Có một giới thiệu từ năm 2016 của nhà báo Quang Viện. Bài này được đưa lên đầu tiên.
Chùa Phúc Khánh ở Thái Bình (chùa thôn Phúc Lộc, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Chuông chùa đúc năm Cảnh Hưng 14 (1753) có mang một bài minh do Lê Quý Đôn soạn.
Chùa Thanh Phong ở Nam Định (chùa Cự Trữ -thôn Cự Trữ, xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định). Chùa gắn với thời kì nhà Mạc. Khánh đồng của chùa có mạng một bài minh do Lê Quý Đôn soạn năm Cảnh Hưng 26 (1765).
Các bản dịch hay luận bài sẽ được sưu tầm và dán dần lên ở dưới đó.
Tháng 11 năm 2024,
Giao Blog
---
Kỷ niệm 290 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (2/8/1726 - 2/8/2016)Tiếng chuông vẳng cõi tâm hồn
Trong chuyến điền dã mới đây, tôi được các cụ cao niên ở thôn Phúc Lộc kể cho nghe về bài văn khắc trên chuông đồng ở chùa Phúc Khánh do nhà bác học Lê Quý Đôn soạn. Theo lời kể, tôi tìm đến chùa Phúc Khánh để được tận mắt chiêm ngưỡng bài văn. Chuông vẫn được treo trong chùa nhưng từ lâu chuông được coi là bảo vật vô cùng quý giá nên nhà sư trụ trì không muốn cho ai chiêm ngưỡng và tuyệt đối không ai được gõ chuông. Cách ngày nay 263 năm, chuông chùa Phúc Khánh được đúc lại, không phải chuông cũ không có tiếng, nó vẫn có tiếng nhưng tiếng không vang, người dân và các tín đồ Phật tử gom góp tiền vàng đúc lại chuông và mời Thị thư Hàn lâm viện Lê Quý Đôn viết bài văn khắc trên chuông. Mặc dù bận rộn với công việc chốn quan trường nhưng Lê Quý Đôn vẫn dành thời gian hạ bút viết nên những áng hùng văn lay động lòng người. Năm ấy, ông 28 tuổi.
Làng quê Phúc Lộc.
Bài văn được viết bằng chữ Hán Nôm, dài 639 chữ kèm bài minh dài 96 chữ. Với sự trợ giúp của dịch giả Đào Hồng, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ bảo tồn (Bảo tàng tỉnh), tôi có dịp tiếp cận tinh thần bất hủ của áng văn cổ. Mở đầu bài văn, Lê Quý Đôn viết: "Ta thường đọc Kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: Cái thể của chân giáo phương này thanh tịnh, chính ở âm thanh nghe được, muốn có được Tam Ma Đề (Thiền định nhất tâm, sáng suốt) ắt phải bằng con đường nghe thấy. Ta chợt giác ngộ mà than rằng: Chí lý thay! Nghe được điều huyền diệu ấy trong tai. Tuy ở trong lục trần mà muốn giác ngộ pháp môn, tất phải qua đôi tai làm sáng tỏ tam muội…". Bài văn được khắc lên chuông, chuông được đúc lại tại chùa, chùa được xây dựng năm 1701 theo lối chữ Đinh, có chùa trong và chùa ngoài, thờ Phật. Chuông chùa được đúc lại ngày 16 tháng 5 năm Quý Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14 (1753). Chuông nặng bốn tạ, cao 1,8m, đường kính 1,6m. Bài văn khắc trên chuông của Lê Quý Đôn có nhan đề: Đúc lại chuông chùa Phúc Khánh. Lời văn dung dị mà khúc triết, toát lên triết lý nhân văn sâu sắc. Thông qua việc đúc lại chuông, ngẫm thế sự đổi thay để mỗi người khi đến chùa, trước cửa từ bi hãy nhìn lại mình mà tự chỉnh mình. Ông viết: "Phàm là nhất động, nhất tĩnh, nhất thanh, nhất âm đều có thể dấy lên, có được cơ duyên mà trở thành cảnh trí bình thường. Vậy nên đức Phật ta mở mang đại pháp, tuyên giáng từ bi…". Bài văn cũng mô