Đầu tiên, đăng lại ít thơ của thi sĩ liệt sĩ Trần Kim Trọng (1952-1972) lên đầu tiên, như một đề từ (vốn bài thơ này đã đăng trên Giao Blog từ năm 2010, đăng lại năm 2015).
Thơ Trần Kim Trọng đăng trong tập Bài thơ viết dở (Nxb Hội Nhà văn 2008, Võ Minh tuyển chọn). Anh Võ Minh là cựu chiến binh, bạn đại học của Trần Kim Trọng, đã tặng cho chúng tôi tập thơ này vào năm 2010.
"
Xem lối hành quân bớt dặm dài
Rừng in sương xuống đè cây lá
Mỗi bước đi trong một bóng đêm
Xung quanh không biết còn ai nữa
Hay chỉ mình ta bước lẻ loi.
***
Chân này thì bước mừng hay tủi
Gậy này thì chống nhớ hay quên
Đất nhà thì hết sang đất lạ
Ngay mai khuất bóng xóa tuổi tên.
(Trần Kim Trọng, khoảng 1971-1972)"
0. Một câu bé sinh năm 1970, thì dịp A80 này là tròn 55 tuổi (tính tuổi ta là 56).
Một cậu bé sinh đúng năm 1972, thì cũng đã ngoài 50 (tính tuổi ta là 54).
Một cậu bé khác sinh năm 1975, thì vừa 50 tuổi (tính tuổi ta là 51).
Theo phong tục truyền thống của làng xã Việt Nam, các cậu bé ngày xưa ấy giờ đã "lên bô" rồi, sẽ có lễ dâng lên thành hoàng làng, và có thể ra đình làng bắt đầu việc làng. Ví dụ, ở ngoài Bắc, có thể tới làng Đồng Kỵ ở Bắc Ninh, hay làng Triều Khúc ở mạn Hà Đông.
Ở Nhật Bản ngày nay, người nam lên 50 tuổi, cũng làm lễ "lên lão" (cho dù tuổi thọ trung bình của nam giới Nhật Bản hiện nay khoảng 80 tuổi). Vùng Itoshima quê tôi, vùng giáp ranh giữa tỉnh Fukuoka và tỉnh Saga (có thể đọc ở đây), ngay bây giờ, cũng vẫn có lễ "sơ lão" đang được tổ chức. Thi thoảng người nọ người kia trong vùng vẫn nhắn cho tôi về các lễ ấy.
1. Với cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975 nói chung, với trận Quảng Trị 1972 (thường có tên là "thành cổ Quảng Trị 1972") nói riêng, các vị "vừa lên bô" hay "vừa làm sơ lão" nói trên, cơ bản là hoàn toàn không có bất cứ hiểu biết gì, mặc dù là những đứa trẻ sinh trước khi chiến tranh kết thúc vài năm.
Những người Việt Nam sinh vào thập niên 1980, hoặc muộn hơn nữa là thập niên 1990, thì lại càng không có hiểu biết.
2. Muốn có hiểu biết cơ bản, trong không khí hòa giải dân tộc được đề cao từ thời kì đầu Đổi Mới, nhất là dịp A80 này, chúng ta nên đọc tài liệu ghi chép thực tế từ nhiều phía. Ý kiến này đã thấy từ chính những người tham gia chiến tranh.
Ở ngoài đời thực, hơn 20 năm trước, tại Tokyo, tôi đã nghe trực tiếp nói chuyện của hai nhà văn Việt Nam nói về chiến tranh Việt Nam. Đó là, nhà văn Bảo Ninh (sinh năm 1952, đến từ Việt Nam, tác giả của "Thân phân của tình yêu" in năm 1987 - sau này là "Nỗi buồn chiến tranh"), và nhà văn nhà báo chiến trường Phan Nhật Nam (sinh năm 1943, đến từ Mĩ, tác giả của "Mùa hè đỏ lửa" in năm 1972). Lúc đó, trường đại học của tôi đã mời hai nhà văn đó tới Nhật Bản. Một ít thời gian sau, nhà trường cũng mời nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên và nhiều người khác.
3. Entry này sẽ sưu tập dần ghi chép thực tế của nhiều phía về Quảng Trị khói lửa đạn bom 1972, mở đầu là của phía quân giải phóng (được lấy các trang Fb cá nhân hay sách báo đã xuất bản).
4. Tôi vẫn chưa xem phim đã phát hành vào dịp A80 về Quảng Trị 1972, hiện nay đang "nổi đình đám" với doanh thu và lượng người kéo tới rạp.
Vấn đề không phải là không có tư liệu thực tế, mà vẫn là ở cách làm phim và khả năng làm phim. Chúng tôi, các lưu học sinh Nhật Bản đã từng thất vọng về một bộ phim về tình bạn giữa Phan Bội Châu và bác sĩ Asaba (bối cảnh là nước Việt Nam và nước Nhật bản thời đầu thế kỉ XX, cụ thể là các năm 1905-1918). Tư liệu thực tế về tình bạn của hai người tương đối phong phú, nhưng thất vọng, là bởi cách làm phim của bộ phim đó - hợp tác điện ảnh giữa Việt Nam và Nhật Bản, được trao cái giải thưởng vào năm đó. Ví dụ có thể đọc lại ở đây, để thấy lại phim đó và sự thất vọng của chúng tôi.
Điện ảnh thì đúng là điện ảnh.
Nhưng điện ảnh muốn nói về lịch sử, nhưng lại có nhiều sai lạc về lịch sử, thì không chỉ là cần cảnh tỉnh mà còn mang đến cả sự thất vọng với những ai từng có kì vọng.
Về Phan Bội Châu và Asaba, cần phải có những bộ phim khác. Bộ phim cũ trước đây, nên cất đi như một kỉ niệm. Nó vẫn nguyên giá trị, mà quan trọng nhất là cho thấy sự cần thiết của những bộ phim tiếp theo.
Sắp tới đây, tôi cũng vẫn đi xem phim "đỏ lửa", như lời khuyên của một cựu chiến binh tham gia cuộc chiến ở thị xã Quảng Trị năm 1972, là "nên xem", và cũng như là một kỉ niệm thuộc về A80.
5. Từ đây trở xuống là tư liệu sưu tập (làm dần dần). Mở đầu là các ghi chép của bác Nguyễn Huy Cường.
Tháng 9 năm 2025,
Giao Blog
---

10 ĐIỂM CÒN SƯỢNG CỦA MƯA ĐỎ.
Xin nói rõ, đây không phải bài phản biện về bộ phim đang nổi tiếng mà chỉ làm rõ hơn, sâu sắc hơn để các đạo diễn sau này làm phim chiến tranh có thể làm những phim “chín” hơn thôi.
Xin đi vào cụ thể.
Trong đầu phim có một cảnh mô tả cuộc họp của các sỹ quan VNCH (xin gọi tắt là Sỹ quan Sài Gòn) thì nhân vật chính là Quang cùng ekip nhận lệnh, phát lệnh, đối thoại như tư thế của một sỹ quan cao cấp.
Không gian phòng họp và nội dung đàm thoại sau này cho thấy anh này như một Tư lệnh, liên lạc trực tiếp với cả …Tổng thống nhưng trong phim, anh chàng đẹp trai này cũng chỉ là sỹ quan cấp uý, vẫn phải đánh nhau chí tử ngoài mặt trận.
Nền tảng tư tưởng của phần lớn binh sỹ, sỹ quan Sài Gòn là từ một hệ giáo dục khá ổn. Tôi có hơn ba mươi lăm năm quan sát trực tiếp ở Sài Gòn thì biết.
Bằng chứng là khi bắc loa kêu gọi “Cộng quân” vẫn gọi chiến binh bên này là bạn.
Tôi biết một tốp tù binh ở trại giam Mường Cơi, Sơn La, dù trong tù họ vẫn giữ tôn ti trật tự, ông Trung Uý năm chục tuổi vẫn lễ phép chào bằng cấp hàm ông Thiếu tá kém mình dăm tuổi khi gặp.
Do đó, việc khắc hoạ mấy nhân vật chính có vẻ thiêu thiếu mảng này, động cơ bắn giết của nhân vật chính tên Hùng chỉ được mô tả như một người sát máu, võ biền, hơi nông cạn thì không chắc đã sai nhưng không nói được một chủ đề là nỗi đau của dân tộc ta khi chiến tranh đã triệt hạ rất nhiều thanh niên tinh tú của cả hai bên. Nếu có, mảng này phim sẽ có giá trị hơn.
Nhân đây tôi cũng nhấn mạnh thêm là loại lỗi này, hầu như rất nhiều đạo diễn mắc phải. Sản phẩm của họ còn hời hợt, thiếu tính tư tưởng mà phảng phất tư tưởng của Nhà văn Anh Đức trong ‘Hòn đất”
Thứ ba.
Phiên họp của các đoàn đại biểu bốn bên tại hội nghị Paris được bài trí như thật, phim giống như buổi tường thuật trực tiếp từ phòng họp, trong đó còn có cả đoạn xem như …nghỉ giải lao để chờ kết quả từ thành cổ là khó chấp nhận.
Để thể hiện nội dung này nên tìm cách khác, bằng vài lát cắt thật sắc . Ví dụ khi tan họp hai vị ở hai phía “vô tình” đi sát nhau, bà VIP bên này nói nhỏ với ông VIP bên kia một câu gì đó về Thành cổ là bên kia vã mồ hôi hột ngay.
Thứ tư.
Cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị trên một quy mô lớn, lớn cả về số thương vong lẫn diện tích nhưng phim “bắt chết” vào một điểm với một đơn vị cụ thể là K3 là hơi hạn chế.
