của một từ, theo Saussure, hoàn toàn không bất kỳ, mà là một-đối-một. Có điều, chúng ta không thể, nói đúng hơn là không cần, giải thích một cách logic.

Không hiểu nên không nhất quán. Các từ “Style” và “Stylistique” vẫn được dịch là “Phong cách” và “Phong cách học”, riêng Thụy Khuê có chỗ dịch là “Văn phong” và “Văn phong học”, chỗ khác lại dịch là “Văn cách”: “Theo Bakhtin, tiểu thuyết nhìn toàn diện, là một hiện tượng nhiều văn cách (pluristylistique), nhiều lọng lẹo (plurilingual), nhiều cách phát âm (plurivocal)” (tr. 295).

“Nhiều lọng lẹo” là gì vậy? Sợ rằng đây là lỗi nhà in, tôi phải kiểm tra trên trang cá nhân của bà. Vâng, đó đùng là điều bà viết. Tại sao bà lại dịch “Plurilingual” (đa ngữ) thành “Nhiều lọng lẹo” – điều ấy chỉ có trời biết!

Rồi bà đồng nhất “Style” với “Écriture”: “Thực ra style và écriture đồng nghĩa, nhưng chữ écriture có vẻ mới hơn, trực tiếp và trần trụi giống như tính khí của Sartre” (sic!). (tr. 172). Bà trích dẫn cuốn Độ không của lối viết của Roland Barthes, đoạn phân biệt giữa style (phong cách) và écriture (lối viết), rồi phán: “Barthes có nhiều câu ‘bùa phép’ như thế: rất văn chương, rất trí thức, nhưng khó đoán ông muốn nói gì, vì vậy, lập luận này của ông không mấy thuyết phục: đã đành style có nguồn cội từ cơ thể, mà tại sao écriture lại không?” (tr. 503).

Dễ thấy rằng Thụy Khuê dựa vào bản dịch của Nguyên Ngọc. Ông dịch “écriture” là “lối viết” - rất hay và rất đúng. Nhưng người Việt dễ liên tưởng “lối viết” với “phong cách”. Thực ra trong tiếng Pháp, sự khác nhau rất rõ. Nói đơn giản, écriture là “sự viết”. Barthes rất tinh tế nhận thấy rằng ngôn ngữ là chung cho mọi nhà văn cùng thời đại, còn phong cách (style) gắn liền với tác giả. Nhưng khi sáng tác, nhà văn có thể chọn những lối viết khác nhau, phụ thuộc vào đối tượng, mục đích, bối cảnh, cam kết chính trị và nhiều yếu tố khác nữa. Barthes viết: “…giữa ngôn ngữ và văn phong vẫn còn chỗ cho một thực tại hình thức khác: lối viết. Trong bất cứ hình thức văn học nào, cũng có sự lựa chọn tổng quát một giọng điệu, một đặc tính, nếu ta muốn gọi như thế, và chính tại đây nhà văn tự cá thể hóa rõ ràng, bởi chính ở đây anh ta dấn thân”. (Nguyên Ngọc dịch, Bản điện tử: Talawas).

Bằng thứ kiến thức hời hợt như vậy, Thụy Khuê bác bỏ Trần Đình Sử khi ông viết: “Phê bình phân tâm học là một trường phái phê bình rất rất thịnh hành ở phương Tây ở nửa đầu thế kỷ XX. Sức ảnh hưởng của nó đối với phê bình văn học phương Tây đương thời có thể nói không phương pháp phê bình văn học nào sánh được”. Bà đưa ra bốn bài tiểu luận của Freud và phán: “Không hiểu tại sao chỉ một đoạn văn ngắn như vậy mà lại chứa nhiều cái sai như vậy? Thực ra phê bình phân tâm của Freud chưa bao giờ có ảnh hưởng đến độ không phương pháp phê bình văn học nào sánh được, vì có mấy ai biết đến những bài phê bình của Freud mà chúng tôi vừa giới thiệu ở trên, trừ một số rất ít người nghiên cứu văn học”. (tr. 133)

Vẫn cái bệnh không chịu đọc đến nơi đến chốn! Trong đoạn văn trên, Trần Đình Sử bàn về Phê bình phân tâm học, chứ không phải về Phê bình phân tâm học của Freud. Freud có thể viết rất ít, thậm chí không hề viết, về văn chương, nhưng người ta có thể dựa trên lý thuyết của ông để xây dựng một trường phái phê bình. Tương tự, ta có Phê bình Marxist, Phê bình Hiện tượng luận, dù Marx và Husserl viết rất ít về văn chương.

Trần Đình Sử có sai như Thụy Khuê phán hay không? Trong vô số ví dụ, tôi xin dẫn ra đây cuốn Literary Theory của Terry Eagleton, một trong những nhà phê bình văn học nổi tiếng nhất thế giới hiện nay. In lần đầu năm 1983, cuốn sách đã được tái bản hàng chục lần, với hàng triệu bản, trở thành cẩm nang của sinh viên khắp thế giới (Bản năm 1983 của tôi là bản in lần thứ 12). Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, cuốn sách có năm chương. Chương 1 bàn về sự xuất hiện và lên ngôi của các khái niệm “văn học” và “văn học dân tộc”. Chương 2 trình bày về ba trường phái Phê bình Hiện tượng luận, Phê bình thông diễn học và Phê bình Tiếp nhận. Chương 3 giới thiệu hai trường phái Phê bình Cấu trúc luận và Phê bình Ký hiệu học. Chương 4 dành trọn vẹn cho Phê bình Hậu cấu trúc và chương 5 dành cho Phê bình Phân tâm học. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của Phê bình hậu cấu trúc và Phê bình phân tâm học.

Thụy Khuê dành 42 trang cuối sách để chế giễu Chủ nghĩa Hậu hiện đại là “ảo tượng”. Trong bài phỏng vấn nói trên, bà nói: “Trường hợp lý thuyết hậu hiện đại mà tôi viết trong sách là một ví dụ sống động về sự “tam sao thất bản” này. Người Mỹ đã hiểu sai khi tiếp cận hậu hiện đại của Pháp và họ mang cái sai đó về bên kia châu lục, người Nga lấy lại cái sai đó của Mỹ và cuối cùng người Việt lại lấy cái sai đó từ Nga, cộng với việc dịch thuật không chuẩn thành ra méo mó hết cả”4.

Ở đây nữa, bà đồng nhất Chủ nghĩa Hậu hiện đại với một vài ý tưởng cụ thể của Jean- François Lyotard. Bà không biết rằng Chủ nghĩa Hậu Hiện đại là một trào lưu rộng lớn với nhiều tác giả mà tinh thần chung là chống lại những quan niệm của Chủ nghĩa Hiện đại, trong đó đặc biệt là quan niệm máy móc về thế giới, niềm tin vào Lý trí phổ quát và ý niệm Cái tôi bản thể. Vào thập niên 1920, Voloshinov, Medvedev và Vygotsky đã chỉ ra rằng “Lý trí phổ quát” không hề tồn tại và “Cái tôi bản thể” cũng chỉ là “tổng hòa các quan hệ xã hội” (Marx). Mọi hiện tượng tư tưởng, theo họ, đều có bản chất xã hội, và ý tưởng về cơ sở khách quan và phổ quát cho nhận thức các hiện tượng tư tưởng (khoa học, thẩm mỹ, đạo đức, tôn giáo, giới tính, chính trị…) chỉ là những kiến tạo xã hội, những câu chuyện lớn mà thôi. Những lập luận nền tảng này về sau được các nhà tư tưởng Hậu hiện đại phát triển: Lyotard phê phán đại tự sự, Derrida nghiên cứu quá trình Giải kiến tạo, Foucault phân tích quan hệ quyền lực trong diễn ngôn, Gramsci và Said giải phẫu bá quyền văn hóa, Barthes nói về cái chết của tác giả v.v…

Vì khuôn khổ của bài báo, chúng tôi chỉ muốn nói rằng nhận định của Foucault được Thụy Khuê trích dẫn cuối sách với giọng chế giễu rất đúng để nói về bà: “Khi ta chưa biết hiện đại là gì thì khó có thể trả lời cầu hỏi: Hậu hiện đại là gì”. (tr. 565).

Thật khó để khen một điểm gì đó trong cuốn sách của Thụy Khuê: chỗ đúng thì không mới, mà chỗ mới lại không đúng. Phong cách đặc trưng của Thụy Khê là không đọc nhưng ra vẻ đọc. Ở chương 8, Bakhtin và xã hội học văn chương, bà nói đến hai cuốn sách của Medvedev là Phương pháp hình thức trong khoa học văn chương (1928) và Thi học xã hội nhập môn (1928). Chắc bạn đang phì cười: Vì không đọc, Thụy Khuê không biết rằng “Thi học xã hội nhập môn” chỉ là cái phụ đề của cuốn Phương pháp hình thức trong khoa học văn chương mà thôi!

Buồn cười hơn nữa là đoạn về thủ lĩnh của Tiểu thuyết mới: “Alain Robbe-Grillet không viết một cuốn sách lý luận nào về chủ nghĩa hậu hiện đại, người ta lầm với cuốn Vì một nền tiểu thuyết mới (Pour un nouveau roman) của ông. Robbe-Grillet nổi tiếng từ thập niên 1950-1960, với ba tiểu thuyết chính: Những cục tẩy (Les gommes, 1953), Kẻ nhòm trộm (Le voyeur, 1956) và Bức mành mành (La jalousie, 1957)” (tr. 561).

Chắc bạn lại phá lên cười. Cuốn La jalousie kể về một chuyện mơ hồ, có lẽ là tình tay ba, giữa một phụ nữ, một người đàn ông (có lẽ là nhân tình) và người kể chuyện (có lẽ là chồng của người phụ nữ). Người kể chuyện này không xuất hiện, nhưng lại hiện hữu mọi nơi. Nếu đọc, hẳn bà phải biết rằng tên chính xác của cuốn tiểu thuyết là Ghen. Nhưng nhà phê bình khả kính Thụy Khuê không cần đọc. Vì trong từ điển, “Jalousie” có một nghĩa khác là “Bức mành mành”, bà có thể yên tâm bàn luận một cách uyên bác về “Bức mành mành”!

Một biểu tượng tuyệt vời. Xin trân trọng tặng bà danh hiệu ấy: “Nhà phê bình văn học mành mành”!

_______

1 Thư Hân, Phê bình văn học thế kỷ XX có mở đại lộ cho văn chương?

 2 Thư Hân, đã dẫn.

 3 Ferdinand de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, in lần thứ hai, NXB Khoa học xã hội, 2005, tr. 43-44.

 Thư Hân, đã dẫn.

Nguồn Văn nghệ số 41/2021

http://baovannghe.com.vn/thuy-khue-nha-phe-binh-van-hoc-manh-manh-23839.html?fbclid=IwAR0nVi_7CIGvCGo8R-NxPrCQpO_aw9hkb63UzUA6BM8LayQmMrfZZ6sWJJ0




2. Ngày 2/10/2021



XUẤT BẢN



Ông Vũ Trọng Đại cho rằng sách kiến thức nền tảng là hạt nhân của tri thức nên cần có một chương trình thiết yếu mang tầm quốc gia.


Y Nguyên

Ảnh: Việt Hùng

7 giờ trước

Một số nhà xuất bản, công ty sách đã xây dựng những tủ sách chuyên sâu ở một lĩnh vực nào đó. Omega+ là đơn vị đã xây dựng những tủ sách như “Tủ sách kinh điển”, “Tủ sách nghệ thuật”, “Tủ sách lịch sử”… được đông đảo bạn đọc đón nhận. Tuy nhiên, các tủ sách, chương trình sách như vậy vẫn còn nằm tản mát, chưa mang tính tổng thể.

Ông Vũ Trọng Đại, Giám đốc Omega+, nói về việc cần thiết có chương trình sách mang tầm quốc gia, cung cấp kiến thức thiết yếu về chính trị - xã hội, khoa học và văn hóa.

Sách khoa học nền tảng là hạt nhân, cốt lõi của tri thức quốc gia

- Ông nhận xét như thế nào về sách cung cấp kiến thức nền tảng hiện nay?

- Đầu năm 2016, khi chuẩn bị thành lập Công ty Sách Omega Việt Nam (Omega+), chúng tôi tiến hành một cuộc khảo sát: Tổng hợp danh mục sách khoa học xã hội xuất bản trong vòng 5 năm trước đó của một số nhà xuất bản và các công ty phát hành chủ chốt ở Việt Nam (không bao gồm sách giáo khoa, giáo trình) để có cái nhìn khái quát về bức tranh chung của thị trường. Chúng tôi nhận thấy một số điểm sau:

Thứ nhất, quy mô nhỏ bé của mảng sách này ở nước ta. Trên thế giới, mảng sách này chiếm tỷ trọng nhỏ, thị trường ngách, ước lượng của tôi, nó chiếm khoảng 5% ở các thị trường phát triển như Âu Mỹ và Đông Bắc Á. Thế nhưng, con số này ở Việt Nam khoảng 1%.

Ông Vũ Trọng Đại - Giám đốc Omega+. Ảnh: Việt Hùng.
Ông Vũ Trọng Đại - Giám đốc Omega+. Ảnh: Việt Hùng.
Chuong trinh Sach quoc gia anh 2

Ông Vũ Trọng Đại - Giám đốc Omega+. Ảnh: Việt Hùng.

Thứ hai, tình trạng xuất bản thiếu hệ thống khá phổ biến. Các đơn vị xuất bản cả nhà nước và tư nhân đã ấn hành sách vở thuộc nhiều thể loại: Kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa, giáo dục, tôn giáo-tín ngưỡng… Sách đã xuất bản có cả kinh điển lẫn thành tựu mới, nhưng hoặc chỉ chú trọng vào sách kinh điển, hoặc chỉ tác phẩm hiện đại, hoặc thiên về phương Đông hoặc thiên phương Tây, hoặc chỉ cổ vũ Quốc học (Việt Nam); đặc biệt là thiếu trầm trọng sách về khoa học tự nhiên.

Thứ ba, chất lượng sách không đồng đều. Chỉ có rất ít đơn vị xuất bản uy tín và một số tác giả, nhà nghiên cứu hàng đầu tạo ra các tác phẩm, công trình nghiên cứu, biên soạn và dịch thuật đảm bảo chất lượng, còn phần nhiều sách vở là lạc hậu, không có tiêu chí cho việc chọn lựa, đánh giá, thẩm định nội dung, biên tập…

Tôi cho rằng ba vấn đề trên phần nào phản ánh tình hình của ngành xuất bản Việt Nam trong giai đoạn 30 năm sau Đổi Mới: Mở cửa, thích nghi và hội nhập từng bước với thế giới, có cả cái cũ và cái mới đan xen, các tiêu chuẩn chưa được xác lập rõ ràng, còn thụ động trong việc tiếp nhận những làn sóng tri thức mới, chưa chủ động định hình và xác lập lộ trình cho mình.