tả cảnh vật, địa giới vùng đất Phúc Lộc, chứng tỏ ông đã đến vãn cảnh ngôi chùa lấy cảm hứng mà viết: "Phía Đông Nam của làng ta có huyện gọi là Đông Quan, có xã tên là Phúc Lộc. Xã có chùa, chùa có chuông vốn do bọn viên mục điện tiền trong ấp là Bùi Văn Phụng đã quyên góp tiền của đúc ra. Đến năm Canh Thân bị cướp phá nên chuông đã hỏng". Ông cũng tự thuật trong bài: "Bọn kỳ mục trong làng đến xin ta viết văn ghi lại. Ta nhận lời nói rằng: Đây quả thực là việc thiện vậy". 28 tuổi đã là đại quan trong triều nhưng Lê Quý Đôn với lối sống theo triết lý người xưa "Tri túc tâm thường lạc. Vô cầu tự phẩm cao", ông chỉ thích đọc và viết sách. Hình bộ thượng thư Trần Danh Lâm, người bạn thân thiết cùng triều của ông đã từng viết: "Lê Quế Đường người huyện Diên Hà, không sách gì không đọc, không sự vật gì không suy xét đến cùng, ngày thường ngẫm nghĩ được điều gì đều viết thành sách, sách chứa đầy bàn, đầy tủ, kể ra khó xiết". Quả đúng như nhận xét của Hình bộ thượng thư, mọi việc Lê Quý Đôn đều suy xét đến cùng, ông viết về chuông chùa Phúc Khánh mới được đúc lại mà như đang tâm giao với người dân Phúc Lộc rằng: "Quả chuông này lúc trước bị hỏng mà không có tiếng, nhưng chẳng phải phải thật không có tiếng đâu, cái tính vốn sẵn của nó vẫn còn. Nay đúc lại mà có tiếng, chẳng phải bỗng nhiên có tiếng, cũng là do cái tính vốn sẵn của nó còn đó. Cái bản nguyên của tiếng chuông hòa vào vũ trụ, ngụ ở hình khí, theo hư không mà có, theo hư không mà không, chưa bao giờ có, chưa bao giờ không. Con người dựa vào âm thanh mà phát mở nhĩ căn, tùy duyên tu tập, hiểu được tính nhân, làm cho thân tâm thanh tịnh, bỗng thoát khỏi cõi trần nhơ bẩn, vượt lên ra khỏi cõi không mà giác ngộ được chính giác cao nhất. Còn như mong mỏi phúc điền ích lợi, khoa trương công đức viên thành thì đó là thứ mà ta biết vậy".
Nét chữ khắc trên chuông.
Sinh thời, người đời thán phục sự uyên bác của Lê Quý Đôn nên đã tặng ông câu: "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn". Quả là như vậy. Bài văn ông viết khắc trên chuông triết lý sâu xa, văn từ lắng đọng: "Từ khi đắc đạo ở Song Lâm (Hai cây Sala ở khu rừng mà đức thế tôn nhập diệt ở giữa hai cây Sala) thì ý nghĩa sâu xa của đạo pháp được ghi lại trong kinh sách, do vậy mà tiếng sóng Phạm âm (giọng nói, âm thanh của bậc Đại phạm Thiên vương), không phải kẻ tầm thường có thể nghe được. Điều nghe thấy được thể hiện ra ắt phải nhờ vào pháp khí, tức quả chuông này vậy. Nay xem quả chuông lớn thể tròn, hình cứng, đánh lên thì thông suốt trần gian, cảm động tới cả cõi người, cõi trời, giúp người ta dứt bỏ ý nghĩ sai lầm và mở rộng tầm mắt cho con người. Tai nghe được tiếng này, há chẳng sợ hãi mà nghĩ đến điều thiện".
Thật là may mắn cho quê ta vẫn còn giữ được nguyên vẹn bài văn khắc trên chuông do Thị thư Hàn lâm viện Lê Quý Đôn biên soạn. Trong lịch sử văn hiến Việt Nam, ông là học giả kiệt xuất, một nhà khoa học vĩ đại có công lao to lớn đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc, làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam, trong đó có bài văn khắc trên chuông này.
