Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

11/06/2025

Khoa học Địa lí Phong thủy Việt Nam - theo bước chân thánh Tả Ao, mấy nét chấm phá

Tả Ao là tên một ngôi làng ở Hà Tĩnh.

Ngôi làng ấy ở ngày bên cạnh làng Uy Viễn của cụ Nguyễn Công Trứ, và làng Tiên Điền của cụ Nguyễn Du.

Tôi đã từng đến cả ba ngôi làng này.

1. Tả Ao là tên làng, rồi trở thành tên người, tức thánh địa lí Tả Ao. Mở rộng thêm: cụ Nguyễn Công Trứ cũng được gọi là "Uy Viễn tướng công" (ông tướng người làng Uy Viễn); cụ Nguyễn Du cũng có khi được gọi là "Tiên Điền Nguyễn Du" (Nguyễn Du người làng Tiên Điền).

Dòng họ Nguyễn Du ở Tiên Điền là dòng họ lớn, mà khai tổ là ở làng Canh Hoạch ngoài Bắc. Tôi đã viết về việc: các khai tổ của anh em nhà Nguyễn Khản - Nguyễn Du vốn là dòng Nguyễn Thiến - Nguyễn Quyện - Nguyễn Nhiệm (làng Canh Hoạch) đã phò tá nhà Mạc, theo hoàng đế Mạc Kính Cung lên Cao Bằng. Một lần Cao Bằng bị đánh lớn, khai tổ nhà họ Nguyễn đã giả chết, rồi theo đường thủy về Tiên Điền lập nghiệp.

Chính sử ghi ông khai tổ này đã chết tại Cao Bằng. Nhưng sự thực lại khác ! Vì ông đã giả chết, rồi tìm đường về xuôi. 

Dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền phải cất rất kĩ lai lịch thân Mạc của mình. Nhưng thú vị là: sau này, chính Nguyễn Nghiễm (thân phụ của Nguyễn Du) đã tiết lộ, ghi rõ trong gia phả - đại ý đến đời Nguyễn Nghiễm, dòng họ này vẫn ngầm cảm ơn triều đình nhà Mạc, không còn sợ nữa, mà tiết lộ trong nội bộ với nhau về gốc tích của mình. Xem ảnh chụp trích đoạn trong bài viết của tôi (đã công bố từ năm 2013-2014).


Nguồn (2014): 

https://www.facebook.com/photo/?fbid=721830301195381&set=a.721829631195448.1073741923.380158285362586


Bởi vậy, về cơ bản, tôi cũng đặt giả thiết là dòng họ của Tả Ao cũng vốn ở ngoài Bắc đã di cư vào xứ Nghệ.

Thêm nữa, cũng bởi vậy, tôi suy đoán thêm: thánh Tả Ao cũng phải là người sống vào cuối thời Hậu Lê. Ông bà cha mẹ có thể đã vào trước, tên làng Tả Ao đã được đặt từ trước đó lâu.

Rất có thể thánh Tả Ao cũng là người thời Mạc - có hai giai đoạn của nhà Mạc: 1).Nhà Mạc chính triều ở Thăng Long (1527-1593); 2).Nhà Mạc thiên di lên Cao Bằng (1593-1683). Khả năng cao Tả Ao là người thời Mạc ở Thăng Long.

2. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa rõ cụ Tả Ao có tên thực là gì (cụ họ Nguyễn hay họ Vũ, hay họ Hoàng, đều chưa xác thực).

Cụ chưa từng ứng thí theo hệ thống khoa cử, nên tên cụ không được xác định là đúng. Cụ du lãng khắp nơi, mà chỉ xưng tên "Tả Ao", tức tên làng, nên người ta cũng không bận tâm về tên thật của cụ.

Chúng ta hiện cũng chưa xác thực được niên phả thực của cụ. Chưa biết cụ là người đầu thời Hậu Lê, hay người thời Mạc, hoặc là người thời Lê - Trịnh. Tôi ở trên tạm đoán cụ là người thời Mạc.

Hiện có mấy trăm nơi thờ cụ hay có câu chuyện lưu truyền về cụ ở miền Bắc và miền Trung (theo sưu tầm truyền thuyết và giai thoại của nhóm cụ Vũ Ngọc Khánh). Chưa tìm thấy làng xã nào ở vùng miền Nam thờ cụ Tả Ao.

Hiện thực trên cho chúng ta suy đoán sau: cụ thánh Tả Ao là người sống trước thời Tây Sơn, cũng là trước thời Nguyễn. Giả như có gặp gỡ trong đời thực, thì có thể cụ đã từng gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Phùng Khắc Khoan ? Cũng có thể cụ đã từng gặp các cụ Nguyễn Quyện hay Nguyễn Hoàng ?

Tựu trung, giả định hiện tại của tôi: thánh Tả Ao có thể là người thời Mạc, đi du lãng khắp nơi (miền Trung và miền Bắc hiện nay), để lại nhiều dấu tích ở nhiều làng mạc và gia tộc. Câu chuyện về cụ được ghi chép và lưu truyền chủ yếu ở thời Lê mạt (sau năm 1593, chúng tôi không sử dụng cách gọi "Lê trung hưng" quen dùng trước nay, mà gọi là "Lê mạt") và Nguyễn (từ sau năm 1802).

3Có một bạn ở vùng xứ Thanh trước đây có nhắn cho tôi là khu vực bạn ấy có sắc phong thời Nguyễn cho cụ Tả Ao. Rất mong chờ dịp được tới trực tiếp khảo sát sắc phong ấy - có thể thời Nguyễn, địa phương đã làm "hồ sơ" lên cho triều đình, và triều đình đã ban sắc phong.

Mở đầu trong sưu tầm trên Giao Blog, đi lại bài đã công khai từ năm 2024 của đại tá Nguyễn Khắc Thuần.

Các tư liệu khác cập nhật dần ở bên dưới như mọi khi.

Tháng 6 năm 2025,

Giao Blog






Nguồn (2014): https://giaovn.blogspot.com/2014/04/vo-tinh-thay-hai-bai-ve-nha-mac-thoi-ki.html

---

QĐCT - Thứ Tư, 03/03/2024, 14:38 (GMT+7)


Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh là một danh nhân nổi tiếng về địa lý, được coi là bậc thầy khai sinh ngành địa lý phong thủy Việt Nam. Ông học rộng tài cao nhưng không ra làm quan mà thích ngao du thiên hạ giúp muôn dân chọn đất lành, khai cơ lập ấp, xây cất đình chùa, lăng tẩm miếu mạo, mồ mả tổ tiên để xóm làng nhà nhà hòa thuận, phát lộc, phát tài, quốc thái dân an.


“Tả Ao phong thủy nhất trên đời/ Họa phúc cầm cân định chẳng sai/ Mắt thánh trông xuyên ba thước đất/ Tay thần xoay chuyển bốn phương trời/ Chân đi long hổ luồn qua gót/ Miệng gọi thần linh ứng trả lời/ Ai muốn cầu chi cho được nấy/ Mấy ai địa lý được như ngài”...

Đây là bài thơ được người xưa truyền lại trong dân gian để ngợi ca tài năng, công đức của Tả Ao. Theo Phó giáo sư (PGS) Ninh Viết Giao: “Tả Ao suốt đời hành thiện cho muôn dân nên được nhân dân tôn kính, dân gian hóa, truyền thuyết hóa. Cuộc đời ông nhiều điều thực như hư, hư như thực đã thành huyền tích”. Trong muôn điều thực như hư, hư như thực đó, điều rõ ràng nhất là ông quê ở làng Tả Ao nằm bên hữu ngạn sông Lam (giáp với làng Uy Viễn quê hương Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ và gần làng Tiên Điền, quê hương Đại thi hào Nguyễn Du). Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cái nghèo đeo bám quanh năm lại càng thêm khốn khó vì mẹ bị mù lòa, cha mất sớm. Làng Tả Ao xưa thuộc tổng Hoa Viên, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Vùng đất địa linh nhân kiệt này có tục bất thành văn: Chỉ ai là người đạo cao, đức trọng được nhân dân tôn quý mới được lấy tên làng đặt tên cho mình, và ông là một trong những người như vậy.

Chân dung minh họa thầy địa lý Tả Ao. Ảnh tư liệu

Tả Ao có nhiều danh tính khác nhau. Theo sách “Việt Nam phong tục" và sách “Nam Hải dị nhân" của Phan Kế Bính thì tên thật của ông là Nguyễn Đức Huyền. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú thì ghi tên ngài là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chi. Còn trong sách “Nghi Xuân địa chí” của tú tài Lê Văn Diễn (người làng Tiên Bảo, gần làng Tả Ao) viết năm 1842 thì ghi tên ngài là Vũ Đức Huyền, hiệu Địa Tiên. Về năm sinh của ngài, các nhà nghiên cứu dự đoán vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), thời Lê Sơ, của các triều vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Tông Mục (1442-1509), cũng có tài liệu cho rằng, Tả Ao tiên sinh sống vào đời vua Lê Hy Tông (1676-1705).

Các trước tác của ông cơ bản đã bị thất truyền nhưng các sứ giả thời Lê-Nguyễn chép tản mát một số truyện. Sách Địa lý phong thủy được cho là của Tả Ao truyền lại gồm: “Tả Ao chân truyền di thư”, “Tả Ao chân tuyển tập”, “Tả Ao chân truyền địa lý” (5 tập), “Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng”, “Tả Ao tiên sinh địa lý”, “Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục”... Các tác phẩm này hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Ngoài ra, Tả Ao còn để lại tập “Địa đạo diễn ca” (120 câu văn vần), “Dã Đàm Tả Ao hay Tầm long gia truyền bảo đảm (văn xuôi), “Phong thủy Địa lý Tả Ao bảo ngọc thư”...

Các nghiên cứu xưa và nay đã công bố cũng như huyền tích về Tả Ao đều coi ông là Thánh địa lý Tả Ao, Thủy tổ khai môn Địa lý phong thủy Việt Nam. Tài nghệ về địa phong thủy của ông được sánh ngang hàng với Cao Biền, bậc thầy phong thủy hạng nhất Trung Hoa.

Trong dân gian còn lưu truyền nhiều huyền tích về công trạng của ông. Chuyện kể rằng một lần ông lên bến Phủ Thạch (nay là xã Hưng Lam, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), gặp một thuyền buôn của người Trung Hoa bị nạn. Nhờ giỏi bơi lội nên ông đã cứu được họ, chủ thuyền buôn định tạ ơn ông trăm lạng bạc nhưng ông chối từ, chỉ ngỏ ý muốn theo thuyền buôn về Trung Hoa học nghề thuốc để chữa mù lòa cho mẹ. Chủ nhà buôn vui vẻ nhận lời và đưa ông sang gửi cho một lương y tài hoa là hậu duệ của Thánh y Hoa Đà để ông học nghề. Thầy thuốc người Trung Hoa thấy Tả Ao sáng dạ lại có hiếu nên hết lòng dạy bảo. Một lần làng bên có một thầy địa lý bị mù lòa nên lương y giao cho Tả Ao sang đó chẩn trị. Được Tả Ao cứu đôi mắt sáng lại, thấy Tả Ao thông minh hơn người nên thầy địa lý nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề được đây!

                                                 

 Bản đồ địa lý làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định có hình giống con cá đang bơi. Ảnh tư liệu 

Tả Ao được thầy địa lý Trung Hoa nhận làm môn sinh và dày công dạy dỗ. Chỉ hơn một năm, Tả Ao đã tinh thông nghề phong thủy địa lý. Để thử tay nghề của học trò, thầy địa lý đổ cát ra thành hình sông núi và vùi 100 đồng tiền ở các huyệt đạo rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì châm kim xuống. Tả Ao đã cắm được 99 kim đúng huyệt đạo (lỗ đồng tiền), chỉ sai một chính huyệt. Thầy địa lý ngẩng mặt lên trời than rằng: Nghề ta nay đã sang nước Nam mất rồi. Và ông đã cho Tả Ao cái tróc long và thần chú để hành nghề địa lý phong thủy...

Hai nhà nghiên cứu văn hóa dân gian xứ Nghệ là Thái Kim Đỉnh và Vũ Ngọc Khánh (người cùng quê với Tả Ao) đã dành nhiều thời gian để sưu tầm các truyền thuyết về Tả Ao và hành trình của ông đi tìm những vị trí đất lành, đất tốt đặt đình chùa, miếu mạo, mồ mả, nhà cửa giúp dân nghèo, trị kẻ ác. Các nhà nghiên cứu này cũng phát hiện được hơn 300 địa phương ở miền Trung và miền Bắc có miếu thờ Tả Ao. Tương truyền ở nhiều làng quê Việt Nam có một số phong tục đẹp, nghề phồn thịnh là do Tả Ao chọn hướng đình, một số dòng họ phát danh khoa bảng, phát công hầu khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch huyệt đạo.

Ở làng Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi (Hưng Yên) hiện còn lưu truyền câu chuyện: Tả Ao giúp nhân dân nơi đây tìm đất tốt lập làng, đặt mộ phần của họ Đinh tại gò Tam Thái vượng về võ tướng. Quả nhiên, đến năm Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh ở làng Nam Trì là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ nhiệm làm Hiến sát sứ Hải Dương được phong tước Phù Nam Bá. Hậu duệ của Đinh Tú là Đinh Văn Tá cũng là một danh tướng thời Lê-Trịnh. Nhớ công ơn của Tả Ao, dân làng đã tôn ông là Bản cảnh Thành hoàng và lập đền thờ ông cùng tam vị Thượng đẳng phúc thần của làng. Ở đây còn lưu giữ được đôi câu đối tương truyền là của Tả Ao về địa lý phong thủy làng Nam Trì: “Tây lộ khê lưu kim tại hậu/ Đông giang thủy tụ mộc cư điền” (nghĩa là: Phía Tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc hành kim. Phía Đông của làng có sông nước tụ, làng nhìn về hướng Đông Nam hành mộc).

Trải qua bao đời, người dân làng Hành Thiện (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) còn lưu truyền huyền tích: Một lần tới Xuân Trường, ngài Tả Ao phải đi đò sang sông, nước cạn phải lội bùn một quãng mới lên được. Một người dân làng Hành Thiện đi trên đò đã cõng ông qua đò. Khi tới làng, dân chúng Hành Thiện khoản đãi ông nồng hậu. Trước tấm lòng mến khách, trượng nghĩa của người làng Hành Thiện, Tả Ao ngỏ ý xem xét thế đất cho họ. Sau khi xem xét. Tả Ao tới chỗ mỏm đất trước cửa đền Thành hoàng nói rằng: “Đất làng ta như con cá bơi ra biển nhưng thiếu con mắt nên cá chưa thể bơi lội, cần đào giếng làm mắt cá”. Dân làng nghe theo, đào giếng trước cửa đền. Tả Ao dặn dò dân làng cần phải giữ gìn giếng sạch sẽ, nước giếng này rất thiêng, làng ắt có người làm quan đầu triều, con cháu khoa danh đời này tiếp đời khác. Quả nhiên làng Hành Thiện ngày càng thịnh phát, nức tiếng học hành xưa nay là vùng đất khoa bảng, nhiều người đỗ tiến sĩ, còn thời nay thì có rất nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ... Một số người là yếu nhân của đất nước cũng sinh ra từ đất này như cố Tổng Bí thư Trường Chinh... 

Hằng năm, người dân làng Hành Thiện vẫn thường tổ chức lễ tế để tưởng nhớ công ơn thầy địa lý Tả Ao, trong bài văn tế có đoạn viết: ''... Bình sinh bước chân ngài đi khắp thế gian/ Ngài đến đâu xóm làng mùa xuân về đến đó/ Con cháu đời đời vinh/ Tổ tiên đời đời thịnh"...

Đại tá NGUYỄN KHẮC THUẦN

https://ct.qdnd.vn/van-hoa-xa-hoi/dia-tien-ta-ao-danh-nhan-bac-thay-dia-ly-530793


...



---


BỔ SUNG


...

Hội thảo năm 2020


Hội thảo khoa học "Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

(Baohatinh.vn) - Những vấn đề như hình thể, tư tưởng nhân sinh, thủy pháp trong Địa lý Tả Ao... vừa được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học phân tích và bàn luận tại Hội thảo khoa học "Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân” (Hà Tĩnh).

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Sáng nay (20/12), huyện Nghi Xuân phối hợp với Viện Nghiên cứu ứng dụng kiến trúc phong thủy tổ chức “Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Dự hội thảo về phía tỉnh Hà Tĩnh có nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đặng Duy Báu; Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Võ Hồng Hải; Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Văn Hùng; Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Trần Báu Hà; nguyên Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Văn Thạch và lãnh đạo các sở, ban ngành cùng đông đảo các nhà khoa học, nghiên cứu, phong thủy trong cả nước. Về phía Viện Nghiên cứu ứng dụng kiến trúc phong thủy có Viện trưởng Hoàng Thăng Long; nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian Vũ Ngọc Khôi.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Phát biểu chào mừng hội thảo, Chủ tịch UBND huyện Nghi Xuân Nguyễn Hải Nam bày tỏ sự vui mừng được đón tiếp các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, phong thủy đến với miền đất giàu truyền thống văn hoá, cách mạng Nghi Xuân

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Viện trưởng Viện Nghiên cứu, ứng dụng kiến trúc phong thủy Hoàng Thăng Long trình bày đề dẫn hội thảo.