- Kiến thức ngày nay không chỉ nằm trong sách mà tồn tại dưới nhiều dạng thông tin. Vậy theo ông, việc xây dựng những tủ sách cung cấp kiến thức nền tảng có cần thiết?

- Chắc chắn là cần thiết. Dù chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong bất kì nền xuất bản nào nhưng sách khoa học nền tảng luôn là hạt nhân, cốt lõi của tri thức quốc gia.

Việc hệ thống lại tri thức của từng ngành khoa học dưới hình thức các tủ sách cùng chủ đề là cách để một cá nhân hay một dân tộc có thể tư duy, học tập và vận dụng tri thức của nhân loại một cách có phương pháp, nắm được cả gốc rễ lẫn thành quả đương đại, từ đó sáng tạo và xây dựng nên tri thức của chính mình và dân tộc mình mà không bị lệ thuộc.

Sách giấy truyền thống chỉ là một trong nhiều hình thức chứa đựng nội dung, tri thức trong lịch sử. Và tôi cho rằng mỗi thời đại đều phát triển một công nghệ để truyền tải tri thức; hay nói cách khác, tri thức được truyền tải dựa trên công nghệ của thời đại đó.

Trong kỷ nguyên số, tri thức khoa học nền tảng được số hóa dưới nhiều định dạng, được cung cấp trên nhiều nền tảng công nghệ là tất yếu. Và cũng cần tránh lối suy nghĩ mặc định rằng những kiến thức khoa học nền tảng, hàn lâm, kinh điển chỉ phù hợp với sách giấy mà thôi. Ví dụ, đối với các nhà nghiên cứu, sách số chắc chắn tiện dụng hơn rất nhiều so với sách giấy trong việc tra cứu.

Ông Vũ Trọng Đại cho biết khi quảng bá sách khoa học nền tảng, đơn vị ông bất ngờ với khao khát đón nhận tri thức của công chúng. Ảnh: Việt Hùng.
Chuong trinh Sach quoc gia anh 3

Ông Vũ Trọng Đại cho biết khi quảng bá sách khoa học nền tảng, đơn vị ông bất ngờ với khao khát đón nhận tri thức của công chúng. Ảnh: Việt Hùng.

Sách vở khoa học nền tảng là một trong các bệ phóng của tăng trưởng

- Hiện nay, Cục Xuất bản, In và Phát hanh, Bộ Thông tin và Truyền thông, đang xây dựng đề án Chương trình Sách quốc gia. Ông nghĩ sao về chương trình này nếu được triển khai?

- Nếu đề án Chương trình Sách quốc gia được thông qua, tôi cho rằng đây sẽ là một thành tựu chính sách quan trọng.

Thứ nhất, lịch sử thế giới cho thấy nhiều quốc gia trước khi tăng tốc để trở thành nước phát triển đều chú trọng xây dựng và cổ vũ cho sách vở khoa học nền tảng như là một trong các bệ phóng của tăng trưởng. Ví dụ nước Nhật thời Minh Trị trong mấy thập niên cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 chứng kiến sự nở rộ của xuất bản và toàn dân đọc sách, dân trí và tri thức xã hội tăng lên nhanh chóng đồng thời với quá trình nước này trở thành cường quốc.

Thứ hai, sự tham gia của Nhà nước thông qua đề án này sẽ mang lại một số tác động quan trọng: Đẩy nhanh và mạnh qui mô của mảng sách cốt lõi này, đầu tư vào những đề tài xương sống mà một đơn vị xuất bản đơn lẻ khó thực hiện nổi, tiêu chuẩn hóa bộ qui tắc xuất bản sách khoa học mà hiện nay ở nước ta còn hỗn tạp trong khi trên thế giới từ hàng thế kỉ trước đã là hiển nhiên như Index.

Ngoài ra, tôi cũng tin rằng đề án này còn đóng vai trò cổ vũ tinh thần to lớn cho nhiều đơn vị xuất bản hơn nữa tham gia vào lĩnh vực vốn luôn bị coi là khó nhằn này.

- Với kinh nghiệm xây dựng những tủ sách của Omega+, theo ông, cần những yếu tố nào để thực hiện một tủ sách thành công?

- Thứ nhất, đó là tầm nhìn. Chúng tôi cho rằng tri thức phải được hệ thống hóa, không thiên lệch, có phương Tây và phương Đông, có cổ điển và hiện đại, cầu thị thế giới nhưng không bỏ qua Việt Nam, đồng thời nhạy bén và đón đầu những xu hướng mới. Trên bộ khung đó, chúng tôi lần lượt cho ra đời các tủ sách vào đúng lúc mà xã hội cần.

Nếu đề án Chương trình Sách quốc gia được thông qua, tôi cho rằng đây sẽ là một thành tựu chính sách quan trọng.

Ông Vũ Trọng Đại

Thứ hai, đội ngũ có trách nhiệm. Đội ngũ của chúng tôi gồm các chuyên gia đầu ngành của từng lĩnh vực, các cộng tác viên dịch thuật, hiệu đính, biên tập và nhân sự cơ hữu có năng lực phù hợp; tất cả họ đều có trách nhiệm cao trong công việc.

Thứ ba, quảng bá đến đại chúng. Chúng tôi tin rằng tri thức nền tảng phải được phổ cập rộng rãi. Chúng không nên là những vưu vật chỉ để cất giữ trong kho tàng, thư viện… Khi quảng bá sách khoa học đến với đại chúng, chúng tôi đã thực sự bất ngờ vì sức tiếp thụ lớn của độc giả và khao khát của họ với tri thức đủ mọi lĩnh vực; có lẽ trước đó do họ không biết đến chúng mà thôi.

https://zingnews.vn/can-mot-chuong-trinh-sach-nen-tang-mang-tam-quoc-gia-post1267969.html?zarsrc=31&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&fbclid=IwAR1chgw9IcwEvtpZWeTSd00hkujcRE6zJ61PbSUMNjX56Sn6JC_-II2RRGk

1.






Thời gian đọc: 21 phút

1

Không có thực hành nào diễn ra mà không đi kèm giả định về các khái niệm lý thuyết vừa thúc đẩy nó vừa giới hạn nó. Không có lý thuyết nào có thể được phát biểu mà quên xét đến tính vật chất của một thực hành cụ thể, các dạng thức và quy trình đặc thù của nó, giúp các khái niệm lý thuyết vừa chính xác trong tư duy vừa hiệu quả trong ứng dụng1[1]. Lý thuyết dịch thuật xây dựng các thông số khái niệm nhờ đó vạch ra được các vấn đề trong thực hành và tìm ra giải pháp cho các vấn đề đó. Nhưng các thông số này chỉ có thể đưa đến những vấn đề và giải pháp đặt ra từ các khái niệm khoanh vùng cho những thông số đó. Những vấn đề không được đặt ra từ các khái niệm này sẽ bị loại bỏ.

Lý thuyết dịch thuật có thể giúp phát triển các phương thức thực hành dịch sáng tạo, và thực hành dịch cũng có thể giúp hình thành các khái niệm lý thuyết sáng tạo. Lý thuyết không có ứng dụng thực tế sẽ trở thành thói nệ lý thuyết, thành sự suy tôn tư biện suông khiến dịch thuật trở thành một thứ mơ hồ trừu tượng. Thực hành nhưng thiếu suy ngẫm về lý thuyết sẽ dẫn đến thói nệ thực hành, thành sự suy tôn việc tìm giải pháp vấn đề khiến dịch thuật trở thành những lựa chọn từ ngữ riêng lẻ. Cả hai thái cực này đều dẫn đến việc vượt lên trên hoặc làm ẩn đi cái tình thế văn hóa và khoảnh khắc lịch sử quyết định bản chất và ý nghĩa của văn bản được dịch. Việc này càng đẩy mạnh quan niệm vị hiện tại (presentism), là thứ giúp duy trì hiện trạng của ngành dịch thuật cũng như của nền văn hóa tiếp nhận nói chung, bởi nó thất bại trong việc tạo dựng một cơ sở lịch sử cho việc phê bình các hiện trạng đó. Viện tới lịch sử có thể giúp ta phát triển một quan điểm phê phán đối với hiện tại, không quy giản về những đối lập tư tưởng hệ đang gây chia rẽ cái giao điểm hiện tại; mà thay vào đó, nhằm hình dung một khả thể trong tương lai[2].

 

2

Mọi cách diễn giải về văn bản luôn ngụ ý rằng văn bản đó đáng được đưa ra diễn giải, xóa bỏ sự phân biệt giữa thực tế và giá trị, đảm bảo rằng việc phân tích cũng đồng thời là đánh giá – kể cả dù kết quả đánh giá cuối cùng lại là không tích cực[3]. Không văn bản nào có thể được tiếp cận trực tiếp mà không thông qua sự trung gian của diễn giải, dù là diễn giải của người đọc khi đọc nó lần đầu, hay là có từ trước kinh nghiệm đọc ấy, định dạng cho hoặc thẩm thấu vào kinh nghiệm đọc ấy. Hơn nữa, dạng thức, nghĩa và hiệu ứng của mỗi văn bản lại thay đổi theo từng bối cảnh khác nhau mà nó được đặt vào; và vì thế, mỗi văn bản luôn có thể có nhiều cách diễn giải khác nhau, xung đột nhau, dù xuất hiện trong cùng giai đoạn lịch sử hay qua nhiều giai đoạn khác nhau.[4]

Do vậy, mọi văn bản ngoại văn bước vào quá trình dịch thuật đều đã đi qua sự trung gian của những thực hành diễn giải đặt nó vào trong một mạng lưới ý nghĩa. Một số thực hành ấy sinh ra trong nền văn hóa nguồn, trong khi một số khác nằm trong nền văn hóa tiếp nhận. Ngay từ khi người dịch bắt đầu đọc văn bản nguồn, nó đã lại đi qua một lần trung gian nữa, tức là được diễn giải một lần nữa, và sự diễn giải của người dịch cùng lúc nhìn theo cả hai hướng, không chỉ theo văn bản và văn hóa ngoại văn mà còn theo ngôn ngữ và văn hóa dịch. Tuy nhiên, cách diễn giải được khắc vào qua một bản dịch, suy cho cùng, vẫn nghiêng về tình thế nó được tiếp nhận. Dịch thuật, về cơ bản, mang tính đồng hóa.

 

3

Phân tích-đánh giá một bản dịch chỉ đơn giản bằng cách so sánh nó với văn bản gốc là một hành động tự huyễn hoặc mà cũng là tự khen mình. Việc so sánh luôn được thực hiện qua trung gian là các nghĩa diễn giải[5], là những nhân tố thực hiện một hành động diễn giải rất bạo lực, nhưng người phân tích-đánh giá lại thường không nhận ra những nhân tố này, vì thế nên đây là hành động tự huyễn hoặc. Các nghĩa diễn giải xuất phát từ khái niệm về tính tương đương, tức là mặc định rằng bản dịch có thể và phải tạo dựng được một mối quan hệ đăng đối với văn bản ngoại văn. Khái niệm này thường lấy một phần trong văn bản ngoại văn làm đơn vị dịch, có thể là từ hoặc câu đơn lẻ, hoặc đoạn văn hoặc chương, hay thậm chí toàn bộ văn bản đó. Tiếp đó, đơn vị văn bản nguồn này được cố định trong một hình thức, nghĩa hoặc hiệu ứng để tạo thành cơ sở đánh giá liệu đơn vị tương ứng trong văn bản dịch có tương đương hay không. Cuối cùng, một bộ mã hoặc một chủ đề được áp dụng để xác nhận rằng cặp đơn vị này là khớp nhau. Tuy nhiên, bộ mã hay chủ đề đó thực chất lại là cách diễn giải của người phân tích-đánh giá bản dịch đối với văn bản nguồn. Các nghĩa diễn giải giúp việc so sánh trở nên khả thi nhưng lại loại bỏ những khả năng diễn giải khác, phụ thuộc vào một khái niệm khác về tương đương, một quy ước khác về đơn vị trong dịch thuật, và một bộ mã khác. Diễn giải của người phân tích-đánh giá quá thường xuyên vừa bị kìm hãm vừa được ưu tiên đằng sau giả định mù quáng rằng mình có thể tiếp cận trực tiếp [không qua trung gian] đối với văn bản nguồn. Vì thế nên đây là hành động tự khen mình.

 

4

Kể từ xưa, trên khắp thế giới, tư duy về dịch thuật đã bị thống trị bởi một mô hình thuộc về chủ nghĩa công cụ: dịch thuật được hiểu là sự tái tạo hoặc dịch chuyển một thứ bất biến, được chứa trong hoặc gây ra nhờ văn bản nguồn, một hình thức, nghĩa hoặc hiệu ứng bất biến. Thời xưa, thứ bất biến này được đặt cơ sở trên một chân lý thiêng liêng hoặc một sự tôn phong thần thánh ngôn ngữ và văn hóa nguồn; sau đó, nó bị thế tục hóa thành một bản chất siêu hình.

Nhưng thứ bất biến đó không hề tồn tại. Nếu mỗi văn bản có thể có vô số cách diễn giải tiềm năng, thì nó cũng có thể có vô số cách dịch tiềm năng. Vì thế, mô hình dịch thông diễn học, xuất hiện vào đầu thế kỷ 19 và trải qua vô số những biến đổi từ đó đến nay, đã cho thấy là một mô hình toàn diện và thấu suốt. Mô hình này coi dịch là một hành động diễn giải, một hành động biến đổi hình thức, nghĩa và hiệu ứng của văn bản nguồn theo các lợi ích và các đặc tính khả thụ (intelligibility) trong tình thế tiếp nhận. Mô hình này thừa nhận các khác biệt văn hóa và ngôn ngữ mà việc dịch sinh ra để giải quyết nhưng lại không thể không nhân bội lên. Mô hình này không chỉ có khả năng bao hàm các điều kiện chồng lấn đan xen khi bản dịch được tạo ra và tiếp nhận, mà còn phân biệt rõ ràng giữa các điều kiện ấy.

Dịch thuật là một hành động bắt chước nhưng biến đổi. Nó có thể, và thường là vậy, tạo ra một sản phẩm đăng đối về ngữ nghĩa và tương tự về phong cách với văn bản nguồn. Nhưng những tương đồng này không bao giờ có thể trả lại nguyên vẹn văn bản ấy. Mỗi văn bản đều là một sản phẩm văn hóa phức tạp, mang những nghĩa, giá trị và chức năng không thể tách rời khỏi văn hóa và ngôn ngữ ban đầu của nó. Việc dịch đã diễn giải quá trình mã hóa [signification] và tiếp nhận trong văn bản ngoại văn bằng cách tạo ra một quá trình tương tự, mang theo những nghĩa, giá trị và chức năng không thể tách rời khỏi văn hóa và ngôn ngữ dịch. Sự thay đổi là không thể tránh khỏi.

