Dưới là các sưu tập góc nhìn của báo chí tiếng Việt, từ sau khi được vinh danh.
---
.
2.
(Thethaovanhoa.vn) - Ngày 1/1, “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt” chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại. Và, so với 10 Di sản tương tự của Việt Nam được vinh danh trước đó, hiếm có trường hợp nào phải đi theo một cung đường lận đận và đầy tranh cãi như nó, trong hành trình tìm sự thừa nhận đích thực cho mình.
1. Ngay khi được vinh danh ở cấp quốc tế, vẫn còn rất nhiều người nhầm lẫn giữa Tín ngưỡng thờ Mẫu (TNTM) và hầu đồng – hình thức diễn xướng cơ bản nhất của nó. Thực tế, 2 chữ "hầu đồng" ấy cũng một thời đi kèm với những ngần ngại và e dè trong cách nhìn, bởi những hệ lụy về mê tín dị đoan đi kèm.
GS Ngô Đức Thịnh (nguyên thành viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia) kể rằng: cái mốc quan trọng nhất trong sự trở lại của di sản này được đánh dấu với việc hầu đồng xuất hiện tại lễ hội Kiếp Bạc năm 2006. Để làm được điều ấy, giám đốc ngành văn hóa Hải Dương phải tìm gặp, mượn một số cuốn sách về TNTM do GS viết và chuyển cho các lãnh đạo tỉnh đọc rồi mới dám… xin phép.
Thực hành Tín ngưỡng thờ mẫu tại VN
3 năm sau Kiếp Bạc là lễ hội Lảnh Giang (Hà Nam), là những chuỗi liên tiếp giới thiệu và trình diễn hầu đồng tại hàng chục đô thị trên miền Bắc.Tất cả những buổi giới thiệu ấy đều đặc kín người. Điển hình, buổi giới thiệu hầu đồng ở Trung tâm văn hóa Pháp vào đầu năm 2011 của GS Ngô Đức Thịnh gặp cảnh “vỡ sân” – khi mà nói như lời ông, số phận "nửa kín, nửa hở" của hầu đồng luôn kích thích sự tò mò cao độ.
Đáng nói, chỉ một năm trước đó, trong bản dự thảo về thông tư quản lý lễ hội của ngành văn hóa vào giữa năm 2010, ý tưởng "cấm lên đồng" vẫn… tiếp tục được nhắc tới. Tuy nhiên, điều này đã được sửa đổi khi dự thảo được thông qua.
2. Bước tiến của TNTM nhanh tới chóng mặt, khi mà chỉ 7 năm trước, ý tưởng đi di sản này “ứng thí” trước UNESCO còn liên tục nhận về những băn khoăn, thậm chí là phản ứng gay gắt của giới chuyên môn.
Bởi vậy, năm 2011, thay vì "hầu đồng", khái niệm "nghi lễ chầu văn" ra đời. Như giải thích của người trong cuộc, chầu văn (loại âm nhạc sử dụng khi hầu đồng) với các "nghi lễ" đi kèm, là trung tâm của việc lập hồ sơ. Có nghĩa, di sản được nhìn từ yếu tố âm nhạc là chính, chứ không phải tín ngưỡng. 2 năm sau, "nghi lễ chầu văn" trở thành Di sản Phi vật thể cấp Quốc gia và được lên kế hoạch đệ trình tới UNESCO.
Nhưng, trong những cuộc hội thảo và tổ chức liên hoan "biểu diễn nghi lễ chầu văn" sau đó lại vẫn các chuyên gia phân tích: cách tiếp cận di sản theo hướng này sẽ bỏ qua rất nhiều yếu tố giá trị văn hóa ngoài âm nhạc trong hồ sơ.