Đề dẫn hội thảo đặt ra một số vấn đề như: Con người Tả Ao, hành trang không gian hoạt động; mối quan hệ phong thổ và Địa lý Tả Ao; những đóng góp của Thánh sư Địa lý Tả Ao; vận dụng kiến thức khoa học Địa lý Tả Ao trong đời sống Nhân dân nói chung và quê hương Nghi Xuân nói riêng…

Đây là những gợi ý để các nhà khoa học có cơ sở tiếp cận, khám phá, chứng minh và lý giải vấn đề.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Chuyên gia phong thủy Nguyễn Công Nguyên trình bày tham luận “Tả Ao tiên sinh - Hà Tĩnh địa linh nhân kiệt”.

Tại hội thảo, 30 đề tài tham luận đều xoay quanh đến các vấn đề như: hình thể, thủy pháp, tư tưởng nhân sinh trong Địa lý Tả Ao; từ Thánh địa Tả Ao nghĩ về khoa học phong thủy; những bài học cho người làm phong thủy hiện tại; phong thủy có từ bao giờ; phong thủy có phải là khoa học hay không?.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Võ Hồng Hải trò chuyện, trao đổi cùng các nhà nghiên cứu phong thủy bên lề hội thảo.

Hội thảo cũng là dịp để các nhà nghiên cứu chú trọng tìm hiểu và phân tích các yếu tố phong thổ góp phần tạo nên những giá trị Tả Ao; khoa học phong thủy thời kỳ 4.0; các làng, xã xưa đã vận dụng Địa lý Tả Ao để dựng làng, dựng ấp nhằm tạo nên sự an lành, thịnh vượng của quê hương mình.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Tiến sỹ sử học Đinh Công Vỹ trình bày tham luận “Thánh Tả Ao - Tập đại thành của nền địa lý phong thủy Trung - Việt”.

Hội thảo khoa học Thánh sư Địa lý Tả Ao với quê hương Nghi Xuân”

Tiến sỹ Đặng Duy Báu khẳng định: Phong thủy, long mạch là một bộ môn khoa học lý thú.

Hội thảo là dịp để các nhà khoa học giải mã về nhân vật Tả Ao, những giá trị về khoa học phong thủy mà cụ để lại; đồng thời mang lại những thông tin đầy đủ có tính khoa học về thân thế sự nghiệp Thánh sư Địa lý Tả Ao, khoa học phong thủy Tả Ao để người dân tự hào và tôn vinh một con người kiệt xuất của xứ Nghệ và áp dụng khoa học phong thủy của ngài vào cuộc sống thường nhật để cuộc sống tốt đẹp hơn, quê hương, đất nước phồn thịnh hơn.

Tả Ao được tôn là Thánh sư Địa lý, là người Việt Nam đầu tiên học được Địa lý chính tông ở Trung Quốc. Tả Ao tiên sinh là nhân vật làm nghề địa lý phong thủy nổi tiếng ở nước ta. Quê Tả Ao ở làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn nghệ An (nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh).

https://baohatinh.vn/hoi-thao-khoa-hoc-thanh-su-dia-ly-ta-ao-voi-que-huong-nghi-xuan-post203918.html


...


2018

ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ VÀ LĂNG MỘ, NGÀY TẾ LỄ CÁC VỊ THẦN


Đền – Đình Nam Trì do Thánh Địa lý Tả Ao chọn đất tại Tây Nam làng bị bom của quân Pháp năm 1953 làm hư hỏng và lịch sử, thời gian đã tàn phá phần còn lại. Cuối năm Bính Tuất – 2006, Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà, Thánh địa lý Tả Ao đã hiển linh đã chỉ dạy lập dựng lại ngôi đền tại gò Soi rộng hơn 4 sào ở hồ lớn phía Đông Nam làng, nơi đất cũ do đức Cao Vương chọn. Nơi đây thế đất có Hoàng Long Địa mạch, song Long tứ Nhãn, Nhị nhãn hiện Nhị nhãn ẩn, Thuỷ nhiễu chu viên, Đinh sơn Ly hướng. Ngôi đền được Tụ khí, Trấn trạch ngày 18 tháng giêng năm Đinh Hợi – 2007, khởi công, động thổ vào ngày Dương phong vân vũ 12/2, Thượng lương (cất nóc) vào ngày Phật đản 8/4, tu tạo trong vòng tứ nguyệt (4 tháng), làm lễ nhập trạch vào ngày Thiên nguyên Nhất khí lập Thu 29/6; khánh thành, tế lễ vào ngày hôm sau 30/6. Tất cả hội tụ từ tinh hoa địa lý, Địa thế phong thủy đến Bát quái Cửu cung. Tả Thanh long, hữu Bạch hổ Đông Tây chính hướng; Tiền Chu tước, hậu Huyền vũ Ly Khảm 2 phương. Tọa Sơn nghênh Thủy lại đoản Long trường Hổ; Lưỡng nghi, Tứ trụ, Ngũ hành hội Nhật nguyệt Cửu tiêu
Quá trình tu tạo, mọi việc đều được các vị Thần linh thiêng như: Thánh địa lý Tả Ao, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Thượng Toạ Thích Viên Thành linh hiển chỉ giáo về xây dựng, nghi thức phụng thờ, Đại tự Đối liễn… Lại được dân làng đồng tâm nhất chí, góp công góp của; Thập phương công đức. Nghi thức Tâm linh được làm đầy đủ, hội tụ được sự linh thiêng của Thiên Địa, Thần Thánh và Nhân tâm; chuẩn chỉ thờ Tam vị Thượng đẳng Phúc thần và Nhị vị Thánh nhân.
Các Triều đại xếp thứ tự thờ các vị Thần khác nhau. Đầu tiên xếp thứ tự: Trung lang Tế thế, Trung thiên Bảo quốc và Quốc vương Thiên tử. Thời Bắc thuộc xếp thứ tự: Quốc vương Thiên tử, Trung thiên Bảo quốc, Trung lang Tế thế; sau lại đổi thứ tự: Trung thiên Bảo quốc, Trung lang Tế thế, Quốc vương Thiên tử. Nay trong hậu cung thờ Tứ vị, xếp theo thứ tự sinh, ngụ, phụ, chầu:
1. Hữu trung : Đức Trung lang Tế thế Đại vương – Lang Công.
2 Tả. trung : Đức Trung thiên Bảo quốc Đại vương – Bảo Công
3. Hữu biên : Đức Quốc vương Thiên tử Đại vương – Cao Vương.
4. Tả biên : Đức Thánh Địa lý Tả Ao Đại vương.
5. Trung đường : Đức Thánh Chủ tịch Hồ Chí Minh Đại vương.
Ngôi đền theo lối chữ Đinh, 5 gian 2 trái, trung Công đồng, hậu Cấm cung uy nghiêm tựa Liên hồng ngự thuỷ. Mái ngói đỏ mũ hài; 4 đao Nghê chầu Long Phượng hoá; đỉnh nóc song Long chầu Nhật Nguyệt Lưỡng nghi. Mái lối kẻ truyền, thượng tam hạ tứ. Đầu hồi hạ kẻ, thượng chồng, tả hữu hai vì chữ Tâm, chữ Đức. Nội đền giả gỗ sơn son, hoạ tiết hoa văn, tranh thư lối cổ. Các án thờ, ngũ hành giao hội; ngũ sự, Thạch long, Ngọc ấn, La kinh…
Hậu cung bệ thờ đá đen khán tọa thờ bài vị, lư hương Tam khí, lưỡng nghi Long chầu Nhật nguyệt. Trung tâm phụng thờ nhị vị Thượng đẳng Phúc thần Trung lang Tế thế, Trung thiên Bảo quốc Đại vương. Thánh Địa lý Tả Ao ngự tả Đông họa hoa Liên hồng hương tỏa. Thượng đẳng Phúc thần Quốc vương Thiên tử tọa Tây bên hữu, Mẫu đơn rực rỡ tía hồng. Hậu cung, Trung đường ngăn cách bởi bức thư họa long Long chầu Thổ tự (2 rồng chầu chữ Thổ); tiền hương án thờ, hậu nội khán tượng Thánh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Công đồng hương án sơn son, lư hương đồng đúc Tam khí; Tàn che, Lọng rước lỗ bộ, bát bửu hai hàng. Tiền Dực bảo Trung hưng đại tự, hậu Quang linh địa ứng hoành phi. Hạ bức thư họa Rồng chầu chữ Thổ, hai
bên đối liễn Bảo hộ vạn niên trường Phú quý – Phù trì thiên tải vĩnh Hưng long .
Tả hữu Công đồng hai Hương án phụng thờ chầu phụ, Thổ địa Thần linh Thần hậu Thần từ. Tiền Đại bái 3 đôi câu đối: Tướng công hộ Quốc thiên thu Tại – Thần đức an Dân vạn đại Truyền; Tây lộ Khê lưu Kim tại Hậu – Đông giang Thuỷ tụ Mộc cư Tiền, Quốc thái Dân an do Linh địa – Nhân dân An lạc vị Đồng tâm. Tả hữu hai bên Hoành phi Đại tự như Đối liễn: Thánh đức lưu phương – Thần linh Tế thế, Xã tắc Thái bình tả Đông – Hữu tây Nhân dân An lạc. Tàn lọng che hai bên Tả hữu, Hộ quan Giám sát trụ Uy nghi; Ngựa hồng, ngựa bạch Trống cái Hồng chung, Kiệu vàng Bát cống, Long đình sơn son chờ rước Thánh. Chính môn cửa giữa sáu bức bàn lim già trạm trổ; Tả hữu môn bốn cánh đục khảm Tứ bình.
Ba gian chính 5 bậc thềm đá tảng, hai tay ngai đá chạm Song long. Tả Đông bia Xây dựng, hữu Tây bia Công đức 5 mặt ngũ hành ghi danh Văn Võ chỉ. Hướng Thổ khôn Văn miếu Đài nghiên Tháp bút, Đá trạm mái sách mở Thanh thiên thờ các bậc Thánh sư. Trước sân Kỳ đài Bát giác thế Cửu tiêu Nhật nguyệt ánh trùng quang với 9 bậc đá quý Kim sa Xà cừ, cột cờ 9 bậc cao 9 mét, chói lòa ánh mặt Trời, mặt Trăng. Ngày ngày treo Cờ thần, lễ trọng treo Tam tinh chầu Nhật; hai bên treo Cờ đỏ sao vàng, phấp phới cờ Quốc thái Dân an. Tiền Kỳ đài, cầu ba nhịp vào đền giả gỗ, nối cổ xưa hiện tại mai sau. Hai thành cuốn thư Tam đa tự , lại họa thêm bốn cảnh Tứ mùa. Dưới chầu ra Song long Tứ nhãn, nhị nhãn hoàng ẩn hiện đôi bên. Tứ Qui chầu nhau đội bốn trụ, thấp thoáng mặt hồ thuỷ nhiễu chu viên.
Thông ra đường cổng vàng Tứ trụ; Tứ quý, Tứ linh trang điểm bốn bên. Hai cánh gà đắp bốn tranh quê, mặt trước mặt sau Hương thôn trù phú. Lưỡng trụ rồng hai đôi câu đối: Địa linh Long Phượng qui lai kiến tạo Hương thôn Trù phú thịnh – Thiên khánh Tướng Thần phù hộ tấn hưng Tôn tộc hiển vinh trường; Đông thổ Danh lam Phú quý Đại An khang Thần linh tứ Phúc – Nam trì Thắng tích Lộc tài Đa Thịnh vượng Tướng lệnh ban Ân.
Tiền Chu tước , bên cầu cây Sa la Long thụ, giống cây từ rừng xa nơi Phật nhập Niết bàn. Bên cạnh 2 cây Ngâu tán tròn như hoa Cẩm Tú cầu. Phía ngoài cổng 2 cây Ô Sa ca hè về hoa đổ vàng rực rỡ, liền kề bên phải tỏa bóng cổ thụ Bồ đề. Hậu Huyền vũ đền trồng 4 cây Tứ quý tạo thành sơn, núi tựa cho đền. Tả biên đền, hàng Lộc vừng soi bóng, hoa nở rơi tím cả mặt hồ. Trước 2 bên 2 cây Ngọc bút, trắng sân đình hạ nắng hoa khoe. Xung quanh hàng chục loại cây xanh tốt, bao bọc đền rợp mát bóng cây.
Tả đền chính hướng Đông quẻ Chấn, tả Thanh long bia xây dựng Tả vu . Bên cạnh là tháp Đăng bằng đá, huyệt Hỏa lò hóa sớ kề bên. Hữu đền chính hướng Tây Đoài phía Hữu Bạch hổ bia Công đức ngũ diện kiêm Văn, Võ chỉ ; dưới bóng Ngọc lan hoa thơm ngào ngạt, ghi khắc công lao xây dựng Đình – Đền. Dưới bóng Phượng vĩ già trăm tuổi, hè về cháy rực đỏ sân đền; nối dài phía Hữu biên Bạch hổ là một ngôi Văn miếu uy nghi, trạm khắc bằng đá trắng Ninh Vân như bông Sen tọa lạc trên đất. Hữu miếu cây Đa lan cổ thụ, xóa lời thề đoạn tuyệt quê hương. Nóc Văn miếu như tranh sách mở, Nhật nguyệt chiếu rọi Thiên thư. Văn miếu vọng thờ Thần khoa cử: Văn Xương, Khổng tử chư Hiền triết. Lại Chính thờ Đinh nhân Tiến sĩ cùng chư vị Thánh sư Tiên nho, Khoa bảng Việt Nam các thế các đời. Bên tả miếu là Đài nghiên mực, bên hữu miếu là tháp bút cao bên trong ghi các họ khoa danh. Văn miếu nơi văn chương ước vọng, Đài nghiên Tháp bút tả Thiên thanh.

MỘ ĐỨC LANG CÔNG, ĐỨC BẢO CÔNG

Xưa kia, Đức Lang Công, Đức Bảo Công an táng tại gò cạnh phía Tây bờ sông cánh đồng Bến. Năm 1994 xây dựng trạm bơm, đào mương dẫn nước dân làng đã tìm thấy hài cốt đức Lang Công. Năm 2007 do đào ao làm trang trại dân làng đã tìm thấy hài cốt đức Bảo Công. Sau đó đưa các Ngài về nghĩa trang Vườn Bông Ngõ Hiến . Qua khảo cứu, đối chiếu Sử sách; Thần tích, Thần phả; Thờ tự, Đền miếu của một số nơi thờ Tể tướng Lữ Gia; được các vị Thần, Thánh Địa lý Tả Ao, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi hiển ứng; qua thực tế cũng như nhân duyên đã đến, dân Nam Trì đã tìm được hài cốt của 2 vị Thần – Thành hoàng: Lang Công và Bảo Công.
Gần 2200 năm sau, ngày 11 tháng 11 năm Đinh Hợi – 2007, dân làng khởi công xây mộ 2 vị Thần tại nơi trước kia các Ngài đã lập quán Hội đồng, xây dựng Hành cung, nơi Vọng miếu Tế rước Thần 3 xã Nam Trì, Đới Khê, Bảo Tàng. Đó là đình Ba Xã, xứ mả Phát – Voi phục. Ngày 18/11 cùng năm dân làng rước 2 Ngài về ngự và ngày 7/3 năm Mậu Tý – 2008 cùng với việc khánh thành đền Mẫu, nhà Tổ chùa tại chùa làng Phổ Xuân – Phổ Thung tự, dân ba làng Nam Trì, Đới Khê, Bảo Tàng chính thức làm lễ khánh thành mộ chí của 2 vị Thần và Tế lễ rước Thần.
Mộ phần của 2 vị Thần huynh đệ Bảo Công, Lan Công bên cạnh nhau nhìn ra đường lộ, khe nước chảy; tiếp là hồ lớn, xa là đình Đặng Xuyên thờ ngũ vị Thành hoàng thời Hùng Vương. Mộ phần toạ thủ Thìn sơn, Tốn phương, xây đá tảng chạm khắc hoa văn Kim liên, Vân họa, đôi Nghê gác cổng, bình phong chạm trổ tinh vi, nhà bia hai cột Song long Rồng cuốn, bát hương, lọ hoa đá trắng, bia đề: Nam Trì Thành hoàng mộ chí.