Vì thế, sự bất tương thích ấy gây nên việc dịch mà lại gần như không chịu tác động của việc dịch. Tuy nhiên, thực tế này không ủng hộ những tuyên bố về cái gọi là bất khả dịch[6]. Những tuyên bố như vậy tất yếu dựa trên một khái niệm cụ thể về dịch thuật, về cách dịch thế nào là cần thiết và về sản phẩm cần thiết của việc dịch. Khái niệm đó đưa ra một mô hình dịch thuật theo chủ nghĩa công cụ, giả định có một thứ bất biến cần được tái tạo nhưng không thể tái tạo. Tuy nhiên, nếu mọi văn bản đều có thể diễn giải thì mọi văn bản đều có thể dịch.

 

5

Người dịch di chuyển giữa các đơn vị văn bản nguồn, bắt đầu từ cấp độ từ, nhưng vẫn luôn cân nhắc tới các đơn vị lớn hơn, và cứ đi lại giữa hai cấp độ đó. Không chỉ trong quá trình qua qua lại lại này mà còn cả trước và sau đó, bắt đầu từ lúc quyết định sẽ chọn văn bản nào để dịch, người dịch đã khắc vào một cách diễn giải bằng cách áp dụng một bộ nghĩa diễn giải phức tạp, cả về hình thức và chủ đề. Nghĩa diễn giải hình thức mang tính cấu trúc. Chúng bao gồm: công việc biên tập, từ chọn phiên bản nào của văn bản gốc đã được xuất bản cho đến tham khảo các dị bản để biên soạn lời nói đầu, chú thích v.v. cho bản dịch; một khái niệm về tính tương đương, có thể được xét lại khi người dịch nhận diện các vấn đề diễn giải khác nhau trong quá trình dịch một tác phẩm cụ thể; và một phong cách phù hợp với thể loại hoặc diễn ngôn được yêu cầu. Nghĩa diễn giải chủ đề là các bộ mã. Chúng bao gồm: một cách diễn giải văn bản nguồn được hình thành trong phần bình chú, độc lập với bản dịch; một hệ tư tưởng, được định nghĩa là tập hợp các giá trị, niềm tin, trình hiện phù hợp với lợi ích của một nhóm xã hội nhất định; chức năng mà bản dịch sẽ cần đảm nhận. Nghĩa diễn giải hình thức và chủ đề có thể quyết định lẫn nhau: một đặc trưng về phong cách, ví dụ như cách dùng thuật ngữ, có thể ủng hộ một cách diễn giải độc lập, một hệ tư tưởng và chức năng nào đó, và ngược lại.

Nghĩa diễn giải được áp dụng trong dịch thuật mọi thể loại, mọi kiểu văn bản trong bất kỳ ngành nào – nhân văn, thực tiễn hay kỹ thuật. Mọi bản dịch, dù ở thời nào và ở nơi nào, đều có thể được hiểu là một hành động diễn giải.

 

6

Nghĩa diễn giải được phái sinh từ các chất liệu sẵn có trong cả nền văn hóa nguồn và nền văn hóa đích, nhưng chúng đồng hóa một cách dứt khoát văn bản nguồn vào những gì được coi là dễ hiểu và thú vị với các đối tượng tiếp nhận trong văn hóa dịch, nếu không, bản dịch ra đời sẽ là một bản dịch thất bại.

Các chất liệu sẵn có bao gồm các dạng thức và thực hành văn hóa: mô thức dùng từ trong ngôn ngữ dịch, quá khứ và hiện tại, tiêu chuẩn và phi chuẩn; các truyền thống và quy ước trong việc soạn ra các sáng tác nguyên gốc, bao gồm phong cách, thể loại và diễn ngôn; các truyền thống và quy ước trong thực hành dịch và phê bình bản dịch, bao gồm các khái niệm lý thuyết và chiến lược thực hành; các mô thức tiếp nhận, trong lịch sử cũng như gần đây, bao gồm các bản dịch đã có của tác giả đó cũng như của các tác giả khác cùng ngôn ngữ; và các giá trị, niềm tin, trình hiện đã khắc sâu vào hệ tư tưởng. Các nghĩa diễn giải phái sinh từ đó một cách chọn lọc, bắt chước nhưng biến đổi các chất liệu đó, thậm chí chủ ý xét lại các chất liệu đó.

Dịch là hành động tự soi chiếu, nhưng người dịch không kiểm soát quá trình này một cách hoàn toàn có ý thức[7]. Rút ra các nghĩa diễn giải phái sinh từ chất liệu sẵn có và áp dụng chúng trong khi dịch là hành động có chủ ý. Nhưng người dịch không ngừng tích lũy các quy tắc và nguồn lực, chiến lược và giải pháp, mà một số có thể do họ nghĩ ra đầu tiên và một số thì không. Và vốn liếng này, dù cá nhân hay xuyên cá nhân, đều có xu hướng lùi sâu về trạng thái tiền ý thức, có thể được phát biểu và nhờ thế trở lại trạng thái ý thức nhưng nói chung được sử dụng một cách bản năng, thường tự phát mà không kèm theo suy nghĩ có tính phê phán. Hơn nữa, người dịch không thể nhận ra mọi điều kiện ảnh hưởng tới việc tạo thành bản dịch. Người dịch cũng không thể đoán định được mọi hệ quả của bản dịch, đặc biệt là bởi việc lưu hành và tiếp nhận mỗi bản dịch đều được thúc đẩy bởi một mạng lưới phức tạp những tác nhân, thực hành, phương tiện. Những điều kiện không được nhận ra và những hệ quả không được đoán định tạo nên vô thức của người dịch, vừa mang tính tâm lý vừa mang tính chính trị, một vốn liếng những khát vọng cá nhân chịu ảnh hưởng quyết định của những khát vọng tập thể[8].

 

7

Người dịch có thể và sẽ mắc những lỗi mà, cho dù bản dịch của họ có được kiểm tra kỹ lưỡng, vẫn bị bỏ qua. Người dịch mới có thể phân tích nhầm những đặc trưng cú pháp và từ vựng của văn bản nguồn chỉ đơn giản vì họ thiếu kinh nghiệm hoặc không tham khảo các nguồn thích đáng. Người dịch có kinh nghiệm có thể tránh các lỗi ngôn ngữ mà vẫn sai về mặt ngữ nguyên, nghĩa là đi lạc khỏi hoặc cố ý rời xa khỏi văn bản nguồn, viết lại nhằm tạo ra một cách diễn giải cụ thể.  Tuy nhiên, thực tế là một người dịch ở trình độ nào, dù lão luyện nhất, cũng có thể mắc lỗi ngôn ngữ mà không ý thức được, hoặc không phát hiện ra. Lỗi sai này có thể xảy ra vô thức: một đơn vị dịch trong văn bản nguồn đánh thức mong muốn hoặc lo âu nào đó của người dịch, nhưng mong muốn hoặc nỗi lo ấy ngay lập tức bị ức chế, chỉ để lại một cú nói nhịu minh chứng cho sự tồn tại của nó. Kiểu lỗi này có thể bị ảnh hưởng do uy tín của ngôn ngữ và văn bản nguồn, hoặc của tác giả văn bản so với tình thế văn hóa và thời điểm lịch sử khi bản dịch hình thành. Kết quả là, cú nói nhịu kia giống như một thách thức, một tra xét của người dịch, dù đó là sự cạnh tranh để tạo ra một tư cách tác giả – luôn có đặc trưng giới – ngang bằng với bản gốc, hay đó là một xung đột hệ tư tưởng thể hiện những mong đợi có tính không tưởng về đời sống xã hội[9]. Điều đáng nói nhất về các lỗi dịch thuật là chúng có khả năng đọc lên hoàn toàn có nghĩa đối với độc giả, và vì thế, không bị phát hiện.

 

8

Nghĩa diễn giải, giống như các chất liệu văn hóa nó phái sinh từ đó, nằm trong những thứ bậc về uy tín và thẩm quyền được đảm bảo nhờ những thiết chế xã hội. Các thứ bậc này xác định giao điểm hiện tại của nền văn hóa tiếp nhận, còn các thiết chế quy định các thứ bậc này có thể thay đổi bằng cách nào và đến mức nào.[10] Các thứ bậc hình thức và thực hành không chỉ thay đổi qua các giai đoạn lịch sử mà còn trong cùng một giai đoạn, giữa các nhóm văn hóa khác nhau và trong cùng một nhóm.

Nghĩa diễn giải ở vị thế thống trị được trao cho tính điển phạm, nó sở hữu vốn văn hóa, vốn biểu tượng và vốn kinh tế.[11] Nó cho phép bản dịch được lưu hành rộng rãi bởi làm cho nó dễ hiểu, đồng hóa văn bản nguồn vào những gì quen thuộc nhất và được coi là giá trị nhất trong nền văn hóa tiếp nhận. Nghĩa diễn giải ở vị thế phụ thuộc hoặc ngoại vi thì hoặc là dấu vết còn sót lại, duy trì từ những giai đoạn trước, hoặc đang trong quá trình xuất hiện, sinh ra từ các chất liệu mới vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi, và chúng có thể chịu sự kỳ thị của các hệ tư tưởng thống trị ở nhiều mức độ khác nhau.[12] Nghĩa diễn giải ngoại vi hạn chế phạm vi lưu hành của bản dịch bởi nó yêu cầu mức độ xử lý nhận thức lớn hơn, nó đồng hóa văn bản nguồn vào thứ ít quen thuộc và ít được coi là giá trị hơn. Tuy nhiên, sự thiếu quen thuộc này có thể gợi nên cảm giác xa lạ của văn bản ngoại văn, tính khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ của nó, dù chỉ là gián tiếp. Cảm giác xa lạ trong bản dịch là một kiến tạo, về căn bản có tính thách thức, là một sự vị ngoại, qua trung gian là các chất liệu của nền văn hóa tiếp nhận, và có tính đối nghịch với cái đang chiếm vị thế thống trị.

Diễn giải của người dịch không thể tránh khỏi can thiệp vào cái giao điểm nơi nó sinh ra khi nó hoặc công nhận hoặc thách thức các thứ bậc văn hóa. Áp dụng các nghĩa diễn giải ngoại vi là một hành động đạo đức, bởi nó chất vấn sự thống trị của các hình thức và thực hành điển phạm đối với văn hóa và văn bản ngoại văn. Áp dụng các nghĩa diễn giải thống trị có thể sẽ là vô đạo đức nếu nó bảo vệ hiện trạng và không ghi nhận sự khác biệt nào.

 

9

Ngày nay, trên khắp thế giới, các ngôn ngữ dịch có xu hướng bám sát văn phong chuẩn hiện hành. Xu hướng này rất rõ ràng trong nhiều thể loại văn bản, từ văn bản kỹ thuật, văn bản thực tiễn hay văn bản nhân văn, dù cho văn bản và ngôn ngữ nguồn có như thế nào và dù văn bản kỹ thuật và thực tiễn có thể chứa nhiều thuật ngữ hay các cách diễn đạt phi chuẩn. Văn phong chuẩn hiện hành là hình thức dễ tiếp cận nhất của một ngôn ngữ dịch, và khi áp dụng vào các bản dịch có độ trôi chảy cao, nó góp phần củng cố ảo tưởng về tính trong suốt, để bản dịch dường như không phải là bản dịch mà là văn bản gốc. Các nhà xuất bản và biên tập viên, các hãng đại diện và khách hàng, các học giả và giáo viên, người điểm sách và người đọc – bất kể là ai có thể trở thành độc giả dự kiến của bản dịch – đều không khuyến khích người dịch áp dụng các lối nói, phong cách và diễn ngôn đa dạng. Thay vào đó, các dạng thức và thực hành thống trị sẽ bị áp đặt để khiến bản dịch trở nên dễ đọc, và do đó, dễ bán, biến nó càng giống một món hàng càng tốt.

Ta không nên khuyến khích người dịch từ bỏ tính dễ đọc, trôi chảy và trong suốt, mà thay vào đó, nên mở rộng các thông số cho phép tạo nên những hiệu ứng văn bản này. Việc mở rộng này không thể tùy hứng mà cần cân nhắc kỹ lưỡng các đặc trưng ngôn ngữ của văn bản nguồn trong mối tương quan với các thứ bậc văn hóa của tình thế tiếp nhận, tạo dựng một nhu cầu thiết yếu cho cách diễn giải của người dịch. Đi chệch khỏi những chất liệu thống trị như phong cách chuẩn sẽ cho phép người dịch chịu trách nhiệm với sự biến đổi không thể tránh khỏi trong việc dịch, bởi sự đi chệch như thế sẽ thu hẹp hoặc hạn chế sự thống trị liên văn hóa của tình thế tiếp nhận. Chúng thể hiện sự tôn trọng đối với văn bản nguồn bằng cách cổ vũ sự sáng tạo trong nền văn hóa và ngôn ngữ dịch.

 

10

Các ngôn ngữ và văn hóa đều nằm trong các thứ bậc uy tín và nguồn lực toàn cầu, dựa trên nhiều điều kiện quyết định – kinh tế và chính trị, luật pháp và quân sự.[13] Những thứ bậc này có thể đi từ đa số hoặc thống trị đến nhiều vị thế phụ thuộc khác nhau cho các nhóm thiểu số tương đối hoặc ngoại biên. Những ngôn ngữ đa số như tiếng Anh và tiếng Pháp đã tích lũy được lượng vốn lớn đến mức các thực hành và dạng thức văn hóa của chúng trở thành đối tượng để các ngôn ngữ thiểu số bắt chước và dịch ra. Những ngôn ngữ thiểu số, đến lượt mình, lại tìm cách để được dịch sang các ngôn ngữ đa số nhằm được dùng chung nguồn vốn đó và được ghi nhận.[14]

Hệ thứ bậc như vậy tạo ra sự mất cân bằng trong các mô thức dịch. So với các ngôn ngữ thiểu số, các ngôn ngữ đa số thường được dịch ra nhiều nhất trong khi lại ít dịch từ các ngôn ngữ kia. Các ngôn ngữ đa số cũng thường xuyên dịch lẫn nhau, càng củng cố uy tín và nguồn lực của mình trong khi phớt lờ những ngôn ngữ ở các cấp bậc thiểu số khác nhau. Thứ bậc này cũng có thể thúc đẩy một mô hình dịch thuật thích hợp với nhiều vị thế khác nhau. Giả định về tính biến dị của dịch thông diễn có thể xuất phát từ quan điểm thiểu số mong muốn phát triển về mặt văn hóa và được ghi nhận, hoặc quan điểm đa số tự mãn với địa vị bá chủ và không nhìn ra được những giới hạn văn hóa của chính mình.[15] Giả định về tính bất biến của chủ nghĩa công cụ có thể xuất phát từ quan điểm thiểu số theo đuổi một thứ chủ nghĩa dân tộc về văn phong, đề cao khái niệm có tính bản chất luận về sự thuần nhất văn hóa và tính nguyên bản của tác giả, hoặc từ quan điểm đa số áp đặt một thứ chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ giúp bành trướng vị thế thống trị của ngôn ngữ đa số đó và kiểm soát các cách diễn đạt được khắc vào nhờ bản dịch.[16]

Tương tự như vậy, chức năng đạo đức của bản dịch cũng biến đổi theo sự thiếu cân bằng trong mức độ uy tín và nguồn lực. Bản dịch đảm bảo đạo đức vừa phơi bày khoảng trống trong các thiết chế của nền văn hóa tiếp nhận, vừa bổ sung vào những chỗ khuyết đó.[17] Người dịch sang các ngôn ngữ thiểu số vượt thoát khỏi vị trí ngoại biên bằng việc thúc đẩy phát triển văn hóa thông qua sự đối thoại với các nền văn hóa đa số. Người dịch sang các ngôn ngữ đa số chất vấn sự thống trị của nó bằng việc đón nhận những ngôn ngữ và nền văn hóa đã bị gạt ra ngoài.