"Trong một hội thảo tại Mỹ, tôi kể về tín ngưỡng thờ Mẫu. Khi biết tục thờ Mẫu đề cao bà mẹ thiên nhiên, coi người mẹ là yếu tố sinh ra vạn vật, các chuyên gia Mỹ vỗ tay và nói vui rằng chúng ta còn tiến bộ trước họ về mặt nữ quyền" – GS Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian, kể. "Bỏ đi "phần hồn" ấy, thứ di sản được trình lên UNESCO chỉ còn là những diễn xướng mô phỏng…”
Như lời GS Ngô Đức Thịnh, một trong những người xây dựng hồ sơ, cái tên "nghi thức chầu văn" ấy tồn tại trong một giai đoạn ngắn cũng bởi... sự e dè của các chuyên gia khi đề xuất .
Tháng 3/2014, phải tới sát thời điểm trình lên UNESCO, sau khi xin ý kiến Chính Phủ, bộ hồ sơ đã được Ban chỉ đạo đổi sang tên gọi "Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt" với lý do tên gọi cũ "không phản ánh được hết giá trị đặc trưng của di sản".
Một tháng sau đó, cuộc Liên hoan “Nghi lễ chầu văn” tại Hà Nội cũng được đổi sang tên gọi “Liên hoan Tín ngưỡng thờ Mẫu”. Di sản đã có được một tên gọi thống nhất và chuẩn xác cho đến thời điểm được UNESCO vinh danh vừa qua.
Cúc Đường - Mỹ Mỹ
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
Tín ngưỡng thờ Mẫu và đường trường đến Di sản Thế giới: Bắt đầu hành trình... trở lại là mình?
(Thethaovanhoa.vn) - Song song cùng hành trình tìm danh hiệu với các tên gọi khác nhau, không thể phủ nhận rằng nỗi lo về sự bùng nổ những biến tướng của TNTM và diễn xướng hầu đồng vẫn còn nguyên đó.
1. Thống kê sơ bộ cho biết trên toàn quốc hiện có khoảng 7.000 đền, phủ liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu (chưa kể các điện thờ được lập tại nhà riêng). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt được phân bổ rất rộng, trong đó mỗi địa phương lại có những sắc thái, đặc điểm riêng của mình.
Nhưng, từ việc bị gián đoạn sau một thời gian dài không được phép thực hành, sự đa dạng về sắc thái ấy lại gắn liền với những hướng phát triển tự phát, thậm chí là xa rời nguyên gốc của hầu đồng và TNTM.
Một diễn xướng tại Liên hoan Nghi lễ chầu văn Hà Nội,năm 2014
Đơn cử, chỉ ở phần nhạc, trong cuộc LH “Nghi lễ chầu văn” tại Hà Nội năm 2013, theo quan sát của NSƯT Hạnh Nhân, có những giá đồng đã phối cả nhạc và lời của dân ca Lào "Hoa đẹp Chăm pa" hoặc "Cây trúc xinh" của dân ca Bắc Bộ vào phần biểu diễn.
“Đành rằng nghệ thuật thì có sự phát triển theo thời gian. Chẳng hạn, những giá đồng hầu Mẫu Thượng ngàn thường phát triển âm hưởng từ các điệu sơn ca của dân tộc Mông, Dao, Thái” - nhạc sĩ này nhận xét. “Nhưng, việc kết nối những làn điệu không liên quan gì tới bản chất thì chỉ có thể gọi bằng sự nhảm nhí và thiếu hiểu biết. Nhiều khi, sự thay đổi ấy đến từ những việc rất đơn giản, chẳng hạn như cung văn biết là sai nhưng vẫn chiều theo ý thích của thanh đồng. Bởi, có nghe đúng kiểu nhạc ấy thì thanh đồng mới … say, mới phát lộc cho nhiều.”
Hoặc, các nhà nghiên cứu cũng từng nhắc tới việc “bổ sung” thoải mái các vị thần thánh vào hệ thống điện thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu, với những cách sắp đặt rất khác nhau. Thậm chí, có nhiều nơi, bàn thờ Phật lại xuất hiện việc phối thờ của các tượng Mẫu - cho dù trong tín ngưỡng này, một số Mẫu vẫn được cúng đồ ăn mặn.