CÁC NGÀY TẾ LỄ, LỄ HỘI

NGÀY SINH CỦA CÁC VỊ THẦN:

1. Ngày sinh của đức Lang Công: 9/3.
Ngày hôm trước (8/3) quét dọn 2 khu Đền miếu, rước Thần đến sở Công đồng làm lễ yết cáo. Ngày hôm sau (9/3) là ngày lễ Chính. Ngày 10/3 làm lễ lại. Ngày 12/3 thì cả 3 khu (3 làng) làm lễ tạ.
Lễ vật ngày lễ chính gồm trâu lợn đen tuyền mua của những gia đình vợ chồng song toàn. Hội là ca hát 10 ngày, đánh cờ, đấu vật. Khi rã đám thì 3 khu (3 làng) phải cùng dọn xứ mả Phát để rước thần về đó làm lễ và có các trò vui như đấu vật…
2. Ngày sinh của đức Bảo Công: 10/3.
Hành lễ đại thể giống như thế. Ngày 8/3 rước Thần ra nhà Hội đồng làm lễ, có trò vui đấu vật 3 keo và rước đi các nơi làm lễ tắm Thánh. Nửa đêm 8/3 làm lễ sơ cáo, hôm sau mồng 9 làm lễ chính. Ngày 21 (hay ngày 12) làm lễ tế tạ.
Lễ vật ngày lễ chính gồm trâu bò, xôi rượu. Hội là ca hát 10 ngày, đánh cờ, đấu vật. Ngày hành lễ cấm mặc quần áo màu tía.
3. Ngày sinh của đức Cao Vương: 4/1.
Hành lễ đại thể giống như thế. Trước ngày lễ chính quét dọn hai khu đền miếu, rước thần đến sở Công đồng làm lễ yết cáo. Ngày hôm sau là lễ chính.
Lễ vật ngày lễ chính gồm trâu lợn đen tuyền mua của những gia đình vợ chồng song toàn. Hội là ca hát 10 ngày, đánh cờ, đấu vật. Khi rã đám thì 3 khu phải cùng dọn xứ mả Phát để rước thần về đó làm lễ, có các trò vui đấu vật…
4. Ngày sinh của đức Thánh Địa lý Tả Ao:
Năm Nhâm Tuất niên hiêu Đại Bảo thứ 3 đời Hậu Lê (1442).
5. Ngày sinh của đức Chủ tịch Hồ chí Minh:
Năm Kỷ Sửu (1899).
6. Ngày sinh của Công chúa Lâu Lương:
Ngày sinh của 2 vị Phu nhân: Thần tích ghi ngày 15/2 năm Bính Thìn.
Lễ vật là lễ chay gồm hoa quả, xôi, rượu.

NGÀY HOÁ CỦA CÁC VỊ THẦN:

1. Ngày hoá của đức Lang Công: 12/9.
Lễ vật gồm: xôi, rượu, lợn và trò chơi đánh vật.
2. Ngày hoá của đức Bảo Công: 1/12.
Lễ vật gồm: trâu, lợn, gà, xôi, rượu và bánh mật.
3. Ngày hoá của đức Cao Vương: 10/8.
Lễ vật gồm: trâu, gà, xôi, rượu.
4. Ngày hoá của Thánh Địa lý Tả Ao: 29/6
Lễ vật gồm: trâu, gà, cá, xôi, rượu.
5. Ngày hoá của Thánh Chủ tịch Hồ chí Minh: 21/7
Lễ vật gồm: trâu, gà, cá, xôi, rượu.
6. Ngày hoá của Công chúa, nhị vị Phu nhân: 15/11.
Lễ vật gồm gà, xôi, rượu (hoặc mổ trâu, bò cũng được). Hát 3 ngày

NGÀY HUÝ NHẬT CỦA THÁNH PHỤ, THÁNH MẪU:

Ngày huý nhật của Thân phụ đức Lang Công là ngày: 10/7.
Biện lễ tuỳ nghi. Các lễ tế khác thì thỉnh cả Thánh phụ, Thánh mẫu.

NGÀY KHÁNH HẠ (LỄ MỪNG): 4/6, 8/6 và 12/8.

Lễ vật gồm gà, xôi, rượu. Hát 1 ngày.
– Ngày 10/3: Ngày dân làng lễ đón rước đức Bảo Công, đức Cao Vương. Hiện nay là dịp tổ chức lễ hội.
– Lễ Tam sinh: Các ngày Đinh tháng 2, tháng 8 và chi 52 quan tiền công quỹ. Các ngày lễ phải kiêng huý các chữ: Biền, Quốc, Lang, Bảo, Lã, Gia và tên Thánh phụ, Thánh mẫu (Tạo, Vỹ, Tuyên, Huyền, Nguyên, Tố, Phương). Hành lễ cấm dùng màu vàng, màu tía.


https://taaonamtri.wordpress.com/2018/06/20/den-dinh-nam-tri-va-lang-mo-cac-vi-than/


2018


SẮC PHONG CÁC VỊ THẦN ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ

SẮC PHONG

Thời Bắc thuộc, các triều đại Đông Tây Hán, Ngô, Tấn, Tống của Trung Hoa đều sắc phong đức Cao Vương  Quốc vương Thiên tử Đại vương, đức Bảo Công  Trung thiên Bảo quốc Đại vương, đức Lang Công  Trung lang Tế thế Đại vương và chuẩn cho trang Nam Trì lập đền chính, phụng sự. Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần của Việt Nam, 3 vị Linh thần đều anh linh hiển ứng, hộ Quốc tý Dân nên cũng sắc phong như vậy. Các triều đại cũng đều sắc phong cho Công chúa Lâu Nương làm Thần, 2 vị Công chúa Phu nhân: A Lữ nương, Lự nương được phong là Trung Đẳng thần phối thờ. Nhà Tống phong đức Cao Vương  Quốc vương Thiên tử, đức Bảo Công  Trung thiên Bảo quốc, đức Lang Công  Trung lang Tế thế. Các triều đại 3 vị Thần đều giúp dân giúp nước hiển linh ứng báo nên đều được sắc phong mỹ tự, duệ hiệu Thượng đẳng Phúc thần. Nhà Lê sắc phong 3 vị Thần: Cao Vương  Tá trị hựu Thánh, Bảo Công là Cương trực hiển Thánh  Lang Công là Dũng lược Quả đoán; chuẩn cho Nam Trì lập đền chính phụng thờ, định kỳ cúng tế 4 vị Thần vào các ngày sinh, ngày hóa, ngày Khánh hạ , chữ húy, y phục và việc thờ phụng.
Triều Lê Anh Tông, năm Nhâm Thân – 1572, niên hiệu Hồng Phúc nguyênHàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn Ngọc phả Thần tích các vị Thần Nam Trì phụng sự. Ngày 1/2 năm Mậu Dần – 1758 niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 3 triều Lê Trung hưng, Quản giám Bách thần Hoà điện Hùng lĩnh Nguyễn Hiền phụng sao y bản chính từ bản gốc Nam Trì Ngọc phả Thần tích lưu trữ tại Quốc triều Lễ bộThư lại Nguyễn Quang là người chép.
Triều hậu Lê sắc phong, đức Bảo Công là Cương trực Hiển thánh, đức Lang Công là Dũng lược Quả đoán, đức Cao Vương là Tá trị hựu Phúc. Sau lại sắc phong 3 vị là Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng Phúc thần: Trung thiên Bảo quốc Đại vương, Trung lang Tế thế Đại vương, Quốc vương Thiên tử Đại vương; Công chúa Lâu Lương, A Lữ nương, Lự nương là Tôn trinh uyển Dực bảo Trung hưng Trai tĩnh Trung đẳng Thần; tế lễ vào các ngày sinh, ngày hoá của các vị Thần. Thời Lê mỗi lần sắc phong duệ hiệu lại thêm mỹ tự. Triều Nguyễn đều phong như cũ. Cho đến năm 1853 niên hiệu Tự Đức thứ 6 thì sắc phong thêm 3 vị kiêm làm Thành hoàng 3 làng: Nam trì, Đới Khê và Bảo tàng.
Ngày 16 tháng Chạp năm Kỷ Mão – 1999, dân Nam Trì đã sao tại viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (sao không chính thức) bản gốc Thần tích, Thần sắc thôn Nam Trì và bản khai các vị Thần bằng tiếng Pháp ngày 26/4 năm Mậu Dần – 1938 do Chánh Hương Hội và quyền Lý trưởng khai, ký tên đóng dấu. Ngày 28/10 năm Đinh Hợi – 2007 sao lại chính thức để thờ. Bản sách đề: Thần tích, Thần sắc thôn Nam Trì, tổng Thổ Hoàng, phủ Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, có mã số: TT-TS FQ 40 18/X11, 11. Đây là bản Thần tích được phụng sao từ chính bản Thượng đẳng, bộ Cửu (9), bản Ngọc phả Cổ lục của Quốc triều Lễ bộ. Bản Thần tích, Thần sắc có 2 phần: một là Thần tích chung Tam vị Bảo Công, Lang Công, Cao vương, Công chúa Lâu Lương và nhị vị Phu nhân A Lữ nương, Lự nương. Hai là thần tích đức Lang Công, đức Cao vương.
*****
Hiện còn 12 nội dung sắc phong các vị Thần của triều Lê và triều Nguyễn được phụng sao ngày 6/3/1938 năm Mậu Dần niên hiệu Bảo Đại 13:
1. Sắc ngày 24/7 năm Canh Thân (1740) niên hiệu Cảnh Hưng nguyên sắc phong:
Đại vương Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân.
Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân.
Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công.
Đại vương nam nữ Đế thần A Lự, Lữ nương Phù dữ dựng tú phái nhất chung linh tỷ thử. Nhất phương Tịch dân sinh ư Xuân thọ xứng nhĩ; Bách phúc diễm quốc mạch ư Thái khánh âm phù.
Ký hiển Thần công đăng trật thức kê tự điển yên.
Tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong, khả gia phong Đại vương tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, Tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong nhị tự, khả gia phong Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân, Thịnh đức mỹ dụ. Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân, Khoát đạt dũng lược. Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc, Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công, Kiến mưu khuông tịch. Đại vương nam nữ Đế thần A Lữ nương, Lự nương cố./.

2. Sắc ngày 8/8 năm Mậu Tý (1768) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 nguyên sắc phong:
Đại vương Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân, Thịnh đức mỹ dụ.
Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân, Khoát đạt dũng lược.
Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công, Kiến mưu khuông tịch.
Đại vương nam nữ Đế thần A Lữ nương, Lự nương Đức phù càn kiện, chất bẩm khôn trinh, chung nhị khí chi Lương năng. Huyền huyền mạc trắc, phù ức niên chi Hồng nghiệp. Vĩnh vĩnh vô cương, ký đa cao hĩ chi Công cái.
Cử biên thủ chi điển yên.
Tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong, khả gia phong Đại vương tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, Tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong nhị tự, khả gia phong Đại vương Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân, Thịnh đức mỹ dụ, An dân hòa chúng. Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân, Khoát đạt dũng lược, Quả đoán anh nghị. Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công, Kiến mưu khuông tịch, Hùng tráng uy vũ. Đại vương nam nữ Đế thần A Lữ nương, Lự nương cố./.

3. Sắc ngày 16/5 năm Giáp Thìn (1784) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 sắc phong:
Đại vương Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân, Thịnh đức mỹ dụ, An dân hòa chúng.
Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân, Khoát đạt dũng lược, Quả đoán anh nghị.
Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công, Kiến mưu khuông tịch, Hùng tráng uy vũ.
Đại vương nam nữ Đế thần A Lữ nương, Lự nương Quang nhạc tiêu anh. Âm dương hợp khí, vận mạc hiển mạc chương chi Hóa; Giáng phúc trừ mưu, phu tịnh sinh tịnh dục chi Nhân. Tý dân hộ quốc tương hựu.
Ký chưng hiệu khuông bao phong nghi phần huy chương vị.
Tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong, khả gia phong Đại vương tự vương tiến phong, vương vị lâm cư, Chính phủ tôn phù, Tôn xã củng cố hồng đồ, lễ hữu đăng trật ứng gia phong nhị tự, khả gia phong Đại vương Trung thiên Bảo quốc Hộ dân dực Thánh, Dương uy phù vận, Cương nghị an dân, Hùng tài vĩ lược, Thiện mưu tá tịch, Khoan hậu chính trực, Tuyên du địch nghị, Tĩnh quốc ninh nhân, Thịnh đức mỹ dụ, An dân hòa chúng, Tuệ triết chiêu ứng. Đại vương Trung lang Tế thế Hậu đức chí nhân, Cương chính quảng vận hồng ân, Quả đoán phấn dũng, An dân tập phúc, Duyên khánh hiển linh, Phù cách hoành mô vĩ lược, Mậu đức hồng huân, Khoát đạt dũng lược, Quả đoán anh nghị, Uyên thâm bác nhã. Đại vương Quốc vương Thiên tử Tá trị hựu Phúc Uy linh diễm khánh, Trí dũng anh linh, Phổ hóa nhuận vật, Khang dân tế trị, Hoàng dụ phổ hóa, Tý dân Bảo quốc, Thịnh đức mậu công, Kiến mưu khuông tịch, Hùng tráng uy vũ, Cương nghị anh đạt. Đại vương nam nữ Đế thần A Lữ nương, Lự nương cố./.
Trung đẳng Thần Trai tĩnh Trinh uyển Dực bảo Trung hưng Lâu nương Công chúa tôn Thần cập nhị vị Phu nhân A Lự, Lữ nương Hộ quốc Tý dân, Niễm trứ linh ứng, Phù dực dựng tú, Thái nhất chung linh tỷ thử. Nhất phương Tịch dân sinh ư Xuân thọ xứng nhĩ, Bách phúc diễm quốc mạch ư Thái khánh âm phù. Đức phù càn kiện, chất bẩm khôn trinh, chung nhị khí chi Lương năng. Huyền huyền mạc trắc, phù ức niên chi Hồng nghiệp. Vĩnh vĩnh vô cương, ký đa cao hĩ chi Công cái. Cử Quang nhạc tiêu anh. Âm dương hợp khí, vận mạc hiển mạc chương chi Hóa; Giáng phúc trừ mưu, phu tịnh sinh tịnh dục chi Nhân.

4. Sắc ngày 24/5 Quý Sửu (1853) niên hiệu Tự Đức thứ 6:
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê nhị thôn nguyên tự Thần hiệu vị hữu dự phong tứ kim phi ứng. Thủ mệnh đàm bá ân chiêm đặc chuẩn cấp ban Thành hoàng chi Thần, sắc văn nhất đạo, tặng vị Bản cảnh Thành hoàng Linh phù chi Thần chuẩn nhị thôn phụng sự Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.

5. Sắc ngày 24/11 năm Canh Thìn (1880) niên hiệu Tự Đức thứ 33:
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê nhị thôn phụng vị Thần Linh phù Linh chiếu Trung thiên vi Bản cảnh Thành hoàng cố (Dịp lễ sinh nhật vua Nguyễn Dực Tông – Hồng Nhiệm 50 tuổi).
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê nhị thôn tòng tiền phụng sự Bản cảnh Thành hoàng Linh phù Linh chiếu Trung thiên chi Thần. Tiết hồng ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Tự Đức tam thập nhất niên chính trực trẫm ngũ tuần Đại khánh tiết hồng ban Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm thử.

6. Sắc ngày 1/7 năm Kỷ Hợi (1887) niên hiệu Đồng Khánh thứ 2:
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê nhị thôn tòng tiền phụng sự Bản cảnh Thành hoàng Linh phù Linh chiếu Trung thiên chi Thần; gia phong Dực bảo Trung hưng.
Sắc: Bản cảnh Thành hoàng Linh phù Linh chiếu Trung thiên chi Thần. Hướng lai Hộ quốc tý dân, Niễm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp. Tặng sắc lưu tự tứ kim phi ứng. Thủ mệnh diến niệm Thần hựu khả gia phong Dực bảo Trung hưng chi Thần; chuẩn hứa Hưng Yên tỉnh, Ân Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê nhị thôn y cựu phụng sự Thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.

7. Sắc ngày 8/6 năm Tân Hợi (1911) niên hiệu Duy Tân thứ 5:
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê tam xã phụng vị Thần Trung thiên Bảo quốc chi Thần; gia phong Dực bảo Trung hưng.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê tam xã phụng sự Trung thiên Bảo quốc chi Thần Hộ quốc tý dân, Niễm trứ linh ứng, lai hướng vị sùng dự cấp sắc văn, tứ kim phi thừa thư mệnh diến niệm Thần hưu trứ phong vi Dực bảo Trung hưng chi Thần đặc chuẩn y cựu phụng sự Thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.
8. Sắc ngày 18/3 năm Đinh Tỵ (1917) niên hiệu Khải Định thứ 2:
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã, Bảo Tàng, Đới Khê tam xã phụng vị Công chúa Lâu nương Tôn thần và phong là Trinh uyển Dực bảo Trung hưng tôn Thần.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã phụng sự Lâu nương Công chúa tôn Thần Hộ quốc tý dân, Niễm trứ linh ứng tứ kim phi thừa thư mệnh diến niệm Thần hưu trứ phong vi Trinh Uyển Dực bảo Trung hưng tôn Thần chuẩn kỳ phụng sự ứng tải Thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.