 

11

Từ lâu, các bản dịch vẫn được đọc theo phương pháp công cụ, như thể chúng tái tạo hoặc dịch chuyển văn bản nguồn mà không xảy ra biến dị gì. Hướng tiếp cận này biến công sức diễn giải của người dịch trở nên vô hình. Người đọc thuận theo sự trong suốt ảo tưởng sinh ra từ việc dịch trôi chảy và từ đó, được trao cho vị thế chủ thể trong bất kỳ quyết định tư tưởng hệ nào được đưa vào qua bản dịch.

Để đọc bản dịch như một bản dịch, người đọc phải sử dụng một mô hình thông diễn để tìm ra và xử lý các dấu hiệu cho thấy công lao của người dịch. Không chỉ có phần nghĩa cần được hiểu, dù rất dễ bị quy giản coi đều là nghĩa của văn bản nguồn, mà phần hình thức cũng cần đánh giá phê bình xứng đáng, các đặc trưng ngữ vực, phong cách và diễn ngôn riêng có của ngôn ngữ dịch. Bởi mọi người dịch trên thế giới đều làm việc dưới một chỉ đạo diễn ngôn đòi hỏi dùng văn phong chuẩn hiện hành, những cách đi chệch, lệch chuẩn có thể được coi là dấu vết của sự can thiệp của người dịch. Việc so sánh với văn bản nguồn sẽ càng bộc lộ rõ các nghĩa diễn giải người dịch đã dùng, miễn là người đọc vẫn ý thức được rằng việc so sánh dựa trên một cách diễn giải khác, của người đọc, về văn bản nguồn, chứ không dựa trên bản thân văn bản đó.

Các lựa chọn từ ngữ của người dịch nên được nhìn nhận như những lựa chọn diễn giải tạo thêm sắc thái cho các cấu trúc và nghĩa của văn bản nguồn, như điểm nhìn trần thuật, xây dựng nhân vật, vận luật và hình ảnh, thuật ngữ và lập luận, chủ đề và tư tưởng. Ý nghĩa của các lựa chọn này càng rõ ràng khi chúng được đặt trong ngữ cảnh rộng hơn, bao gồm những bản dịch khác từ ngôn ngữ nguồn đó, các sáng tác nguyên bản trong ngôn ngữ dịch, và thứ bậc ngôn ngữ và văn hóa toàn cầu. Một đối thoại biện chứng phê phán có thể được mở ra giữa văn bản nguồn và văn bản dịch, nơi mỗi bên đem bên kia ra phê bình sát sao, bộc lộ những ưu thế lẫn hạn chế của nó. Khi tạo dựng những ngữ cảnh diễn giải đa dạng này, người đọc áp dụng một bộ nghĩa diễn giải thích hợp, bản thân chúng cũng khả biến bởi được dùng cho những hoàn cảnh diễn giải khác nhau.

 

12

Bản thân người dịch cũng góp phần vào sự hiểu lầm và thờ ơ ngày càng lớn mà dịch thuật gặp phải kể từ đầu thế kỷ XX, dù đã xuất hiện ngành mà ta gọi là nghiên cứu dịch. Những màn tự trình diễn của người dịch hầu như đều là những phát biểu có tính ấn tượng chủ nghĩa về sản phẩm của mình, về giá trị văn hóa và văn học của nó, về sự tương đương mà họ tin rằng mình đã đạt được so với văn bản nguồn. Họ mang một quan niệm có tính công cụ chủ nghĩa về sự tái tạo đơn giản, mà đối với người dịch văn học, quan niệm ấy đã biến thành sự phô diễn ngôn ngữ đẹp đề cao tính tự trị về thẩm mỹ mà họ đòi có cho bản dịch; đối với người dịch khoa học nhân văn, thành chủ nghĩa giáo điều đề cao những diễn giải thống trị mà họ khắc vào văn bản nguồn; đối với người dịch thực tiễn và kỹ thuật, thành chủ nghĩa chức năng ca tụng những giải pháp rập khuôn được áp dụng mà không màng tới những nhiệm vụ xã hội mà bản dịch cần thực hiện. Mỗi nhóm thực tế đã chọn lấy một thái độ bài trí thức với việc dịch, khước từ sự tự vấn lý thuyết có thể giúp họ phê bình và cải thiện sản phẩm của mình cũng như trình bày sáng tỏ về nó cho người đọc.

Người dịch có thể kháng cự lại vị thế ngoại biên bằng nỗ lực trở thành trí thức và người sáng tác. Họ có thể học hỏi các kiến thức chuyên sâu trong ngành và lĩnh vực của mình để đối thoại với các phương pháp, xu hướng, thảo luận hình thành nên các thực hành dịch. Họ có thể học cách nhìn nhận sản phẩm của mình trong các khung lý thuyết và thực hành, không chỉ các khung thiết chế mà còn cả các khung liên dân tộc, có tính đến các điều kiện văn hóa xã hội. Họ có thể dùng ngôn ngữ dịch để gián tiếp, theo cách riêng của nó, đưa vào những khác biệt của văn hóa, ngôn ngữ và văn bản nguồn, huy động chúng qua những sáng tạo thách thức các thứ bậc nâng đỡ cho các thiết chế xã hội và văn hóa ở tình thế tiếp nhận.[18] Là những tác nhân vận dụng cái xa lạ, người dịch có thể chọn cách phô phang triệt để cảm giác về cái “ngoại” xa lạ làm chiến lược để phê phán nguyên trạng.

 

13

Cụm từ “dịch văn hóa” là một từ thừa: dịch vốn đã là một thực hành làm trung gian giữa các nền văn hóa. Một mặt, cụm từ này tách rời ngôn ngữ ra khỏi văn hóa khi tư duy về dịch thuật, và mặt khác, làm ẩn đi phương tiện thực tế nơi việc dịch diễn ra. Vì thế, cụm từ này không chỉ cản trở tư duy về dịch thuật liên ngôn ngữ mà còn dung túng cho những bình luận tư biện phớt lờ các dạng thức và thực hành dịch có tính vật chất.

Chỉ bằng cách làm bật lên tính vật chất này thì tư duy về dịch thuật mới có thể tiến bộ thêm. Vì thế, việc thường xuyên sử dụng các hình ảnh ẩn dụ để mô tả dịch thuật chỉ càng làm ta trượt xa khỏi việc khảo sát gắt gao về dịch thuật như là một thực hành văn hóa. Nếu như các từ ngữ dùng để gọi tên và miêu tả dịch thuật từ xa xưa về cơ bản đều mang nghĩa ẩn dụ, nếu như bản thân ngôn ngữ cũng có tính ẩn dụ khi mô tả thực tại, tạo ra những phép so sánh dựa trên các giả định có tính ẩn dụ[19], thì việc sinh sôi vô tổ chức các ẩn dụ sẽ dễ rơi vào bản chất luận mà làm mờ đi dịch thuật.

Tương tự như thế, việc sử dụng khái niệm “dịch” như một ẩn dụ cũng cần suy xét. Sự di chuyển qua lại giữa nhiều loại phương tiện , mỗi phương tiện với hình thức và thực hành riêng, vẫn thường khiến người ta dùng đến chữ “dịch”. Trình diễn sân khấu, chuyển thể thành phim, nghệ thuật miêu tả tác phẩm hình ảnh bằng lời [ekphrasis], biên tập văn bản, trưng bày triển lãm – những thực hành này đều đã từng được coi là “dịch”. Tuy nhiên, cách gọi này thường quên suy xét xem chính xác thì khái niệm “dịch” ở đây có nghĩa là gì. Hầu hết những dịp đó, đấy là một khái niệm theo chủ nghĩa công cụ.

Dù vậy, việc dùng ẩn dụ cũng có thể có ích nếu nó giả định một mô hình thông diễn nêu ra một hành động diễn giải đạt được qua các đặc điểm vật chất của một phương tiện cụ thể. Khi đó, tư duy về dịch thuật có thể giúp soi rọi các lĩnh vực và chuyên ngành khác như ngôn ngữ lập trình máy tính, luật hiến pháp, và các mối quan hệ giữa nghiên cứu y học-chẩn đoán-trị liệu. Dịch thuật có thể trở thành hình mẫu chính cho các công việc có tính phái sinh, qua đó cho thấy bản chất phái sinh của chính chất liệu nguồn bằng việc kêu gọi chú ý tới những điều kiện ngầm ở dưới nhưng không được nói ra.[20]

 

14

Một mô hình dịch thuật là một hệ tri thức (episteme) mà chủ yếu chưa được phát biểu, vừa mang tính hệ hình vì bao gồm các quan hệ cơ bản giữa các thông số và quy trình của tri thức, lại vừa mang tính sản sinh, đề xuất ra những khái niệm lý thuyết và chiến lược thực hành mới.[21] Mô hình theo chủ nghĩa công cụ, bởi định nghĩa dịch thuật là tái tạo hoặc dịch chuyển cái bất biến, khiến bản dịch vượt ra ngoài thời gian và không gian; trong khi mô hình thông diễn, bởi định nghĩa dịch thuật là diễn giải khả biến, lại khiến bản dịch phụ thuộc vào những tình thế văn hóa cụ thể tại những thời điểm lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, sự phân biệt nhị nguyên bề ngoài này là lầm lẫn: hai cách tiếp cận cạnh tranh với nhau này đều là những cách diễn giải khác nhau về bản chất của dịch thuật, bởi mỗi mô hình đều là một kiến tạo có tính gợi mở, vừa cho phép vừa giới hạn tư duy về dịch thuật.

Tuy nhiên, nếu khẳng định rằng mọi bản dịch đều có thể được hiểu là một hành động diễn giải, và rằng cách hiểu này cho ta một giải thích toàn diện và thấu suốt nhất về dịch thuật, thì chẳng phải những khẳng định ấy cũng tìm cách vượt lên cái cụ thể, giống như chủ nghĩa công cụ, và vì vậy cũng siêu hình như thế sao?

Không. Ta cần nhận ra điều kiện thực làm nên những khẳng định ấy: chúng phái sinh từ, và nhằm để thách thức cũng như thay đổi, tình thế đương đại của ngành lý thuyết và phê bình dịch thuật, nơi chủ nghĩa công cụ vẫn đang chiếm vị trí thống trị và gạt mô hình thông diễn ra ngoài lề. Cách hiểu nào về dịch thuật sẽ xuất hiện trong tương lai để xét lại hoặc thay thế ý niệm “diễn giải” chính là những điều các luận đề đã bàn luận tại đây chưa suy xét đến.

Chiêu Dương dịch

[1] Tham khảo chuyên đề của Jacques Derrida, Theory and Practice, David Wills dịch, Geoffrey Bennington và Peggy Kamuf biên tập (Chicago: University of Chicago Press, 2019): “Hãy tin rằng mỗi lần bạn cố vượt qua ranh giới [déborder] đối lập giữa lý thuyết/thực hành, bạn đều đang làm một động tác mà đôi khi giống như thực hành, đôi khi giống như lý thuyết, và đôi khi là cả hai cùng lúc” (86).

[2] Đây là cải biên từ khái niệm “chủ nghĩa duy sử” theo quan điểm Marxist của Fredric Jameson, trong đó “không phải chúng ta là kẻ phán xét về quá khứ, mà đúng hơn, quá khứ, sự khác biệt triệt để của các phương thức sản xuất khác (và thậm chí của cái quá khứ ngay mới của phương thức sản xuất của chính chúng ta) mới là thứ phán xét ta, áp đặt cho ta cái tri thức đau đớn về điều mà chúng ta không phải, không còn là và vẫn chưa trở thành.” Xem Jameson, “Marxism and Historicism,” New Literary History 11/1 (1979): 41-73, tr.70.

[3] Barbara Herrnstein Smith, Contingencies of Value: Alternative Perspectives for Critical Theory (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1988), tr.10-11.

[4] Những phát biểu này tóm tắt các khái niệm của Jacques Derrida “inscription” (khắc vào) và “iterability” (sự lặp lại); xem “Violence and Metaphysics: An Essay on the Thought of Emmanuel Levinas,” Writing and Difference, Alan Bass dịch (Chicago: University of Chicago Press, 1978), tr.115, và “Signature Event Context,” Margins of Philosophy, Alan Bass dịch (Chicago: University of Chicago Press, 1982), tr.320.

[5] Thuật ngữ “nghĩa diễn giải” [interpretant] dựa theo khái niệm của Charles S. Peirce, The Writings of Charles S. Peirce: A Chronological Edition, 1867-1871, Edward C. Moore biên tập (Bloomington: Indiana University Press, 1984), 2:53-54; Umberto Eco, A Theory of Semiotics (Bloomington: Indiana University Press, 1976), tr.15, 69-71; và Eco, “Khái niệm ‘nghĩa diễn giải’ của Peirce,” MLN 91 (1976): 1457-1472.

[6] Một số ví dụ gần đây có thể xem: Barbara Cassin chủ biên, Vocabulaire européen des philosophies: Dictionnaire des intraduisables (Paris: Seuil, 2004); Cassin chủ biên, Dictionary of Untranslatables: A Philosophical Lexicon, Steven Rendall, Christian Hubert, Jeffrey Mehlman, Nathaneal Stein, và Michael Syrotinski dịch, Emily Apter, Jacques Lezra, và Michael Wood biên tập (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2014); và Apter, Against World Literature: On the Politics of Untranslatability (London: Verso, 2013).

[7] Một mô tả về tính tự quyết của người dịch, dựa trên Anthony Giddens, Central Problems in Social Theory: Action, Structure, and Contradiction in Social Analysis (Berkeley: University of California Press, 1979), chương 2.

[8] Cũng có thể suy nghĩ về bản dịch theo chiều hướng mà Fredric Jameson đã trình bày trong The Political Unconscious: Narrative as a Socially Symbolic Act (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1980).

[9] Quan điểm này tham khảo từ Eve Kosofsky Sedgwick, Between Men: English Literature and Male Homosocial Desire (New York: Columbia University Press, 1985), tr.1-5, 21-27, và Jameson, The Political Unconscious, tr.281-299.