Thật tiếc, giá mà bộ phim lớn này có chút thôi, có thời lượng dành cho những đơn vị đã đổ rất nhiều xuơng máu ở đây thì vong hồn các Liệt sỹ và thân nhân họ cũng được an ủi phần nào và đúng với sự thật hơn.
Mặt trận này có sự tham gia của nhiều sư đoàn, trung đoàn tinh nhuệ và sự hy sinh rất lớn nên việc chỉ chốt vào một đơn vị nhỏ như vậy, không ổn. (Có con số là hai chục ngàn chiến sỹ đã hy sinh ở Thành cổ này).
Xin có vài dòng làm mềm không khí này đi như hình ảnh này.
Trong một bộ phim truyện của Trung Quốc mô tả trận mây mưa tình dục của hai nhân vật vừa chui vào cái lều cỏ ở một nông trang. Sau đó không có đùi, mông, không có cảnh nhấp nhổm làm tình mà đạo diễn cho một con chó nhỏ cặp cái áo ngực của cô gái lon ton chạy ra.
Nêu câu chuyện nhỏ này để thấy, một đạo diễn tài hoa không cần dùng phép “Tả thực” nhiều mới đạt mục đích.
Bộ phim Mưa đỏ có thể cắt giảm chừng 30 % cảnh máu mê bê bết, bom đạn ùng oàng đến tức thở mà vẫn đạt được mục đích cho người xem thấy được cảnh khốc liệt như thế nào.
Thứ sáu.
Cảnh hai nhân vật chính “đấu võ” như phim kiếm hiệp cuối phim, ở phim khác thì được nhưng phim này được xem như phim Lịch sử, có tư cách một dạng phim chính luận, thì hơi bị lạm dụng. Nó làm hài lòng giới trẻ hiếu động và giới …võ thuật nhưng ở nơi này, nơi mọi hành động phải tính bằng giây, không thể có cảnh này, kể cả hư cấu.
Thứ bảy.
Phim có nhiều khoảng lặng khó giải thích, tạo sự hẫng hụt cảm xúc không có lý, cứ như đến đó là hết, nên làm khác.
Thứ tám:
Tông màu chủ đạo của phim quá tăm tối, xem thấy mệt mỏi. Nên biết không gian của trận chiến vĩ đại này là 81 ngày đêm nên nó có hình ảnh của mọi hoàn cảnh, thời gian, trong những vùng sáng cũng có nhiều cảnh phục vụ chủ đề.
Thứ chín.
Phim quá dài bởi nhiều trường đoạn cho một chủ đề.
Thứ Mười.
Tôi viết 10 điều trên đây không phải chỉ để “Chê” mà muốn chỉ ra vài sơ sót bên cạnh 10 điều tuyệt vời của phim này tôi sẽ viết ở bài sau.
Phim này thành công hơn nhiều phim cùng đề tài và giải quyết được nhiều vấn đề.
Điều cuối cùng là một nỗi nuối tiếc khôn nguôi.
Tôi xem xong mà tiếc đau đáu.
Đó là cảnh hai bà mẹ của hai nhân vật chính đi trên một con thuyền thả hoa trên sông Thạch Hãn.
Hình ảnh tuyệt đẹp và ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ văn học cũng tuyệt đẹp.
Nó có giá trị bằng nửa bộ phim.
Nhưng, nó xuất hiện “Bất thình lình” như vậy, hai bà mẹ có mặt trên sông được “bố trí” như vậy ít nhiều làm …rẻ bớt chủ đề.
Nó cho người xem thấy ý đồ tạo dựng hơi khiên cưỡng của Đạo diễn nên hai vị này mới “Gặp” nhau.
Trong trường đoạn này nếu có cảnh hai người này có mặt trong một nhóm các ông bà chờ đi viếng con dưới sông. Họ đứng trong cơn mưa nhỏ trên bờ, như chưa hề biết nhau, rồi cùng bước xuống xuống thuyền, cùng sẽ chia niềm đau cho sát với một câu nói nổi tiếng ‘Khi anh bắn chết một người lính, là anh đã bắn trúng trái tim một bà mẹ” .
Thuyền của hai bà trôi bên cạnh là những chiếc thuyền khác xa xa, chở những bà mẹ khác, những niềm đau đồng điệu như nỗi đau của hàng triệu bà mẹ khác đang từ từ trôi…thì phim sẽ đẹp biết bao.
Viết đến đây tôi bỗng nhớ , trong Tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” Nhà văn Nguyễn Một, Chỉ dùng một bà mẹ mà đã mô tả thành công nỗi niềm của hai bà mẹ kia cùng hàng vạn bà mẹ khác trong không gian lịch sử đau thương của Dân tộc này. Một bà mẹ mà vài lần phải thắp nhang tưởng vọng những đứa con mình đã chết ở hai chiến tuyến.
Hẹn bạn đọc tôi sẽ có bài nữa về NHỮNG CON MƯA ĐỎ KHÁC ví dụ như trận An lộc Bình Long.
Huy Cường.
https://www.facebook.com/nguyen.huy.cuong.617506/posts/pfbid02S4zivs1LAiyVSq5F9rH4WFBQMd6wi11tLj25sAsRpMWK3nbXYAmMMkRcGa3F4LvLl
---
Trong vài ngày qua có một số Nhà báo và những người công tác trong ngành sân khấu, điện ảnh gọi điện, trao đổi, hỏi thêm tôi về những điểm xem như khuyết thiếu, bất cập của bộ phim Mưa đỏ. Vậy nên hôm nay tôi biên thành một văn bản như thế này, phần lớn là ý kiến chính thức của tôi, một phần là ý kiến của những CCB, những sỹ quan trung cao cấp trong QĐ về phim này để chúng ta có cơ sở để thảo luận sâu hơn.
Một là thông điệp của phim.
Bộ phim về đề tài này lẽ ra phải là một THÔNG ĐIỆP LỚN gửi hậu thế, gửi bè bạn bốn phương, gửi cả lực lượng đối kháng về những đại ý đã được khắc hoạ bằng những thực tế VĨ MÔ cả về sự hy sinh mất mát lẫn những thắng lợi lẫy lừng nhưng bộ phim (Cả bộ phim dài) chỉ như một CÂU CHUYỆN NHỎ về một trận đánh, thiên về mất mát. Đau thương
Hai là các nội dung phim.
Thời gian này (1970/1975), những chiến sỹ ta, những thanh niên miền bắc và nhân dân nói chung rất khổ, thiếu ăn thiếu mặc cơ thể thường gầy yếu. Khi đụng trận chỉ một tháng đã thành hình ảnh rất đáng sợ. Nhìn những chiến sỹ từ Quảng Trị trở về hậu phương sau chiến tranh ai cũng mắt trắng môi thâm,tàn tạ, lộ hết gương mặt khắc khổ, sức khoẻ suy tàn.
Riêng bộ đội ở Quảng trị thì mặt này còn ghê gớm hơn.
Nhưng trong phim Mưa Đỏ thì anh nào cũng béo tốt, căng tròn.
Những cảnh quay lính ta nằm ngổn ngang dưới chiến hào, diện bị thương vong, hở da thịt trước ống kính máy quay thì toàn những cơ thể đầy đặn, mỡ màng, hồng hào béo tốt trong những bộ quân phục mới mẻ, quy lát.
Khi đánh nhau "tay bo" thì khoẻ như lực sỹ.
Bùn đất được bôi xóa, hoá trang thế nào cũng vẫn lộ ra nét này, làm cho bộ phim kém thuyết phục.
Ba là ngôn ngữ phim truyện mà thiếu nhiều mảng, miếng độc.
Nếu đồng ý đây là phim truyện thì thiếu nhiều tiểu cảnh để phục vụ chủ đề.
Ví dụ, trên thực tế, sự đóng góp nhân vật lực của Nhân dân vùng tuyến, ở phía bắc sông Bến Hải và gần vùng chiến sự là rất đáng kể, góp phần vào thắng lợi sau cùng nhưng hầu như phim không có cảnh này.
Nếu có nó sẽ là minh hoạ rất hay cho bộ phim. Nó củng cố định dạng “chiến tranh nhân dân” rõ hơn.
Về những hình ảnh đặc biệt, nhấn mạnh chủ đề gian khổ, hy sinh bằng ngôn ngữ điện ảnh ở khu vực này, không gian này RẤT NHIỀU.
Ở Cẩm Khê Phú Thọ quê tôi có câu chuyện người con trai lớn viết thư về nhà thông báo rằng, chính tay anh đã chôn cất em mình sau một trận đánh, anh động viên gia đình nén đau thương và hẹn ngày trở lại.
Sáu tháng sau nhà này nhận được giấy báo tử chính anh viết thư này. Trong khi vẫn chưa báo tử người em đã được anh trai thông báo.
Một CCB đã kể sau đêm chiếu phim Mưa đỏ ở Thành Cổ, một chiến sỹ bị hy sinh, Anh em gom được chút thịt chôn cất để an ủi nhưng sau đó bom đánh tan luôn ngôi mộ nhỏ này.
Người chiến sỹ phải chết hai lần. Nếu cảnh này hoặc những câu chuyện tương tự có trong phim có thể sâu sắc hơn cảnh cưa chân thương binh nhiều.
Nếu các tác giả trước khi dựng phim, có một đợt điều nghiên xã hội, ở khu vực chiến trường và các Cựu chiến binh thì có vô số những hình ảnh tương tự và thuyết phục hơn là cảnh phải bắt con rắn sống để ăn.
Thứ tư.
Trong cả cuộc chiến giải phóng tỉnh Quảng Trị , quân ta đã có những chiến thắng lừng lẫy, gian nan, anh dũng.