"Nhiều năm nghiên cứu, tôi có khẳng định: khoảng 80% các thanh đồng hiện nay đều thiếu một kiến thức đầy đủ về tín ngưỡng thờ Mẫu. Khi đã không hiểu, lại sẵn ở tình trạng tự do, muốn làm gì thì làm, họ càng dễ dàng đưa hầu đồng đi xa với nguyên gốc hơn" - GS Ngô Đức Thịnh cho biết.
Đáng nói, sự xa rời, sai lệch so với bản chất thật ấy nhiều khi xuất phát từ tình trạng hầu đồng được "mở" vô tội vạ để kiếm tiền. Sự thật, trong lịch sử tồn tại, câu chuyện này cũng đã song hành cùng TNTM và diễn xướng hầu đồng - với những khái niệm "đồng đua", "đồng đú" được sử dụng để nói về những người không có "căn"đồng nhưng cũng ... a dua đi hầu Thánh. Thế nhưng, ở xã hội hiện đại, những giá hầu đồng "giả hiệu" như vậy lại đang có điều kiện bùng nổ rất mạnh.
"Người xưa trở thành "đồng đua" nhiều khi chỉ vì ham vui. Còn bây giờ, tôi biết nhiều trường hợp đứng ra lập phủ hầu đồng chỉ vì thấy kiếm tiền từ món này dễ quá " – GS Ngô Đức Thịnh nhận xét. "Nhất là khi, trong cuộc sống đô thị bức bối, ngột ngạt, trong sự thay đổi chóng mặt của kết cấu xã hội truyền thống, người ta cũng dễ có xu hướng tìm tới những hình thức "yoga tâm lý" như hầu đồng".
Bởi vậy, không có gì lạ khi ở thời điểm TNTM đang được lập hồ sơ trình UNESCO, báo giới và các chuyên gia cũng lo lắng và liên tục chỉ ra xu hướng "vật chất hóa" trong diễn xướng hầu đồng tại nhiều miếu, phủ. Ở đó, thay vì quy mô "tùy tâm biện lễ" với sự giản dị, chỉn chu trong quá khứ,những đồ lễ bằng mã hiện tại được làm với kích thước "khủng", còn tiền phát lộc không phải bạc lẻ, mà đã chuyển sang mệnh giá lớn hơn nhiều...
Bà Katherine Muller-Marin, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam và các đai sứ nước ngoài tham dự một buổi hầu đồng tại phủ Tiên Hương (Phủ Dày, Nam Định)
2. Một câu hỏi đang được đặt ra: với danh hiệu cấp thế giới từ UNESCO, liệu những biến tướng lệch chuẩn về TNTM và diễn xướng hầu đồng có "nhân đà" để tiếp tục bùng nổ trong xã hội?
Sự thực, trong các cuộc hội thảo, tọa đàm trước đó, khá nhiều chuyên gia cũng đã đặt ra câu hỏi này. Và theo PGS Nguyễn Thị Hiền (Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia VN), người tham gia lập hồ sơ trình UNESCO, cơ quan chuyên môn này cũng đã chuẩn bị những hướng bảo tồn để trình lên cơ quan quản lý.
Cụ thể, trong thời gian tới, các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục hướng tới việc khôi phục những yếu tố lễ hội đã bị mai một theo thời gian của TNTM, cũng như kiểm kê và tư liệu hóa hệ thống hát văn, âm nhạc, hình thức diễn xướng... để mang lại những kiến thức hoàn thiện hơn về các đặc trưng của Di sản Thế giới này. Và, từ sự nhận diện chân xác ấy, cộng đồng và các "nhà đền" cũng sẽ được từng bước nâng cao kiến thức để tránh đi vào lệch lạc.
Nhưng, dù hiểu biết đến mấy, câu chuyện cố tình lợi dụng TNTM và hầu đồng để trục lợi kiếm tiền vẫn là một bài toán khó giải trong hoàn cảnh hiện tại. Bởi, đây lại là vấn đề của ngành quản lý. Thực tế, trong nhiều năm qua, việc tổ chức thực hành TNTM hoặc các buổi hầu đồng tại hầu hết các địa phương vẫn được "thả nổi" mà chưa chịu sự giám sát nào.