Ông Lê Xuân Nhiễu, trưởng ban khánh tiết chùa Phúc Khánh Đây là niềm tự hào của địa phương chúng tôi. Phải chăng mảnh đất Phúc Lộc từ xa xưa đã đẹp và trù phú. Hạnh phúc biết bao khi một đại quan triều đình hạ bút viết văn khắc lên chuông chùa của làng quê tôi. Chúng tôi coi bài văn của Lê Quý Đôn là viên ngọc quý ngời lên vẻ đẹp diệu kỳ. Ông Bùi Trắc Côn, 82 tuổi, người dân thôn Phúc Lộc Chùa Phúc Khánh có chuông, chuông được khắc bài văn do nhà bác học Lê Quý Đôn soạn thật là diễm phúc lớn đối với bao thế hệ người dân chúng tôi. Chúng tôi vô cùng tự hào, nâng niu, trân trọng. Ông Lê Hữu Tiến, cán bộ hưu trí thôn Phúc Lộc Tây Di tích lịch sử văn hóa chùa Phúc Khánh chứa đựng nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà đỉnh cao là bài văn của nhà bác học Lê Quý Đôn. Mỗi khi chùa vang tiếng chuông, làng quê chúng tôi thêm ấm áp. Bài văn như lời tri ân công lao to lớn của nhà bác học vĩ đại với quê hương, với người dân chúng tôi. |
Quang Viện
https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/19/47406/tieng-chuong-vang-coi-tam-hon
---
BỔ SUNG
4.
Di tích quốc gia kiến trúc đan xen, đẹp thanh tịnh ở Nam Định
Nam Định - Nằm tại khuôn viên rộng rãi ở xã Phương Định (huyện Trực Ninh), cụm di tích đền và chùa Cự Trữ là nơi lưu giữ nét xưa cổ kính, các hạng mục kiến trúc kết hợp đan xen của các giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVII - XVIII) cho đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX).
https://laodong.vn/photo/di-tich-quoc-gia-kien-truc-dan-xen-dep-thanh-tinh-o-nam-dinh-1350946.ldo
3.
Chùa Cự Trữ
Chùa Cự Trữ có tên chữ là Thanh Quang tự nằm trên địa bàn thôn Cự Trữ xã Phương Định huyện Trực Ninh. Từ thành phố Nam Định qua cầu Đò Quan theo đường 21 khoảng 18 km, rẽ trái khoảng 300m là đến chùa Cự Trữ.
Cùng với các vùng đất khác thuộc xã Phương Định như: Cổ Chất, Nhự Nương, Phú Ninh thì vùng đất Cự Trữ được hình thành khá sớm do sự bồi đắp của sông Ninh Cơ ngày càng lấn ra biển. Dấu ấn lịch sử còn lưu tại đây là quanh khu vực chùa Cự Trữ có khá nhiều di tích thờ tướng thời Hai Bà Trưng, thời Đinh...
Gia phả dòng họ Vũ tại thôn Cự Trữ cho biết vào thời Trần, ông tổ họ Vũ từ La Xá, huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay là Nam Sách - Hải Dương) đã về đây kiếm kế sinh nhai, lúc bấy giờ vùng này còn là ven biển. Trải qua thời gian, các dòng họ khác tiếp tục về đây sinh sống, tạo lập nên làng xóm. Tên gọi Cự Trữ nghĩa là tích trữ nhiều đã thể hiện mong ước của các cư dân nơi đây về một cuộc sống phát đạt, sung túc.
Làng Cự Trữ gồm hai dải đất đẹp, chạy song song với một con sông nhỏ ở giữa. Trải qua thời gian, làng Cự Trữ vẫn giữ được những nét cổ truyền của một làng quê Bắc Bộ, đó là những công trình kiến trúc như đình, đền, miếu, phủ, hệ thống các cây cầu đá bắc qua sông cùng nghề ươm tơ dệt vải truyền thống.
Chùa Cự Trữ, Xã Phương Định, huyện Trực Ninh. |
Theo truyền thuyết nhân dân địa phương, vào niên hiệu Mạc Vĩnh Định thứ 11 (1556) có ông Bùi Bà Tụy làm quan dưới triều Mạc đã về đây hưng công xây dựng chùa, lấy tên là Thanh Quang tự. Sang thế kỷ XVII - XVIII ngôi chùa Thanh Quang được chuyển về vị trí ngày nay. Trải qua thời gian, ngôi chùa đã được tu sửa nhiều lần. Chính vì vậy, các hạng mục kiến trúc ngôi chùa có sự kết hợp đan xen của các giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ thời Hậu Lê, thế kỷ XVII -XVIII cho đến thời Nguyễn, thế kỷ XIX.