Khi thất bại, phải rút khỏi thị xã là một hoàn cảnh đặc biệt nhưng hầu như bộ phim “quên” chi tiết này, cho thấy chỉ có vài trận thắng ở thể giằng co tay đôi giữa những người lính và giữa một đơn vị nhỏ, cuối cùng là buông bỏ, là một thiếu sót. Không có một mô tả mặt đáng tôn vinh của bộ đội Quảng Trị là những chiến thắng trước đó.
Thứ năm.
Trên thực tế, phim phô bày một khoảng trống rất lớn không được lý giải chu đáo: Vào chặng cuối hầu như các đơn vị trong thị xã Quảng Trị này bị bỏ rơi. Việc phải bỏ thị xã một phần vì hoả lực định quá mạnh nhưng một phần có lẽ vì…đói, vì hết sinh lực chiến đấu, vì không được tiếp sức. Ai chịu trách nhiệm về vụ này ?.
Thứ sáu.
Khi định nghĩa về thể loại truyện ngắn trong văn học người ta có ví dụ rất đắt là nó như một lát cắt ngang của cây gỗ. Dù ngắn nhưng nó có đủ các thể hiện của giống cây, của sức khoẻ, sự trưởng thành , thậm chí sâu bệnh của cây chứ không phải đơn giản hoá đến mức sơ lược.
Phim Mưa đỏ hầu như chỉ bóc lớp vỏ cây sơ xướp theo chiều dọc vỏ cây bên ngoài nên người xem , nhất là người xem trẻ tuổi và mai sau khó mà hiểu hết lịch sử trận chiến Quảng trị thực sự như thế nào.
Xin gửi đoạn văn này cho những người thiên về lí luận ‘Vì là phim truyện nên nó chỉ thế thôi”. Không được !.
Thứ bảy: Một hẫng hụt không được bù đắp.
Cuộc chiến khốc liệt ở Quảng Trị là cái giá rất đắt. Đắt vô cùng. Vì vậy trong một tác phẩm lớn như phim Mưa Đỏ phải có một cái vỹ thanh đủ cho người ta ấm lòng, người ta hiểu rằng vì sao mà phải hy sinh, vì sao mất mát chừng ấy ?.
Những người làm phim đã lấy tiểu cảnh quay bên Paris hoa lệ và những hình ảnh không gần gũi với đề tài “Máu và hoa” để kết phim.
Tôi đã công tác ở khu vực từ Đồng Hới vào Đông Hà gần đây thì thấy Quảng Trị ngày nay có đủ hình ảnh đẹp dẽ, sinh động, thay da đổi thịt đáng mừng. Chính cảnh quan khu vực Thành Cổ hôm nay cũng có ngôn ngữ hình ảnh đủ để người xem phim ấm lòng vì cái còn lại sau những đổ vỡ, mất mát kinh hoàng kia, cho tác phẩm không còn chỉ là sắc màu bi luỵ và thất bại.
Nhưng phim không dùng thủ pháp này.
Mười năm nay nhiều đoàn khách quốc tế trong đó có Cựu chiến binh Mỹ đã đến thăm Quảng Trị. Trong số họ có những người có tình cảm tốt với Quảng Trị hôm nay. Nội dung này nếu được cắt vài lát cho phim sẽ làm cho không gian chung ấm cúng hơn, có hậu hơn lên rất đáng kể nhưng phim chưa làm được.
Cách đây sáu ngày tôi có điểm “10 điểm sạn sượng của phim Mưa đỏ” nhằm chỉ ra vài lỗi vặt về nội dung, hôm nay đi sâu hơn một chút nhằm làm sáng tỏ hơn những bất cập của phim.
Trước khi dừng lời cho phép tôi được nêu một ý kiến của một sỹ quan cao cấp, đã từng chiến đấu tại thị xã Quảng Trị khi ông lý giải về những mất mát của “bên ta”.
Anh nói, từ những việc làm bình thường như gieo trồng, chăn nuôi, thương mại nhà đầu tư (hoặc người sản xuất) phải chọn phương án nào thuận lợi nhất, ít rủi ro nhất mới thắng lợi.
Trong chiến tranh 1970/1973 thì mục tiêu Giải phóng Quảng Trị , là đánh vỗ mặt vào nơi nguy hiểm nhất, không phải một lựa chọn tốt nhất mà nó là chỗ KHÓ NHẤT.
Quảng trị là “Vùng một” của quân đội Sài Gòn, là tiền đồn của họ, nơi tập trung binh hùng tướng mạnh của họ không phải nơi “Dễ húc”
Nếu từng ấy binh lực dùng cho một mục tiêu khác thì hiệu quả hơn nhiều.(hãy liên tưởng tới trận đánh thắng lợi vào Ban Mê Thuột khi Đà Nẵng còn nguyên trong tay quân VNCH thì thấy rõ ý này)
Từ đó ta thấy kể cả khi chiếm được Quảng Trị bằng thật và phải “Đầu tư” một lực lượng rất lớn để giữ nơi này, là một cuộc chiến vô cùng nhọc nhằn.
Một bài toán nhà binh đặt ra là nếu pháo binh của Sài Gòn cùng tiềm lực của họ tại Mỹ Chánh và không quân, hải quân cứ bắn cầm canh vào thị xã chứ không dùng nhân mạng, binh lực tấn công vài tháng , cũng đủ cho chúng ta mệt mỏi.
Lí luận này chỉ là một ý cá nhân để tham khảo và cũng như câu trả lời cho một số câu hỏi xung quanh vụ này :
Tại sao đánh và quyết chí giải phóng Quảng trị để có những bi kịch như ở Thành Cổ ?.
Mong rằng, những nhà làm phim về Quảng Trị vừa qua hoặc tiếp tục tới đây lắng nghe những ý kiến thiết thực, xây dựng hôm nay để vươn tới một cái gì tốt đẹp hơn.
https://www.facebook.com/nguyen.huy.cuong.617506/posts/pfbid02DJSahLWV4EzsDQiZynqWVec4Uey6dnjEu2TgYJdYgM7LFN3ovQvMQPb5cHC1JzRJl
---
(Bài viết về trận An Lộc)
Cách đây 10 năm trong một chuyến công tác tại Đại học Sư phạm Đà Nẵng tôi tình cờ đi cùng, ngủ nghỉ cùng một trung uý thuộc quân đội Sài Gòn bốn năm ngày. Vị sỹ quan tác chiến này khi đó cũng đã hơn 60 tuổi, hiện nay tôi vẫn còn liên lạc như một người bạn thân.
Trong những ngày đó tôi thật sự kinh ngạc vì trong câu chuyện của ông, có một địa danh mang tên AN LỘC. Ông là người lính VNCH có mặt trong gần hai tháng khói lửa khét lẹt thời đó ngay trung tâm trận chiến.
Ông có lối kể chuyện chân thực, nhiều cảm xúc, cảm xúc của người trong cuộc nên nó cuốn hút tôi. Trên đường về khi nghỉ lại Quy Nhơn, Nha Trang tôi bỏ hết việc riêng, tranh thủ “Khai thác” ông đến cùng về câu chuyện này.
Trong câu chuyện suốt bốn năm ngày ông kể, có cảnh ông bị kẹt lại khi bị thương không chạy kịp, ông đi moi móc, lật trong đống xác đồng đội tìm gói thuốc hút, tình cờ thấy một cánh tay đã rời khỏi thân thể nhưng bàn tay vẫn cầm một mẩu lương thực, ông nhanh tay gỡ miếng bánh để ăn vì đã đói mờ mắt vài ngày nhưng không thể, bàn tay dù đã chết nhưng vẫn xiết chặt mẩu bánh.
Nhiều nội dung của nó thì sát sàn sạt với phóng sự quân sự được nêu tại đây nhưng trên đây tôi dùng hai chữ KINH NGẠC không hẳn vì nội dung khói lửa máu xương của An Lộc mà là vấn đề truyền thông.
Bởi một vấn đề lớn như vậy mà truyền thông cả ta và tây hầu như …im bặt.
Từ một nhận thức thăng bằng nhất, trận An Lộc hai bên đều thua!.
Phải chăng vì thế nên CẢ HAI BÊN IM BẶT CHO ĐẾN KHOẢNG 2022 MỚI CÓ NGƯỜI LÊN TIẾNG.
Đến nỗi một lần đi cùng Nhà báo Huy Đức nổi tiếng từ Hà Giang về, tôi hỏi về An Lộc, anh cũng chưa biết.
Tôi hỏi một Cựu chiến binh là Bác Ánh sát vách nhà tôi, hiện vẫn sống, bác kể tên từng làng, từng phố, sân bay ở An Lộc đúng sử liệu trận này nhưng thật tiếc, đầu óc bác hình như vẫn trong trạng thái lơ mơ tỉnh mê, kinh hoàng sau trận chiến tàn khốc kia !.
Nhiều năm nay tôi lần tìm trên mạng, cũng vắng vẻ lạ thường với từ khoá “Trận An Lộc” này.
Đến lúc tìm được gần đây, lại thêm vài ngạc nhiên nữa.
Đó là vào thời điểm 1972, bà Bộ trưởng Chính phủ Lâm thời CHMNVN Nguyễn Thị Bình đã có lần nói tại Hội nghị Paris đại ý “Thủ đô vùng Giải phóng của chính phủ Lâm thời CHMNVN sẽ chuyển về An Lộc”
Ngay cả cái định đề “Đánh để gây sức ép trên bàn đàm phán hội nghị Paris” cũng chính là AN LỘC . Còn Kon Tum, Quảng trị chỉ là yếu tố cộng hưởng thôi.
Phóng sự kèm theo đây, chứng minh điều này.
Điều ngạc nhiên nữa là trận An Lộc thực tế là trận khốc liệt hơn trận Quảng Trị nhiều, có thắng có thua rất rõ ràng mà hình như cả hai phía có ý …cho qua.