Đã có những ý kiến đề nghị Nhà nước nên có hình thức phối hợp cùng các thanh đồng để quản lý việc thực hành TNTM. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, cách làm như vậy rất dễ gây hậu quả ngoài ý muốn.
Thanh đồng Trần Thị Huệ (trái) tại buổi họp quyết định vinh danh Tín ngưỡng thờ mẫu VN của UNESCO tại Ethiopia
"Bản chất của Di sản Văn hóa Phi vật thể là thuộc về cộng đồng, do cộng đồng vận hành và gìn giữ. Từ những bài học trong quá khứ, chúng ta thấy rõ Nhà nước không thể làm thay cộng đồng nếu can thiệp quá sâu" – PGS Lê Thị Minh Lý cho biết. "Theo tôi, nếu có, chúng ta chỉ nên tham khảo mô hình của Chính phủ Hàn Quốc với Gut (một di sản khá gần với hầu đồng của VN- TT&VH). Ở đó, chính phủ là nơi đứng ra lựa chọn, yêu cầu làm cam kết và chỉ định biểu diễn kèm theo sự hỗ trợ về điều kiện cho những nhóm thực hành di sản tốt nhất, từ đó tạo ra sự lan tỏa cho cộng đồng".
Đáng chú ý, trong số những ý kiến trao đổi ấy, nhiều chuyên gia đã chỉ rõ: bản thân những Thanh đồng có uy tín, thành tâm thực hành TNTM trong nhiều năm, lại là những người mong mỏi nhất để Di sản này đi vào quy củ. "Chính họ là những người có tinh thần hợp tác với ngành quản lý và giới nghiên cứu nhất. Bởi, họ có niềm vui được khẳng định vai trò của mình, sau nhiều năm kiên trì với sự thăng trầm của TNTM" – GS Ngô Đức Thịnh nói.
Gần nhất, trong kỳ họp công nhận danh hiệu cấp Thế giới cho TNTM của Ủy ban UNESCO tại Ethiopia, thanh đồng Trần Thị Huệ (Phủ Tiên Hương, Nam Định) cũng là một gương mặt xuất hiện trong đoàn đại biểu và chuyên gia của Việt Nam.
Chia sẻ với Thể thao & Văn hóa, chị nói ngắn gọn: "Tôi xúc động vô cùng, và cũng vinh dự vô cùng, khi được trực tiếp có mặt trong giây phút quan trọng nhất với Tín ngưỡng thờ Mấu của người Việt. Vinh dự này là của cộng đồng và cũng là những trách nhiệm mới với các Thanh đồng như chúng tôi, trong việc gìn giữ, bảo tồn Tín ngưỡng thờ Mẫu ở tương lai".
Bài 1: Chuyện chưa biết về 3 lần đổi tên trước khi Tín ngưỡng thờ Mẫu thành Di sản xem TẠI ĐÂY
Cúc Đường - Mỹ Mỹ
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
TP - Sau sự kiện Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt được UNESCO vinh danh, cộng đồng bắt đầu tỏ ra quan tâm về hướng gìn giữ di sản này. Ít người biết, thực tế nghi lễ hầu đồng truyền thống không được mặn mà trong khi những biến tướng khó kiểm soát lại hút khách và liên tục mở rộng tầm ảnh hưởng.
Đồng thầy Nguyễn Thị Nga trong một giá hầu năm 2010, thời điểm còn khá nhạy cảm với hầu đồng. Ảnh: Lan Hương.
Đồng thầy Nguyễn Ngọc Khánh (làng Hòa Duệ, Tứ Kỳ, Hải Dương) chia sẻ, từ hôm biết Tín ngưỡng Thờ Mẫu chính thức được vinh danh ông mất ngủ triền miên vì lo bùng phát các ông bà đồng “khóa học ngắn ngày” tự xưng và nghi lễ hầu đồng ngày càng biến tướng, thành dịch vụ làm giàu, mất hết thiêng.