9. Sắc ngày 25/7 năm Giáp Tý (1924) niên hiệu Khải Định thứ 9 có 4 sắc phong cho 4 vị Thần.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã phụng sự vị Thần: Quốc vương Thiên tử Đại vương tôn Thần; gia phong Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn Thần.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã phụng sự Quốc vương Thiên tử tôn Thần Niễm trứ linh ứng, tứ kim chính trực. Trẫm tứ tuần Đại khánh tiết hồng ban Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật trứ phong vi Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn Thần chuẩn kỳ phụng sự Thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã tòng tiền phụng sự vị Thần: Trung thiên Bảo quốc Đại vương tôn Thần; gia phong Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn Thần.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã tòng tiền phụng sự Trung thiên Bảo quốc, nguyên tặng Linh phù Dực bảo Trung hưng tôn Thần Hộ quốc tý dân, Niễm trứ linh ứng. Tiết mông ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự tứ kim chính trực. Trẫm tứ tuần đại khánh tiết hồng ban Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật trứ gia tặng truân chính tôn Thần. Đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm thử.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã tòng tiền phụng sự Trung lang Tế thế Đại vương tôn Thần; gia phong Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn Thần. (Dịp lễ sinh nhật vua Nguyễn Hoằng Tông – Bửu Bảo 50 tuổi).
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã phụng sự Trung lang Tế thế Đại vương tôn Thần Niễm trứ linh ứng, Phi kim chính trực. Trẫm tứ tuần đại khánh tiết hồng ban Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng vi Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn Thần chuẩn kỳ phụng sự Thần. Kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm thử.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã tòng tiền phụng sự vị Thần: Công chúa Lâu nương Tôn trinh uyển Dực bảo Trung hưng, lễ long đăng trật Thần Trai tĩnh Trung đẳng Thần.
Sắc: Hưng Yên tỉnh, Thiên Thi huyện, Nam Trì xã tòng tiền phụng sự Lâu nương Công chúa tôn Thần, nguyên tặng Trinh uyển Dực bảo Trung hưng tôn Thần Hộ quốc tý dân, Niễm trứ linh ứng. Tiết sùng ban cấp sắc phong, chuẩn hứa phụng sự, tứ kim chính trực. Trẫm tứ tuần Đại khánh tiết hồng ban Bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật trứ gia tặng Trai tĩnh Trung đẳng Thần. Đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm thử.
Trung đẳng Thần Trai tĩnh Trinh uyển Dực bảo Trung hưng Lâu nương Công chúa tôn Thần cập nhị vị Phu nhân A Lự, Lữ nương Hộ quốc Tý dân, Niễm trứ linh ứng, Phù dực dựng tú, Thái nhất chung linh tỷ thử. Nhất phương Tịch dân sinh ư Xuân thọ xứng nhĩ, Bách phúc diễm quốc mạch ư Thái khánh âm phù. Đức phù càn kiện, chất bẩm khôn trinh, chung nhị khí chi Lương năng. Huyền huyền mạc trắc, phù ức niên chi Hồng nghiệp. Vĩnh vĩnh vô cương, ký đa cao hĩ chi Công cái. Cử Quang nhạc tiêu anh. Âm dương hợp khí, vận mạc hiển mạc chương chi Hóa; Giáng phúc trừ mưu, phu tịnh sinh tịnh dục chi Nhân.


https://taaonamtri.wordpress.com/2018/06/20/sac-phong/


2018

THẦN TÍCH THẦN CAO VƯƠNG VÀ 2 VỊ PHU NHÂN VÀ ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ, thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên

Thời Đường có họ Cao, gốc quận Bột Hải (nay là huyện Cảnh, tỉnh Hà Bắc – Trung Quốc), Tổ tiên ở Thái Thành sơn tỉnh Sơn Đông, sau cư ngụ ở U Châu (nay ở Tây nam Bắc Kinh – Trung Quốc) nhiều đời coi giữ Cấm quân . Đến thời Đường Hiến Tông có người họ Cao tên Nguyên con trai của Nam Bình Quận vương Cấm quân Cao Sùng Văn kết hôn với con gái nhà họ Thuý. Năm bà họ Thuý 41 tuổi nằm chiêm bao thấy rồng vàng phủ bụng mà có mang đến ngày 4 tháng Giêng năm Giáp Thìn thì sinh ra một người con trai. Lúc trở dạ sinh, buồng đẻ sáng rực hào quang, mùi hương ngào ngạt, thinh không có đám mây ngũ sắc trong 3 ngày liền.
Cao vương tên tự là Thiên Lý. Vương là người độ lượng hơn hẳn người thường, lại thông minh, mưu lược, anh hùng cái thế, trí dũng hơn người. Còn nhỏ Vương đã giỏi văn, hay thảo luận về chuyện đạo lý với các Nho sĩ nên có địa vị cao trong Lưỡng quân của Thần Sách quân, được thăng đến chức Hữu Thần Sách đô Ngu hậu. 15 tuổi Vương đã được vào hầu Nội điện, năm 31 tuổi làm Tướng quốc. Vương rất ham mê và giỏi môn địa lý, phong thuỷ, có tài hô Thần tróc Quỉ; địa thế hàng trăm nước đều thâu tóm trong bàn tay, Long hổ Thế đất đều phải phục tùng. Tương truyền do có công lớn nên được nhà vua trọng thưởng nhưng Vương không lấy gì chỉ xin kho bút lông. Trong kho có một cây bút Thần, Vương tìm được mang ra vẽ chim Diêm, chim Hộc để bay lên không trung xem xét địa lý, phong thuỷ khắp nơi. Trong thời gian làm Đô hộ, Tiết Độ sứ Giao Châu, thấy các nơi có thế đất quí đều cho dựng đền chùa và dựng hành cung để làm nơi nghỉ dưỡng, thưởng ngoạn.
Thời Đường, người Man cát cứ 6 vùng lãnh địa, đứng đầu là Chiếu . Vùng giáp Giao Châu do chiếu Mông Xá cai quản nên gọi là Nam Chiếu. Sau, chiếu Mông Xá tài giỏi, Nam Chiếu hùng mạnh nên đã hợp nhất được 5 lãnh địa kia lại xưng Vương, đánh chiếm Thổ Phồn ở phía Bắc nên đổi là Đại Mông, sau đổi thành Đại Lý . Năm 846 có Bùi Nguyên Dụ, năm 858 có Vương Thức nhà Đường làm Kinh Lược sứ Giao Châu nên mặc dù Nam Chiếu đánh chiếm Giao Châu nhiều lần nhưng không được. Đầu triều đại của Đường Ý Tông, có một cuộc nổi dậy của người Đảng Hạng. Khi đấy, từng có một vài tướng chống lại người Đảng Hạng song không có kết quả, duy có Vương biết nắm bắt cơ hội mà dụng binh, xuất 1 vạn Cấm binh đến đóng quân tại thành Trường Vũ và giành thắng lợi, được Đường Ý Tông khen ngợi. Sau đó, để chống lại việc tập kích của Ngoại tộc phía tây, Vương được chuyển đến canh giữ Tần châu và giữ chức Thứ sử Tần châu, Kinh Lược sứ Tần châu.
Năm 863 nhà Đường gọi Vương Thức về đi dẹp loạn Cửu Phú, cử Lý Hộ sang thay, Nam Chiếu, quốc hiệu Đại Lễ lại kéo 3 vạn quân sang đánh, Lý Hộ không chống được. Sau nhà Đường phải cử Vương Khoan cùng Thái Tập sang mới giữ được. Năm 862, Nam Chiếu lại đưa 5 vạn quân sang, chiếm được Giao Châu. Mười năm, bốn lần xâm lược, Nam Chiếu đã bắt, giết 15 vạn người Việt ở Giao Châu. Hoàng đế Nam Chiếu là Mông Thế Long cử Đoàn Tú Thiên làm Tiết Độ sứ vùng Giao Châu thay nhà Đường. Năm Giáp Thân, Hàm Thông thứ 5 – 864, nhà Đường cử Trương Nhân đánh Nam Chiếu nhưng vẫn bị thua. Theo ý của Đồng bình Chương sự Hạ Hầu Tư, vua Đường Ý Tông cử Vương đang giưc chức Kiêu vệ Tướng quân làm Đô hộ Tổng quản Kinh lược Chiêu thảo sứ thay Trương Nhân. Mùa thu năm 865, Vương cùng Giám quân Lý Duy Chu dẫn 2 vạn rưỡi quân sang Giao Châu đóng tại Hải Môn . Vương dẫn 5.000 quân tiến về phía tây và hẹn Lý Duy Chu tiến quân sau. Do Lý Duy Chu ganh ghét với Vương nên không dẫn quân theo.
Vương dẫn quân từ biển Đông Hải vào Giao Châu đánh giặc Nam Chiếu. Khi hành quân qua Nam Trì thấy bản doanh xưa kia và đền thờ của 2 vị Lang Công, Bảo Công, lại thấy đất đai ở đây có hình thế quý, nhà cửa huy hoàng. Đền thờ ở thế đất Phượng Hoàng Hàm thư rất quí nên cho là đền thiêng hẳn Thần phải linh, bèn cho dừng xe, đóng đồn ở đây và trú đêm ở đền. Đêm đến Vương vào trong điện khấn: Nay Thần tiến binh đánh giặc Nam Chiếu, 2 vị Linh thần có anh linh thì xin phù hộ giúp quốc gia, tiễu trừ quân giặc. Sau này thành công hẳn được bao khen, sắc phong cúng tế, xin Quân thần sau này 1 chốn, cùng phối hưởng lâu dài, há phải dài dòng, khấn cầu từ hay ý đẹp. Nửa đêm, Vương chiêm bao thấy 2 vị Tướng đường đường, đầu đội mũ trăm sao sán lạn, mặc long bào giáp ngọc huy hoàng. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn 7 thước tay cầm siêu đao vàng, 1 vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Vương bèn hỏi: Các ngài là Danh tướng nào vậy? Một vị xưng: Thần vốn là Trung thiên Bảo quốc, vị kia xưng vốn là Trung lang Tế thế, đều là Đại thần, Tướng nhà Triệu thời xưa, nay thấy Vương đem quân đi đánh giặc thì tình nguyện theo Vương đánh giặc, âm phù tả hữu giúp Vương thắng giặc, xin hãy chấp thuận. Thần vừa dứt lời thì Vương tỉnh giấc, biết là kỳ mộng báo trước sẽ thỏa nguyện công thành.
Hôm sau, ngày 10/3 nhân dân Nam Trì hành lễ chúc mừng. Vương bèn truyền cho phụ lão Nam Trì rằng: Ta phụng mệnh Đường vương nhậm chức Đô hộ nước Nam. Nay giặc Nam Chiếu xuất sư dấy binh xâm phạm, vì thế Ta tiến quân qua đây. Ngắm nơi đây thấy địa thế quan kỳ, có thế đất rất quí. Đền thờ được dựng chính giữa khu có thế Phượng Hoàng hàm thư nên nhân dân nhất định giàu có, phát nhiều Công hầu. Rồi cho dựng hành cung ở khu Ngọc Khê.
Biết tin Vương tiến quân, Hoàng đế Nam Chiếu sai tướng Dương Tập Tư đến cứu viện. Vua Đường Ý Tông lại sai tướng Vi Trọng Tể đem 7 nghìn quân đến Phong Châu hợp binh với Vương đánh quân Nam Chiếu. Giám quận Lý Duy Chu ghanh ghét, không hiệp đồng, lại có âm mưu hãm hại Vương. Với 5 nghìn quân tiên phong và quân tăng cường của tướng Vi Trọng Tể, Vương vẫn tiến quân thẳng đánh Nam Chiếu. Khi giao chiến, trời đột nhiên tối sầm, sấm sét nổi lên dữ dội, 2 vị Thần Bảo Công, Lang Công hiện về, hỗ trợ 2 bên tả hữu làm cho quân giặc chạy toán loạn. Chỉ một trận lớn, Vương đã dẹp tan quân Nam Chiếu tại chiến trường và chuẩn bị vây phủ An Nam Đô hộ.
Vương dâng tấu chiến thắng lên vua Đường Ý Tông nhưng bị Lý Duy Chu giữ lại tại Hải Môn. Vua Đường không nhận được tin tức gì nên hỏi Lý Duy Chu, Chu tấu rằng Vương trú quân ở Phong châu, không tiến đánh Nam Chiếu. Vua Đường tức giận. Mùa hè năm 866, vua Đường sai Hữu vũ Vệ tướng quân Vương Yến Quyền thay thế và triệu Vương về Trường An trách tội. Khi Vương đang bao vây thành thì nhận được lệnh phải giao lại quyền cho Vương Yến Quyền. Vương giao lại binh sĩ cho Vi Trọng Tể và trở về Hải Môn để gặp Vương Yến Quyền chuyển giao quyền hành. Một mặt Vương và Vi Trọng Tể phái Tiểu hiệu Tăng Cổn và Tiểu sứ Vương Huệ Tán về Trường An báo tin chiến thắng. Khi Tăng Cổn và Vương Huệ Tán đến Trường An dâng tấu, Đường Ý Tông hài lòng nên ban chiếu chỉ thăng chức cho Vương làm Kiểm hiệu Công bộ Thượng thư , phục quyền trấn thủ An Nam.
Sau khi giao lại binh quyền, Vương cùng 100 thủ túc về Bắc quốc. Đến Hải Môn thì nhận được chiếu chỉ thì quay trở lại Giao Châu. Khi Vương đi, Lý Duy Chu và Vương Yến Quyền tiếp quản chức vị nhưng không tiếp tục vây thành nữa. Vương quay trở lại tiếp tục vây thành, đến tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 – 866 thì hạ được thành, giết chết Đoàn Tú Thiên và Tù trưởng bản địa liên minh với quân Đại Lễ là Chu Đạo Cổ. Biết tin Vương chiếm được thành, vua Đường Ý Tông đổi phủ An Nam Đô hộ là phủ Tĩnh Hải quân và bổ nhiệm Vương là Đô hộ Tiết độ sứ Giao Châu.
Hai Thần phù hộ nên Cao Vương đánh tan quân giặc. Ngày 10/3, Nhân dân đón rước và hành lễ chào mừng tại trụ sở Hội đồng. Tại đền thờ 2 vị Thần Lang Công, Bảo Công, Cao Vương truyền rằng: Tại đền chính thờ 2 vị Thần này, Ta cũng 2 vị Quân thần mở hội lễ mừng vạn năm không thay không đổi. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm, làm cho nhân dân lầm than khổ cực. Ta mang quân đi tiễu trừ quân giặc qua đây thấy thế đất cực quý, Thần thờ trong đền thì rất linh thiêng. Quả nhiên đêm về, 2 vị Linh thần hiện lên xin tòng chinh hộ quốc. Ta có nguyện ước cùng duyên phối hưởng với 2 vị Thần như anh em chí tình. Tuy âm dương hai ngả nhưng đều chung nguyên khí núi sông; tuy Nam Bắc 2 phương nhưng đều chung một Trời nghĩa khí. Nên nay ta có ước nguyện kết nghĩa huynh đệ với 2 vị Thần, xứng đáng cùng nhau vạn năm hương hỏa, nước Nam sẽ lưu danh thơm bất hủ nghìn đời. Rồi Cao Vương ban vàng ngọc cho dân làng làm công quĩ. Sau cho tu sửa đền thờ và xây thêm Vọng cung đình Ba xã làm chỗ tế lễ 2 vị Thần.
*****
Lại nói về trang Nam Trì có gia đình Phạm tên húy là Tố, lấy vợ cũng người là Trần Thị Phương người Ngọc Khê cùng trang Nam Trì. Năm bà Trần Thị 21 tuổi nằm mộng vào chùa Hương Tích gặp Phật bà Quan Âm hiện lên cho một cặp nhẫn vàng về nhà có mang. Đến rằm tháng 2 năm Bính Thìn thì đẻ sinh đôi 2 cô con gái. Khi trở dạ 2 nàng tố nữ, có chim Công ngũ sắc múa lượn trước sân nhà, hương thơm toả ra thơm nức. Lớn lên 2 cô xinh đẹp tựa Hằng Nga, thể diện bồng đảo , nét mặt vui tươi như trăm hoa đua nở, mắt sáng long lanh tựa ngọc. Đến khi được 2 tuổi cha mẹ đặt tên cô thứ nhất là A Lữ và cô thứ 2 là Lự nương. Hai chị em trưởng thành thì Tam tòng, Tứ đức nữ công bách hạnh, đủ đầy công dung ngôn hạnh ; ca kịch, thư họa, múa hát thanh sắc đều tuyệt vời, tài giỏi hơn người.
Khi Vương dựng Hành cung thì 2 cô đến xem. Nhác trông thấy 2 chị em có vẻ mặt yêu kiều lộng lẫy hơn người, Vương nghĩ đây là người thỏa nguyện toại lòng mình. Rồi Vương cho triệu vợ chồng họ Phạm đến bàn chuyện cưới hỏi. Ông bà đồng ý gả 2 cô cho Vương. Vương cho mang 400 thoi vàng dẫn cưới, cho dựng Cung nương lưu tồn tồn đến đời sau gọi là hành cung Ngọc Khê. Rồi Vương rước 2 Phu nhân về phủ Tĩnh Hải vương tức thành Đại La.
Lại nói về việc Vương xây thành Đại La. Thời nhà Tuỳ cai trị, cho chuyển Trị sở Giao Châu từ Long biên Phủ tiết trấn Giao Châu ở phía Long Biên, Bắc sông Hồng thuộc Kinh Bắc đến Tống Bình . Nhà Tuỳ tồn tại không bao lâu, nhà Đường lên đặt ra Giao Châu Đô hộ phủ cũng lấy Tống Bình làm Trị sở của phủ Đô hộ. Năm Đinh Mùi, Đại Lịch thứ 2 – 767 đời Đường Đại Tông, Kinh Lược sứ Trương Bá Nghi cho chuyển về Long Đỗ ở phía Nam sông Hồng. Năm Trinh Nguyên thứ 7 – 791 đời Đường Đức Tông, Triệu Xương cho đắp thêm. Năm Quý Mùi, Trinh Nguyên thứ 19 – 803, Đô đốc Bùi Thái sai lấp bỏ những hào rãnh hợp làm 1 thành. Năm Mậu Tý, Nguyên Hòa năm thứ 3 – 808 đời Đường Hiến Tông, Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu đắp thêm. Năm Trường Khánh thứ 4 nhà Đường – 824 đời Đường Mục Tông, Lý Nguyên Gia đắp một cái thành nhỏ bên sông Tô Lịch gọi là La thành .
Nhà Đường cho đổi Giao Châu thành Tĩnh Hải nên Vương còn được phong Tĩnh Hải quân Tiết trấn. Đề phòng quân Nam Chiếu đánh chiếm nữa, Vương cho xây Tĩnh Hải phủ vương trên cơ sở La thành cũ. Do thành to rộng nên ta gọi là thành Đại La. La thành có 4 mặt sông Nhĩ Hà và Tô Lịch, chu vi 1982 trượng lẻ 5 thước (tức 3000 bộ ≈ 6,6 km), cao 2 trượng 6 thước (≈ 8,67 m), chân thành rộng 2 trượng 5 thước (≈ 8,33 m), nữ tường trên thành cao 5 thước rưỡi (≈ 1,83 m) có lỗ ngắm bắn, 55 lầu Vọng lâu , 6 cửa ống , 3 hào nước. Vương còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành gọi là Kim thành dài 2.125,8 trượng (≈ 7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈ 5 m), chân đê rộng 2 trượng (≈ 6,66 m), 34 đường đi và 40 vạn gian phòng ốc để dân cư ở. Sau đó, Vương cũng tiến hành một dự án lớn để loại bỏ những trở ngại tự nhiên trên sông đặc biệt là tạo thủy lộ thuận tiện giữa Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo .
Thành Đại la là khởi đầu của kinh đô muôn đời của các bậc Đế vương như trong Chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long của Vua Lý Công Uẩn viết: Huống thành Đại La, kinh đô cũ của Cao vương nơi trung tâm một khu vực trời đất, được thế rồng cuộn, hổ ngồi; chính hướng Nam bắc Tây đông; nhìn sông, tựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng. Dân cư không phải chịu cảnh ngập lụt khốn khổ, muôn vật rất phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là Thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của 4 phương đất nước; là kinh đô bậc nhất, muôn đời của các bậc Đế vương.
Sau Vương cho xây đồn ải ở biên thuỳ, chỉnh đốn việc công, đặt sổ sưu thuế thu cho việc công đầu tiên ở Giao Châu, đặt ra phép tắc; trị thủy sông ngòi xây dựng hải cảng để thông thương các nước, thương mại giao lưu… Thời kỳ Vương trị nhậm, Thiên hạ thái bình, nhân dân an cư, lạc nghiệp, no đủ giàu có; mọi người kính phục nên gọi Cao vương. Làm Tiết độ sứ Giao Châu được 9 năm thì Hoàng đế nhà Đường triệu Vương về Bắc quốc cử làm quan Thái thú kinh Bình Châu quốc được 10 năm. Vương tiến cử cháu là Cao Tầm thay được 3 năm nữa.
Sử sách chép rằng: Năm 868, Vương được triệu hồi về Trường An giữ chức Hữu Kim ngô Đại Tướng quân. Vương đề nghị triều đình cho cháu là Cao Tầm, người đã lập được nhiều công lao đánh Nam Chiếu được kế nhiệm giữ chức Tĩnh Hải Tiết Độ sứ. Rồi Vương được phong Kiểm hiệu công bộ thượng thư, Vận châu Thứ sử, Thiên Bình Tiết Độ sứ, Đồng bình Chương sự. Năm 874, Đại Lễ tiến công vào Tây Xuyên , Tiết độ sứ Ngưu Tùng không kháng cự nổi. Vua Đường Hy Tông lệnh cho các quân xung quanh cứu viện Tây Xuyên, trong đó có Vương và Vương được bổ nhiệm là Tây Xuyên Tiết Độ sứ. Năm 875, Vương tiến hành một số cuộc tiến công nhỏ trừng phạt Đại Lễ, sau đó cho xây dựng một số thành lũy trọng yếu trên biên giới và có kế hoạch tổng tiến công Đại Lễ nhưng vua Đường Hy Tông không cho. Năm 878, Vương được bổ nhiệm làm Kinh Nam Tiết Độ sứ, rồi Trấn Hải Tiết Độ sứ kiêm Kiểm hiệu Tư không, tiến phong là Yên Quốc công. Năm 879, Vương tiến đánh Hoàng Sào thắng lợi và bổ nhiệm làm Hoài Nam Tiết Độ sứ rồi làm Chư đạo Hành Doanh binh Mã Đô thống. Mùa thu năm 880, Hoàng Sào vượt sông Trường Giang, tiến vào lãnh địa Hoài Nam, Vương xưng bệnh và từ chối giao chiến với Hoàng Sào, mối quan hệ giữa ông và triều đình từ đó lạnh nhạt đi.
Tết năm 881, Hoàng Sào tiến gần đến Trường An, vua Đường Hy Tông bỏ kinh thành chạy đến Tây Xuyên, hy vọng rằng Vương sẽ dẫn quân tái chiếm Đông đô và kinh thành, do đó đã ban một chiếu chỉ cho phép Vương bổ nhiệm các tướng lĩnh, quan lại, song Vương vẫn không suất quân. Năm 882, vua Đường Hy Tông bổ nhiệm Vương làm Đạc Chư đạo Hành Doanh binh Mã Đô thống, ban cho chức Thị trung, giữ nguyên chức Hoài Nam Tiết Độ sứ song bãi chức Diêm thiết Chuyển vận sứ. Vương và vua Đường Hy Tông mâu thuẫn. Mùa hè năm 887, nội bộ nhà Đường nổi loạn tại thành Dương Châu, Vương phải chuyển giao toàn bộ quyền lực của Hoài Nam cho Tất Sư Đạc. Tần Ngạn và Tất Sư Đạc quản thúc Vương cùng gia quyến của ông tại một Đạo viện. Rồi Tần Ngạn và Tất Sư Đạc cho rằng Vương dùng ma thuật để chống lại họ. Một Yêu ni là Vương Phụng Tiên báo với Tần Ngạn rằng một Đại nhân cần phải chết để chấm dứt tranh chấp thành Dương châu, do đó Tần Ngạn đã quyết tâm giết chết Vương. Ngày 24 tháng 9, Tần Ngạn phái tướng Lưu Khuông Thì đi giết Vương cùng các thân thích là nam giới rồi ném xuống một hố. Sau khi Dương Hành Mật chiếm được Dương châu vào cuối năm đó, đã bổ nhiệm cháu của Vương là Cao Dũ là Phó sứ, sai cải táng Vương và thân tộc. Cao Dũ đã qua đời khi chưa cải táng. Sau đó, thuộc hạ của Vương là Quảng Sư Kiền mới thu táng.
Có sách chép: Về Bắc quốc, được cử đi dẹp cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào nhưng Cao vương không đi nên bị tước hết binh quyền. Hoặc Năm 885, Vương đang trấn giữ thành Dương Châu, vua Đường Hy Tông bị quân Hoàng Sào bao vây ở thành Trường An đã truyền cho Vương đến ứng cứu nhưng Vương không tuân lệnh đến nên vua Đường cử Tần Ngạn và Tất Sư Đạc xử tội.
Vương hoá ngày 10/8 năm Quý Tỵ . Tại nước Nam, nhớ ơn công lao to lớn của Vương, nhiều nơi đã lập đền thờ Vương. Còn về hai vị Phu nhân, sau khi Vương về Bắc quốc thì về quê Nam Trì bỏ tiền ra mua ruộng đất làm Tự điền , dựng chùa nhỏ xuất gia tu hành. Đến ngày 15/11, hai bà làm lễ Phật rồi hoá. Dân làng an táng 2 bà tại phía Tây hành cung và lập miếu thờ tại khu Bảo Tàng, nay là đất làng Nam Trì. Sau này tại làng Đới Khê (Ngọc Khê trước kia) có phủ thờ Lâu nương Công chúa và 2 vị Phu nhân A Lự, Lữ nương. Hồi Pháp thuộc, lính Pháp đã lấy tượng Công chúa Lâu nương mang về Pháp, tượng 2 vị Phu nhân bị thất lạc, hiện tìm thấy tượng bà Lự Lương. Tượng bà Lự Lương cao khoảng 50cm, kiểu tượng Phật, dáng ngồi Thiền, mặc áo cà sa màu gụ, đeo vòng tràng hạt, mặt trắng má hồng, đeo khuyên tàu, mặc yếm xanh.
Theo Thần phả đền ở làng Vạn Bảo thì bà Lã Thị Nga là Chính thất Phu nhân của Cao vương quê đất lụa Hàng Châu Trung Quốc đã dạy dân Vạn Bảo nghề dệt lụa nên được tôn là Tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Khi đức Cao Vương hoá thì bà cũng nhảy xuống sông tuẫn tiết , dân làng tôn làm Thành hoàng.
*****