[10] Tham khảo khái niệm “linguistic conjuncture” [giao điểm ngôn ngữ] của Jean-Jacques Lecercle trong The Violence of Language (London: Routledge, 1990), tr.201-208. Xem thêm Frank Kermode, “Institutional Control of Interpretation,” Salmagundi 43 (mùa đông 1979): 72-86.

[11] Xem Pierre Bourdieu, “The Forms of Capital,” Richard Nice dịch, trong John G. Richardson biên tập, Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education (Westport, CT:  Greenwood, 1986), tr.241-258.

[12] Những phân biệt này được nêu trong Raymond Williams, “Base and Superstructure in Marxist Cultural Theory,” Problems in Materialism and Culture: Selected Essays (London: Verso, 1980), tr. 31-49.

[13] Đây là một khái niệm về “world space” [không gian thế giới] được vay mượn từ các công trình của Pascale Casanova nhưng nhằm để khôi phục lại quan niệm của Althusser về tính tự chủ tương đối của các thực hành xã hội. Xem Casanova, The World Republic of Letters, M. B. DeBevoise dịch (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004), và “Literature as a World,” New Left Review 31 (tháng 1-2 2005): 71-90; Louis Althusser, “Contradiction and Overdetermination: Notes for an Investigation,” For Marx, Ben Brewster dịch (London: Allen Lane, 1969), tr. 87-128.

[14] Pascale Casanova, “Consecration and Accumulation of Literary Capital: Translation as Unequal Exchange,” Siobahn Brownlie dịch, trong Mona Baker biên tập, Critical Readings in Translation Studies (Abingdon: Routledge, 2010), tr. 287-303.

[15] Hành động thông diễn đầu tiên có thể thấy qua tác phẩm của nhà thơ và viết luận người Catalan J. V. Foix (1893-1987) trong cuộc đối thoại nhiều mặt của ông với phe tiền phong của chủ nghĩa hiện đại (qua các bản mô phỏng, bản dịch và bình chú); hành động thứ hai được thể hiện qua Imitations (1961), một tuyển tập các phóng tác của nhà thơ người Mỹ Robert Lowell (1917-1977).

[16] Nhà văn người Pháp gốc Czech, Milan Kundera minh họa cho cả hai hành động mang tính công cụ này, đầu tiên là tranh cãi với những dịch giả dịch tiểu thuyết tiếng Czech của ông ra tiếng Anh, và sau đó là quyết định viết bằng tiếng Pháp thay vì tiếng Czech và sửa lại các bản dịch tiểu thuyết ông ra tiếng Pháp.

[17] Một nguyên tắc đạo đức dịch thuật xuất phát từ Alain Badiou, Ethics: An Essay on the Understanding of Evil, Peter Hallward dịch (London: Verso, 2001), tr. 67-71.

[18] Tham khảo Edward Said, Representations of the Intellectual (New York: Random House, 1994).

[19] Xem Jacques Derrida, “White Mythology: Metaphor in the Text of Philosophy,” Margins of Philosophy, Alan Bass dịch (Chicago: University of Chicago Press, 1982), tr. 207-271.

[20] Tham khảo khái niệm “dịch bạo ngược” hay dịch thí nghiệm của Philip E. Lewis, khi “áp đặt một hệ thống khái niệm và ngôn ngữ mà nó phụ thuộc vào” cuối cùng lại “hướng cú phê bình trí mạng trở về phía văn bản mà nó dịch và đã trở thành một kẻ đến sau gây đảo lộn đối với văn bản đó (như thể bản dịch cố dọn vào ngôi nhà vốn đã đảo lộn của bản gốc, và từ đó hoàn toàn không thể “nội hóa” nó mà còn biến nó thành một nơi xa lạ với chính mình.)” Xem Lewis, “The Measure of Translation Effects,” trong Joseph Graham biên tập, Dierence in Translation (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1985), tr. 31-62, tr.43.

[21] Thuật ngữ “episteme” [hệ tri thức] dựa theo Michel Foucault, The Order of Things: An Archaeology of the Human Sciences, người dịch ẩn danh (New York: Random House, 1970), tr. xi, xxii, 168, và The Archaeology of Knowledge and The Discourse on Language, A. M. Sheridan Smith dịch (New York: Random House, 1972), phần IV.



(Bài gốc: “Theses on Translation: An Organon for the Current Moment“, Flugschriften, số 5 2019.

Chúng tôi xin chân thành cám ơn giáo sư Venuti đã giới thiệu và đồng ý cho Zzz Blog dịch bài viết này.)

https://blog.zzzreview.com/?p=4419

..



---

BỔ SUNG


2.

7 THÁNG TƯ, 2016
PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX (KỲ 1)


Thụy Khuê

Chương 1- Ý thức phê bình

Phê bình là một trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống, là một phản xạ trước mỗi lựa chọn, mỗi hành động, phát xuất từ ý thức bản thân: khi nghe một lời nói, một bản tin, một bài diễn văn, xem một phim, đọc một cuốn sách… ý thức phê bình luôn luôn hiện diện, “nó” âm thầm làm việc trong đầu, chỉ cho ta biết điều này nghe được, điều kia ngụy biện, đoạn văn này thâm thuý, bức tranh này xấu, bản nhạc kia hay, v.v.

Ý thức phê bình ai cũng có, nó tiềm ẩn trong óc, nhưng nếu muốn hiện ra bằng lời nói hay trên văn bản, nó phải “có gan” vượt thử thách qua hai môi trường gia đình và xã hội.

Ở phương Tây, sinh hoạt tri thức này sớm được vun xới trong gia đình: Con cái có thể tự do phát biểu trong bữa ăn, đưa ra những nhận xét độc đáo để phê bình cha mẹ, mà ít khả năng bị mắng, bị đánh. Do không bị ảnh hưởng Nho giáo và được sống dưới chế độ dân chủ, người Tây phương, thường có ý thức phê bình cao. Ý thức ấy, chẳng những không bị tiêu diệt từ trứng nước, mà còn có điều kiện phát triển trong toàn bộ sinh hoạt con người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Ở phương Đông thời trước, quyền huynh thế phụ là mẫu mực của trật tự xã hội; vì vậy, phê bình không những thiếu điều kiện phát triển mà còn bị đàn áp ngay từ đầu: Con cái chỉ có quyền nghe lời cha mẹ, chứ không được quyền phản đối. Việc đối thoại với cha mẹ, trong các gia đình Việt, cho đến nay hầu như vẫn chỉ ở mức độ thấp so với người Âu, ngay cả những gia đình quen thuộc văn hoá Tây phương, hoặc đang sống ở nước ngoài.

Truyền thống này có ảnh hưởng tới cá tính con người: sự rụt rè, e ngại, không dám phát biểu ý kiến của mình trở thành quán tính, đặc sản của người Á đông. Đó là hậu quả của nền giáo dục ảnh hưởng đạo Nho trong nhiều thế kỷ.

Tại những nước toàn trị phương Đông, vấn đề còn trầm trọng hơn: con người bị hai lần quản thúc: nề nếp Nho giáo trong gia đình kết hợp với hệ thống chính trị không chấp nhận bất cứ sự phê bình nào đến từ phía quần chúng, biến con người thành trẻ thơ vĩnh viễn, thành một bộ máy nhận lệnh mà không còn khả năng phán xét và phản bác những lệnh đó.

Yeonmi Park, một nhà văn trẻ gốc Bắc Triều Tiên, chạy khỏi nước năm 13 tuổi, kể lại trong một buổi phỏng vấn rằng: Khi cô sang Hàn quốc, đi học, được thầy đặt những câu hỏi như: em thích mầu gì, em muốn làm gì sau này, v.v. cô bé ngỡ ngàng không biết trả lời, bởi vì từ lúc sinh ra, chưa ai hỏi cô như thế. Tóm lại, phần gọi là ý thức phê bình hay khả năng lựa chọn trong cô hoàn toàn thiếu vắng. Chế độ khắt khe của Bắc Triều đã triệt hại đến cả khả năng lựa chọn của con người.

Nhưng có ý thức phê bình cũng chưa đủ để trở thành nhà phê bình.

Vận trình phê bình của nhân loại đã đi qua nhiều thế kỷ, những kết quả tìm thấy trong ngành phê bình không phải một ngày mà có, nó là một hành trình liên tục, xuyên nhiều thử thách, với những phương pháp, đến rồi đi, có cái dùng được, có cái lỗi thời, phải bỏ.

Việc bình văn thơ theo lối dạy học, khen, chê, câu này hay, câu kia dở, nơi nào, thời nào cũng có, nhưng phê bình văn học như một khoa học về văn chương, là một sản phẩm của Tây phương, chủ yếu phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX.

Dĩ nhiên Đông phương cũng có Kim Thánh Thán (1660(?)-1661). Khi Thánh Thán chú giải thơ Đường[1], cách làm việc của ông chính là một hình thức phê bình. Trước hết, ông đưa ra những nhận xét tinh vi, xoáy về ý nghiã của một chữ, về lịch sử chữ đó, về bối cảnh xã hội bao quanh chữ đó, rồi mới phát hiện ra cái hay của chữ, trước, và của câu thơ và bài thơ, sau. Vậy có thể nói Thánh Thán là cha đẻ đường lối phê bình ngôn ngữ học và triết ngữ học, ở phương Đông. Cách phê bình của Thánh Thán ngày nay vẫn không bị lỗi thời bởi ông trực tiếp khám nghiệm thân xác và linh hồn của chữ. Phan Khôi trong Chương Dân thi thoại chịu ảnh hưởng của Thánh Thán.

Tại Việt Nam, phê bình được đưa vào với nền Tây học, đã phát triển khá mạnh thời điểm 1934-35, với những tên tuổi nổi tiếng như Lê Thanh, Thiếu Sơn, Hải Triều, Trương Tửu, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan… Ngày nay nhìn lại những tác phẩm của họ, phần lớn đều đã lỗi thời, nhưng vẫn có những điểm vượt qua được sự gạn lọc của thời gian và tồn tại.

Người ta thường chỉ đề cao Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan, tác giả Thi nhân Việt Nam và Nhà văn hiện đại, là hai “ngôi sao sáng”, còn một số những tác giả có giá trị khác, như trường hợp Lê Thanh, bị bỏ quên, hoặc bị gạt ra ngoài lịch sử văn học trong một thời gian dài, như Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa.

Trương Tửu xuất hiện và nổi tiếng ngay từ 1935 với loạt bài trên tuần báo Loa, nhan đề Văn học Việt Nam hiện đại, trong đó ông đã phê bình Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Vàng và máu của Thế Lữ, và các tác phẩm của Lan Khai, Lưu Trọng Lư và Tam Lang[2]. Loạt bài này bị bỏ dở, nhưng đã cho thấy một khuynh hướng phê bình mới: khác với các lối phê bình luân lý, tiểu sử, giáo khoa, cảm tính… đang thịnh hành thời ấy, Trương Tửu đã sớm xác định phê bình là nghiên cứu phong cách nhà văn xây dựng tác phẩm và ông đã tìm thấy phong cách riêng của từng người.

Từ 1940 đến 1945, dưới tên Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu đi vào phê bình mác-xít và vận dụng chút ít phân tâm học của Freud, trong những tác phẩm Kinh Thi Việt Nam (1940), Nguyễn Du và truyện Kiều (1944), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1944), Văn chương truyện Kiều (1945).

Trong số những tác phẩm này, có lẽ chỉ Kinh Thi Việt Nam, sẽ còn trụ được lâu dài bởi khi vận dụng phương pháp mác-xít, Trương Tửu đã chứng minh được ca dao mà ông coi là Kinh Thi của Việt Nam, là hình thức cách mạng thường trực của người dân chống lại hệ thống quan lại và đạo đức khắt khe trong xã hội Khổng Mạnh.

Riêng các phần phê bình Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ qua tiểu sử tác giả và bằng phương pháp mác-xít, đối với thập niên 40, là tân kỳ, và ông cũng đưa ra những nhật xét mới lạ, gần như tàn nhẫn về con người Nguyễn Du qua phân tâm học. Nhưng ông đã lấy đấu tranh giai cấp làm căn bản, để phân tích xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, một cách không khoan nhượng. Lập luận này, ngày nay đã thấy lộ những nhược điểm không thể chối cãi được: Một là, vì chúng ta không biết rõ tiểu sử Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, và xã hội Việt Nam thời ấy như thế nào. Hai là, trong xã hội Việt Nam cũng không có sự đấu tranh giai cấp như xã hội Âu Châu, không có các tầng lớp “bóc lột” như hoàng gia, giáo hội, quý tộc, trưởng giả, v.v. Vì vậy, những gì Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa trình bày trong những sách này, chỉ là những giả tưởng về giai cấp, về cuộc đời Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, cốt sao cho phù hợp với quan điểm đấu tranh của ông mà thôi.

Còn về phân tâm học, Freud cũng chỉ dùng phương pháp phân tâm cho những người bệnh tâm thần hiện diện trước mắt, vì vậy không thể dùng phân tâm học để “phân tâm” Nguyễn Du, bởi vì chúng ta không đứng trước mặt Nguyễn Du, chúng ta không biết gì về ông, trừ vài dòng tiểu sử ghi trong Liệt truyện. Khi áp dụng vào phê bình văn học, Freud cũng chỉ dùng phân tâm để giải thích những giấc mơ và giải nghiã những đoạn văn bí mật, khó hiểu.

Phê bình phân tâm cũng như phê bình mác-xít, đã được các tác giả tôn vinh một thời và sử dụng như những phương pháp mới lạ: Hồ Xuân Hương cũng được nhiều người dùng phân tâm học để “phân tích” những “ẩn ức dục tính” của bà. Vấn đề ở đây vẫn là: Vì ta không đứng trước mặt Hồ Xuân Hương, chúng ta chưa xác định được Hồ Xuân Hương có thực hay không, Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh Hồ Xuân Hương, tác giả Lưu Hương Ký, không thể là tác giả những bài thơ oái oăm, dâm, tục. Tạ Trọng Hiệp đưa ra giả thuyết: có một hay nhiều ông đồ Nghệ cợt nhả làm những bài thơ này. Vậy ta không thể “phân tâm” một người mà ta chưa biết là ai, có hay không, đàn ông hay đàn bà, và gán cho họ những “ẩn ức dục tình, dâm đãng”…

Vấn đề Hồ Xuân Hương đã được Nguyễn Văn Trung phân tích từ năm 1978, trong bộ Lược khảo văn học, tập 3, một cách sâu sắc và toàn diện.

Tóm lại, hai phương pháp phê bình mác-xít và phân tâm, xuất hiện cuối thế kỷ XIX, có những giới hạn của nó, đòi hỏi sự thận trọng, khi vận dụng.

Trường hợp Lê Thanh, cho ta một kinh nghiệm khác, ông sử dụng lối phê bình tiểu sử của Sainte-Beuve (1804-1869), được truyền vào Việt Nam qua bộ văn học sử Pháp của Lanson (1857-1934): Histoire de la littérature française, 1894 (Lịch sử văn học Pháp), mà hầu hết các nhà phê bình và nhà giáo Việt Nam đều chịu ảnh hưởng.