Nỗi niềm người “lỗi mốt”
Ở tuổi trên 60, đồng Khánh kể ông từng có 12 năm theo đồng thầy trong làng làm đệ tử, tới lúc thầy công nhận ông mới được mở điện riêng. Trước kia mâm lễ chỉ có ít trầu cau, vài quả cam táo. Kẹo dồi tự nấu, cắt ra lăn vào khay bột, dúm vào mảnh giấy chia lộc cho mỗi người vài cái. Đồ mã chỉ có 1 tòa sơn trang, 1 voi, 1 ngựa, 15 cỗ mũ (biểu tượng cho các thánh). Thỉnh thoảng mới có giá hầu tung tiền xu, hào lẻ lộc thánh. Ngày nay “đồng to bóng lớn” phải phô trương thanh thế bằng lễ vật ngập ngụa và tiền tung mọi lúc.
“Bản thân tôi mặc đúng trang phục của các quan theo vấn hầu nhưng không bao giờ tô son phấn. Thời nay trăm phần trăm đồng nam đều kẻ vẽ mặt cầu kỳ, gắn cả mi giả, có người độn cả ngực. Gần đây tôi đi hầu ở Kiếp Bạc, gặp nhà sư kiêm thầy đồng độn ngực nhảy múa trông lố hết nói”. Thời xưa thầy đồng chỉ đi lại nhún nhảy trong một vuông chiếu, nay họ múa loạn lên trong cả ba bốn chiếu. Nhiều người vừa trình đồng hôm trước hôm sau đã làm thầy mở điện linh đình. Mặc dù, đa số con nhang đệ tử thời nay phù thịnh, chỉ ủng hộ đền phủ hoành tráng, nhạt nhẽo dần với đồng đền “quê mùa lỗi mốt”, đồng Khánh vẫn quyết giữ cung cách xưa. “Ngoài lúc nhập đồng tôi chỉ là người phàm tục. Người hầu đồng chỉ là cái ghế của thánh. Vậy mà nhiều ông bà đồng ảo tưởng họ là thánh 24/7, được quyền phán truyền, chửi mắng con nhang”. Đồng Khánh cảm thấy được an ủi ấm lòng khi thỉnh thoảng được con nhang từ một vấn hầu lòe loẹt nhạc ầm ĩ gọi điện mong được dự giá hầu của ông “ông hầu “thật đồng thật bóng” xem thấy dễ chịu, thư thái hơn hẳn”.
Đồng đền Trần Thị Hồng Vân (Phủ Nấp, Nam Định) bảo vệ cung cách hầu đồng truyền thống.
Đồng đền (vừa là đồng thầy vừa là thủ đền) Trần Thị Hồng Vân (Đền Phủ Nấp, xã Yên Đồng, Ý Yên, Nam Định) ở tuổi trên 70 vẫn cai quản hai ngôi đền trong xã. Con nhang đệ tử của bà đa số toàn người dân quanh vùng, mỗi vấn hầu trình đồng (lễ ra mắt để được công nhận là ông (bà) đồng) không bao giờ vượt quá 20 triệu. Trong đó, chi phí cho nhóm hát văn ba người hết có 2 triệu. Thời xưa lễ mặn chỉ có vài lạng giò, cân hoa quả cũng trình đồng được. Nay thì ở đền phủ tên tuổi phải mất vài trăm triệu mới “nên danh đồng thầy (ông/bà đồng đủ uy tín để mở phủ cho người trình đồng”) “ Một tạ lúa bán được có 600 ngàn. Người nông dân mất bao nhiêu tạ mới hầu được ở đền phủ to?”. Là một trong ba trường hợp đồng thày đưa vào nghiên cứu trong Hồ sơ đề cử quốc gia về Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, đồng Vân vừa trở về từ Hội nghị lần thứ 11 của Ủy ban Liên Chính phủ Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) về Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi Vật thể họp tại Adis Abebas, Ethiopia. Đồng Vân kể, lúc xuống sân bay Nội Bài, chả có ai ra đón mà bà cũng chả dám nhắn ai “chỉ có đồng đền ở phủ lớn, phủ giàu mới được nhiều đoàn xe xịn của con nhang ra nghênh đón thôi”. “Đang đứng lơ ngơ ở sảnh, tôi gặp được một đệ tử cũ, thế là cậu ấy chở tôi về quê. May quá”. Câu hát “Còn duyên buôn nụ bán hoa. Hết duyên ngồi gốc cây đa đợi chờ” có lẽ đúng cả với những đồng thầy tuổi cao, “không chịu cập nhật”, theo cách nói của con nhang đương thời.