Các video tôi kiếm được gần đây, cả của ta và các nguồn khác đều có “niên đại” trong ngoài năm 2020, là vài năm nay, còn hơn bốn mươi năm trước nó như đã bị đóng băng. Lạ thật.
Thưa các bạn.
Bộ phim Mưa Đỏ vừa chiếu, đáp ứng được phần nào thông tin, hình ảnh cho lớp U50, U 60 nghĩa là lớp khi xảy ra chiến trận này, họ mới vài tuổi .
Trực cảm của họ được tạo nên bởi màn ảnh là sự thán phục, tự hào, biết ơn về đại thể , là cảm xúc của những người lần đầu biết đến chiến tranh qua phim này.
Nhưng để giúp hậu thế hiểu được cụ thể, tường tận và minh bạch thì cần những tác phẩm hơn thế, kể cả là phim nghệ thuật, phim tài liệu hoặc các thể loại khác.
Ví dụ như tập phóng sự này.
Xin các bạn hãy “Loại trừ” tính chủ quan của người làm phim, người viết kịch bản, người đọc lời bình, mỗi người ở một phía, ít nhiều có thiên vị trong tình cảm, thái độ của họ.
Không sao!.
Nhưng ta hãy theo dõi nội dung của phim như một sử liệu sống rất đáng tôn trọng.
90% hình ảnh là hình ảnh thực, thậm chí là PV quay tại chiến trường khốc liệt. Có thể nhiều tay máy đã chết vì lửa đạn.
Những địa danh, chức vụ, nhật ký chiến trường , số lượng thương vong, là bằng thật, có căn cứ.
Gần đây tôi theo dõi trên youtube, thấy một điều gây một phức cảm hơi khó chịu:
Lớp Cựu chiến binh VNCH cao tuổi, phần lớn đang sinh sống bên Cali thường tổ chức khá rình rang những hội hè tưởng vọng lại chiến thắng …Việt Cộng với niềm tự hào và cả hình thức đội ngũ, trang phục y như hồi còn quân ngũ.
Điều này hiển hiên đáng ghi nhận, đang tôn trọng nhưng có cái gì đó hơi xa lạ với thực tế cuộc chiến. Lớp cựu chiến binh này hình như còn say máu chiến tranh lắm.
Trong Video này (Của bên Sài Gòn và người Mỹ xây dựng) ta thấy cả những trung đoàn VNCH bị xoá số hoàn toàn, họ đã đầu hàng Việt Cộng ngay phần đầu trận chiến.
Một lực lượng bắt sống cả một trung đoàn không phải dạng vừa. Một lực lượng cỡ trung đoàn để bị bắt sống tại trận không hẳn là ghê gớm lắm!.
trong phim có những trận Bộ binh Việt Cộng tràn vào căn cứ Bộ chỉ huy một trung đoàn thiện chiến trong cứ điểm, quân đội VNCH phải tự phá huỷ hết dàn pháo 105 li để bỏ chạy tán loạn…
Con số vài chục ngàn binh sỹ mỗi bên chết không được chôn.
Hình ảnh hai lực lượng CỰC MẠNH, bên SG có cả máy bay chiến lược B 52 hỗ trợ mà giành giật một thị trần nhỏ như An Lộc, có 4 km vuông suốt hai tháng đủ biết mạnh đến đâu!.
Về phía Việt Cộng (Tôi nói theo cách nói của MC trong phim cho dễ hình dung) thì cho thấy hơn hai chục xe tăng đã biến thành đống sắt vụn ngay sau đợt tấn công thứ hai, trong đó có chiếc còn nguyên vẹn cùng con số 16.000 người hy sinh là những minh chứng đau thương của An Lộc với mức độ HƠN HẲN TRẬN THỊ XÃ QUẢNG TRỊ nhiều lần.
Quân số, năng lực chiến đấu, cuộc tiến thoái được mô tả như nó phải vậy, không dùng uyển ngữ tránh trớ để mô tả. (Có vài link có lẽ bên ta làm từ nguồn hình ảnh này , cũng nội dung này nhưng lời bình hơi gọi là “cong cong duyên dáng” tôi không bàn ở đây, tôi đang nói về nguồn video của phía VNCH ).
Ngay yếu tố xem như ngợi ca năng lực, chiến lược, chiến thuật của “Việt Cộng” họ cũng làm rất tốt, dễ thuyết phục hơn chính ta. Đâu ra đó, thắng nói thắng, thua nói thua!
Trong phim, này ta thấy rõ năng lực của quân đội SG tường tận hơn, khi AN LỘC chỉ cách Sài Gòn hai giờ xe hơi, khác hẳn Quảng Trị. Về phía ta, đã có cả nhiều sư đoàn tham chiến, có xe tăng, đại bác, tên lửa vác vai nhưng lúc nào thắng thì là thắng, lúc nào thua , là thua!. Không nói khác.
Xem xong, không vì thế mà ta đánh giá thấp bên này hay tán dương bên kia một cánh hồ đồ, cảm tính và thiên kiến.
Thưa các bạn.
Cuộc chiến tranh ấy đã đi qua, cái bi, cái hùng rất rõ.
Mô tả cho đúng vừa là thái độ đúng, vừa là sự trưởng thành về nhận thức của cấp vĩ mô, để cho qua lối truyền thông đơn điệu, áp đặt hoặc khiên cưỡng.
Tôi đã xem một bộ phim dã sử của Trung Quốc, khi viên tướng của bên thắng trận dong ngựa đi giữa bãi chiến địa ngổn ngang xác địch mà gương mặt ông đanh lại một nỗi niềm khó tả, không phải niềm tự hào thường thấy.
Khi quan tâm đến cuộc chiến Việt Mỹ ngày nay, ở cả hai phía dễ thấy khuynh hướng ngợi ca “Ta” và “Dìm hàng” đối phương rất “phô”, nhiều khi rất lố.
Phóng sự này tránh được những nhược điểm đó.
Tôi tin rằng, trong tương lai, sẽ có những Nhà làm phim xây dựng những bộ phim chiến tranh Việt Nam vượt qua những hạn chế của Mưa Đỏ.
Phải tiếp cận với những tầm vóc mới của điện ảnh, để mỗi bộ phim vừa là một bản hùng ca, vừa là chứng nhân của những bi hùng đó.
Nên nhớ: Một tác phẩm điện ảnh lớn, không phải chỉ để “phe ta” xem và khen chê nhau mà thời Internet nó còn trưng ra trước thế giới văn minh, và nó phải cọ sát với rất nhiều nhân chứng, với thời gian dài rộng.
Bộ phim Mưa đỏ đang được người xem VN hoan nghênh, đón nhận nhưng những cựu chiến binh Mỹ, VNCH , người dân sở tại có mặt thời điểm đó xem và nghĩ như thế nào thì chưa rõ, phải chờ ???.
Tôi cắt ra vài đoạn trong phim tư liệu này để giới thiệu vì cả phim rất dài và dung lượng tới 1.9 GB. Tôi làm để dành cho các bạn ít thời gian. Bạn nào có thời gian thì vào đường dẫn dưới ô comment để coi trận "Mưa đỏ" rất thật này, đó là An Lộc cách Quảng Trị 800 km..
Hy vọng một ngày gần đây chúng ta được xem bộ phim "An Lộc" Để mà tự hào, để mà khóc cười cho một trang sử bi hùng.
https://www.facebook.com/nguyen.huy.cuong.617506/videos/1576224683546403
---
BỔ SUNG
3.
Nhà văn Chu Lai: Cha đẻ "Mưa đỏ" và những điều chưa bao giờ kể
Keng
14:54 01/09/2025
Nhà văn Chu Lai với tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh năm 1946 tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên (cũ) và hiện là xã Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha ông là nhà viết kịch Học Phi, một trong những cây bút nổi tiếng của nền văn học cách mạng. Từ nhỏ nhà văn Chu Lai đã sớm được tiếp xúc với nghệ thuật, những câu chuyện kịch đầy tính chính luận của cha mình, nhưng tuổi thơ ấy không kéo dài vì thời điểm đó đất nước đang chìm trong khói lửa chiến tranh.
Khi vừa bước sang tuổi thanh xuân, ông gia nhập quân đội nhưng lại không chọn con đường nhàn nhã mà trở thành chiến sĩ đặc công trực tiếp hoạt động ở vùng ven Sài Gòn - nơi khốc liệt nhất trong những năm tháng chống Mỹ. Những trận đánh ác liệt, những phút cận kề sinh tử đã rèn giũa một chiến sĩ Chu Lai gan góc, xù xì, nhưng cũng đầy cảm xúc và khát vọng sống.

Cuối năm 1974, ông được dự trại sáng tác văn học của Tổng cục Chính trị, sau đó tiếp tục học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa một. Từ một người lính đặc công từng sống trong bom đạn, nhà văn Chu Lai cầm bút với vốn sống dồi dào từ thực tế chiến trường.
Sau khi tốt nghiệp, ông công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nơi hội tụ nhiều cây bút lớn của nền văn học cách mạng. Đây chính là bệ phóng giúp ông chính thức trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, đồng thời là nơi ông khởi đầu hành trình gần nửa thế kỷ gắn bó với đề tài người lính và chiến tranh cách mạng.

Ngay từ những tác phẩm đầu tiên như "Nắng đồng bằng" (1978) hay "Đêm tháng Hai" (1979), nhà văn Chu Lai đã khẳng định được phong cách riêng.
Đến đầu thế kỷ 21, nhà văn Chu Lai tiếp tục khẳng định vị thế của mình với hàng loạt tiểu thuyết đồ sộ.
Nhưng có lẽ đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của Chu Lai chính là "Mưa đỏ" (2016). Cuốn tiểu thuyết mà chính ông coi là "đứa con tinh thần cuối cùng" được ấp ủ suốt nhiều năm.