 https://taaonamtri.wordpress.com/2018/06/14/than-tich-than-cao-vuong-va-2-vi-phu-nhan-va-den-dinh-nam-tri-thon-nam-tri-xa-dang-le-huyen-an-thi-tinh-hung-yen/


2018

THẦN TÍCH THÁNH ĐỊA LÝ TẢ AO VÀ ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ, thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên

Thánh Địa lý Tả Ao tên thật là Vũ Đức Huyền (có sách chép là Nguyễn Đức Huyên, Hoàng Chiêm, Hoàng Chỉ vốn họ Vũ ở Mộ Trạch, Bình Giang, Hải Dương) lưu truyền gọi là Trạng Tả Ao là Thuỷ tổ khai môn, người rất giỏi về Địa lý phong thuỷ Việt Nam, người làng Tả Ao trấn Nghệ An (Nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh), sinh năm Nhâm Tuất – 1442, sống thời vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục. Ngài còn để lại 2 bộ sách quý về Địa lý phong thuỷ là: Địa đạo Diễn ca, Dã đàm Tả Ao tầm Long gia truyền và 7 dị bản khác.

Tả Ao phong thuỷ nhất trên đời
Hoạ phúc cầm cân định chẳng sai
Mắt Thánh trông xuyên ba thước đất
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời
Chân đi Long Hổ luồn qua gót
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Mấy ai địa lý được như Ngài.

Tương truyền khi ở quê, nhà rất nghèo, Thân phụ mất sớm, Thân mẫu bị đau mắt chữa mãi không khỏi thành mù. Một hôm gặp được Lang y người Tàu, Ngài bèn đón về chữa mắt cho Thân mẫu. Ông thày thấy Ngài có hiếu lại thông minh, chăm chỉ, siêng năng nên đã truyền cho một số bài thuốc chữa mắt. Khi ông thày về Bắc quốc, Thân mẫu cũng khỏi bệnh nên Ngài đã theo sang xứ Tàu để hầu hạ đền đáp công ơn, học thêm nghề thuốc. Ở xứ người, Ngài trở thành Lang y rất giỏi, danh tiếng vang lừng khắp nơi. Nghe danh, có thày Địa lý nổi tiếng bị mù đã nhờ Ngài chữa. Khi chữa khỏi bệnh, ông thày Địa lý nọ mang vàng bạc đến hậu tạ nhưng Ngài không nhận mà xin làm đệ tử môn Địa lý phong thuỷ. Thấy Ngài là người tài cao, đức trọng lại ham học hỏi nên đã truyền hết nghề. Ngài trở thành người giỏi địa lý phong thuỷ nhất nhì đất khách. Một năm, vua Bắc quốc mở cuộc thi về Địa lý để chọn người tài. Họ đã chôn một trăm đồng tiền tại các huyệt giả trong một sa hình nếu ai xuyên được trúng lỗ cả thì sẽ được tôn là Đệ nhất. Mặc dù Ngài đã xuyên trúng 99 đồng nhưng để có cơ hội trở lại quê hương, Ngài đã cố tình xuyên lệch ra ngoài đồng tiền cuối cùng.
Trước khi từ biệt, ông thày Địa lý bên Tàu dặn: Khi về Nam, nếu qua núi Hồng Lĩnh thì đừng có lên. Nhưng một lần đi qua Hồng Lĩnh, không hiểu duyên cớ gì Ngài lại lên núi và thấy kiểu đất Cửu long tranh châu (9 rồng tranh ngọc), mừng mà nói rằng: Huyệt Đế vương đây rồi, Thày dặn không lên là vì thế. Bèn đưa mộ cha về táng ở đấy. Ít lâu, Ngài sinh hạ được một con trai.
Lại nói nhà Minh bên Tàu, các thày Thiên văn phát hiện các vì Tinh tú đều chầu về nước Nam nên tâu với nhà Hoàng đế là nước Nam được đất sẽ sinh ra người tài, sẽ không có lợi cho nhà Minh. Hoàng đế bèn truyền rằng nếu thày địa lý nào đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì phải sang tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di Tam tộc. Ông thày của Ngài biết là chỉ có học trò của mình mới làm được việc này nên cho con trai sang nước Nam. Tìm thấy Tả Ao bèn hỏi: Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần nào cho Gia tiên nào chưa. Ngài cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con trai thày Tàu dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, bắt con trai của Ngài đem về Tàu.
Rồi thân mẫu của Ngài mất, Ngài tìm được đất Hàm rồng ở ngoài bãi biển để táng. Khi chuẩn bị táng thì mưa gió, sóng biển ầm ầm nên người anh trai sợ mất mộ nên không cho táng. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó nổi lên một bãi bồi, Ngài bèn than rằng: Đây là Hàm rồng, 5 trăm năm rồng mới há miệng 1 lần trong 1 khắc. Trời đã không cho thì là số rồi (Có sách lại chép: Ngài tìm được chỗ táng cho thân mẫu nơi hải đảo nhưng khi táng thì trời gió to, sóng lớn nên không táng được). Tiên tích phúc Hậu tầm long (đời trước tích phúc đức, đời sau mới tìm được long mạch), thấy huyệt nhưng mình không dụng được nên Ngài chu du khắp 4 phương tìm đất giúp người. Ngài có 2 người con trai nhưng do không màng danh vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì vẫn bần hàn. Ngài đã đi khắp nơi để chữa bệnh cho mọi người, tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác nhất là việc Ngài đi đặt mộ cho người để được phát danh tướng, khoa bảng… Tương truyền làng này có tục nọ, nghề kia là do Ngài chọn đất, hướng đình. Người đời còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về Ngài được truyền miệng trong dân gian rất nhiều, kể cả các giai thoại hoang đường về việc thi thố tài năng với Thánh Đoại lý Cao Biền.

Sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính chép: Người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, tên là Nguyễn Đức Huyên . Nhân tên làng, cho nên tục gọi là Tả Ao. Lúc còn trẻ nhà nghèo lắm, mẹ phải bệnh lòa mắt, Tả Ao mới theo người khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu, để lấy thuốc chữa mắt cho mẹ. Thầy thuốc khen là người có hiếu, mới dạy cho phép làm thuốc. Học thành nghề mới trở về, xảy có một thầy địa lý chính tông đau mắt, sai người mời thầy thuốc đến chữa, thầy thuốc già yếu không đi được, mới sai Tả Ao đi chữa thay. Thầy địa lý khỏi đau mắt, thấy Tả Ao có ý tứ khôn dễ dạy và cảm cái ơn chữa khỏi cho mình, mới truyền cho Tả Ao phép làm địa lý, Tả Ao học hơn một năm đã giỏi. Thầy địa lý muốn thử xem sức học làm sao, đổ cát làm ra hình sông núi, rồi yểm 100 đồng tiền xuống dưới cát, và cho Tả Ao 100 cái kim sai tìm huyệt mà cắm kim vào lỗ đồng tiền. Tả Ao ngắm xem các huyệt, cắm trúng 99 cái kim vào 99 lỗ đồng tiền, chỉ sai mất một cái cắm ra ngoài. Thầy địa lý nói rằng: Nghề ta sang phương Nam mất rồi!
Mới cho Tả Ao một cái tróc long và các câu Thần chú hô thần để cho về nước Nam. Tả Ao vâng lời từ về; về đến nhà thì mẹ vẫn còn mạnh, mới chữa thuốc cho mẹ khỏi lòa. Một khi, đi qua núi Hồng Lĩnh, trông lên xem, thấy có kiểu đất Cửu long tranh châu, mừng mà nói rằng: Huyệt đế vương ở đây rồi! Lập tức nhổ ngôi mộ của cha, cất vào huyệt trên núi. Không bao lâu sinh được một đứa con trai. Người Tàu xem Thiên văn, thấy các vì sao chầu cả về phương Nam, biết là người nước Nam được đất. Chính phủ Tàu truyền cho các nhà địa lý, ai để đất cho người An Nam, hoặc là dạy người An Nam thì phải sang nước Nam dùng thuật mà phá đi, nếu không thì tru di cả ba họ. Thầy địa lý trước, biết chắc là ông Tả Ao được đất mới sai con sang tìm đến nhà Tả Ao, lập mưu mà triệt đi.
Người ấy tìm đến nơi, vào chơi nhà mà bảo rằng: Từ khi đại huynh ở Tàu về, đã cất được ngôi Tiên phần nào chưa? Tả Ao nói thực cả chuyện trước. Con thầy Tàu mới dùng mẹo đào lấy ngôi mộ ấy, mà bắt đứa con của Tả Ao đem về Tàu. Được ít lâu mẹ Tả Ao mất. Tả Ao tìm một ngôi đất ở ngoài bãi bể, kén ngày kén giờ để hạ huyệt. Đến giờ, sóng gió ầm ầm, người anh Tả Ao giữ áo quan của mẹ, không cho hạ xuống, một lát sóng gió yên thì ở đấy nổi lên thành bãi rồi. Tả Ao than rằng: Đây là hàm rồng đây, cứ 500 năm mới há miệng ra một lần, mà há chỉ trong một lát mà thôi. Bây giờ đã ngậm lại rồi, còn táng làm sao được nữa. Trời không cho thì chỉ uổng mất công ta mà thôi.
Từ bấy giờ Tả Ao không chịu làm ăn gì cả, chỉ lang thanh đi làm đất cho người ta. Một bữa đi xem đất đến làng Bùi Sơn, huyện Hoằng Hóa, thấy có một huyệt đất hay, bèn bảo người ta rằng: Có ngôi đất, táng giờ Dần đến giờ Mão thì phát, nếu ai táng ngôi ấy tất được của, hễ ai chịu nhường cho ta một phần chia mười thì ta cho ngôi đất ấy. Có một người xin táng, Tả Ao dặn đến sáng sớm mai thì cất. Táng xong mặt trời mới mọc. Người ấy vác cuốc ra rửa chân ngoài sông, thấy một người chết trôi, nhân thể có cuốc, mới vớt lên chôn cho xác ấy, thấy trong bọc người chết có hai túi bạc, mở ra đếm thì được 50 nén, mới biết Tả Ao là tài, biếu Tả Ao 5 nén, rồi Tả Ao đi.
Khi đến huyện Thanh Liêm lại tìm được một ngôi, bảo người ta rằng: Đây có ngôi đất, chỉ táng trong một tháng thì phát quận công, nếu ai cho ta 100 quan tiền, thì ta táng cho. Có một ông nhà giàu xin táng. Bấy giờ chúa Trịnh đang đánh nhau với nhà Mạc. Tướng nhà Mạc là Mạc Kinh Độ thua trận ở huyện Kim Bảng chạy trốn. Chúa Trịnh rao ai bắt được thì thưởng cho làm Quận công một đời. Ông nhà giàu ấy táng được 20 ngày rồi. Bỗng một hôm thấy có một người vào nhà bảo rằng: Ta là Mạc Kinh Độ đây, cho ta đánh một bữa chén, ta sẽ làm ơn mà cho đem nộp lấy thưởng. Ông nhà giàu mừng rỡ, làm cơm thết đãi. Mạc Kinh Độ ăn uống xong, cho trói mình lại mà đem đến đồn Cầu Châu nộp cho chúa Trịnh. Chúa Trịnh lập tức thưởng cho làm Quận công. Người ấy đã tạ Tả Ao 100 quan tiền. Tả Ao chỉ lấy 3 quan để ăn đường, rồi đi chỗ khác.
Tự bấy giờ danh tiếng đồn khắp thiên hạ. Tả Ao đi chu du bốn phương, phàm 20 năm trời. Đi qua các huyện Gia Bình, Từ Liêm, Đông Ngạn, Siêu Loại, Gia Lâm, táng cho nhà nào cũng được, lớn thì làm đến Tiến sĩ, Thượng thư; nhỏ cũng làm nên giàu hùng trưởng. Kể ra nhiều lắm, không sao cho xiết. Khi đi qua làng Thiên Mỗ, thấy có một ngôi đất to, muốn táng hộ cho nhà họ Trần. Vừa đặt tróc long xuống đất, tróc long đổ ba lượt. Tả Ao niệm phù chú gọi Thổ thần lên hỏi thì Thổ thần nói rằng: Đất này phát ba đời Quốc sư Đại vương, con cháu Công hầu không bao giờ hết. Trời đã để đành cho nhà Nguyễn Quý Đức; còn nhà họ Trần kia ít hồng phúc, không kham nổi được đất này. Nếu ông làm cưỡng của Trời thì tất có vạ. Vả lại ông đi khắp Thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều mà không được ngôi nào để táng cho cha mẹ. Vì thế, Tả Ao từ bấy giờ không dám khinh thường để mồ mả cho ai nữa.
Tả Ao sinh được hai con trai, nhà thì nghèo mà làm đất không lấy tiền của ai, cho nên con cái thường không đủ bữa mà ăn. Khi đã già, tìm sẵn một ngôi đất sinh phần cho mình, ở xứ Đồng Khoai, gọi là cách Nhất khuyển trục quần dương . Nếu táng được ngôi ấy, thì chỉ 3 ngày thành Địa tiên. Đến lúc phải bệnh, sai hai con khiêng mình ra đấy, toan phân kim lấy rồi nằm xuống cho chôn. Nhưng đến nửa đường thì đã gần chết, không kịp đến được chỗ kia, mới trỏ một cái gò bên cạnh đường, dặn con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực , bất đắc dĩ táng ngay ở đấy cũng xong. Nói xong thì mất, bấy giờ mới 65 tuổi. Hai con đem táng vào gò ấy, quả nhiên về sau làm phúc thần một làng. Địa lý xưa nay ở nước Nam, không ai giỏi bằng ông Tả Ao, thế mà chỉ làm phúc cho người, đến mình thì không sao làm được, mà con cái vẫn nghèo khổ, thế mới biết rằng câu tục ngữ nói: Tiên tích Phúc nhi hậu tầm Long.
Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án và một số sách khác lại chép: Tả Ao theo một khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho Thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng dạy cho. Khi có thày Địa lý bị mù loà mời ông thày đến chữa, do già yếu nên ông thày sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thày địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên thày địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi. Để thử tay nghề của học trò, ông thày bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được 99 kim đúng lỗ đồng tiền , chỉ sai có một. Xong ông thày nói: Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi. Rồi cho Tả Ao cái Tróc long và Thần chú. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu. Khi Ngài ngã bệnh phương xa mới sai học trò đưa về quê để táng tại nơi đã chọn. Được nửa đường người họa trò lại mất trước. Về đến quê thì bèn sai người nhà mang đến chỗ ấy. Đường thì xa, liệu chừng không đưa được đến nơi nên bèn chỉ cái gò bên đường…
Lại nói về đất Nam Trì, đức Tả Ao về đây và cư ngụ 17 năm. Tương truyền thời chu du thiên hạ với nghề địa lý phong thuỷ chính tông, đức Tả Ao qua đất Nam Trì vào một ngày mưa to nước lớn, nước ngập mênh mang, đổ cả cây đa cổ thụ đầu làng. Ở phía Nam làng có mạch nước ngầm phun lên ngập lụt cả một vùng vốn là hồ ao . Dân làng sợ ngập mất làng phải mang cối đá, cả tảng đá to như cái chiếu lấp xuống để bịt mạch nước ngầm này . Ông bèn dừng chân cư ngụ. Tại Nam Trì, Ngài đã giúp dân làng lập lại làng, chuyển đền, chuyển chùa mới về chỗ Ao Vọng hình bán nguyệt. Trong đền Nam Trì có câu đối của Ngài tả về địa lý, phong thuỷ làng Nam Trì: Tây lộ khê lưu kim tại hậu – Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền . Tương truyền Ngài đã tìm huyệt, cắm đất mộ phần cho họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Quảng Hoà thứ 10 – 1544 thời Mạc Phúc Hải , con cháu họ Đinh là Đinh Tú đỗ Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan, chức Hiến Sát xứ Hải Dương và phong tước Phù Nham bá. Ngài còn cắm đất, chọn ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho các làng Thổ Hoàng, chợ Thi và Hới phát về đường khoa cử, buôn bán giàu có nên lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ Nhất Thi nhì Hới.
*****
Lúc già yếu, Ngài cũng đã chọn cho mình chỗ an táng kiểu đất Nhất khuyển trục quần dương ở xứ Đồng Khoai. Nếu táng được ở đây thì chỉ 3 ngày sẽ thành Địa Tiên. Khi biết sắp chầu Tiên tổ Ngài bảo 2 con khiêng đặt vào chỗ ấy, sẽ tự phân kim , dặn con cứ thế mà làm. Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi nên Ngài bèn chỉ đại 1 gò bên đường mà dặn con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được cúng tế. Hai con bèn táng luôn ở đó.
Một câu truyện xảy ra cuối thế kỷ 20 liên quan đến Ngài. Ấy là có một đoàn võ công 14 người phía Nam ra Bắc biểu diễn. Họ thường nằm ngửa và để một tảng đá to trên bụng rồi cho một người khác dùng búa tạ đập vỡ tảng đá mà người vẫn chẳng hề hấn gì. Một hôm họ biểu diễn tại Nghi Xuân. Chẳng hiều Trời xui đất khiến thế nào mà họ lại lấy tấm bia đá tại mộ phần của Ngài ra biểu diễn. Tấm bia bị đập vỡ và đoàn người trở về Nam. Đến đèo Ngang xe ô tô 16 chỗ chở đoàn võ công bị tai nạn lao xuống vực sâu…
Đúng là táng ở ngôi Huyết thực được làm Phúc Thần một làng. Đó là làng Nam Trì. Khi Ngài hoá, nhớ công ơn Ngài, dân làng đã thờ Ngài cùng Tam vị Thượng đẳng Phúc thần và tôn ngài là vị Thành hoàng thứ 4.

https://taaonamtri.wordpress.com/2018/06/14/than-tich-thanh-dia-ly-ta-ao-va-den-dinh-nam-tri-xa-dang-le-huyen-an-thi-tinh-hung-yen/


2018

THẦN TÍCH TỂ TƯỚNG LỮ GIA, ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN DANH LANG, CÔNG CHÚA LÂU NƯƠNG VÀ ĐỀN – ĐÌNH NAM TRÌ, thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên

Thời Triệu Vũ Đế , nước Nam Việt, trang Nam Trì có một người tên Nguyễn Tuyên , lấy vợ người trang Đoài, xã Thổ Hoàng bên cạnh, tên là Trần Thị Huyền. Tuy chỉ làm ruộng nhưng gia đình khá giả. Vợ chồng là người trung hậu, lương thiện nhưng ông bà vẫn chưa toại nguyện, ở hiền mà chưa gặp được lành. Năm ông 51 tuổi, bà 42 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Hai ông bà vốn là người tín tâm, ngày lễ tiết nào cũng thành tâm cầu đảo Trời đất, Thần Linh phù hộ ban cho 1 đứa con trai nối dõi Tông đường. Một hôm, ông than thở với bà: Nhà ta cả đời tu thân tích đức, làm nhiều việc thiện, đời đời làm ruộng, không bao giờ bất nghĩa, vì tài vật mà phạm tà gian, không tham lam, chẳng ích kỷ hại nhân, không mưu sâu kế hiểm, lấy chữ nhẫn làm đầu thế mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa thấy điềm lành như mong mỏi. Mình phải thành kính cầu đảo Trung thiên, nguyện xin Thiên địa, bách Thần phù hộ ban cho cậu con trai thì mới mãn nguyện. Ông nói xong bèn chọn ngày lập đàn cầu tự, khấn nguyện Đường trì, Hậu thổ, bách Thần 3 ngày trung tuần tháng 5 tại 1 gò cao. Sau khi cầu đảo xong, đỉnh gò phát muôn vàn tia hào quang, nước sông bỗng nhiên ngừng chảy.
Một hôm thanh nhàn, bà Trần Thị ra sông Kim Ngưu hóng mát nơi phân dòng thành nhánh nhỏ, nước chảy quanh co chín khúc về phía bắc như còn rồng ôm lấy đất Nam Trì. Trời hè oi bức, bà liền xuống bến sông, cạnh cây cầu bắc qua nhánh sông nhỏ để tắm rửa. Rồi bà về nhà ở trước làng. Đến khu đất thế Phượng Hoàng hàm thư ở giáp giới khu Ngọc Khê; nơi ngã ba của 2 nhánh sông nhỏ của sông Kim Ngưu, Nguyệt Đức giao nhau bao lấy. Đột nhiên mây đen kéo đến, trời bỗng tối sầm, gió thổi ầm ầm, mưa như trút nước. Bà chạy vội vào Quán đình ngay đó chờ trời tạnh mưa. Mưa gió làm mất đi ngày hè nóng nực, bà tựa lan can bên trái Quán đình thiu thiu ngủ. Bổng thấy từ trên trời một con hổ vàng giáng xuống nằm cạnh bên trái. Quàng tay bắt được, bà hốt hoảng tỉnh giấc. Lúc này mưa dứt, gió tan, trời quang mây tạnh, bà vội vã trở về nhà.
Từ đấy bà cứ nghĩ miên man. Rồi bà có mang 11 tháng. Ba ngày bà trở dạ, trời đất đang tối đen bỗng sáng bừng, lấp lánh châu ngọc, đầy nhà tỏa khí ngọc thơm ngát. Ngày 9/3 năm Nhâm Thân bà sinh hạ được một con trai cằm én, đầu hổ, lưỡng quyền cao, tai to, chân dài tay dài, bụng có 7 sợi lông . Ông bà mừng rỡ, một mực yêu chiều. Vì chiêm bao thấy hổ nên sau trăm ngày đặt tên là Danh Lang . Lớn lên, Danh Lang có tướng mạo kỳ lạ, cao lớn khác thường. Bẩm sinh giọng nói như hổ gầm, vang vọng như sấm. Khi trưởng thành là người chí lớn, có ước muốn tang bồng; khí chất thì uy phong lẫm liệt, học vấn uyên bác, văn võ toàn tài, mưu lược đại sự, anh hùng cái thế, anh dũng mưu lược. Là người nghĩa khí, trung chính, lòng dạ trong sáng nên Danh Lang được nhân dân trong làng, quanh vùng kính nể, phục tùng.