Đồng Vân bày tỏ ghét nhất thầy đồng kiêm nghề đồng bói. “Họ nhân danh thánh điều khiển con nhang mê muội phải vay mượn theo các giá hầu đắt đỏ khiến người ta nợ nần khốn đốn thêm”.
Nhớ thời hầu trộm, hầu chay
Hơn mười năm về trước, hầu đồng bị coi là hoạt động mê tín dị đoan, các vấn hầu thường phải thực hiện lén lút. Cơ cánh đồng thầy cùng con nhang đệ tự phải chọn giờ vắng vẻ, thậm chí đi cổng sau vào đền hầu thánh. Thời đó ban quản lý các đền đông khách “hầu bóng” luôn trả lời “không” khi có người tò mò về vấn hầu đang diễn ra bên trong. Tuy nhiên nếu được lời đảm bảo của cơ cánh thì dễ dàng lọt vào tham dự.
PGS.TS Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởng, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (VHNTQGVN) kể năm 2004 bà dẫn TS ngành Nhân học Mỹ Laurel Kendall về phủ Phúc Linh Điện (Văn Giang, Hưng Yên để dự vấn hầu của bà đồng Nguyễn Thị Nga. Hàng xóm thấy có tây liền báo chính quyền. Công an xã đến dẹp vì lý do đưa người nước ngoài vào nhà không báo cáo và tuyên truyền hình ảnh mê tín dị đoan của người Việt với bạn bè quốc tế. Bà Nga lấy mấy bao thuốc lá ra biếu, giải thích khách là nhóm nghiên cứu thế là mọi chuyện lại đâu vào đấy. Đồng Nga kể, có lần lên Sơn La mở phủ cho đệ tử, bà bị bắt giam mấy ngày. Người nhà phải lên chạy vạy đón về.
Có người nặng căn quả mà ở nông thôn nghèo không có điều kiện nên đành ra đồng hầu chay. TS Nguyễn Thị Hiền từng tham dự vấn hầu không có hát văn, không mã, chỉ có đĩa hoa quả và vài bức tranh màu nước vẽ các thánh. Người trình đồng ngồi nhắm mắt lắc lư trong im lặng, tự cảm thấy quan Hoàng Mười nhập về thì ra hiệu, nhóm hầu dâng ngồi cạnh chắp tay lạy, miệng hô mời quan về. Có nhiều trường hợp hầu chay không nhạc là do sợ ồn ào, hàng xóm báo cơ quan chức năng.
Giai đoạn Tín ngưỡng thờ Mẫu được đề nghị đệ trình lên UNESCO để được công nhận Di sản Văn hóa nhân loại, ở nhiều địa phương cấp Sở văn hóa đã nới lỏng nhưng chính quyền phường xã vẫn chưa biết, nên lúc cấm lúc thả. Ngoại giao xởi lởi, quà cáp vung tay là sở trường của các ông bà đồng. Gần đây, hầu đồng đã được hoạt động thoải mái, nhiều người trong cuộc vẫn giữ thói quen “tán lộc” từ vòng gửi xe để được “xuôi chèo mát mái”.