Hành trình sáng tạo và tác phẩm đỉnh cao "Mưa đỏ"
"Mưa đỏ" là cuốn tiểu thuyết đỉnh cao, mang đậm tính bi tráng. Ý tưởng cho tác phẩm này được nhà văn Chu Lai ấp ủ từ những chuyến đi xuyên Việt cùng người bạn đời Vũ Thị Hồng. Năm nào ông cũng ghé lại Quảng Trị, ngồi lặng hàng giờ trong Thành cổ, để cảm nhận không gian linh thiêng, nơi máu của những người đồng đội đã hòa trong mưa, khiến cả chiến trường đỏ rực. Từ hình ảnh ám ảnh đó, cái tên "Mưa đỏ" ra đời.

Viết "Mưa đỏ" là một hành trình đầy gian nan, tiêu tốn của ông tới ba năm qua nhiều trại sáng tác. Ông từng tâm sự: "Tôi viết cuốn này như thể cuốn cuối cùng của đời mình, tất cả ký ức, tất cả máu thịt, tuổi trẻ tôi dồn hết vào từng trang sách".
Trong tác phẩm, nhà văn Chu Lai tái hiện toàn diện 81 ngày đêm lịch sử tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Ông khắc họa một tiểu đội lính trẻ, phần lớn là học sinh, sinh viên, đã chiến đấu kiên cường rồi lần lượt ngã xuống. "Mưa đỏ" không chỉ ca ngợi chiến thắng mà còn vừa dữ dội, vừa ám ảnh, vừa nhân văn đến tận cùng. Người đọc không chỉ thấy chiến công mà còn thấy cái giá khủng khiếp của hòa bình, cái giá bằng máu và sinh mạng của cả một thế hệ.
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng từng nhận xét, văn chương của Chu Lai thấm đẫm chất sử thi và ngôn ngữ điện ảnh, rất thuận lợi cho việc chuyển thể. Điều này hoàn toàn đúng, khi nhiều tác phẩm của ông đã được dựng thành kịch nói, phim truyền hình và gần đây nhất là phim điện ảnh "Mưa đỏ".

Với ông, văn chương không phải nghề để mưu sinh mà là cách sống, là phương tiện duy nhất để trả món nợ tinh thần với quá khứ. Chính nhờ phong cách đó, "Mưa đỏ" đã đưa tên tuổi ông vượt lên một tầm vóc khác, không chỉ là nhà văn quân đội mà còn là người ghi chép trung thực của lịch sử, người giữ ký ức của dân tộc.
Con người nhà văn Chu Lai ở đời thường
Ở tuổi gần 80, sau gần nửa thế kỷ cầm bút, nhà văn Chu Lai vẫn giữ cho mình một lối sống phóng khoáng, đôi khi có phần bụi bặm như chính phong cách văn chương của ông. Ai từng gặp ông đều nhớ đến dáng vẻ giản dị, giọng nói sang sảng và cách trò chuyện cuốn hút. Ông có biệt tài diễn thuyết, biến mỗi buổi giao lưu với độc giả thành một "cuộc hội quân" sôi nổi.
Trong đời thường, Chu Lai gắn bó sâu sắc với người bạn đời, nhà văn Vũ Thị Hồng. Họ từng là đồng đội, cùng chung lý tưởng và nên duyên sau chiến tranh. Bà không chỉ là người vợ mà còn là biên tập viên, là độc giả đầu tiên của những bản thảo của ông. Chính sự đồng cảm ấy đã giúp Chu Lai giữ vững ngọn lửa viết suốt nhiều thập kỷ. Dù sức khỏe có phần giảm sút, ông vẫn không chịu ngồi yên, luôn tham gia các buổi giao lưu để nhắc nhở thế hệ trẻ đừng bao giờ quên quá khứ.

"Những tác phẩm của ông đã khắc sâu bài học rằng chiến thắng nào cũng phải trả giá bằng tuổi xuân, bằng máu xương của bao chàng trai, cô gái. Với thế hệ trẻ hôm nay, di sản của nhà văn Chu Lai mang ý nghĩa kép. Một mặt, đó là những trang sử bi tráng giúp họ hiểu rõ hơn về quá khứ dân tộc. Mặt khác, đó còn là lời nhắc nhở phải sống có trách nhiệm, biết trân trọng hòa bình và không được phép vô tâm trước sự hy sinh của thế hệ đi trước.
Nhà văn Chu Lai từng nói: "Văn chương suy cho cùng là để tri ân con người, nếu quên đi đồng đội, quên đi nhân dân thì chủ nghĩa cũng trở nên vô nghĩa". Đó là triết lý sống và cũng là triết lý viết của ông, một thông điệp nhân văn vang vọng qua từng trang sách.

Ngày nay, khi "Mưa đỏ" bước lên màn ảnh rộng, thông điệp ấy lại lan tỏa mạnh mẽ. Khán giả không chỉ đến rạp để xem một bộ phim mà còn để sống lại ký ức, để hiểu rõ hơn những giọt máu đã nhuộm đỏ Thành cổ Quảng Trị. Đó là sự đồng cảm với điều mà nhà văn Chu Lai đã dồn cả đời để viết: "Đừng bao giờ quên quá khứ, vì quên quá khứ là phụ bạc với chính tương lai".
https://vgt.vn/nha-van-chu-lai-cha-de-mua-do-va-nhung-dieu-chua-bao-gio-ke-ihyes-20250901t7523710/
2.
Đó là một lát cắt của 81 ngày đêm BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ.
Một bộ phim truyện khá hay và lấy được nhiều nước mắt của dân chúng.
Hầu hết các cựu binh từng chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã và sẽ đi xem. Nhưng số này không còn nhiều, nay đều đã ngoài 70. Họ xem để thấy lại mình trong đó. Đây là những người xem rất khắt khe. Mỗi chi tiết không đúng trong thực tế chiến trường sẽ được họ mổ xẻ phân tích kỹ lưỡng. Và họ thường ít chấp nhận những sáng tạo của đạo diễn nếu điều đó không có trong thực chiến của họ.
Trước hết, để hiểu rõ về lực lượng quân ta, tôi xin liệt kê ra đây danh sách Ban chỉ huy của chiến dịch Bảo vệ thị xã Quảng Trị (BCH BVTXQT) và danh sách các đơn vị tham gia chiến đấu trong thị xã.
Lúc đầu, cuối tháng 6, đầu tháng 7/72, BCH BVTXQT là Trung tá Bùi Thúc Dưỡng, phó TM trưởng BTL mặt trận B5 được chỉ định xuống làm Chỉ huy trưởng. (ông cụt một cánh tay hồi đánh Pháp nên thường được gọi là Dưỡng Cụt). Đi cùng xuống BCH BVTXQT có Trung tá Bình, phó Cục trưởng Cục Chính Trị B5 làm Chính ủy. Thiếu tá Lê Quang Thúy, trung đoàn trưởng e48 làm phó BCH BVTXQT. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của e48 trở thành 3 cơ quan phục vụ BCH BVTXQT.
Trước khi có BCH hỗn hợp BVTXQT, thì các đơn vị chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông Dưỡng thông qua hợp đồng tác chiến với các đơn vị khác trong thị xã. Trước đó nữa, toàn bộ thị xã Quảng Trị được quân quản bởi tiểu đoàn k8 của tỉnh đội. Ngày 23.6.1972 tiểu đoàn k8 bàn giao khu vực lại cho trung đoàn 48. Thời điểm đó, cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị chưa bắt đầu.
Đến 14/7/72 ông Dưỡng bị thương phải ra trạm phẫu ở bờ Bắc thì ông Bình cũng ra cùng.
BTL mặt trận B5 cử Trung tá Trịnh Hùng Thái, Tham mưu trưởng sư đoàn 320b làm Chỉ huy trưởng thay ông Dưỡng.
Khoảng 20/7/72 ông Thái cũng bị thương phải đưa ra.
Đêm 22.7.1972, Ban chỉ huy trung đoàn 95 vượt sông Thạch Hãn. Các tiểu đoàn d4, d6 của trung đoàn 95 cùng K3 Tam Đảo tăng cường vào thị xã Quảng Trị đã sang từ trước đó. Tiểu đoàn 4 vào đêm 13/7. Tiểu đoàn 6 vào đêm 17/7. Tiểu đoàn 5 sang sông ban ngày (10g30 ngày 23/7). Chiều 22.7 d5 cùng BCH e95 vượt sông, d5 sang được 1/3 đội hình thì bị lộ, pháo bắn chặn ở bến vượt. Nên hôm sau d5 mới tổ chức vượt sông ban ngày. Khi đó nước sông khá nông. Tổng số quân trong thị xã lúc này là 8 tiểu đoàn. Khi đó Bộ tư lệnh mặt trận B5 quyết định thành lập BCH hỗn hợp BVTXQT, và Ban Cán sự Đảng khu vực TX (9 người), như sau:
-Lê Quang Thuý, trung đoàn trưởng e48 làm Chỉ huy trưởng.
-Hoàng Thiện, chính ủy trung đoàn e95 làm Chính ủy kiêm Bí thư Ban Cán sự Đảng khu vực TXQT
-Trần Minh Vân trung đoàn phó e48, Vũ Thả trung đoàn phó e95 cùng ông Kiện Toàn, Tỉnh đội QT đều làm Phó chỉ huy BCH BVTXQT.
-Vũ Quang Thọ, phó chính ủy trung đoàn e95 làm Phó chính ủy BCH BVTXQT.
-Nguyễn Hải Như, Tham mưu trưởng e48 làm Tham mưu trưởng BCH BVTXQT.
-Nguyễn Văn Tá, chủ nhiệm chính trị e48 làm chủ nhiệm chính trị BCH BVTXQT.