Tam quan chùa Cự Trữ được xây theo kiểu phương đình, kích thước mặt tiền rộng 7,3 m; cao 4m. Mặt trước, mặt sau thông phong, không tạo cửa, hồi xây bít đốc, mái lợp ngói nam. Tam quan gồm 3 gian với 4 bộ vì gỗ lim được làm theo kết cấu vì ba hàng chân, kèo cầu, bẩy tiền, bẩy hậu. Tại tam quan còn được bảo lưu gần như nguyên vẹn các lớp hoa văn họa tiết mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII - XVIII. Trên các trụ, kèo, xà dọc, câu đầu vẫn là các đề tài quen thuộc như rồng chầu, lá hỏa, tiên nữ cưỡi rồng xen lẫn cảnh dân gian, mang dáng dấp của một cuộc sống thôn dã bình dị như hình tượng người mẹ vừa cho con bú vừa cho lợn ăn, người nông dân chăn trâu, cò bắt mồi, cua ẩn mình dưới lá... Những đề tài chạm khắc này không chỉ bổ trợ, tôn thêm vẻ đẹp cho công trình mà còn thể hiện sự phong phú về ngôn ngữ, tư tưởng và ước mơ về một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc.
Tổng thể chùa Cự Trữ được xây theo bình đồ kiến trúc hình chữ sơn. Giữa là ngôi chùa với kích thước sâu và rộng nhất, hai bên là đền thờ Đức Ông và phủ Mẫu.
Tiền đường chùa Cự Trữ được xây cao 8,6 m theo kiểu tam sơn, chồng diêm hai tầng. Tiền đường gồm có 4 gian xây dọc, tạo 3 cửa ra vào cuốn vành mai. Toàn bộ công trình này được làm bằng gạch vữa, xây cuốn vòm, đổ trụ vuông.
Tam bảo chùa được làm nối liền tiền đường, ngăn cách bởi một máng nước. Tam bảo gồm 6 gian xây dọc với 8 bộ vì làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Gánh đỡ mỗi bộ vì là 4 cây cột gỗ lim, đường kính cột cái là 0,4m; đường kính cột quân là 0,3m. Tất cả các cột lim đều được đặt trên chân tảng đá thắt cổ bồng cao 0,3m. Đề tài chạm khắc tại các cấu kiện gỗ ở đây là rồng, hoa lá, mặt hổ phù mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII - XVIII.
Ngôi đền thờ Đức Ông và phủ Mẫu được làm với kiểu dáng giống nhau, kích thước thấp nhỏ hơn chùa tạo thế đăng đối. Cả hai công trình này đều được làm bằng vật liệu gạch vữa, xây cuốn vòm, lợp ngói nam.
Trong tâm thức người dân Cự Trữ, ngôi chùa là nơi bảo tổn, lưu giữ những thuần phong mỹ tục, những đường nét kiến trúc mang đậm phong cách cổ truyền. Trải qua thời gian, toàn bộ khu di tích vẫn được nhân dân quan tâm, thường xuyên tôn tạo nên vẫn giữ được sự bền vững cùng tính nguyên bản của các sắc thái hoa văn. Tất cả thể hiện lòng thành kính, giữ gìn di sản văn hóa cha ông đồng thời góp phần hun đúc, bồi đắp, giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho các thế hệ người dân.
Theo: Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nam Định
https://baonamdinh.vn/channel/5093/201312/nam-dinh-manh-dat-con-nguoi-chua-cu-tru-2291136/
2.
Lê Quý Đôn là một Nho sĩ, nhưng ông vẫn có cái nhìn thiện cảm với Phật giáo. Lê Quý Đôn cho rằng, lời dạy của Phật giáo đều hướng tới sự thanh tĩnh, hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy vào sự vật… Đó là những lời dạy có ý nghĩa giúp con người tu thân, giáo dục con người hướng đến điều tốt đẹp.