*****
Cũng thời này, huyện Lôi Dương quận Cửu Chân có một gia đình Quận trưởng họ Lã tên Tạo nghề tay trái là thày thuốc, vợ là Trương [thị] Vĩ tài sắc công dung, con gái Quận trưởng Vũ Ninh. Hai vợ chồng hòa hợp yêu thương nhau, có 7 người con đều có tài múa gươm, cưỡi ngựa. Năm ông 51 tuổi, một hôm ông đột nhiên nói với bà Trương: Nhà mình ăn ở phúc đức chắc là ở hiền sẽ gặp lành nhưng xem ra 7 đứa con nhà mình đều không gánh vác được việc nhà, không đảm đương được việc công vì cái nhân tâm chưa đạt. Có lẽ phải làm lễ cầu Trời, Phật cho chim én bay qua mang điềm lành đến, cuộc sống được bình lặng yên vui, có nơi nương tựa chung hưởng tuổi già. Thế rồi ông bà đến cầu tự ở núi Yến Kiện, huyện Kim làm lễ cầu tự.
Rồi ông bà trở về nhà, đêm ấy, bà Trương chiêm bao thấy rồng vàng từ trên không giáng xuống, huyền ảo hoá chim Khổng tước chui tọt vào bụng, bà túm được đầu rồi giật mình tỉnh dậy. Bà liền kể lại với ông, ông nói: “Nhà nằm mơ thấy điềm lạ ắt là Trời đất ban phúc, thế nào cũng được quí tử phi thường”. Một trăm ngày sau, quả nhiên bà có mang. Mười bốn tháng sau, vào ngày 10/3 năm Tân Hợi sinh hạ được người con trai diện mạo khôi kỳ, diện bộ Tam đình bình đẳng, Ngũ nhạc triều thiên , mắt phượng mày ngài, cằm én đầu hổ , bụng có 7 nốt ruồi hình chòm sao Bắc đẩu, tay thì chấm gối, chân dài có 7 sợi lông. Thần phong thì lẫm liệt, uy quyền thiên bẩm, phong cách mãnh tướng kỳ tài. Cha mẹ quí như vàng, tròn bách nhật đặt tên là Gia.
Gia đầy năm đã nói sõi, 3 tuổi đã thông Âm luật nên cha mẹ đặt lại tên là Bảo cho phù hợp . Xuân qua hạ đến, ngoảnh đi ngoảnh lại Bảo đã 8 tuổi nên cha mẹ cho đi học tại trường của Tiên sinh họ Dương ở khu Khổng Tước. Ba năm học, Bảo thông cả Bách gia Chư tử , Tam phần Ngũ điển , biết cả Binh thư học thảy hết mọi thứ chẳng còn gì. Dương tiên sinh thường nói: “Nhà này có con trai thế này, sau này tất danh cao cỡ Triều quốc Thế công , làm nên sự nghiệp hiển hách, trên đời hiếm có người như vậy”. Tất cả bạn bè cùng trang lứa, học sinh cùng trường đều kính phục Bảo, nói: “Người này không phải Thần đồng xuất thế tất là Thiên thánh giáng trần”. Bảo cũng thường nói với mọi người: “Nam tử mày râu nếu không có tài như Y, Lã, Quản, Nhạc đời xưa, thà rằng da ngựa bọc thây còn hơn”. Thấm thoát, Bảo học được hơn 3 năm thì Dương tiên sinh đột ngột tạ thế, Bảo đành thôi học.
Tại quận Cửu Chân có nhà họ Hàn thuộc dòng tộc lớn nhưng hung nghịch, thấy Bảo chí khí hơn người, muốn mời Bảo làm cán sự trong quận. Bảo không chấp nhận nên thâm tâm thù oán, tập trung tay chân hãm hại gia quyến Bảo. Biết không thể sống được ở quê, ông Quận trưởng quyết định từ biệt tình nghĩa họ hàng, làng xóm cùng gia quyến, vợ con về thẳng huyện Thiên Thi, phủ Khoái Châu, xứ Sơn Nam cư ngụ. Lúc đầu ở chợ La Đăng hành nghề bốc thuốc giúp dân. Được 1 tháng thì về phường Lãnh Tuần, châu Xích Đằng . Ở Xích Đằng được ba, bốn tháng chưa yên vị lại trở về trang Nam Trì hành nghề bốc thuốc giúp dân.
Khi đến Nam Trì thấy khu đất nơi ngã ba sông Kim Ngưu, Nguyệt Đức giao hội, phân nhánh rẽ dòng, chảy vòng chín khúc; trước sau có ấp, có làng nên ở lại lập quán ở đất ranh giới giữa 2 khu Bảo Tàng, Ngọc Khê nơi thế đất Phượng Hoàng Hàm thư hành nghề bốc thuốc giúp dân. Thấy dân ở đây thuần hậu lại kính nể, yêu quý mình, nên trong tâm Bảo lấy làm biết ơn sâu nặng nhân dân Nam Trì dành cho gia đình mình nên gia quyến Bảo quyết định cư ngụ tại đây. Được một thời gian thì dân ở trang Vực Đường đến đón gia đình Bảo về dạy nghề thuốc cho họ. Được ba, bốn năm, nghe tin gã họ Hàn nọ bị nhân dân, hào mục căm thù giết chết nên Bảo cùng gia quyến lại khăn gói trở về quê hương. Trở lại quê hương được hơn 1 tháng thì cha mẹ đều đột ngột từ trần. Bảo cùng các anh an táng cha mẹ vào ngày 12/10.
Anh lớn, anh bé thì đã yên bề gia thất, còn Bảo vẫn chưa tìm được người xứng đôi vừa lứa nên vẫn một thân một mình lẻ loi. Nhà thì bần bạc, hoàn cảnh thì hết sức gian nan, Bảo thường ngửa mặt lên trười mà than rằng: Cha là thày thuốc có tài, có khả năng chữa cho hàng nghìn người mà không cứu nổi một đứa con mắc bệnh nghèo. Là người có chí khí, tài năng hơn người nên Bảo không muốn phụ thuộc vào các anh. Không muốn bó buộc trong bốn bức vách gió luồn trăng soi, Bảo từ biệt các anh đến quê ngoại ở Vũ Ninh với người cậu là Trương Công Đàm. Ông cậu rất quý mến người cháu nhưng được một năm thì người cậu bị tên Đào Hoan giết chết. Bảo rất căm phẫn nhất quyết báo thù để rửa hận cho cậu nơi chín suối.
Thân cô, thế cô không có khả năng báo thù nên đành lánh mặt đi nơi khác chờ dịp. Rồi, Bảo lang bạt đến vùng Thiền Lâm, đất Ô Lý. Bảo đến chùa Thiên Quang trên núi Bằng Sơn và ở lại Thiền tăng với 1 Thiền sư hiệu là Huyền Ly. Núi Bằng Sơn là nơi núi non, hoa lá tuyệt đẹp. Một hôm lên am Cổ Kính trên núi, Bảo thấy một người con gái đẹp tuyệt trần dạo chơi cùng đám Thị nữ. Cô gái xiêm y lộng lẫy, đầu đội Kim thoa lấp lánh, một tay cầm quả cầu kết bằng bông, một tay cầm ngọc Minh châu. Bảo nghĩ: Tại sao nơi sơn cùng, đỉnh núi sương mù mây bay, chẳng có lâu đài, nhà cửa này thế mà lại có bầy Tiên nữ thế kia. Chắc là ở đây phải có cung điện, cầu kiều. Bảo bèn thử hỏi mỹ nhân sự tình: Nơi núi cao tận cùng, không đường đi lối lại mà lại hân hạnh được thấy Tiên cung, gặp được Tiên nữ, như đôi chim Sư cưu hạnh ngộ, biết đâu đây lại nhân duyên từ xưa, nay vận Trời tác hợp. Nếu ta mạo nhận như vậy thì đó là một điều bất hạnh không. Hôm nay hân hạnh được gặp quý Cô nương, nếu ta có làm phật ý mong cô nương lượng thứ. Người con gái lặng thinh, không trả lời lại cùng bầy Tiên nữ kéo nhau xuống núi, khuất sau khu rừng rậm chẳng biết về đâu. Sau này Lê Hoàn Bí đi qua núi Bắc Lĩnh có đề thơ rằng:
Ân ước thanh sơn bán tịch huân
Hoa am vạn cổ liễu điều tân
Đương viên cổ kính tương phùng xứ
Trùng hội sinh tiền ngọ túc xuân.
Tạm dịch:
Núi xanh thấp thoáng giữa nắng chiều
Vườn xưa gặp gỡ đài gương lưu
Am cổ nhú hoa đào tơ liễu
Nghìn xưa duyên kiếp cặp Sư cưu.
Là người khí phách anh hùng nên chẳng mê trăng gió, má hồng nên Bảo quay lại ngôi chùa nương tựa cửa Thiền nghiên cứu kinh sách. Bảo nghĩ việc chính là trả mối cừu thù rửa hận cho ông cậu nơi chín suối nên cùng Thiền gia ngày đêm mưu tính. Vị Thiền sư cưu mang Bảo cũng là người có Đại tâm nên trợ giúp rất đắc lực trong việc chiêu mộ binh sĩ. Là người nghĩa hiệp, chí lớn nên dễ dàng chiêu mộ được hàng trăm binh sĩ nguyên là những người từng đi trộm cướp ở Ô Lý nhưng không hung bạo, có Nhân tâm, không bao giờ ức hiếp nhân dân địa phương. Mọi người đều kính nể tâm danh, khí phách Bảo nên tòng quân giúp sức. Với uy danh như vậy Bảo còn chiêu mộ được cả một số Hào mục ở các vùng xung quanh.
*****
Rồi Bảo lại về Nam Trì, nơi quen thuộc đã từng cùng cha mẹ đã sinh sống để chiêu mộ thêm binh sĩ, chờ thời khởi sự. Khi đến Quán đình đầu làng nơi bà Trần Thị nằm mơ thấy hổ vàng mà sinh ra Nguyễn Danh Lang, chiều đã xế bóng chưa biết trọ nhà ai, Bảo bèn ở lại Quán đình. Cả đêm hôm đó, trời mưa to gió lớn, chó nhà nào nhà nấy trong làng đều ngửa mặt lên trời sủa vang cả đêm. Dân chúng cả làng thì đều mơ thấy một vị Tướng đem theo cả trăm binh sĩ về đóng sở ở Quán đình đầu làng và triệu tập nhân dân 4 khu, 8 giáp của Nam Trì ra quán đình nghe phán truyền. Truyền rằng: Ta vốn ở Thiên đình được quyền cai quản sinh mệnh dân chúng, nay ta đến đây, cho mọi người điều hay lẽ phải. Dân làng sụp lạy và đều tỉnh giấc. Sáng ra mọi người từ gia nhân đến vợ chồng con cái các gia đình trong làng đều lăn ra ốm. Có điều là ai cũng mơ như nhau nên cho rằng quá lạ kỳ. Do đó tất cả dân chúng trong làng đều ra Quán đình hành lễ cầu khỏi bệnh. Thật lạ lùng là khi vào quán đình nhì kỹ thì thấy dung mạo người đang ngồi ở đó chính là người họ đã mơ thấy đêm qua nên mọi người cung kính hỏi: Ngài ở đâu đến. Bảo trả lời: Gốc trước kia ta đã ở đây chứ đâu phải người xa lạ. Sau đó Bảo kể lại ngọn nguồn. Nhân dân nghe xong bèn đón vào làng, khi Bảo vào nhà ai thì tự nhiên mọi người đều khỏi bệnh. Thời ở Ô Lý, Bảo có một số vàng bạc để phòng thân nên đem ra giúp đỡ nhân dân Nam Trì. Nhân dân thấy, Bảo chí tình chí nghĩa, khí phách hơn người, tài năng cái thế, biết vỗ về an dân nên dân làng đều kính phục.
Lại nói về Nguyễn Danh Lang, khi gặp Bảo về lại Nam Trì tại Quán đình đầu làng thì vui mừng không xiết. Hai anh em gặp nhau lại thì kết vi bằng hữu, tương ái tương thân, như tâm như phúc, như tâm Trời đã định, như anh hùng tương ngộ, bẩm sinh tương tề như cùng một gốc, 4 biển gặp nhau như anh em sinh đôi, thề nguyện sinh tử cùng nhau. Hai người được nhân dân Nam Trì một lòng kính nể, phục tùng gọi 2 ông là Bảo Công, Lang Công. Một hôm Bảo Công tâm sự, than thở với Lang Công: Ta nhớ ân tình của ông cậu bị tên Đào Hoan giết hại nên muốn rửa mối hận, trả thù cho cậu, chỉ hiềm thân cô thế cô. Nay đạo Trời sai khiến 2 anh em ta tái ngộ, lại có cái gốc tình nghĩa cũ như môi với răng, được dựa vào nhau, chẳng mong gì hơn, biết là đường dài mới hay sức ngựa. Ý nguyện của ta là như vậy, người anh em hiến cho một mưu kế phù hợp. Nghe Bảo Công nói, Lang Công bừng bừng nổi giận: Chúng ta từ tình bạn hữu thành tình nghĩa anh em, thề đồng cam cộng khổ, sống chết chẳng sờn, em thề cùng anh nhất tâm báo thù. Thế là hai anh em quyết tâm lập doanh trại, chiêu mộ quân sĩ, rửa hận. Ngay ngày hôm đó 2 anh em chiêu mộ 2 khu Bảo Tàng, Ngọc Khê của trang Nam Trì được 480 người, trong huyện Thiên Thi được 459 người, xung quanh huyện được 211 người. Tổng cộng được hơn 1 nghìn binh sĩ theo 2 ông chinh chiến. Bảo Công rất yên lòng có được người em đồng tâm hỗ trợ, lại tuyển được quân binh nên mở tiệc khao thưởng binh sĩ.
Công việc xong xuôi, Bảo Công lại trở về Lâm Ấp, Ô Lý để mang số binh sĩ đã chiêu mộ về Sơn Nam hợp với quân của Lang Công tiến đánh Đào Hoan. Hai ông kéo quân đi báo thù, rửa hận. Khi đến cửa sông Bạch Đằng, neo thuyền lên bờ, không rõ đạo Trời xui khiến thế nào, 2 ông bất ngờ gặp Đào Gia Hoan đang hoành hành ở đó nên bèn chia quân giao chiến, chém được đầu Hoan. Hai ông kéo quân về Vũ Ninh tế lễ vong hồn người cậu, khao thưởng quân sĩ. Trả thù cho cậu xong xuối, 2 ông trở lại Nam Trì. Uy danh chấn động gần xa nên nhân dân lại càng kính nể, thần phục. Hai ông cho dựng Quán sở chỗ Quán đình cũ trên đất Phượng Hoàng hàm thư, nơi trước kia thân mẫu Lang Công tựa lan can chiêm bao thấy hổ vàng, Bảo Công ngủ tạm đêm xưa. Đây là Tạp cục và là nơi khởi đầu phát danh tích của 2 ông nên đời sau truyền nơi đây là xứ Mã Phát . Đây là cũng là nơi tổ chức trò chơi, lập bia đã ghi khắc sau này. Hơn 1 tháng sau, anh em thù tạc, tâm giao tưởng chừng không sao xa nhau được nhưng Bảo Công vẫn phải ngậm ngùi từ biệt Lang Công trở về Ô Lý.
*****
Lại nói về đất Ô Lý có một Bộ trưởng Hùng Vương họ Hùng tên Lã cư ngụ ở đây. Thời triều Hùng Vương suy tàn có một chi phái lớn họ Hùng mà đứng đầu là Bộ trưởng Hùng Lã về đây lánh nạn. Hùng Lã trị vì một phương sau được phong làm Đại vương. Bộ trưởng Hùng Lã có cô con gái diệu tên gọi Công chúa Lâu Lương vừa xinh đẹp lại vừa dũng lực, cưỡi ngựa tài giỏi, bắn cung phi thường. Công chúa Lâu Lương là người của Đông quân . Bảo Công thì tiếng tăm lẫy lừng xa gần, dân lâm ấp yêu mến, kính phục. Bộ trưởng Hùng Lã nghe danh tiếng hiền tài của Bảo Công nên sai người triệu Bảo Công đến mở tiệc trọng đãi. Thấy diện mạo, Bộ trưởng Hùng Lã thầm nghĩ Bảo Công có khí phách như Quản, Nhạc; tài năng như Hàn, Bạch xứng đáng là người ta đang kén làm con rể, cho con gái ta nương tựa, gửi thân. Bèn cho Tả hữu nói với Bảo Công: Quân hầu từ muôn dặm tới đây, làm khách quí của vùng sơn cước này, ta có cô con gái, muốn ông chọn nhất hoa môn, xứng đôi lữ hợp , chẳng hay ý thế nào. Lúc đầu từ chối, song thấy Bộ trưởng Hùng Lã lại quá chân thành nên Bảo Công cũng lấy làm mừng và nhận lời đáp lại sự chân tình Bộ trưởng Hùng Lã. Rồi bàn tính, chọn lựa, định ngày lành tháng tốt làm lễ xuất giá, uyên ương hòa hợp cho con gái diệu rồi Bộ trưởng Hùng Lã mới cho gọi con gái ra.
Lại nói câu chuyện gặp gỡ tình cờ trước đây, thấm thoắt Bảo Công đã 28 tuổi, bản năng chim Sư cưu, vần hợp hài hòa, hoa nguyệt quyện hương, ngờ đâu Lâu Lương Công chúa lại chính là cô gái yêu kiều như Tiên nữ giáng trần mà Bảo Công đã gặp trên núi Bằng Sơn ngày nào. Thật là nhân duyên Trời định. Thế rồi uyên ương đôi lứa một nhà, xuân khuê hảo hợp, mặn nồng sớm tối. Rồi lại nhớ đất cũ quê xưa, Bảo Công xin lại xin Nhạc phụ về quê. Bộ trưởng Hùng Lã cho 10 chiếc thuyền để vợ chồng về quê và khen: Lòng người hiếu thảo khác gì khóc giữa trời thu cao lồng lộng. Một tháng sau thì về đến quê hương ở quận Cửu Chân, bái yết Gia tiên, thăm mộ mẹ cha, tình nghĩa hiếu chung thăm hỏi anh em, họ hàng làng xóm.