Ban cán sự Đảng có 9 người, trong đó 8 người trong BCH và Trần Ngọc Long (khi đó là tiểu đoàn trưởng, sau lên ban tham mưu e48).
Quyết định này vào ngày 23/7/72, và tối hôm đó 3 vị Chỉ huy trung đoàn 95 đã tới dinh Tỉnh trưởng ngụy cũ làm nhiệm vụ. Các vị chỉ huy của trung đoàn 48 đã có ở đây từ trước.
Sau này, khi BQP cho Tổng kết năm 2006, thì mới chuyển cụm từ BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ thành BẢO VỆ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ, do truyền thông đã gọi là Thành cổ trước đó.
Chiến dịch BVTXQT bắt đầu từ ngày 28.6.1972 và kết thúc ngày 16.9.1972. Tổng cộng là 81 ngày đêm.
Những nội dung này là thực tế trong cuộc chiến đấu BVTCQT và đã được ghi trong TỔNG KẾT TÁC CHIẾN BẢO VỆ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ NĂM 1972 của Bộ quốc phòng QĐNDVN.
Đánh giá chung của anh em cựu binh từng chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị năm 1972, thì Mưa đỏ là một bộ phim đáng để xem dù rằng còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa đúng với sự thật lịch sử. Nhưng chúng ta sẽ phải đánh giá Mưa đỏ dưới hai góc nhìn: PHIM TRUYỆN- và PHIM LỊCH SỬ.
Dưới góc độ PHIM TRUYỆN, Mưa đỏ đã truyền tải được tính khốc liệt, tính nhân văn, sự tàn nhẫn của phận người, sự cao cả và đớn hèn, tình yêu và dục vọng… Đó là một câu chuyện có cái kết mở với hình ảnh hai bà mẹ cùng chung một dòng sông, gợi đến một sự HOÀ HỢP DÂN TỘC mà bao nhiêu năm nay chúng ta vẫn tìm kiếm. Và cùng với HOÀ HỢP DÂN TỘC là KHÁT VỌNG HÒA BÌNH VĨNH VIỄN của một đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh.
Dưới góc độ là PHIM TRUYỆN, bộ phim đã hoàn thành sứ mệnh của mình, truyền tải được những điều tác giả và đạo diễn muốn nói, đưa khán giả đến với một lát cắt của cuộc chiến 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng Trị mà rất nhiều người chưa từng biết.
Nhưng doanh thu phòng vé cao ngất ngưởng chưa hẳn là thành công của một bộ phim. Nhất là với một bộ phim có tính lịch sử.
Dưới góc độ là PHIM LỊCH SỬ, tôi đánh giá Mưa đỏ chưa đạt yêu cầu. Đừng nói vì thời gian gấp gáp quá. Bởi hạn mức thời gian là do chúng ta tạo ra. Đừng nói vì kinh phí hạn hẹp, bởi có những điều không phải do kinh phí. Cũng đừng nói “Nữ đạo diễn làm được phim thế này là hay rồi”. Nói như vậy là bao biện và có hàm ý phân biệt giới tính.
Như tôi đã từng viết “những người chưa từng trải qua chiến trận, chưa từng qua chiến tranh, họ đến xem vì tò mò, vì tự hào dân tộc, vì sự lôi kéo của đám đông và truyền thông. Đối tượng này có lẽ là lớn nhất, làm đầy các phòng vé. Họ chấp nhận tất cả những gì kịch bản và đạo diễn đưa ra, như một đứa trẻ, như một trang giấy trắng. Bởi vậy, mỗi chi tiết trong phim phải thật cẩn trọng. Không cứ Mưa đỏ, mà phim nào trên thế giới cũng vậy. Ví dụ như anh chàng Michail trong phim Bố Già mà đeo đồng hồ điện tử là không ổn rồi. Những người chưa từng biết đến trận chiến bảo vệ thị xã Quảng Trị 1972, những người như trang giấy trắng, sẽ phải đón nhận những thông tin sai lệch về trận chiến này, và họ sẽ lưu giữ mãi điều đó”.
Điều thứ nhất tôi muốn nói, cuộc chiến đấu BẢO VỆ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ là bao gồm thành cổ Quảng Trị và các làng xã xung quanh. Đó là các địa danh: nhà thờ Trí Bưu, thánh địa La Vang, chợ Sải, làng Hạnh Hoa, ngã ba Long Hưng… mà thành cổ nằm ở trung tâm các địa danh ấy về phía Bắc, phía sau thành cổ là sông Thạch Hãn. Từ những ngày đầu tiên của 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị cho đến khoảng 10.9.1972, các trận đánh ác liệt giằng co chỉ diễn ra ở các làng xã xung quanh ấy, CHƯA BAO GIỜ TRONG LÒNG THÀNH CỔ! Quân địch cũng từng muốn đặt chân lên thành cổ để tạo áp lực cho hội nghị tại Paris, nhưng không thể. Đêm 22 rạng sáng 23.7, một trung đội lính dù đã lẻn vào thành để tìm cách cắm cờ, nhưng đã bị tiêu diệt. Phải gần hai tháng sau, đến sáng ngày 15.9.1972, lực lượng Thuỷ quân Lục chiến với sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng, máy bay mở một đợt tổng công kích vào khu vực trường Bồ Đề, từ đó tiến sát dinh Tỉnh trưởng tạo thế gọng kìm nhằm bao vây và tiêu diệt các lực lượng Quân giải phóng trong thành, thì cuộc chiến bên trong thành cổ mới diễn ra. Tại trường Bồ Đề, một tiểu đội Quân giải phóng đã hy sinh toàn bộ sau nhiều giờ chiến đấu. Chiều 15.9.1972, một số xe tăng của địch đã tiến sát đến bờ sông khu vực dinh Tỉnh trưởng, thậm chí một chiếc M48 còn dừng ngay trên nóc hầm khẩu đội 12 ly 7 của đại đội 16, trung đoàn 95. Chiếc xe tăng này sau đó bị ta bắn cháy, một chiếc khác gần dinh Tỉnh trưởng phải lùi lại phía sau vì trời cũng đã tối.
Trong phim Mưa đỏ, các trận đánh đều diễn ra trong lòng thành cổ từ những ngày đầu tiên. Và điều đó là sai cơ bản với lịch sử.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, cần phải nhắc đến lực lượng không quân của Mỹ và VNCH. Toàn bộ bầu trời thuộc về họ. Giai đoạn đầu của chiến dịch, lực lượng phòng không của ta khá tốt, hạn chế được các cuộc ném bom. Một khẩu đội 12 ly 7 đã từng bắn cháy một máy bay trực thăng. Một khẩu đội 12 ly 7 khác bắn cháy một máy bay A.37. Nhưng càng về sau càng yếu do bị tiêu hao bởi pháo kích và bom. Nhắc đến bầu trời Quảng Trị những ngày ấy, ai từng chiến đấu ở đó đều nhớ đến tiếng máy bay chỉ điểm OV.10 và L.19. Hết chiếc này đến chiếc kia thay nhau quần thảo lượn lờ nhòm ngó. Tiếng máy bay kêu o o rất sốt ruột. Chỉ một sự khác biệt của quân ta trên mặt đất là lập tức có pháo khói chỉ điểm. Và ngay sau viên pháo khói là máy bay A.37 từ đâu đó hiện ra nhào xuống ném bom. Một chiếc A.37 mang theo 4-6 quả bom. Mỗi lần bổ nhào chúng chỉ ném một quả. Tiếng rít khi bổ nhào rất kinh khủng, như xoáy vào tai vào óc người lính. Hết bom, chúng lại bắn đại bác 40 ly vào nơi nghi ngờ.
Không có bom B.52 rải thảm trong thị xã Quảng Trị cũng như thành cổ vì quân ta và quân địch luôn ở thế cài răng lược. Máy bay B.52 chỉ ném bên kia sông ở khu vực làng Nhan Biều và sân bay Ái Tử, nơi có bến vượt của quân ta. Và xa hơn là khu vực miền Tây Quảng Trị.
Quảng Trị năm 1972, nếu tự dưng không gian ắng đi tiếng máy bay F.4, tiếng máy bay OV.10 và L.19, thì có nghĩa là B52 sắp đến.
Trong phim Mưa đỏ không tạo được cảnh máy bay chỉ điểm OV.10, L.19 và máy bay ném bom A.37. Một vài cảnh máy bay ném bom có lẽ được tạo bởi AI xem hơi gượng.
Một điều nữa là pháo kích của quân lực VNCH. Có nhiều loại đạn pháo khác nhau: pháo bầy sát thương trên mặt đất, đạn bắn tới giống như một trận mưa rào thật to, đầy chết chóc; pháo khoan phá công sự hầm chữ A, mà khi mới gặp chúng tôi cứ nghĩ nó là pháo xịt, vì để lại một lỗ tròn trên mặt đất; pháo chụp nổ trên không, cách mặt đất khoảng 15-20 m, bắn những chiếc đinh có cánh xuống dưới và chiếc đinh này có thể xuyên thủng một tấm tôn, loại này rất nguy hiểm với người đang không ở trong hầm.
Tuy vậy, các loại pháo này đều có thể tránh nếu biết cách. Với pháo bầy và pháo chụp, bao giờ cũng có một vài quả thử để tính toán phần tử bắn. Nếu có một cái hầm chữ A gần đó thì nên chui ngay vào để tránh. Hoặc phải tìm cách chạy thật nhanh ra khỏi khu vực chuẩn bị có pháo kích, vì khi đã có tiếng depar đầu nòng thì bạn không còn thời gian để tránh nữa. Cái kinh nghiệm “hai viên đạn không bao giờ rơi chồng vào nhau” của thế chiến 1 không áp dụng được ở đây. Vì pháo bầy là do hàng chục khẩu pháo bắn một lúc, và mỗi vết đạn có thể là do vài viên đạn nổ ở đó.