Lê Thanh cũng dùng phương pháp này, trong thời kỳ 1934-1935. Như trên đã nói, Lê Thanh không được mọi người chú ý như trường hợp Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan. Nhờ Lại Nguyên Ân sưu tầm tập Lê Thanh Nghiên cứu và phê bình văn học[3] mà chúng ta có cái nhìn toàn diện về công việc của Lê Thanh (1913-1944) trong buổi đầu của phê bình Việt Nam.

Lê Thanh, theo phương pháp phê bình lịch sử của Sainte-Beuve (sẽ nói đến trong một chương sau), trong những cuốn Thi sĩ Tản Đà (1939), Tú Mỡ (1942), Trương Vĩnh Ký (1943) ngoài việc phê bình thơ Tản Đà, Tú Mỡ, ông còn nghiên cứu kỹ về cuộc đời các tác giả, về xã hội Việt Nam. Chưa ai soạn thư mục Trương Vĩnh Ký đầy đủ như Lê Thanh. Đặc biệt cuốn Cuộc phỏng vấn các nhà văn (1943), ông tìm hiểu con người nhà văn bằng cách trực tiếp phỏng vấn những học giả, nhà văn cùng thời với ông như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Đôn Phục, Ngô Văn Triện, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Long, Đào Duy Anh. Những bài phỏng vấn này đào sâu tâm lý, cách suy tưởng, lối làm việc và lối sống của nhà văn, là những tư liệu quý giá, ít có ở Việt Nam; bởi vì, khác với Tây phương, người Việt không chú ý đến việc ghi lại tiểu sử đầy đủ và đúng của nhà văn, thậm chí chúng ta không một cuốn sách nghiên cứu tiểu sử sâu sắc nào về một nhà văn lớn, từ trước đến giờ.

Tóm lại, phê bình đã có những thăng trầm, các khuynh hướng đến rồi bị đuổi đi, lối phê bình tiểu sử đã bị coi là lỗi thời, nhưng các tác phẩm của Lê Thanh sẽ còn tồn tại lâu dài, bởi ngoài việc phê bình, ông còn để lại những chân dung văn học đúng đắn và chi tiết của một số người cùng thời, qua đó ta có thể hiểu thêm được về đời sống văn học.

Nếu ngày nay các tác phẩm của Trương Tửu, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan đã ít nhiều bụi bậm, thì tác phẩm của Lê Thanh, một người gần như xa lạ đối với chúng ta, sẽ còn trụ lại như những tư liệu văn học quý giá cho hôm nay và mai sau.

Nói về Lê Thanh, chúng tôi không quên câu ông viết năm 1944, trước khi mất về bệnh lao:

Vào khoảng năm 1934, 35… trong văn học đã có một cái dịch phê bình; giở những tạp chí, những tờ báo xuất bản vào trong những năm ấy, ta thấy nhan nhản những bài phê bình [...] một số nhà văn ta tưởng rằng phê bình dễ. Đọc một quyển sách, họ cứ việc khen chỗ này, chê chỗ kia, rồi muốn dài dòng thêm nữa, họ thêm: Ở trang 90, có một câu văn viết không đúng mẹo, ở một đoạn kia thiếu một cái phẩy…””[4]

Vấn đề Lê Thanh đề cập tới năm 1944, vẫn còn tồn tại đến bây giờ nhưng dưới một dạng thức khác: Nếu thời trước, Lê Thanh cho rằng cái “dịch phê bình” là người ta viết “phê bình” một cách ngẫu hứng “tức cảnh sinh tình”, thì ngày nay, cũng có nhiều người lấy phê bình làm một dạng phô trương “trí thức”, họ thường độn vào bài biết những danh từ to lớn, những luận thuyết thời thượng, những tên tuổi triết gia nổi cộm, mà dường như họ cũng không hiểu gì.

Bởi cái gì người ta cũng muốn biết, biết nhanh, biết gấp, cho nên, tất cả đều chớp nhoáng, đến độ chóng mặt. Nạn dịch này, không chỉ ở Việt Nam, mà đâu cũng có, nhà xã hội học Pháp Pierre Bourdieu, đã từng gọi là “dịch chữ mới” (novlangue) do sự toàn cầu hoá đem lại.

Đối với Việt Nam, còn có một lý do khác: Sau thời gian dài khép kín với thế giới Tây phương, đến thời đổi mới, kinh tế được mở cửa, hàng hoá ùa vào trong đó có cả văn chương.

Có hai sự kiện nổi bật, tiêu biểu cho lối tiếp thu quá nhanh theo “kinh tế thị trường”, đôi khi tai hại này:

1- Gần đây có cuốn sách đả phá Bakhtin khá ồn ào. Việc này thực ra chẳng cần nói, nhưng vì Ngô Tự Lập làm rùm beng trên các mạng, nên chúng tôi xin có vài lời giải thích với độc giả không chuyên, nhất là với những người mới tiếp cận với phê bình văn học:

Năm 2011, xuất hiện cuốn sách tựa đề Bakhtine démasqué: Histoire d’un menteur, d’une escroquerie et d’un délire collectif (Bakhtine bị lột mạt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể) của Jean-Paul Bronckart và Cristian Bota, thuộc đại học Genève, Thụy Sĩ.

Câu chuyện nguyên do như sau: Mihail Bakhtin (Pháp phiên âm là Mikhail Bakhtine) là nhà phê bình lớn vào bậc nhất của Nga, trong thế kỷ XX, trong thời kỳ ông còn bị chế độ Xô-viết cấm in sách (1925-1929), có bốn cuốn sách của ông phải in dưới tên mượn của hai người bạn và cũng là môn sinh của ông: Volochinov và Medvedev[5]. Hiện giờ, trong bản dịch tiếng Pháp, những sách này được in lại dưới tên Bakhtine, kèm theo tên Volochinov và Medvedev trong ngoặc. Việc này cũng không có gì đáng nói vì những tác phẩm chính của Bakhtin vẫn in tên Bakhtin mà thôi.

Cuốn sách Bakhtine démasqué, của Bronckart và Bota, với cái tựa “giật gân” như bom nổ, chắc muốn nhắm vào số đông người đọc hiếu kỳ, hy vọng sách sẽ bán chạy và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếc rằng Bakhtin không phải là một tác giả “bình dân”, “ăn khách”, đại đa số quần chúng không biết ông là ai, cho nên có “lột mặt nạ” ông cũng vô ích. Sách này ra được năm năm mà mới có hai bản dịch sang tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Giới văn học chân chính không mấy chú ý.

Chính cái tựa: Bakhtine bị lột mặt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể đã có tính chất quá tải: đổ lên đầu Bakhtin tới ba tội: giả mạo bị lột mặt nạ, man trá, lừa đảo, và đổ lên đầu những người làm văn học là một lũ mê muội. Những chữ đao to búa lớn như thế, thích hợp với môi trường anh chị mà các học giả không quen dùng. Bởi vì, bất cứ việc nghiên cứu nào cũng phải lấy sự cẩn trọng của mình và sự tôn trọng người mình phê phán làm đầu, người nghiên cứu đích thực không kết án hồ đồ, cũng không mạ lỵ, trước khi chứng minh.

Hai tác giả người Thụy Sĩ này viết tiếng Pháp, để “chứng minh” Bakhtin “đạo văn” qua các bản dịch văn và lời nói của Bahktin từ tiếng Nga sang tiếng nước khác, vì họ không rành hay không biết tiếng Nga. Sự việc này chẳng khác nào một người Pháp “chứng minh” Nguyễn Du đạo văn qua một bản dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, với những lời tuyên bố của Nguyễn Du được dịch sang tiếng Pháp. Theo Serge Zenkine, những bản dịch này nhiều chỗ dịch sai, trái nghiã với lời nói và văn bản của Bakhtin.

Việc “lột mặt nạ” này không phải là hiếm trong lịch sử văn học Tây phương, người ta đã từng “chứng minh” Homère không phải Homère, Shakespeare không phải Shakespeare. Bakhtin cũng không qua khỏi cái nạn này.

2- Còn một trường hợp thứ hai nữa cũng khá tiêu biểu: Muốn biết nhanh, biết hết, người ta học trước cái ngọn mà không cần biết cái rễ: Lý thuyết Hậu Hiện Đại được một số người trình bày như một chân lý tân kỳ, có nhiệm vụ “chỉ đạo cho sáng tác”.

Tình trạng này đã làm rối loạn giới sáng tác, nhất là đối với các nhà văn trẻ có tài, mới bước vào đời văn, chưa hiểu rõ các quy luật sáng tạo, đã vấp phải bóng ma Hậu Hiện Đại, như một con khủng long có nhiều chân rết, mỗi người nắm một mảng mà không biết toàn thể nó thế nào. Con khủng long này gây áp lực gián tiếp, ép buộc người viết trẻ lúc nào cũng phải viết cho “mới” cho “hậu hiện đại”, khiến họ hoảng loạn, chùn bước, mỗi khi đặt bút, sợ mình viết không đủ “mới”, không đủ “hậu hiện đại”. Một số khác lại hiểu “hậu hiện đại” là sốc, là xếch, là dám viết những dâm ô, thô tục, dã man, tàn bạo, chưa ai viết, v.v.

Cần phải nói rõ rằng: các lý thuyết văn học phần lớn chỉ để tìm hiểu sáng tác chứ không chỉ đạo cho sáng tác. Sáng tác là việc làm cá nhân, cô đơn, không ai giống ai, không ai bắt chước ai, nếu có bắt chước cũng chỉ lúc đầu, sau phải tách rời thầy để làm nên sự nghiệp riêng của mình.

Những cái gọi là phong trào hay trường phái là do những người làm văn học, chủ yếu những người viết văn học sử, đặt tên để gọi những trào lưu đã xuất hiện trong khoảng thời gian nào đó, như trào lưu cổ điển, trào lưu lãng mạn, trào lưu siêu thực, trào lưu hiện thực… và mỗi trào lưu này, lại gắn bó với một tư tưởng triết học cùng thời. Nhà văn nhà thơ có thể đưa ra những bản tuyên ngôn hay quy luật sáng tác cho phong trào mà họ làm chủ soái, như Breton với siêu thực và Alain Robbe-Grillet với tiểu thuyết mới, tuy nhiên đó cũng chỉ là những quy ước, với siêu thực là “sáng tác trong mơvới tiểu thuyết mới là “truyện không có chuyện” và các tác giả trong cùng một trường phái cũng vẫn hoàn toàn sáng tác theo chủ ý của mình.

Hậu Hiện Đại là một triết thuyết của J.F. Lyotard, bàn về vấn đề số phận của tri thức trong thời kỳ tin học. Ra đời năm 1979, cho đến nay, nó chưa có một ảnh hưởng nào có thể gọi là thực tiễn trong sáng tác văn học. Bởi vì cuốn sách triết học này không chủ yếu nói về lý thuyết văn chương. Nhưng được đại học Mỹ thổi phồng trước tiên và sau đó nó chạy đi khắp thế giới như một cái “dịch”. Sở dĩ có hiện tượng này vì sau phong trào Hippies ở Mỹ và cuộc “cách mạng văn hoá 1968” ở Pháp, khiến de Gaulle, được coi là độc tài vì kiểm duyệt truyền thanh, truyền hình, phải từ chức, mọi người khát khao một lập thuyết mới, làm kim chỉ nam để xây dựng một “xã hợi mới”. Lyotard chủ trương phải đào thải những gì có tính cách kinh điển, như hệ thống triết học của Hegel, của Mác… để lập một “thế giới tự do và bình đẳng” hơn.

Triết thuyết của Lyotard chỉ nổi lên một thời như một cái mốt, và sau đó bị bỏ rơi ở Pháp (chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề Hậu Hiện Đại trong chương chót của cuốn sách này). Nhưng ảnh hưởng của nó đã đi quá xa, sang Mỹ, sang Nga, đến nước ta, và đi vào mọi ngõ ngách, chỗ nào cũng thấy hơi hướm hậu hiện đại, thậm chí có những bài phê bình đem cả các tác giả từ Vũ Trọng Phụng đến Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, v.v. vào danh sách hậu hiện đại!

Đó cũng là hậu quả của việc thiếu ý thức phê bình, khiến chúng ta nhắm mắt tiếp nhận những lý thuyết mới của nước ngoài mà không đào sâu, phân tích và tìm hiểu đến nơi đến chốn.

Kinh nghiệm trên đây, giúp chúng ta thận trọng hơn trong việc phê bình: Nên học từ gốc chứ không từ ngọn. Nếu chưa biết rõ lịch sử tiến hoá của phê bình, thì khó có thể hiểu và tiếp nhận những lý thuyết mới một cách khách quan, có ý thức. Vì vậy việc tìm hiểu tiến trình phê bình của thế kỷ XX là cần thiết.

Cách đây gần 50 năm, một cái nhìn đại cương về phê bình thế giới, đã được giáo sư Nguyễn Văn Trung trình bày trong bộ Lược khảo văn học, tập 3tựa đề Nghiên cứu và phê bình văn học[6]Bộ sách này cho đến nay vẫn là tác phẩm giá trị giới thiệu những phương pháp mới của phê bình văn học thế giới vào Việt Nam. Nhưng sách của Nguyễn Văn Trung viết từ những năm 1966-67, cho nên chưa đề cập đến những trường phái phê bình lớn của Nga và của Đức, mà thập niên 60, vẫn chưa được thế giới bên ngoài biết đến.

Chúng tôi muốn tiếp nối công việc của bậc đàn anh, với chủ đích giúp độc giả, nhất là sinh viên ban văn chương trong nước ngày nay, có một cái nhìn sâu rộng hơn về phê bình văn học thế giới trong thế kỷ qua, để tạo một nền tảng vững chắc cho mình, trước khi tìm đến những lý thuyết mới trong thế kỷ XXI; và cũng để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc chuyên nghiệp, muốn biết thêm về nền phê bình thế kỷ XX, nhưng chưa có điều kiện tiếp cận.

Đây chỉ là những nét phác đầu tiên, với những thiếu sót hiển nhiên, hy vọng trong tương lai sẽ có những công trình nghiên cứu khác, đầy đủ và đào sâu hơn.

Chúng tôi đã bắt đầu công việc từ năm 2005, với loạt bài đọc trên chương trình Văn học Nghệ thuật đài RFI. Năm 2012 ghi lại trên mạng. Hôm nay, chúng tôi tập hợp những bài này, viết lại, bổ sung những chương mới và hệ thống hoá thành sách, gửi đến các bạn trẻ.

Nền phê bình văn học của chúng ta chỉ có thể phát triển được trên một quá khứ đã được soi sáng, không chỉ quá khứ phê bình “nước mình” mà cả quá khứ phê bình thế giới. Để mượn lời bà De Staël: “Một nền văn chương không có quá khứ, không phải là văn chương đích thực”, chúng tôi muốn nói: Một nền phê bình không có quá khứ, chưa phải là phê bình.