Tác giả: Tống Thị Tâm Trường THPT Yên Khánh B, Ninh Bình
1. Đặt vấn đề
Từ thế kỉ XV, Nho giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến Đại Việt. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của Đại Việt, càng về sau thì Nho giáo càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Phật giáo tuy không giữ vai trò là quốc giáo như thời Lý, thời Trần nhưng vẫn được nhiều tầng lớp trong xã hội, kể cả hoàng tộc, quan lại, trí thức… kính ngưỡng.
Đến thế kỉ XVIII, ở Đàng Ngoài, dưới thời Lê - Trịnh, Phật giáo được chính quyền vua Lê, chúa Trịnh ưu ái. Nhiều trí thức Nho giáo mặc dù xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng lại tin kính Phật giáo, tạo thành xu hướng “dĩ Nho mộ Thích”, “Nho - Phật nhất trí”.
Trạng nguyên Lê Quý Đôn là một trong những trí thức Nho giáo mộ Thích như vậy. Hơn nữa, từ trước đến nay, chúng ta chỉ biết đến Lê Quý Đôn mộ Phật qua Thiên Dật trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của ông. Gần đây, năm 2019, tác giả Phạm Minh Đức Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu bài viết về văn chuông ở chùa Phúc Khánh do Lê Quý Đôn soạn (Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 2 năm 2019), link: https://tapchinghiencuuphathoc.vn/bang-nhan-le-quy-don-doi-voi-phat-giao-qua-bai-van-chuong-o-chua-phuc-khanh.html
Có thể sẽ còn những tác phẩm khác của Lê Quý Đôn viết về Phật giáo, viết cho các văn bia ở các chùa… chưa được phát hiện, công bố. Tại chùa Thanh Phong (còn gọi là chùa Cự Trữ, thôn Cự Trữ xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) hiện còn chiếc khánh đồng có bài minh do Lê Quý Đôn soạn với những lời lẽ thâm sâu, tốt đẹp dành cho Phật giáo.
2. Nội dung
2.1. Về nhân vật Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh năm Bính Ngọ (1726) ở xã Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), là con của Lê Trọng Thứ (1694-1783), đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, niên hiệu Bảo Thái thứ 5 (1724), làm quan đến Thượng thư Bộ Hình, được tặng hàm Thái Bảo, tước Hà Quận công[1]. Thân mẫu của Lê Quý Đôn là Trương Thị Ích (bà Ích là con của Tiến sĩ Trương Minh Lượng (1636-1712), làm quan đến chức Tự Khanh).
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là bậc kỳ tài. Năm 1739 , Lê Quý Đôn theo cha lên kinh đô Thăng Long học và đầu năm 1743, ông đỗ đầu khoa thi Hương, năm đó mới 18 tuổi. Khoa thi Nhâm Thìn (1752), Lê Quý Đôn đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn), năm đó không lấy Trạng Nguyên. Như vậy, ở cả kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu. Sau khi đỗ cao, ông được triều đình Lê – Trịnh bổ nhiệm các chức vụ quan trọng: Hàn lâm viện Thị thư (1752), Hàn lâm viện Thừa chỉ, sung Toản tu Quốc sử quán (1754), Thanh tra Sơn Nam, Tri binh phiên phủ chúa (1756), Hàn Lâm viện thị giảng (1757), Phó sứ đoàn sứ bộ đi sứ Yên Kinh (1760-1762), Bí thư các Học sĩ (1762), Đốc đồng trấn Kinh Bắc (1764), Hàn lâm viện Thị thư, kiêm Tu nghiệp Quốc tử giám (1767-1769), Thị lang bộ Công, Quyền đô Ngự sử (1770-1772), Nhập thị Bồi tụng (1773), được giao quyền giữ Thăng Long cùng 5 người khác (1774), Tả thị lang bộ Hộ, Quốc sử quán Tổng tài, Hành đô Ngự sử (1775), Hiệp trấn Tham tán quân cơ Thuận Quảng (1776), Hứu hiệu điểm quyền phủ sự (1778), Quốc sử quán Tổng tài (1781), Hiệp trấn Nghệ An (1783), Thượng thư bộ Công (1784).