Phải công nhận rằng pháo binh của VNCH rất giỏi. Họ bắn rất chính xác, gây nhiều thương vong cho bộ đội ta. Những ngày lính VNCH không đánh, thì thường là có pháo kích. Pháo bắn dai dẳng cả ngày. Đầu tiên là pháo bầy, khiến quân ta phải chui xuống hầm. Tiếp đó là pháo khoan, nhằm phá hầm, quân ta lại phải bỏ hầm để chạy ra hào ngồi. Quả pháo khoan khi trúng hầm sẽ khiến căn hầm bị phá huỷ. Anh bạn Sâm “mèo” phố Lò Đúc của tôi ở đại đội 7 đã lĩnh trọn một quả pháo khoan như vậy. Thân hình anh tan ra thành từng mảnh. Chúng tôi vét phần xương thịt còn giắt trên các vì kèo của căn hầm chữ A, được một ca thịt đem chôn. Để rồi ngày hôm sau pháo kích lại bắn trúng, và ca thịt ấy bay đi đâu mất.
Với pháo bầy, pháo khoan hay pháo chụp thì còn có thời gian để tìm cách tránh, chứ với pháo tăng thì không. Khi một chiếc xe tăng bắn, tiếng nổ đầu nòng và điểm chạm nổ của viên đạn gần như là tức thời. Gia tốc của đạn là 1200 m/ giây. Khoảng cách gần cùng gia tốc của viên đạn không cho phép người lính kịp né tránh. Nếu viên đạn hướng trúng vào ta, thì ngay cả một tiếng kêu “mẹ ơi” cũng không kịp thốt ra.
Trong phim Mưa đỏ tôi chưa thấy cảnh pháo bầy, hoặc pháo khoan. Mà đó lại là một đặc trưng của chiến trường thị xã Quảng Trị. Và đặc biệt chưa mô tả sự choáng do một quả pháo tăng gây ra. Chúng ta mới thấy hình chiếc xe tăng gầm gừ, nhả đạn chớp loé đầu nòng pháo mà thôi. Giá như dựng được đoạn phim người lính choáng váng sau quả đạn pháo tăng nổ thì sẽ gây ấn tượng mạnh hơn cho người xem.
Một điều nữa là chiến hào và hầm chữ A. Chiến hào thường được đào sâu khoảng một mét, hoặc hơn một chút, rộng khoảng 7-80 phân. Không đào sâu quá, lúc cần nhảy lên sẽ rất khó. Còn đào rộng quá thì không có sức để đào. Đào hào xong thì đào hầm chữ A. Hầm chữ A được học tập theo kinh nghiệm của chiến tranh Triều Tiên 1950, gồm một cây đòn nóc dài thật vững, gác lên đó những thanh tre hoặc gỗ, lát thêm miếng ván hoặc liếp tre rồi đổ đất vào lèn kỹ. Hai cửa hầm chữ A là nhánh hào râu tôm thông ra ụ chiến đấu. Hầm chữ A để tránh bom pháo rất tốt. Tôi từng thấy một căn hầm chữ A sát một hố bom, trơ cả khung như xương sườn một con trâu mà không bị sập.
Trong thị xã Quảng Trị năm 1972, những chiếc hầm chữ A cùng các ụ chiến đấu được ngụy trang rất kỹ nhằm tránh sự phát hiện của máy bay chỉ điểm OV.10 hay L.19. Và cả xe tăng của địch nữa. Bất kỳ một mô đất nào nhô lên bất thường đều sẽ bị pháo dập cho tơi bời. Xe tăng địch cũng sẽ ưu tiên nhằm bắn vào các ụ đất mà nó nghi ngờ. Bởi vậy, các đoạn hầm hào của quân ta trong Mưa đỏ được đắp bởi các bao cát là sai cơ bản. Chưa nói đến các bao cát thời ấy chỉ đựng khoảng 20 kg thôi, chứ không phải loại to đùng 5-70 kg như trong phim. Chưa kể trong phim người ta còn kiếm được mấy tấm ghi lỗ để gác lên mái hầm. Ghi lỗ ấy vốn dùng để làm đường băng dã chiến, chỉ có ở khu vực sân bay, trong thành cổ không có loại này. Một cái hầm gác mấy tấm ghi lồ lộ thế, thì may được nửa ngày chứ đừng nói cả cuộc chiến.
Chiến dịch bảo vệ thị xã Quảng Trị là một chiến dịch phòng ngự. Mà đã phòng ngự thì ít di chuyển. Việc đeo cái tạp dề Bao-xe đựng băng đạn trong phòng ngự là không cần thiết. Vì các băng đạn được quân ta để rải rác trên vách hào, hết đạn là lấy được ngay. Vả lại, mỗi khẩu AK bao giờ cũng lắp hai băng đạn ngược đầu nhau. Một trận đánh đâu phải lúc nào cũng dùng hết 60 viên đạn? Với điểm xạ hai viên một, thì vừa chính xác, vừa tiết kiệm đạn, vừa tạo uy lực áp đảo đối phương. Thực tế, lính dù và sau này là lính Thủy quân lục chiến rất ngại những điểm xạ hai viên một của bộ đội ta. Nó thể hiện sự điềm tĩnh của người lính, thể hiện người bắn đã từng trải. Xem phim thấy tiểu đội trưởng Tạ là lính cựu mà không dùng hai băng AK cột ngược, hết đạn vẫn phải móc băng đạn mới trong tạp dề để thay thì buồn cười. Chi tiết đó giảm đi sự sáng tạo, kinh nghiệm của người lính Giải phóng quân. Lúc mới vào thị xã Quảng Trị, tôi cũng từng đeo tạp dề. Vì nghĩ rằng nó cũng giống như miếng áo giáp, che chở cho mình. Nhưng sau vài ngày thấy vướng, cần thay đạn rất khó. Nên bỏ. Lúc bỏ, thấy da bụng nhăn nheo vì mồ hôi, ở giữa có đám hắc lào to gần bằng bàn tay.
Như tôi đã viết ở trên, các tiểu đoàn d4, d5, d6 của trung đoàn 95 và K3 Tam Đảo sau khi vượt sông ngày 22.7.1972 vào thị xã Quảng Trị thì lực lượng quân ta có 8 tiểu đoàn, trong đó trung đoàn 48 đã ở đó từ đầu chiến dịch.
Trung đoàn 48 của sư đoàn 320 còn có tên là đoàn Quang Sơn , với lời thề “Quang Sơn còn- Thành cổ còn”!
Trong Mưa đỏ, đạo diễn và tác giả kịch bản đã nhét lời thề này vào K3 Tam Đảo “Tam Sơn còn- Thành cổ còn”. Vậy là sai rồi. Chưa kể, tiểu đoàn K3 Tam Đảo đến ngày 22.7.1972 mới vượt sông vào thị xã Quảng Trị, chứ không phải từ đầu chiến dịch.
Cuộc rút quân đêm 15.9.1972 là do sự quyết đoán của BCH hỗn hợp lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị sau nhiều ngày phân tích thế Địch-Ta. Nên nhớ rằng mọi phương tiện thông tin liên lạc giữa thành cổ Quảng Trị với bờ Bắc đều đã bị cắt đứt từ trước đó nhiều ngày. Mãi đến chiều tối 15.9 khi có chỗ xe tăng địch nống sát đến bờ sông Thạch Hãn và sở chỉ huy, thì BCH mới ra quyết định này. Tất cả đều bơi để vượt sông, không có thuyền nào đón cả. Đơn giản vì không còn chiếc thuyền nào nữa, bị địch bắn chìm trước đó cả rồi. Các thương binh nặng thì đành để lại, vì không thể đưa qua sông. Một vài nhóm nhỏ ở xa, mất liên lạc nên cũng bị rớt lại. Ngày 16.9 địch tiếp tục tấn công, nhưng không dám tiến nhanh vì không biết quân ta đã rút. Các nhóm nhỏ bị rớt lại và một số anh em thương binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Nhiều người trong số đó đã hy sinh hoặc bị bắt, thậm chí bị giết khi súng hết đạn. Đêm 16.9 vẫn còn một số anh em từ trong thành vượt ra. Chính họ đã kể cho chúng tôi những gì đã xảy ra trong ngày 16.9 khi lính Thủy quân lục chiến tràn ngập Cổ thành.
Một người bạn của tôi còn kể lại rằng chiều ngày 16.9, bạn anh ấy (là lính VNCH) đã dùng ca nô để vớt những người lính GPQ đang kiệt sức và bị dòng lũ trên sông Thạch Hãn cuốn đi…
Trong chiến tranh, sẽ có những sai sót và tổn thất khó tránh. Không tô hồng và dám nhìn thẳng vào sự thật sẽ làm chúng ta mạnh mẽ hơn.
Vậy Mưa đỏ có phải là một bộ phim đáng xem?
Vâng. MƯA ĐỎ LÀ MỘT BỘ PHIM NÊN XEM. Ít nhiều, nó đã phản ánh được cuộc chiến đấu Bảo vệ thị xã Quảng Trị năm 1972. Những điều tôi viết ở trên chỉ làm rõ thực tiễn chiến trường lúc đó để những ai chưa từng trải qua sẽ hiểu thêm về Lịch sử của 81 ngày đêm khốc liệt ấy.
https://www.facebook.com/trinh.hoa.binh.392992/posts/pfbid0YsFCKiVu1nHQPNW4aMXi5PwuXnGpJZpzjABE1SNaSZnDAuYaBsSVzyNRhy996v2tl
1.