Ở quê hương nhưng tâm tư Bảo Công, lúc nào cũng nhớ Lang Công người em kết nghĩa, Gia thần thân thuộc cũ, nhớ dân Nam Trì nghĩa nặng tình sâu, công lao giúp đỡ nên được dăm, sáu tháng lại trở về Nam Trì vào ngày 12/10. Ở được 10 ngày thì Thân phụ Lang Công nằm mơ thấy có ông già râu tóc bạc phơ, mũ áo chỉnh tề từ trên không bước xuống trước mặt mà phán rằng: Nhà họ Nguyễn phúc hậu nên Thiên đình cho Nhân tài giáng sinh giúp nước. Bảo Công, Lang Công tuy mỗi người sinh ra mỗi nơi nhưng chí khí giống nhau, do Trời sở định tương hợp về một cửa một nhà, cho nên vừa là bạn bè vừa là anh em. Mạch nhà họ Nguyễn đã khởi, Long mạch đều tụ về, Phúc địa thì đã phát, mọi sự mừng vui đều hội về đây. Ông già nói chưa dứt lời thì Thân phụ Lang Công tỉnh giấc. Ông cần nói với Bảo Công: Anh với em nó kết bạn bè bằng hữu, xem nhau như anh em sinh đôi một nhà, thương yêu nhau, đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau, lão trông cậy vào 2 anh em đấy. Rồi 2 anh em đi xem địa thế, truyền lập doanh trại tại Nam Trì nằm giữa 2 khu Bảo Tàng, Ngọc Khê, nơi có kiểu đất Long đỗ Vĩ qui rất quí làm Tạp cục, Tư dinh để hội đàm đại sự.
Hai năm sau khi Triệu Vũ đế chết, Triệu Văn đế nối ngôi lệnh cho các Châu, huyện đề cử người hiền lương, phương chính, văn võ toàn tài, học vấn uyên bác ra giúp nước, giúp vua. Bảo Công, Lang Công đều trúng tuyển và ứng đối trôi chảy khi yết kiến vua quan. Văn vương ra sắc chỉ phong Bảo Công chức Thị tụng Tham quan đảm nhiệm việc luyện quân và công văn cho Triều đình; Lang Công thì chức Điển binh . Năm Văn vương thứ 6, Bảo Công được phong Tể tướng , Lang Công được phong Đốc lĩnh châu Ái kiêm cả châu Hoan. Trong thời gian này, Văn vương cùng Bảo Công, Lang Công sắp đặt lại kỷ cương trật tự triều chính, Quân thần hợp đức nên Thiên hạ thái bình, Nhân dân yên vui, no ấm.
Rồi Văn vương chết, truyền lại cho con là Minh vương nối ngôi. Minh vương trọng đãi 2 họ. Hai họ Lã, Nguyễn quí hiển có hơn 40 người làm quan truyền đời. 11 năm sau, Minh vương chết, Thái hậu Cù Thị tư thông nhà Tây Hán không đưa con của vợ cả người Việt là Kiến Đức mà đưa con mình là Triệu Hưng nối ngôi lấy hiệu Ai Vương . Ai Vương tuổi còn, Cù Thị lại tư thông với xứ thần Tây Hán là tướng An quốc Thiếu Quý là người tình cũ. Cù thị nhiếp chính, nắm quyền lực nên triều chính suy tàn. Một hôm Ai Vương ngồi trên điện Thái Hoà thấy đám mây đen hình con chó bay từ phía Tây bắc về, bèn hỏi Thị vệ , song không ai biết là điềm gì, Bảo Công bèn trả lời: Đây là điềm Trời báo sắp có tai biến. Hiện Tây Hán Vũ đế đang gây chiến với các nước láng giềng và sẽ xâm lăng nước Việt ta, Bệ hạ nên cho tăng cường phòng thủ biên thuỳ, đề phòng bất trắc. Cận thần Ai Vương là Ngô Quyền, Lý Ước lại tâu là: Tây Hán thì xa, lại có núi Ngũ Lĩnh án ngữ có thể cố thủ, không cần phải đề phòng.
Ít lâu sau, Tây Hán cử tướng Lộ Bác Đức làm Phục ba Tướng quân và Trung Quân làm Phó tướng đưa 5 đạo binh với 20 vạn quân chia làm 2 hướng thủy bộ tiến đánh Nam Việt. Quân bộ qua cửa ải ven theo đường núi. Quân thuỷ qua sông Lục Đầu và cửa biển Thần Phù tiến vào châu Ái, châu Hoan. Thư cấp báo từ biên ải báo về khẩn cấp có ngày đến 5 lần. Ai Vương giao Bảo Công cầm quân đường bộ, Lang Công cầm quân đường thuỷ đến châu Đại Điền hội quân, đánh cho quân Tây Hán thua hơn 10 trận. Thấy vậy, Lộ Bác Đức tâu với Chủ tướng: Nước Nam Việt chỉ có Bảo Công, Lang Công là 2 tướng tài, mưu lược trí dũng như Thánh như Thần, quân ta khó mà địch nổi. Kế tốt nhất là dùng mưu chứ không thể dùng vũ lực. Lộ Bác Đức bèn sai mang nghìn nén vàng đến đút lót bọn Cận thần, dùng kế ly gián vua tôi.
Bọn gian thần Ngô Quyền, Lý Ước ăn hối lộ nên tâu Ai Vương: Hai tướng Bảo, Lang có âm mưu phản quốc, hoà hoãn với nhà Tây Hán, bắt được Tướng sĩ, Binh lính Tây Hán lại tha, không giết. Ai Vương nghe xong tin ngay nên sai Cận thần triệu 2 ông về Triều, giáng Lang Công làm Huyện lệnh huyện Thiên Thi, Bảo Công làm Huyện lệnh huyện Phong Châu . Lang Công về triều thấy Ai Vương tín nhiệm bọn gian thần nên tuân lệnh về ngay huyện sở Thiên Thi và tiến quân binh về quán sở ở Nam Trì. Hôm ấy là ngày 12/9, Trời đột nhiên tối sầm, mưa gió đùng đùng, vang lên ba tiếng hổ gầm, Lang Công hóa ngay sau đó. Gia thần cùng binh sĩ của Lang Công đều trở về triều dâng biểu lên Ai Vương tấu trình công lao và đề đạt việc cúng tế, thờ phụng Lang Công. Ai Vương đồng ý và cho Chính quán là 2 khu Bảo Tàng, Ngọc Khê trang Nam Trì lập đền thờ phụng.
Lại nói về Bảo Công, trong lòng rất căm hận bọn Ngô Quyền, Lý Ước, oán giận Ai Vương tin lũ gian thần. Ông than rằng đất nước lâm nguy rồi, không chóng thì chầy sẽ vào tay Tây Hán. Ông tuân lệnh về làm Huyện lệnh Phong Châu. Tại Phong Châu, một mình một phương, củng cố thành lũy, quân Tây Hán không dám xâm phạm. Sau về Bạch Hạc, Bảo Công tôn Thuật Dương hầu Kiến Đức là con trưởng của vua Văn vương với vợ người Việt lên làm vua lấy hiệu là Triệu Dương vương. Được dăm tháng mới biết tin Lang Công hóa, ông nén đau thương, tấu lên Dương vương phong mỹ tự, nhị tự duệ hiệu cho Lang Công là thần Trung lang Tế thế Đại vương. Ông giao phó công việc cho quân sĩ trông coi rồi mang sắc phong của Lang Công về Ngoại quán ở Nam Trì. Đến ngày 10/10 thì về đến nơi, nhân dân Nam Trì làm lễ bái, phúng điếu tại Thủy đường Tạ xá . Tất cả có hơn 300 gia thần là người địa phương theo ông chinh phạt cùng hành lễ. Bảo Công bi ai, thương tiếc người anh em đồng cam cộng khổ, quốc thù chưa báo đã kẻ mất người còn, âm dương đôi ngả. Rồi sửa sang đền thờ phụng sự Lang Công. Bảo Công thương tiếc người anh em, sống chết cùng nhau, cảm khán ngâm nga mấy câu đưa tiễn:
Sinh vi danh tướng hoá vi thần
Bảo giữ quốc hề tỷ dữ dân
Thiên địa trường tồn danh bất hủ
Đan thư thiết khoán vạn niên xuân.
Tạm dịch:
Sống thời danh tướng, chết hoá thần
Giữ yên đất nước, chở che dân
Trời đất trường tồn, danh bất hủ
Sử sách ghi tên mãi thiên Xuân.
Sau khi, Lang Công hóa, phụ mẫu của Ông quá đau buồn nên trong vòng 1 tháng thì Thân phụ qui Tiên vào ngày 10/7 mất. Rồi 50 ngày sau, Thân mẫu cũng lại theo Thân phụ. Bảo Công làm lễ an táng trọng thể cho ông bà xong mới quay về Phong Châu.
*****
Rồi vua Vũ đế nhà Tây Hán tiếp tục tiến binh thôn tính Nam Việt. Biết đất nước lâm nguy, tình thế quẫn bách, Ai Vương phải thắt cổ tự vẫn. Tây Hán hiếm được Nam Việt cắt cử Tướng thần cai trị.
Trở lại Phong Châu, Bảo Công biết nước đã mất bèn truyền hịch chiêu mộ binh sĩ từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thao Giang, Đà Giang đến Sơn Nam. Tập hợp được hơn 2 nghìn người tổ chức tấn công kinh thành làm quân Tây Hán đại bại. Quân giặc bỏ chạy toán loạn, truy đuổi chém được hơn 1 nghìn đầu. Chiếm được kinh thành Bảo Công tôn Triệu Dương vương làm Vệ Dương vương và ông tự xưng là Trung thiên Bảo quốc. Kháng cự được năm bẩy tháng, quân Tây Hán phải rút lui.
Sau đó, Tây Hán đưa hơn 20 vạn viện binh đến bao vây kinh thành trong khi Bảo Công, Triệu Dương vương chưa kịp bày binh bố trận bền đóng cửa giữ thành. Tướng giặc là Lộ Bác Đức đóng đồn, hạ trại bao vây ngoài thành. Mấy tháng bị bao vây quân sĩ thì đói khát, mệt mỏi nên Bảo Công đành phải mở cửa thành xuất quân giao chiến giải vây. Thấy vậy, quân Tây Hán áp sát vòng vây 4 mặt, gào thét, chửi bới, đốt lửa rừng rực kêu gọi qui hàng. Toàn bộ tướng sĩ đều qui hàng quân giặc. Kiến Đức, Bảo Công thấy quân sĩ đã qui hàng giặc bèn chọn lấy hơn trăm gia thần đến nửa đêm lúc canh ba thì mở cửa thành thoát thân. Chém được hơn mười đầu giặc, thoát khỏi vòng vây thì chạy thẳng về thượng tỉnh Sơn Tây. Quân giặc truy đuổi bắt được Triệu Dương vương tại huyện Đà Giang. Bảo Công thấy không chống cự được bèn chạy ngược lên Tuyên Quang vào vùng sơn cước. Quân Tây Hán không truy đuổi ông nữa và đưa Triệu Dương vương quay về thành.
Trở lại Phong Châu, Bảo Công lại tập hợp binh sĩ cùng gia thần, dân ấp kháng chiến. Ông lại truyền hịch cáo dụ vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa được hơn 1 nghìn người, rồi xuất quân đánh cho quân Tây Hán thua nhiều trận và hẹn sẽ đòi lại kinh thành. Thấy vậy, Lộ Bác Đức mua chuộc, dụ dỗ Tỳ tướng thân cận của Bảo Công là Chu Năng để làm nội phản; hứa nếu phản được Bảo Công thì thưởng vàng bạc, cho trị nhậm Nam quận lâu dài. Chu Năng hiến kế, Lộ Bác Đức nghe theo. Rồi Chu Năng nội phản tiến binh đến Lô giang, Bạch Lưu hiệp lực với quân Tây Hán đánh Bảo Công. Đánh được dăm sáu hiệp không phân thắng bại. Sau Chu Năng đưa quân lên mai phục ở núi Thiết Sơn để đánh tập hậu. Bảo Công không biết ý đồ Chu Năng nên qua núi Thiết Sơn để rút lui về Bạch Lưu thì bị quân Tây Hán từ 2 bên tiến đánh, quay lại thì thấy Chu Năng. Bị vây bốn mặt, Bảo Công cố đánh, chém được một số đầu giặc.
Thấy đơn thương độc mã Bảo Công liền tháo thân về phía thành Phong Châu. Hai bên giao chiến ở cả ngày trời, Binh sĩ thì tán loạn chỉ còn độ mươi gia thần. Bảo Công múa kim đao phá vây cứu mấy gia thần. Được chừng mươi hiệp thấy không thể thắng nổi, ông chạy về hướng tây bắc nhưng ngựa của ông kiệt sức không thể chạy nổi. Ông khua đao chém được một viên tướng giặc. Hàng chục binh lính giặc vòng trong vòng ngoài bao vây cùng xông vào. Bảo Công đánh rơi siêu đao nên bị viên tướng Tây Hán chém một nhát vào cổ, đầu lìa khỏi thân. Ông khấu đầu thét lên một tiếng, trời đất bỗng tối mịt mùng, sấm sét nổi lên dữ dội, mưa gió ầm ầm, quân Tây Hán hãi hùng bỏ chạy. Không đầu, thân vẫn trên lưng ngựa chạy về Tuyên Quang và đi các xứ quê quán của gia thần.
*****
Lại nói về 2 Phu nhân của Bảo Công tại tư gia, đêm ấy nghe thấy tiếng của Bảo Công vang vang trên không trung: Phu nhân, Ta bị tên Tỳ tướng Chu Năng câu kết với Tây Hán mưu phản, Ta đã chết trận ngày 10/4 rồi. Hai Phu nhân nức nở, thương xót. Ngày hôm sau, Lâu Lương Phu nhân chiêu mộ tại quê quán, trong nội huyện được 500 người và cải trang thành nam giới, dẫn quân đến Phong Châu. Đến nơi thì gặp Chu Năng và quân Tây Hán. Lâu Lương Phu nhân chia quân giao chiến. Trời đất bỗng tối mịt mùng, quân giặc thấy Bảo Công cùng binh lính từ trên trời đánh xuống, chửi rủa Chu Năng là đồ bất trung, không bằng chó ngựa rồi chém chết tên phản tặc. Quân Tây Hán tan dã, Phu nhân Lâu Lương tiếp tục truy kích chém được vài trăm đầu nữa. Bảo Công và binh lính cũng biến mất. Lâu Phu nhân rong ruổi đi các xứ tìm Bảo Công.
Không biết ý ra sao, chỉ biết ngựa của Bảo Công phi về Nam Trì vào trong đền thờ Lang Công. Lúc đó còn lại 6 người Nam Trì theo ông trông coi thủy quân là: Nguyễn Công Vinh, Nguyễn Phổ, Trần Kiển, Đặng Khôi, Đinh Dương, Lý Hòa cùng dân làng hành lễ, bái lạy. Bảo Công rằng: Ta gốc là Trung thiên Bảo quốc cứ hiệu thế mà phụng thờ. Dân làng Nam Trì bái lĩnh và lập thần hiệu phụng thờ. Khi ấy, trời đất bỗng tối sầm như đêm tối, tiếng hổ gầm vang, sấm sét ầm ầm. Trong khoảnh khắc, trời đất lại sáng bừng, dân chúng lấy làm kinh ngạc.
Rồi ngựa lại phi đến trang Đông Phần , phủ Ứng Thiên gặp một bà cụ già, Bảo Công bèn hỏi: “Người chỉ có thân không có đầu liệu có sống được không” Cụ già nói: “người nào đầy đủ thân thể mới sống được, có thân mà không có đầu thì làm sao mà sống được”. Ông thét lên ba tiếng, ngẩng mặt lên trời mà than rằng: “Được phong anh hùng cao quý lưu mãi vạn cổ nhưng vẫn hận giặc Tây Hán”. Trời đất bỗng tối sầm, mưa gió nổi lên dữ dội, ông lại nhảy lên ngựa và hoá vào ngày 1/12. Dân làng Đông Phần an táng, lập mộ và đền thờ bên sông. Người đời sau có thơ rằng:
Sinh vi danh tướng hoá vi thần
Trung nghĩa tòng lai vị kỷ nhân
Giang thượng thổ khôn thu nguyệt ảnh
Vãng lai nhân thuyết Bảo Công phần
Tạm dịch:
Sống thời danh tướng, chết hoá thần
Trăng thu soi bóng mộ bên sông
Xưa nay mấy người Trung nghĩa thế
Khách vãng qua đường khóc Bảo Công.
Lại nói về Bảo Công suốt chặng đường đi, ngựa phi đến đâu, có máu hồng thấm xuống đất, nơi ấy lập đền thờ phụng. Còn về Lâu Lương Phu nhân cùng binh sĩ, cưỡi ngựa đi các xứ để tìm Bảo Công, bất giác nghe tin ông về Sơn Nam thì quay lại trang Đông Phần. Khi đến chỗ mộ phần cũng gieo mình xuống sông tự tử, dân làng lập thần hiệu, thờ phụng cùng Ông. Còn các tướng sĩ các họ tộc ở Nam Trì thì về quê tế lễ, sang sửa đền thờ Lang Công, Bảo Công xong đều ra bờ sông Kim Ngưu tự vẫn. Dân làng lập đền tại bên phải, cạnh đền thờ hai vị Tướng để phụng thờ.
*****
Trải qua 349 năm, 6 triều đại Trung Quốc: Đông Tây Hán , Ngô , Tấn , Tống , Tề , Lương và 4 triều đại Việt Nam : Đinh , Lê , Lý , Trần công lao to lớn, khai sáng gây dựng quốc gia. Lang Công, Bảo Công đều hộ Quốc tý Dân , anh linh hiển ứng và đều được Đế vương các triều đại bao khen, sắc phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần, đồng ban nghi thức tế tự vĩnh hằng.

https://taaonamtri.wordpress.com/2018/06/14/than-tich-3-vi-than-va-den-dinh-nam-tri-xa-dang-le-huyen-an-thi-tinh-hung-yen/

---


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.