Lê Quý Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà. Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công.
Trong đời làm quan ông nhiều lần dâng sớ điều trần việc yên dân, khai hoang, tổ chức binh lính, từng khuyên chúa Trịnh đặt ống đồng để thỉnh cầu dân ý. Năm 1778, quê ông bị nạn đói, ông đã lấy tiền riêng cấp cho dân suốt 2 tháng liền. Tiếp nối con đường của ông, người con Lê Quý Đôn cũng trở thành rường cột của triều đình, một danh nhân có nhiều đóng góp cho đất nước trong lịch sử Việt Nam.
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn của dân tộc ở thế kỷ XVIII. Ông đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời cộng với sự giáo dưỡng của người cha làm quan ngự sử khắt khe, ân tình, do vậy mà kiến thức của Lê Quý Đôn trở nên phong phú. Di sản mà Lê Quý Đôn để lại rất đồ sộ. Theo thống kê thấy có trên 40 tác phẩm với đủ các thể loại: văn, thơ, ký, luận, triết học, sử học, địa lý, ngôn ngữ, chú giải kinh điển… và sự phong phú trong đề tài thể hiện, có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu của ông như sau: Về thơ văn, Lê Quý Đôn có các sáng tác như Quế Đường thi tập, Quế Đường văn tập, Quế Đường di tập. Ngoài việc sáng tác, ông còn có công lao trong việc sưu tầm, biên soạn và hoàn thành hai tác phẩm Toàn việt thi lục và Hoàng Việt văn hải được đánh giá cao. Về Sử học, ông có tác phẩm: Đại việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Bắc sứ thông lục, Kiến văn tiểu lục. Về Triết học gồm có Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Âm chất văn chú, Vân đài loại ngữ. Ngoài ra ông còn soạn văn bia, văn chuông ở các di tích: văn miếu, đền, chùa…tại các địa phương. Trong số các tác phẩm đó, Vân đài loại ngữ là một tác phẩm rất độc đáo. Tác phẩm tập hợp nhiều kiến thức khác nhau từ triết học, sử học, văn học, địa lý cho đến những phong tục tập quán, sản vật tự nhiên, xã hội, v.v.. Vân đài loại ngữ là tác phẩm được xem như một loại “bách khoa thư” đồ sộ nhất thời Trung đại Việt Nam.
Nhận xét về thân thế và sự nghiệp văn chương của Lê Quý Đôn, nhà sử học Phan Huy Chú viết: Lê Quý Đôn là một “nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết”. “Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời”[2]. “Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia” [3].
Học trò của Lê Quý Đôn là Tiến sĩ Bùi Huy Bích nhận xét về thầy mình: “Thông minh nhất đời, học rộng các sách, soạn ra văn chương đủ dạy đời và lưu truyền về sau, nước ta trong vài trăm năm nay mới có một người như thầy”[4].
Tiến sĩ Trần Danh Lâm đã nhận xét về Lê Quý Đôn như sau: “Lê Quế Đường, người huyện Diên Hà, không sách gì không đọc, không vật gì không suy xét đến cùng, ngày thường ngẫm nghĩ được điều gì đều viết ngay thành sách, sách chất đầy bàn, đầy tủ, kể ra không xiết”[5].
2.2. Lê Quý Đôn với Phật giáo
2.2.1. Có thiện cảm với Phật giáo, để tâm nghiên cứu về Phật giáo, kinh Phật
Lê Quý Đôn là một Nho sĩ, nhưng ông vẫn có cái nhìn thiện cảm với Phật giáo. Lê Quý Đôn cho rằng, lời dạy của Phật giáo đều hướng tới sự thanh tĩnh, hư vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy vào sự vật… Đó là những lời dạy có ý nghĩa giúp con người tu thân, giáo dục con người hướng đến điều tốt đẹp.
Lê Quý Đôn còn phê bình sự câu nệ hình thức nên hay bắt bẻ của các Nho sĩ, nhất là, thái độ phỉ báng Phật của họ. “Đạo giáo của họ Phật, họ Lão, thanh tĩnh hư vô, cao siêu tịch diệt, không hệ lụy đến sự vật, đấy cũng là đạo giáo của bậc cao minh dùng để tu dưỡng bản thân; đến những lời bàn luận sâu rộng về đạo đức, về hình thần, không điều gì là không có ý nghĩa mầu nhiệm. Nhà nho chúng ta, cứ giữ thành kiến kia khác, thường thường bác bẻ, như thế có nên không?” [6].