Sắp tới ngày 16/09, và trong đầu vẫn ong ong dư âm của bộ phim “Mưa đỏ”, tôi đặt bút viết câu chuyện về những giây phút cuối cùng trong Thành cổ của các chiến sỹ c1 d1 e48 Quang Sơn Tử thủ Cổ thành:
… Ngày thứ 80 phòng thủ Thành cổ (15/09/72), tình hình của quân ta đã vô cùng nguy ngập. Từ đầu tháng 9/72, cơn bão Flossi trút mưa xuống Quảng Trị, làm nước sông Thạch hãn lên to. Việc tiếp tế vào Thành cực kỳ khó khăn. Quân ta hết gạo, hết đạn, hầm hào ngập nước, thương binh chồng chất ko chuyển đi được. Địch tăng cường đánh rát, liên tục lấn dũi, và đã bao vây ta từ 3 phía, chỉ còn hở phía bờ sông. Số phận của quân ta trong Thành chỉ còn đuọc tính bằng giờ.... Trước tình hình đó, 6 vị Chỉ huy đã họp dưới hầm Dinh tỉnh trưởng, và cùng nhau đưa ra một quyết định sáng suốt: Rút quân (xin xem bài phía dưới).
Nhưng ko hiểu vì một lý do gì mà lệnh rút quân đã ko tới được Đại đội 1 d1 e48, đang trấn giữ ở phía Đông-Bắc Thành. Sau này có ý kiến cho rằng Đại đội này mang danh Cảm tử, nên cấp trên đã để lại giữ chốt cho Đại quân rút lui. Chỉ biết là suốt đêm 15 đến rạng sáng 16/09/72 họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Từ chập tối địch đã liên tục tấn công vào trận địa. Các chốt ngoại vi lần lượt bị mất, và các chiến sỹ còn lại của c1 dần dần rút về Hầm mái bằng, nơi có Ban chi huy Đại đội đóng. Thực ra lúc đó toàn bộ c1 chỉ còn khoảng hơn 10 chiến sỹ, bao gồm cả Đại trưởng Mai, CTV Sỹ, B trưởng Dong, các chiến sỹ Phong Pham Hùng, Sơn, Dự, Định,Quỳ...
Hầm mái bằng (khu Lao xá) là một căn hầm nửa nổi nửa chìm bằng bê tông, rộng khoảng 20m2, hai đầu có bậc thang lên xuống, tạo thành hình chữ Z. Trời tối nhưng địch vẫn bắn như vãi đạn về phía hầm. Vài tên táo tợn còn bò lên để ném lựu đạn. Một quả lựu đạn lọt xuống nổ ở cửa hầm phía Đông. Mảnh lựu đạn đã tiện ngọt một cẳng chân của chiến sỹ Quỳ (nhà ở 3X phố Cửa Nam, có nghề đóng sách). Cái cẳng chân đẫm máu cùng ống quần vẫn nằm cạnh lối lên xuống, còn bản thân Quỳ thì lết vào nằm ẹp sát tường và luôn mồm rên rỉ: “Các anh ơi khát nước quá, cho em uống tý nước đi...”. Nhưng trong hầm lúc này ko còn một giọt nước, nên anh Dong phải đái vào một cái ca để đưa cho Quỳ uống. Điều ko thể tưởng tượng nổi, là với một cái chân cụt như vậy, mà một lúc sau Quỳ vẫn có thể bò qua cửa hầm phía Tây để ra đến bờ sông, tới trạm Phẫu trong hầm Dinh Tỉnh trưởng. Tuy nhiên, vì bị mất máu quá nặng, anh đã hy sinh ở đó...
Đến khoảng 2h sáng, thấy pháo ta bắn dữ dội vào đội hình địch, buộc chúng phải lùi ra. Đấy là đợt pháo bắn theo kế hoạch rút quân đã được bàn ở hầm Dinh Tỉnh trưởng. Đợt pháo này nhằm làm cho địch tưởng ta vẫn giữ Thành và chuẩn bị tấn công. Thực ra đó là pháo yểm trợ cho Đại quân ta rút qua sông...
Sau đợt pháo, thấy chiến trường im ắng hẳn, một sự im ắng đáng ngờ. Anh Dong tranh thủ bò ra khỏi hầm, tìm đến một cái giếng gần đó để lấy nước. Nhưng giếng đã bị pháo bắn sập và lấp mất rồi. Anh bèn bò đến mấy cái hầm của K8 Tỉnh đội gần đó để xin nước và đạn. Anh rất ngạc nhiên khi thấy tất cả các hầm đều rỗng không, không một bóng người. Anh quay về nói với Đại trưởng Mai: “Hình như K8 rút hết rồi anh ạ”. Anh Mai nói: “Có thấy lệnh rút gì đâu?...”...
Gần sáng ngày 16/09, địch lại mở đợt tấn công mới, nhóm chiến sỹ còn lại của c1 vẫn kiên cường chống trả. Địch câu cối M79 đến tới tấp, buộc mọi người phải chui vào hầm. Khi hơi ngớt tiếng súng, CTV Sỹ nói với chiến sỹ Sơn (ở 21 Ngõ Huyện HN): “Cậu lên bắn đi!”. Sơn bò lên cửa hầm, bắn hết 2 băng đạn AK, nhưng vì chỉ còn toàn đạn lửa nên chắc cửa hầm đã bị lộ. Khi Sơn bò xuống, anh Sỹ hỏi: “Sao xuống rồi thế?”, Sơn trả lời: “Em phải thay băng đạn”. Anh Sỹ bèn cầm khẩu AK leo lên bậc thang bắn tiếp. Rồi chỉ nghe một tiếng nổ chát chúa ở cửa hầm, và thân hình anh Sỹ đổ sập từ trên bậc thang xuống, mặt và ngực đầy máu. Anh còn thều thào được mấy câu: “ Việt Nam muôn năm... Bác Hồ muôn năm...” trước khi tắt thở. Đại trưởng Mai nói với anh Dong: “Anh Sỹ hy sinh rồi”, rồi anh tháo chiếc đồng hồ, lục tìm chiếc ví và thể Đảng của anh Sỹ cất đi.
Địch bắt đầu dùng súng chống tăng M72 bắn phá cửa hầm và làm thủng 1 lỗ trên nóc hầm. Một quả M79 lọt vào hầm nổ tung, làm vài chiến sỹ hy sinh, và 2 chiến sỹ là Định (36 Bát Sứ) và Phong (28 Phan Bội Châu) bị thương nặng. Anh Định bị một mảnh đạn vào bụng, ruột lòi ra cả đống, và một mảnh chém vào mặt, phía dưới mũi. Anh Phong thì bị một mảnh đạn xuyên Thái dương ra sau mắt phải, ngất đi. Vì nằm gần cửa hầm, sau này khi bọn địch mò xuống, chúng bắn AR15 từ cửa vào, làm anh còn bị trúng mấy viên đạn vào cẳng chân. Khi bọn TQLC lục soát trong hầm, thấy 2 anh còn thoi thóp thở, chúng đã đưa các anh đến lều cứu thương để băng bó (hình như lính TQLC sẽ được thưởng lớn nếu bắt được tù binh). Sau này anh Phong vẫn nói là nhờ bị Thủy quân lục chiến bắt nên anh mới sống, chứ bị thương nặng như anh mà có ra đến Phẫu cũng chỉ có chết...
Lúc này đã nghe văng vẳng tiếng địch gọi hàng. Mấy chiến sỹ còn lại trong hầm, gồm cả Đại trưởng Mai và B trưởng Dong, bàn nhau phải tìm cách thoát ra bờ sông, chứ ko thể ngồi ở đây chờ chết. Các anh moi đất ở cửa hầm thứ 2 (cửa Tây, cửa này hầu như đã bị pháo bắn sập), rồi lần lượt bò ra. Trời lúc này vẫn còn tối, nhưng các anh bò đi đâu cũng thấy bóng địch lố nhố. Bò loanh quanh một hồi, rồi hầu như lại quay về chỗ cũ. Các anh xác định lại phương hướng, và nhằm phía bờ sông bò đi. Trời đã nhờ nhờ sáng, thấy trước mặt có một chiếc xe tải, các anh bò tới nấp vào dưới gầm xe. Nhưng ko ngờ đó lại là một chiếc xe tải của địch...
Trời sáng bạch thì bọn địch phát hiện ra các anh. Chúng bắn vào gầm xe làm anh Dong bị thương ở mắt cá chân trái. Rồi chúng lần lượt lôi từng chiến sỹ ta từ dưới gầm xe ra. Như vậy gần một chục chiến sỹ thuộc c1 d1 e48 đã bị địch bắt sống, bao gồm cả Đại trưởng Mai (Hải Phòng), B trưởng Dong (Vĩnh Phú), Dự (số 4 Hàng Chỉ) và Sơn (21 Ngõ Huyện)...
Đó là những giây phút cuối cùng của các chiến sỹ Quang Sơn tử thủ Cổ thành. Các anh sẽ phải chịu nhiều đau thương tủi nhục trong trại Tù binh. Và ngay cả sau khi đã được trao trả, nhiều người trong số các anh (nhất là những sỹ quan) còn bị nghi ngờ đủ kiểu. Nhưng đó lại là đề tài của bài viết khác. Còn thời điểm đó, khi các anh bị lôi ra xe bọc thép M113 chở đi thẩm vấn, thì chỉ rõ một điều: các anh đã được sống...../.
Những ai quan tâm Thành cổ có thể xem tiếp những bài viết trước của tôi:
Ai đã ra lênh rút lui khỏi Thành cổ Quảng Trị? :
(1)
Số phận một người lính Thành cổ:
https://www.facebook.com/vinh.nguyen.167005/posts/pfbid02NMdi3CfmRdEd4eLbTT7ZC8aMD4VpGGYo1tbFvdGoxuZGtSca8WFj5gQaAoBjifhrl
...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.