Sử dụng cách nói dân dã "ông Tiến" và "ông Giao", là để nói về nhà văn đàn anh Nguyễn Ngọc Tiến, và Giao Blog - chủ trang Giao Blog.
Anh Tiến là một nhà văn gắn bó với Hà Nội, có thể nói là chuyên viết về đất và người Hà Nội. Ví dụ anh viết về doanh nhân nữ lừng danh đầu thế kỉ XX (ở đây), tức là Cô Tư Hồng đáng là hàng cô giáo về kinh thương của Bạch Thái Bưởi. Hay là anh viết về ông đốc học Đồ Mười người Pháp (ở đây).
Hồi ngày xưa, lúc tôi sắp tốt nghiệp đại học, đi đọc sách ngoài thư viện quốc gia ở phố Tràng Thi, đã loáng thoáng thấy anh. Rồi sau này, lúc ra trường, thì hay trà đá thuốc lá ở khu Tràng Thi ấy (khu ngay cổng thư viện, hoặc bên kia đường, hay xa xa nữa). Nhưng tựa như, tôi chỉ nhìn thấy anh hàng ngày trong một thời gian, mà không nói chuyện gì, cho dù có khi luôn cùng bàn với đám bạn. Tựa như, chưa bao giờ nói chuyện riêng với nhau. Kể cả cho đến tận bây giờ. Nghĩ lại, thấy khá lạ !
Tháng 2 năm 2019, anh viết về Phủ Tây Hồ. Mà trong bài, anh dùng khá nhiều chữ "ông Giao". Tức là anh đọc bài học thuật của chúng tôi. Bài ấy, chúng tôi đã công bố từ 2008.
Ai đóng vai trò trụ cột trong lần xây dựng Phủ Tây Hồ vào năm 1943 thì sắp tới, chúng tôi sẽ công bố. Những điều thú vị, thì sẽ dần dần cho đăng tải.
Bài lấy nguyên về từ An Ninh Thủ Đô.
---
Chuyện về phủ Tây Hồ
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến
https://www.nguoiduatin.vn/chuyen-ve-phu-tay-ho-a423891.html
ANTD.VN - Phủ Tây Hồ nằm ở làng Tây Hồ. Làng này là doi đất ăn ra hồ Tây. Thời Lý, Trần do có vị trí đẹp, khí hậu tốt nên các vua xây cung ở đây nghỉ ngơi nên mới có tên là xóm Cung, rồi cung đổ nát, các quan xây phủ, dân quanh vùng gọi là xóm Phủ.
Biển người đổ về phủ Tây Hồ cầu tài lộc trong ngày Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019
Đời Hậu Lê, làng là nơi binh sỹ triều đình luyện tập bắn cung vì thế làng lại có tên Trường Bắn. Ở Trường Bắn có mô hình kẻ thù bằng rơm cho binh sỹ luyện tập nên cũng có tên là Núi Bia. Sau 1954, xóm Cung đổi thành Quảng Khánh và làng Tây Hồ nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ.
Xưa dân Tây Hồ chủ yếu là làm ruộng, hái sen và đánh bắt cá hồ Tây. Trong làng có vài nhà làm nghề xe chỉ, có nhà làm “bùa tua bùa túi” tức là khâu các quả bằng mụn vải nhiều màu sắc cho trẻ đeo vào dịp Tết Đoan Ngọ. Đầu thế kỷ XX, Tây Hồ có thêm nghề mới là trồng hoa và quất chơi Tết. Quất thì nhiều làng trên đất Việt Nam trồng nhưng trồng quất ép quả chín vàng vào đúng dịp Tết thì chỉ có dân Tây Hồ làm được. Và từ Tây Hồ, trồng quất chơi Tết lan ra Tứ Liên. Dù quất cảnh lan tỏa khắp nơi nhưng người ta biết đến làng Tây Hồ vì phủ thờ bà chúa Liễu Hạnh.
Phần lớn các tư liệu nghiên cứu đều cho rằng phủ được xây từ thế kỷ XVI, có sách còn cụ thể thời gian là thời vua Lê Anh Tông (1557-1573). Và chính Trạng Bùng đã huy động sức dân lập phủ để kỷ niệm cuộc hội ngộ xướng họa thơ phú. Lại còn có sách nói rằng cuộc gặp giữa Trạng Bùng và Liễu Hạnh do chính Phùng Khắc Khoan kể lại nhưng không nói ở sách nào.
Tuy nhiên mảng tư liệu Hán Nôm gồm: “Lịch triều hiến chương loại chí” (Phan Huy Chú, 1782-1840), “Đại Nam nhất thống chí” (Quốc sử quán triều Nguyễn in vào triều Duy Tân 1907-1916), “Thăng Long cổ tích khảo” và “Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ” (Đặng Xuân Khanh)… đều không đề cập đến phủ Tây Hồ. Các tư liệu mới bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ gồm: “Việt Nam phong tục” (Phan Kế Bính, xuất bản năm 1915), “Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam và Văn minh Việt Nam” (Nguyễn Văn Huyên) cũng không nói gì đến di tích tín ngưỡng này.