Paris, ngày 1/4/2016

Thụy Khuê


[1]Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường”, Trần Trọng San biên dịch, Tủ sách Đại học Tổng hợp tpHCM, 1990.

[2] Trên báo Loa, từ số 75 ra ngày 25/7/1935 đến số 86, ra ngày 10/10/1935.

[3] Nxb Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.

[4] Lê Thanh, Nghiên cứu và phê bình văn học, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, t. 311-312.

[5] Đó là: Chủ nghiã Freud (Le Freudisme, 1925) và Chủ nghiã Mác và triết lý ngôn ngữ (Marxisme et philosophie du language, 1929), in dưới tên Volochinov và cuốn Phương pháp hình thức trong khoa học văn chương (La Méthode Formelle en science de la littératue, 1929) và Thi học xã hội nhập môn (Introduction à la poétique sociologique, 1928) dưới tên Medvedev. Thông tin này ghi trong Từ điển bách khoa văn chương của Pháp.

[6] Nam Sơn xuất bản tại Sài Gòn, 1968. Xuân Thu tái bản tại California, 1990.

http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/ph-bnh-van-hoc-the-ky-xx-ky-1/




TRẢ LỜI NHÀ BÁO THỤY KHUÊ

 

Ngô Tự Lập

 

 

1. Vấn đề

 

Trong bài viết Phê bình văn học thế kỷ XX đăng trên Văn Việt[1], nhà báo Thụy Khuê có bàn về một “nạn dịch” mà bà coi là một xu hướng tai hại”, khi “cái gì người ta cũng muốn biết, biết nhanh, biết gấp, cho nên, tất cả đều chớp nhoáng, đến độ chóng mặt” và đưa ra hai ví dụ mà bà coi là “nổi bật” và “tiêu biểu”. Ví dụ đầu tiên liên quan đến tôi và việc giới thiệu cuốn sách của J-P Bronckart và C. Bota. Vì đoạn văn không dài lắm, tôi xin trích nguyên văn: 

1- Gần đây có cuốn sách đả phá Bakhtin khá ồn ào. Việc này thực ra chẳng cần nói, nhưng vì Ngô Tự Lập làm rùm beng trên các mạng, nên chúng tôi xin có vài lời giải thích với độc giả không chuyên, nhất là với những người mới tiếp cận với phê bình văn học:

Năm 2011, xuất hiện cuốn sách tựa đề Bakhtine démasqué: Histoire d’un menteur, d’une escroquerie et d’un délire collectif (Bakhtine bị lột mạt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể) của Jean-Paul Bronckart và Cristian Bota, thuộc đại học Genève, Thụy Sĩ.

Câu chuyện nguyên do như sau: Mihail Bakhtin (Pháp phiên âm là Mikhail Bakhtine) là nhà phê bình lớn vào bậc nhất của Nga, trong thế kỷ XX, trong thời kỳ ông còn bị chế độ Xô-viết cấm in sách (1925-1929), có bốn cuốn sách của ông phải in dưới tên mượn của hai người bạn và cũng là môn sinh của ông: Volochinov và Medvedev[5]. Hiện giờ, trong bản dịch tiếng Pháp, những sách này được in lại dưới tên Bakhtine, kèm theo tên Volochinov và Medvedev trong ngoặc. Việc này cũng không có gì đáng nói vì những tác phẩm chính của Bakhtin vẫn in tên Bakhtin mà thôi.

Cuốn sách Bakhtine démasqué, của Bronckart và Bota, với cái tựa “giật gân” như bom nổ, chắc muốn nhắm vào số đông người đọc hiếu kỳ, hy vọng sách sẽ bán chạy và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếc rằng Bakhtin không phải là một tác giả “bình dân”, “ăn khách”, đại đa số quần chúng không biết ông là ai, cho nên có “lột mặt nạ” ông cũng vô ích. Sách này ra được năm năm mà mới có hai bản dịch sang tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Giới văn học chân chính không mấy chú ý.

Chính cái tựa: Bakhtine bị lột mặt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể đã có tính chất quá tải: đổ lên đầu Bakhtin tới ba tội: giả mạo bị lột mặt nạ, man trá, lừa đảo, và đổ lên đầu những người làm văn học là một lũ mê muội. Những chữ đao to búa lớn như thế, thích hợp với môi trường anh chị mà các học giả không quen dùng. Bởi vì, bất cứ việc nghiên cứu nào cũng phải lấy sự cẩn trọng của mình và sự tôn trọng người mình phê phán làm đầu, người nghiên cứu đích thực không kết án hồ đồ, cũng không mạ lỵ, trước khi chứng minh.

Hai tác giả người Thụy Sĩ này viết tiếng Pháp, để “chứng minh” Bakhtin “đạo văn” qua các bản dịch văn và lời nói của Bahktin từ tiếng Nga sang tiếng nước khác, vì họ không rành hay không biết tiếng Nga. Sự việc này chẳng khác nào một người Pháp “chứng minh” Nguyễn Du đạo văn qua một bản dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, với những lời tuyên bố của Nguyễn Du được dịch sang tiếng Pháp. Theo Serge Zenkine, những bản dịch này nhiều chỗ dịch sai, trái nghiã với lời nói và văn bản của Bakhtin.

Việc “lột mặt nạ” này không phải là hiếm trong lịch sử văn học Tây phương, người ta đã từng “chứng minh” Homère không phải Homère, Shakespeare không phải Shakespeare. Bakhtin cũng không qua khỏi cái nạn này.

Chú thích của Thụy Khuê:

[5] Đó là: Chủ nghiã Freud (Le Freudisme, 1925) và Chủ nghiã Mác và triết lý ngôn ngữ (Marxisme et philosophie du language, 1929), in dưới tên Volochinov và cuốn Phương pháp hình thức trong khoa học văn chương (La Méthode Formelle en science de la littérature, 1929) và Thi học xã hội nhập môn (Introduction à la poétique sociologique, 1928) dưới tên Medvedev. Thông tin này ghi trong Từ điển bách khoa văn chương của Pháp.

 

Chỉ một đoạn văn ngắn này thôi đã đủ cho thấy rằng những gì bà phê phán lại rất phù hợp với chính bà. Nó cho thấy Thụy Khuê rất ham bàn về những điều bà không biết hoặc không biết rõ.

 

2. Bà Thụy Khuê không hề đọc Bakhtin

 

Không biết nhà báo Thụy Khê coi ai là “độc giả không chuyên” và “những người mới tiếp cận với phê bình văn học” để mà giải thích, nhưng khi bà viết “…trong thời kỳ ông [Bakhtin] còn bị chế độ Xô-viết cấm in sách (1925-1929), có bốn cuốn sách của ông phải in dưới tên mượn của hai người bạn và cũng là môn sinh của ông: Volochinov và Medvedev” và chú thích: “Đó là: Chủ nghiã Freud (Le Freudisme, 1925) và Chủ nghiã Mác và triết lý ngôn ngữ (Marxisme et philosophie du language, 1929), in dưới tên Volochinov và cuốn Phương pháp hình thức trong khoa học văn chương (La Méthode Formelle en science de la littératue, 1929) và Thi học xã hội nhập môn (Introduction à la poétique sociologique, 1928) dưới tên Medvedev” thì chúng ta có thể biết ngay rằng bà chỉ đọc loáng thoáng những bài bình luận (hoặc một vài mục từ trong từ điển) chứ không hề đọc Bakhtin cũng như Voloshinov và Medvedev. Và ngay cả cái mục từ trong từ điển kia, bà đọc cũng ẩu (trừ phi cuốn Từ điển bách khoa văn chương của Pháp bà nhắc đến cũng viết ẩu).

Bởi vì nếu đọc thật, cho dù là chỉ đọc một mục từ trong từ điển, người ta cũng phải biết rằng không phải 4 cuốn sách được công bố trong giai đoạn này đều in dưới tên Medvedev và Voloshinov như bà viết, mà 2 cuốn ký tên Voloshinov, 1 cuốn ký tên Medvedev và 1 cuốn ký tên Bakhtin (Nhân tiện, xin nói thêm rằng cuốn sách của Bakhtin, về Dostoievksi, được Voloshinov và Medvedev hoàn thiện và được Medvedev, khi đó là đại diện của Nhà xuất bản quốc gia tại Leningrad, tổ chức in. Điều này chính Bakhtin công nhận, tuy rằng ông nói những đóng góp của họ là “khó chịu”).   

Thế thì tại sao trong danh sách bà Thụy Khuê kể lại có những 4 cuốn (2 cuốn ký tên Voloshinov và 2 cuốn ký tên Medvedev)?

Những người có đọc sách sẽ mỉm cười và trả lời: “hai” cuốn sách của Medvedev (mà bà Thụy Khuê chú thích rất “chuyên nghiệp” là in năm 1929 và 1928) thực ra chỉ là một cuốn, in năm 1928, đó là La méthode formelle en littérature : Introduction à une poétique sociologique (cách dịch khác là: La Méthode formelle dans la science de la littérature. Introduction à une poétique sociologique). Như vậy, cuốn Thi học xã hội nhập môn (Introduction à la poétique sociologique, 1928) của bà Thụy Khuê thực ra chỉ là… cái phụ đề của cuốn sách mà thôi!

 

3. Bà Thụy Khuê không cập nhật vấn đề

 

Bây giờ xin đọc tiếp. Bà Thụy Khuê viết: “Hiện giờ, trong bản dịch tiếng Pháp, những sách này được in lại dưới tên Bakhtine, kèm theo tên Volochinov và Medvedev trong ngoặc”.

Câu này cũng cho thấy rằng bà Thụy Khuê không theo dõi đời sống văn học ở Pháp. Chuyện in tác phẩm của Voloshinov và Medvedev dưới tên Bakhtin là chuyện xưa rồi. Vì không đọc, bà không biết rằng gần đây, với bằng chứng đầy đủ, tác quyền của Voloshinov và Medvedev đã được khôi phục, và tác phẩm của họ được tái bản với tên tác giả đích thực của chúng chứ không còn chuyện kèm tên Bakhtin. Cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của Voloshinov, chẳng hạn, được Les Éditions de Minuit xuất bản năm 1977 với tên tác giả là Mikhaïl  Bakhtine (N. V. Voloshinov). Tuy nhiên, năm 2010 (tức là trước khi cuốn sách Lột mặt nạ Bakhtin của Bronckart và Bota được xuất bản), nó đã được Patrick Sériot dịch lại và xuất bản với tên của Voloshinov. Dịch giả Patrick Sériot viết rất rõ về chuyện tác quyền này trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn, tóm tắt (tiếng Anh và tiếng Pháp) của bài Vološinov, la philosophie du langage et le marxisme ông viết: “V. Vološinov’s book Marxism and the philosophy of language (1929), wrongly attributed to M. Bakhtin, gave rise to contradictory reactions…”; và “Le livre de V. Vološinov Marxisme et philosophie du langage (1929), faussement attribué à M. Bakhtine, a suscité des réactions contradictoires…” (Cuốn sách Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ của V. Voloshinov, bị gán một cách sai trái cho M. Bakhtin, từng gây nên những phản ứng trái chiều…)[2]

Ở Nga, dự án công bố Toàn tập Bakhtin từng tuyên bố sẽ bao gồm cả các tác phẩm của Voloshinov và Medvedev. Trước các chứng cứ đầy đủ, người ta đã buộc phải từ bỏ ý định đó. Hiện nay bộ sách đã hoàn thành và không hề có các tác phẩm quan trọng kia.

 

4. Bà Thụy Khuê không đọc cuốn sách của Bronckart và Bota

 

Bà Thụy Khuê kết án cuốn sách của hai tác giả Thụy Sỹ là chỉ “thích hợp với môi trường anh chị” và dạy họ rằng: “bất cứ việc nghiên cứu nào cũng phải lấy sự cẩn trọng của mình và sự tôn trọng người mình phê phán làm đầu, người nghiên cứu đích thực không kết án hồ đồ, cũng không mạ lỵ, trước khi chứng minh”.

Nếu bà Thụy Khuê đã đọc cuốn sách của họ, tôi dám chắc bà đã không dám viết như thế. Bởi cuốn sách dày hơn 600 trang chữ nhỏ, đầy ắp dữ liệu, phân tích cực kỳ công phu, tuy nghiêm khắc nhưng không hề có từ nào mạ lỵ. Còn cái kết luận rằng Bakhtin khai man lý lịch, rằng ông đạo văn, rằng ông không phải là tác giả của các tác phẩm gọi “là tranh cãi” đều được chứng minh cẩn thận. Khi đã có đủ bằng chứng cho thấy anh ăn trộm, thì dù anh là ai, người ta cũng phải tuyên bố rằng anh là kẻ trộm. Đó là mạ lỵ sao? Còn việc bà coi những người quan tâm đến cuốn sách, và hai dịch giả đã dịch nó sang tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, là không thuộc “Giới văn học chân chính” mà không hề chứng minh thì không phải là mạ lỵ hay sao?

Về chuyện này, mới đây, tạp chí Critiques của Les Éditions de Minuitnhà xuất bản từng in cuốn sách của Voloshinov dưới tên Bakhtin năm 1977, mới đây đăng bài của Bakhtin tên tuổi ấy thuộc về ai của Laurent Jenny. Tác giả bài báo nhận xét về cuốn sách: “Giọng điệu cay nghiệt, tuy phân tích vẫn cực kỳ nghiêm túc”, “Nhưng không nên lấy giọng điệu mạnh mẽ, đôi khi giận dữ, làm cái cớ để tránh đối diện với những vấn đề được đặt ra. Các sự kiện phải được công nhận và phải dùng để tương đối hóa việc sùng bái Bakhtin trong quá khứ, đồng thời trả lại cho các tác giả thật những công trình và những tư tưởng mà họ đã bị tước đoạt”.

Laurent Jenny kết luận: “Không dễ dàng, cũng không dễ chịu, khi phải từ bỏ sự ngưỡng mộ [dành cho Bakhtin] từng được chia sẻ bởi cả một thế hệ, nhất là khi rất nhiều tên tuổi lớn đã tham gia vào việc xây dựng nên sự ngưỡng mộ ấy, và khi sự ngưỡng mộ đó đã tạo cảm hứng cho biết bao nhiêu công trình. Tuy nhiên, các thông tin tích lũy được mà ngày nay chúng ta có đang buộc chúng ta phải từ bỏ, vì sự trung thực của trí thức và vì sự thật”[3].

 

5. Nguồn gốc ý kiến của bà Thụy Khuê

 

Không đọc cả Bakhtin lẫn cuốn sách của Bronckart và Bota, vậy bà Thụy Khuê dựa trên căn cứ nào? Thì đây, mấy câu phán xét hời hợt của bà chỉ là lặp lại ý của Serge Zenkin:

“…hai tác giả Thuỵ Sĩ không biết tiếng Nga, điều đó, tất nhiên, sẽ khiến cho sự phân tích của họ giảm giá trị: hãy hình dung một nhà cổ văn học không biết tiếng Hy Lạp mà lại cả gan bàn luận về “vấn đề Homer”!”[4]

Còn bà Thụy Khuê thì viết:

“Hai tác giả người Thụy Sĩ này viết tiếng Pháp, để “chứng minh” Bakhtin “đạo văn” qua các bản dịch văn và lời nói của Bahktin từ tiếng Nga sang tiếng nước khác, vì họ không rành hay không biết tiếng Nga. Sự việc này chẳng khác nào một người Pháp “chứng minh” Nguyễn Du đạo văn qua một bản dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, với những lời tuyên bố của Nguyễn Du được dịch sang tiếng Pháp”.