Đồng thầy Nguyễn Đắc Trung, thế hệ 9X. Ảnh: Lan Hương.
Đồng thầy có phải là một nghề?
Chia sẻ cảm nghĩ về mối đe dọa nghi lễ hầu đồng bùng nổ lệch lạc, đồng đền Nguyễn Đắc Trung (đền Linh Vương Long (Cô bé Sapa), Tân Ấp, HN) chia sẻ thời nào cũng có người lạm dụng tín ngưỡng để gây thanh thế và kiếm tiền. “Nhân đợt này, nhiều người cố tình vinh danh đồng cốt chứ không phải Tín ngưỡng thờ Mẫu”. Thuộc thế hệ 9X, đồng Trung cho rằng mỗi nơi có một cách làm của họ. Đây là tín ngưỡng nên không có qui định cụ thể. “Không chỉ trong giới hầu đồng mà bản chất xã hội luôn phù thịnh chứ không phù suy”. Có nhiều đồng thầy có tâm nhưng lại không có sức hút nên ít con nhang, đền phủ vắng vẻ. Bản thân đồng Trung không ủng hộ những con nhang sống chết vay mượn để hầu đồng cải số. “Hầu đồng là một cách giải tỏa, một chỗ dựa tâm linh để cầu an, cầu sức khỏe. Không thể vì nó mà thành con nợ, lo nghĩ tâm trí hao tổn, sinh bệnh, bất hạnh thêm”.
“Nhân đợt này, nhiều người cố tình vinh danh đồng cốt chứ không phải Tín ngưỡng thờ Mẫu”Đồng đền Nguyễn Đắc Trung (đền Linh Vương Long, Tân Ấp, HN) chia sẻ
Đệ tử, những người chấp tác trong phủ của đồng Trung ngoài giờ phụ lễ, họ đi cắm hoa, trang trí sự kiện bên ngoài kiếm tiền. Đội cung văn không được nhận cát-sê quá cao, họ phải hát tăng thêm từ 7 thành 10 vấn trong tuần để tăng thu nhập. Cung văn của phủ giữ lối hát truyền thống, không bao giờ chiều khách kiểu hát thêm cải lương hay nhạc mới.
Đồng Trung kể: “Tôi luôn bảo với các đệ tử (cũng toàn người trẻ) rằng “mình là người lao động, không có học vấn kiếm được việc phù hợp là tốt lắm rồi”. Đệ tử nào nhen nhóm ảo tưởng quyền lực của thánh lập lức bị loại ngay. Đồng Trung không coi “đồng thầy” là một nghề “người có căn quả thì phải theo thôi”, chính vì vậy đồng thầy 9X không ủng hộ khi thanh đồng được phong nghệ nhân. Trong giới đồng , cũng rộ trào lưu “gia đình trị”. Có gia đình nảy ra tới 3-4 ông bà đồng, họ cử tiếp thành viên khác đi học viết sớ, học làm mã để mở xưởng, cả mười người cha mẹ con cái thành dịch vụ khép kín, với mục đích kinh doanh làm giàu. Có người chẳng có căn đồng cũng được gia đình gò thành ông (bà) đồng nối nghiệp gia truyền.
Theo đồng Trung, “không có trường lớp nào đào tạo được thầy đồng. Đã là nghệ nhân thì phải truyền nghề mà nghệ nhân thanh đồng đâu có truyền nghề được nếu đệ tử không thực sự có căn số”.
---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:
- Tiếng nói khác nhau về di sản UNESCO (sau vinh danh tháng 12 năm 2016) - 2
- Tiếng nói khác nhau về di sản UNESCO
Hôm nay, 11-12 nghe TS Nguyễn Xuân Diện nói về hầu đồng. Buổi nói chuyện thú vị. Buổi chiều có trình diễn lên đồng minh họa, nhưng tiếc vì xa, vả lại bận việc riêng không tham dự được. Có chi tiết là khi trình UNESCO, lại bỏ mất 1 phủ, còn TAM phủ thôi!
Trả lờiXóa