Sách “Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ” và “Thăng Long cổ tích khảo” có nhắc đến đền Kim Ngưu tức là ngôi đền nằm ngay cạnh phủ (ngày này được xem là một bộ phận của cụm tín ngưỡng phủ Tây Hồ). Cả hai cuốn cũng không nói đến phủ hay Bảo Khánh linh từ. Sách “Tây Hồ chí” ra đời trong nửa đầu thế kỉ 20 cũng không nhắc gì đến phủ dù có nói nhiều đến hồ Tây. Cuốn “Việt Nam phong tục” có mục Thanh đồng nói về việc thờ đức Thánh Trần, và mục Đồng cốt nói về việc thờ các công chúa, nữ thần như Liễu Hạnh công chúa, thượng ngàn công chúa song Phan Kế Bính chỉ nhắc đến đền Lộ, phủ Giầy, không thấy nhắc đến phủ Tây Hồ.
Theo nghiên cứu và công bố năm 2008 của Chu Xuân Giao và Phan Lan Hương (Viện Nghiên cứu văn hóa), sau đó là nghiên cứu khá toàn diện của Chu Xuân Giao đã đưa ra quan điểm khác. Từ đọc các văn bản liên quan, đi thực tế, đọc các câu đối và cả các sắc phong ở phủ, Chu Xuân Giao đi đến kết luận: “Định thuyết trước nay cho rằng phủ Tây Hồ được xây dựng vào thế kỷ XVI là không có cơ sở tư liệu vững vàng; nói cách khác: không thể có phủ Tây Hồ từ thế kỷ XVI”.
Cũng theo ông Chu Xuân Giao thì phủ Tây Hồ như ngày nay được hình thành rất muộn, có lẽ là vào giai đoạn cuối của thời Nguyễn (thời Bảo Đại, thậm chí có thể là trong thập niên 1940). Ông Giao đưa ra mốc thời gian năm 1943 vì năm này có một cuộc đại trùng tu tại khuôn viên phủ ngày nay. Bởi vậy, có thể bức hoành phi mang niên đại 1943 đã được dâng tiến trong hay sau cuộc trùng tu đó. Thêm nữa, cùng năm 1943, người trưởng họ Trần ở Tiên Hương, tỉnh Nam Định là Trần Cung Phức cũng đã dâng tiến phủ Tây Hồ một đôi câu đối có ghi niên đại rõ ràng (mùa xuân năm Quí Mùi niên hiệu Bảo Đại).
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến
Ông Chu Xuân Giao kết luận: “Phải chăng lần trùng tu năm 1943 là lần trùng tu mang tính quyết định, đã tạo ra sự chuyển đổi một cách cơ bản về nội dung tín ngưỡng của ngôi đền Bảo Khánh linh từ, đưa nó sang thành dạng như phủ Tây Hồ ngày nay”.
Bảo Khánh linh từ là ngôi đền của thôn Bảo Khánh, bên cạnh đền này có một ngôi chùa nhỏ. Một cách chính xác: cả khuôn viên phủ Tây Hồ ngày nay được gọi chung là Bảo Khánh linh từ. Trong linh từ đó, có phần thờ thần (bên đền) và phần thờ Phật (bên chùa). Nhưng vì sao Bảo Khánh linh từ lại chuyển thành phủ Tây Hồ? Ai đã bỏ tiền xây dựng?
Tại sao đang gọi là đền lại chuyển sang gọi thành phủ? Hai câu hỏi trên chưa có lời giải đáp còn câu thứ ba thì Chu Xuân Giao giải thích: “Bản thân chữ “phủ” như trong cách gọi “phủ Giầy”, “phủ Tây Hồ” hay “phủ Na”… không thấy xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí”. Chu Xuân Giao cho rằng chắc chắn trước thế kỷ XVIII, chữ “phủ” hay “phủ thờ” đã rất thông dụng trong tiếng Việt. Trong cuốn “Mặt gương Tây Hồ” nhà nghiên cứu Hà Nội Nguyễn Vinh Phúc nhận định: “Những nơi thờ mẫu gọi là đền nhưng đặc biệt những nơi có liên quan mật thiết với Mẫu Liễu Hạnh (nơi sinh, nơi hiển thánh)… thì gọi là phủ”. Lý giải đó nghe hợp lý.
Từ sáng mùng 1 Tết cho đến hết tháng Giêng, từ sáng cho đến tối lúc nào phủ cũng chật cứng người chắp tay cầu khấn. Và từ Tết Kỷ Hợi này, phủ Tây Hồ đã được cải tạo lại rộng hơn trước rất nhiều nhưng vẫn chật chội khi đông đảo các tín nhân về đây lễ bái, cầu cúng.
https://anninhthudo.vn/song-o-ha-noi/chuyen-ve-phu-tay-ho/799371.antd
---
BỔ SUNG
1. Bên Người đưa tin đăng lại
Thứ 6, 01/03/2019 | 11:00
Phủ Tây Hồ nằm ở làng Tây Hồ. Làng này là dải đất ăn ra hồ Tây. Thời Lý, Trần do có vị trí đẹp, khí hậu tốt nên các vua xây cung ở đây nghỉ ngơi mới có tên là xóm Cung, rồi cung đổ nát, các quan xây phủ, dân quanh vùng gọi là xóm Phủ.