Điều buồn cười là bà Thụy Khuê không biết tiếng Nga, nên khi phê phán hai tác giả Thụy Sỹ không biết tiếng Nga, phải dựa vào các bản dịch, bà lại dựa vào… bản dịch!

Nếu đọc sách, bà Thụy Khuê sẽ biết rằng việc chứng minh Bakhtin đạo văn không phải riêng Bronckart và Bota làm, mà đã được nhiều người chứng minh bằng cách so sánh các nguyên bản bằng tiếng gốc. Poole (1998, 2001) và Matejka (1996) đều chỉ ra sự đạo văn của Bakhtin bằng cách so sánh tác phẩm tiếng Nga của ông với tác phẩm tiếng Đức của Scheler Hartmann, ChristiansenSpitzerCassier..Hai tác giả Thụy Sỹ chỉ làm một việc là tổng hợp chúng lại. Về phần họ, sau khi đã có bằng chứng chứng minh rằng Bakhtin không phải là tác giả thật của các tác phẩm ký tênVoloshinov và Medvedev, họ bổ sung bằng kết luận: Voloshinov và Medvedev chính là những người bị Bakhtin đạo văn nhiều nhất.

Thật ra, những ai đọc cuốn sách của hai tác giả Thụy Sỹ sẽ thấy rằng sự phê phán của Zenkin về những “chỗ dịch sai, trái nghĩa” chẳng qua là vài chi tiết vụn vặt, không hề ảnh hưởng gì đến cuốn sách. Giống như khi có một người phụ nữ được giới thiệu là nhà phê bình văn học, bỗng có người nhặt một chiếc lông chim trên áo bà ta và tuyên bố “Vật thể này không liên quan gì đến văn chương, vậy không thể giới thiệu bà ta là nhà phê bình văn học được”.

Sự so sánh vụ Bakhtin với trường hợp Homère và Shakespeare cũng là lặp lại ý của Zenkin. Nhưng sự so sánh ấy chẳng qua cũng là một lối đánh tráo. Tôi đã bàn về chuyện này và bài viết của Zenkin trong bài Bakhtin, Voloshinov và Medvedev: Vấn đề tác quyền và những lý do lịch sử của một huyền thoại[5], xin không nhắc lại ở đây.

 

6. Lời cuối

 

Tôi viết những dòng này cũng là cực chẳng đã. Theo tôi, và chắc là ai cũng đồng ý, rằng trong nghiên cứu, chân lý phải đặt lên cao nhất. Chắc là bà Thụy Khuê không đọc tôi, và dĩ nhiên bà không có nghĩa vụ phải đọc. Nhưng nếu bà hạ cố đọc thì sẽ thấy rằng những bài viết của tôi đều có dẫn chứng, trích dẫn rất cẩn thận. Nếu bà Thụy Khuê hoặc bất kỳ ai thấy có điểm gì sai trong các bài viết của tôi, xin hãy chỉ bảo, tôi sẵn sàng chấp nhận nếu có chứng cứ thuyết phục. Tương tự như vậy với cuốn sách của Bronckart và Bota. Nhưng trước khi phê bình, người ta cần phải đọc.

   

 


 

[1] Xem trên Internet: <http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/ph-bnh-van-hoc-the-ky-xx-ky-1/>

[2] Xem trên internet: <http://www.cairn.info/revue-langages-2011-2-page-83.htm>

[3] Xem bản dịch của Nguyễn Duy Bình: <http://phebinhvanhoc.com.vn/bakhtin-ten-tuoi-ay-thuoc-ve-ai/>

[4] Xem bản dịch của Trần Đinh Sử, Lã Nguyên: < http://phebinhvanhoc.com.vn/nhung-ke-lot-mat-na-thieu-hieu-biet/>

[5] Xem trên internet: <http://phebinhvanhoc.com.vn/bakhtin-voloshinov-va-medvedev-van-de-tac-quyen-va-nhung-ly-do-lich-su-cua-mot-huyen-thoai/>

 

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 3-9-16


http://www.viet-studies.net/NgoTuLap_TraLoiThuyKhue.htm



1.

Họp Ban soạn thảo xây dựng Đề án Chương trình Sách quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

 24 Tháng Sáu 2021          271 lượt xem

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban soạn thảo xây dựng Đề án Chương trình Sách quốc gia tổ chức cuộc họp nhằm lấy ý kiến của các thành viên Ban soạn thảo qua đó hoàn thiện Đề án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ông Hoàng Vĩnh Bảo, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông - Trưởng ban soạn thảo Đề án chủ trì cuộc họp.

Tại cuộc họp có sự tham gia của Vụ Văn hóa, Văn nghệ - Ban Tuyên giáo Trung ương, các đơn vị thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông (Văn phòng Bộ, Cục Xuất bản in và Phát hành, Vụ Báo chí, Vụ Kế hoạch, Tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Thông tin đối ngoại, Viện Chiến lược thông tin và truyền thông), đại diện Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hội Xuất bản Việt Nam.

Tham dự cuộc họp, với vai trò là ủy viên của Ban soạn thảo, Ông Phạm Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ Thư viện đã có ý kiến góp ý Dự thảo Đề án Chương trình sách Quốc gia trong đó nhấn mạnh việc gắn kết Đề án Chương trình sách quốc gia với các Đề án có liên quan đặc biệt là Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 329/QĐ-TTg), vai trò của Hệ thống thư viện đối với việc triển khai đề án sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; mục tiêu của Đề án cần bổ sung nội dung về nâng cao chất lượng xuất bản phẩm, phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và phát triển văn hóa đọc; xác định đối tượng hưởng thụ cụ thể để bảo đảm nhu cầu tiếp cận thông tin của cộng đồng; xây dựng Quy chế về khai thác, sử dụng sách thuộc Đề án Chương trình sách quốc gia để bảo đảm phát huy có hiệu quả giá trị mang lại từ đề án đến người dân.

Đề án Chương trình Sách quốc gia được xây dựng dựa trên cơ sở tích hợp 04 Đề án đã được xây dựng trước đây được Chính phủ đồng thuận về mặt chủ trương bao gồm: Chương trình sách quốc gia; phát triển xuất bản phẩm điện tử; quảng bá xuất bản phẩm Việt Nam ra nước ngoài và Chương trình quốc gia xuất bản các loại sách thiết yếu về chính trị-xã hội và văn hóa.

Một số hình ảnh tại Cuộc họp

Toàn cảnh cuộc họp

 

Ông Hoàng Vĩnh Bảo-Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì cuộc họp

 

Ông Phạm Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ Thư viện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

phát biểu góp ý cho Dự thảo Đề án.

 

Lê Tùng Sơn

 

http://vuthuvien.bvhttdl.gov.vn/articledetail.aspx?articleid=11155&sitepageid=626


BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRANG TIN VỀ HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
Người chịu trách nhiệm: Phạm Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ Thư viện.

Địa chỉ: 51 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội - Việt Nam
Điện thoại: (024) 3943.8231 (số lẻ 266) - 3943.9233 (số lẻ 266) * Fax: (024) 3943.9009 - 3945.4330
Email: vuthuvien_bvhttdl@bvhttdl.gov.vn
Ghi rõ nguồn “Trang tin về hoạt động thư viện”, "http://vuthuvien.bvhttdl.gov.vn" khi phát hành lại thông tin từ website này.

..

3 nhận xét:

  1. Vấn đề Lê Thanh đề cập tới năm 1944, vẫn còn tồn tại đến bây giờ nhưng dưới một dạng thức khác: Nếu thời trước, Lê Thanh cho rằng cái “dịch phê bình” là người ta viết “phê bình” một cách ngẫu hứng “tức cảnh sinh tình”, thì ngày nay, cũng có nhiều người lấy phê bình làm một dạng phô trương “trí thức”, họ thường độn vào bài biết những danh từ to lớn, những luận thuyết thời thượng, những tên tuổi triết gia nổi cộm, mà dường như họ cũng không hiểu gì.

    Bởi cái gì người ta cũng muốn biết, biết nhanh, biết gấp, cho nên, tất cả đều chớp nhoáng, đến độ chóng mặt. Nạn dịch này, không chỉ ở Việt Nam, mà đâu cũng có, nhà xã hội học Pháp Pierre Bourdieu, đã từng gọi là “dịch chữ mới” (novlangue) do sự toàn cầu hoá đem lại.

    Đối với Việt Nam, còn có một lý do khác: Sau thời gian dài khép kín với thế giới Tây phương, đến thời đổi mới, kinh tế được mở cửa, hàng hoá ùa vào trong đó có cả văn chương.

    Có hai sự kiện nổi bật, tiêu biểu cho lối tiếp thu quá nhanh theo “kinh tế thị trường”, đôi khi tai hại này:

    1- Gần đây có cuốn sách đả phá Bakhtin khá ồn ào. Việc này thực ra chẳng cần nói, nhưng vì Ngô Tự Lập làm rùm beng trên các mạng, nên chúng tôi xin có vài lời giải thích với độc giả không chuyên, nhất là với những người mới tiếp cận với phê bình văn học:

    Năm 2011, xuất hiện cuốn sách tựa đề Bakhtine démasqué: Histoire d’un menteur, d’une escroquerie et d’un délire collectif (Bakhtine bị lột mạt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể) của Jean-Paul Bronckart và Cristian Bota, thuộc đại học Genève, Thụy Sĩ.

    Câu chuyện nguyên do như sau: Mihail Bakhtin (Pháp phiên âm là Mikhail Bakhtine) là nhà phê bình lớn vào bậc nhất của Nga, trong thế kỷ XX, trong thời kỳ ông còn bị chế độ Xô-viết cấm in sách (1925-1929), có bốn cuốn sách của ông phải in dưới tên mượn của hai người bạn và cũng là môn sinh của ông: Volochinov và Medvedev[5]. Hiện giờ, trong bản dịch tiếng Pháp, những sách này được in lại dưới tên Bakhtine, kèm theo tên Volochinov và Medvedev trong ngoặc. Việc này cũng không có gì đáng nói vì những tác phẩm chính của Bakhtin vẫn in tên Bakhtin mà thôi.

    Cuốn sách Bakhtine démasqué, của Bronckart và Bota, với cái tựa “giật gân” như bom nổ, chắc muốn nhắm vào số đông người đọc hiếu kỳ, hy vọng sách sẽ bán chạy và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếc rằng Bakhtin không phải là một tác giả “bình dân”, “ăn khách”, đại đa số quần chúng không biết ông là ai, cho nên có “lột mặt nạ” ông cũng vô ích. Sách này ra được năm năm mà mới có hai bản dịch sang tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Giới văn học chân chính không mấy chú ý.

    Chính cái tựa: Bakhtine bị lột mặt nạ: Câu chuyện một kẻ man trá, một sự lừa đảo, và một sự hôn mê tập thể đã có tính chất quá tải: đổ lên đầu Bakhtin tới ba tội: giả mạo bị lột mặt nạ, man trá, lừa đảo, và đổ lên đầu những người làm văn học là một lũ mê muội. Những chữ đao to búa lớn như thế, thích hợp với môi trường anh chị mà các học giả không quen dùng. Bởi vì, bất cứ việc nghiên cứu nào cũng phải lấy sự cẩn trọng của mình và sự tôn trọng người mình phê phán làm đầu, người nghiên cứu đích thực không kết án hồ đồ, cũng không mạ lỵ, trước khi chứng minh.

    Hai tác giả người Thụy Sĩ này viết tiếng Pháp, để “chứng minh” Bakhtin “đạo văn” qua các bản dịch văn và lời nói của Bahktin từ tiếng Nga sang tiếng nước khác, vì họ không rành hay không biết tiếng Nga. Sự việc này chẳng khác nào một người Pháp “chứng minh” Nguyễn Du đạo văn qua một bản dịch truyện Kiều sang tiếng Pháp, với những lời tuyên bố của Nguyễn Du được dịch sang tiếng Pháp. Theo Serge Zenkine, những bản dịch này nhiều chỗ dịch sai, trái nghiã với lời nói và văn bản của Bakhtin.

    Việc “lột mặt nạ” này không phải là hiếm trong lịch sử văn học Tây phương, người ta đã từng “chứng minh” Homère không phải Homère, Shakespeare không phải Shakespeare. Bakhtin cũng không qua khỏi cái nạn này.

    Trả lờiXóa
  2. 2.

    7 THÁNG TƯ, 2016

    PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX (KỲ 1)


    Thụy Khuê

    Chương 1- Ý thức phê bình

    Phê bình là một trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống, là một phản xạ trước mỗi lựa chọn, mỗi hành động, phát xuất từ ý thức bản thân: khi nghe một lời nói, một bản tin, một bài diễn văn, xem một phim, đọc một cuốn sách… ý thức phê bình luôn luôn hiện diện, “nó” âm thầm làm việc trong đầu, chỉ cho ta biết điều này nghe được, điều kia ngụy biện, đoạn văn này thâm thuý, bức tranh này xấu, bản nhạc kia hay, v.v.

    Ý thức phê bình ai cũng có, nó tiềm ẩn trong óc, nhưng nếu muốn hiện ra bằng lời nói hay trên văn bản, nó phải “có gan” vượt thử thách qua hai môi trường gia đình và xã hội.

    Ở phương Tây, sinh hoạt tri thức này sớm được vun xới trong gia đình: Con cái có thể tự do phát biểu trong bữa ăn, đưa ra những nhận xét độc đáo để phê bình cha mẹ, mà ít khả năng bị mắng, bị đánh. Do không bị ảnh hưởng Nho giáo và được sống dưới chế độ dân chủ, người Tây phương, thường có ý thức phê bình cao. Ý thức ấy, chẳng những không bị tiêu diệt từ trứng nước, mà còn có điều kiện phát triển trong toàn bộ sinh hoạt con người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.


    Ở phương Đông thời trước, quyền huynh thế phụ là mẫu mực của trật tự xã hội; vì vậy, phê bình không những thiếu điều kiện phát triển mà còn bị đàn áp ngay từ đầu: Con cái chỉ có quyền nghe lời cha mẹ, chứ không được quyền phản đối. Việc đối thoại với cha mẹ, trong các gia đình Việt, cho đến nay hầu như vẫn chỉ ở mức độ thấp so với người Âu, ngay cả những gia đình quen thuộc văn hoá Tây phương, hoặc đang sống ở nước ngoài.

    Trả lờiXóa
  3. 4.


    Việt Nam học nhìn từ ngành xuất bản
    09/11/2021

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.