Đời Hậu Lê, làng là nơi binh sĩ triều đình luyện tập bắn cung vì thế làng lại có tên Trường Bắn. Sau 1954, xóm Cung đổi thành Quảng Khánh và làng Tây Hồ nay thuộc phường Quảng An quận Tây Hồ. Xưa dân Tây Hồ chủ yếu làm ruộng, hái sen và đánh bắt cá hồ Tây. Trong làng có vài nhà làm nghề xe chỉ, có nhà làm “bùa tua bùa túi” tức là khâu các quả bằng mụn vải nhiều màu sắc cho trẻ đeo vào dịp Tết Đoan ngọ.
Đầu thế kỷ XX, Tây Hồ có thêm nghề mới là trồng hoa và quất chơi Tết. Quất thì nhiều làng trên đất Việt Nam trồng nhưng trồng quất ép quả chín vàng vào đúng dịp Tết thì chỉ có dân Tây Hồ làm được. Và từ Tây Hồ, trồng quất chơi Tết lan ra Tứ Liên. Dù quất cảnh chơi Tết lan tỏa khắp nơi nhưng người ta biết đến làng Tây Hồ vì phủ thờ bà chúa Liễu Hạnh.
Theo nghiên cứu và công bố năm 2008 của Chu Xuân Giao và Phan Lan Hương (viện Nghiên cứu văn hóa), sau đó là nghiên cứu khá toàn diện của Chu Xuân Giao đã đưa ra quan điểm khác. Từ đọc các văn bản liên quan, đi thực tế, đọc các câu đối và cả các sắc phong ở phủ, Chu Xuân Giao đi đến kết luận: “Định thuyết trước nay cho rằng phủ Tây Hồ được xây dựng vào thế kỷ XVI là không có cơ sở tư liệu vững vàng; nói cách khác không thể có phủ Tây Hồ từ thế kỷ XVI”.
Cũng theo ông Chu Xuân Giao thì phủ Tây Hồ như ngày nay được hình thành rất muộn, có lẽ là vào giai đoạn cuối của thời Nguyễn (thời Bảo Đại, thậm chí có thể là trong thập niên 1940). Ông Giao đưa ra mốc thời gian năm 1943 vì năm này có một cuộc đại trùng tu tại khuôn viên phủ ngày nay. Bởi vậy, có thể bức hoành phi mang niên đại 1943 đã được dâng tiến trong hay sau cuộc trùng tu đó.
Thêm nữa, cùng năm 1943, người trưởng họ Trần ở Tiên Hương, tỉnh Nam Định là Trần Cung Phức cũng đã dâng tiến phủ Tây Hồ một đôi câu đối có ghi niên đại rõ ràng (mùa xuân năm Qúy Mùi niên hiệu Bảo Đại). Ông Chu Xuân Giao kết luận: “Phải chăng lần trùng tu năm 1943 là lần trùng tu mang tính quyết định, đã tạo ra sự chuyển đổi một cách cơ bản về nội dung tín ngưỡng của ngôi đền Bảo Khánh linh từ, đưa nó sang thành dạng như phủ Tây Hồ ngày nay”.
Bảo Khánh linh từ là ngôi đền của thôn Bảo Khánh, bên cạnh đền này có một ngôi chùa nhỏ. Một cách chính xác: Cả khuôn viên phủ Tây Hồ ngày nay được gọi chung là Bảo Khánh linh từ. Trong linh từ đó, có phần thờ thần (bên đền) và phần thờ Phật (bên chùa). Nhưng, vì sao Bảo Khánh linh từ lại chuyển thành phủ Tây Hồ? Ai đã bỏ tiền xây dựng? Tại sao đang gọi là đền lại chuyển sang gọi thành phủ? Hai câu hỏi trên chưa có lời giải đáp còn câu thứ ba thì Chu Xuân Giao giải thích: “Bản thân chữ “phủ” như trong cách gọi “phủ Giầy”, “phủ Tây Hồ” hay “phủ Na”… không thấy xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí”.
Chu Xuân Giao cho rằng chắc chắn trước thế kỷ XVIII, chữ “phủ” hay “phủ thờ” đã rất thông dụng trong tiếng Việt. Trong cuốn Mặt gương Tây Hồ nhà nghiên cứu Hà Nội Nguyễn Vinh Phúc nhận định: “Những nơi thờ mẫu gọi là đền nhưng đặc biệt những nơi có liên quan mật thiết với Mẫu Liễu Hạnh (nơi sinh, nơi hiển thánh)… thì gọi là phủ”. Lý giải đó nghe hợp lý.
Nguyễn Ngọc Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.