Ông cho rằng, thiên hạ rộng lớn, phong tục, tập quán, tư tưởng… của các nước đều khác nhau. Do đó các Nho sĩ không nên đem cái hiểu biết hạn hẹp của bản thân mình để soi chiếu văn hóa, tư tưởng ở nước khác. “Ở trong chín châu, còn mỗi nơi một khác, huống hồ trên không gian bao la mờ mịt, giữa đại địa rộng lớn xoay vần, … người ta chỉ là tấm thân bé nhỏ, dầu có tài hoa biện luận, dọc ngang tám cõi, thu hút chín châu, nhưng kiến văn cũng vẫn chưa được rộng khắp, thế mà hễ thấy sách cổ chép về sự quỷ thần linh ứng, động vật, thực vật biến hóa ly kỳ, cùng là hình trạng phương xa, cảnh tượng quái lạ, đều nhất thiết không tin, thậm chí chế bại cả tiên Phật, sao mà hẹp hòi thế!” [7].
Mặc dù là nhà Nho, nhà Nho điển hình nhưng Lê Quý Đôn hâm mộ, để tâm nghiên cứu Phật giáo, kinh Phật.
Tác giả Nguyễn Lang cho rằng Lê Quý Đôn đã viết sách Kim Cương chú giải nhưng rất tiếc hiện nay chưa tìm được cuốn sách này[8].
Trong các bài viết, minh văn chuông, bia do Lê Quý Đôn viết về Phật giáo đã thể hiện ông am hiểu sâu sắc về, sử dụng nhuần nhuyễn những điển tích của Phật giáo. Trong minh văn chuông chùa Phúc Khánh ông viết: “Ta thường đọc Kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: “Cái thể của chân giáo phương này thanh tịnh, chính ở âm thanh nghe được, muốn có được Tam ma đề, ắt phải bằng con đường nghe thấy”. Ta chợt giác ngộ mà than rằng: Chí lý thay! Nghe được lời huyền diệu đầy ở trong tai. Tuy ở trong lục trần mà muốn giác ngộ pháp môn, tất phải qua đôi tai làm sáng tỏ Tam muội, tâm tự tại thì mới đạt được thành tựu Bồ đề, phàm là nhất động, nhất tĩnh, nhất thanh, nhất âm đều có thể dấy lên, có được cơ duyên mà trở thành cảnh trí bình thường. Vậy nên đức Phật ta mở mang đại pháp, tuyên giảng từ bi, dậy bảo tiên âm, khiến cho người ta nghe theo mà nhập đạo. Từ khi đắc đạo ở Song Lâm, thì ý nghĩa sâu xa của đạo pháp được ghi lại trong kinh sách, do vậy mà tiếng sóng Phạm âm không phải kẻ tầm thường có thể nghe được. Điều nghe thấy được thể hiện ra ắt phải nhờ vào pháp khí, tức quả chuông này vậy. Nay xem quả chuông lớn thể tròn, hình cứng khi đánh lên thì thông suốt trần gian, cảm động tới cả cõi người, cõi trời, giúp người ta dứt bỏ ý nghĩ sai lầm và mở rộng tầm mắt cho con người. Tai nghe được tiếng này há chẳng sợ hãi mà nghĩ đến điều thiện, bỗng nhiên thấy bản tính dần ngộ được Tam đức viên thông ư ? Ôi! Chân lý có sẵn thế mà người hiểu được, ít lắm. Quả chuông treo lên, chầy kình gõ vào, lúc yên lúc gõ mà không biết ai có thể giác ngộ, được tất cả âm thanh, tức là Như Lai tạng tính mà ngay lập tức giác ngộ qua đôi tai. Những người muốn chứng được ở chí đạo chính là dựa vào chỗ này đây”[9]. Chỉ trong một đoạn ngắn, Lê Quý Đôn đã sử dụng nhiều điển tích của Phật giáo như Tam ma đề, Lục trần, Pháp môn, Tam muội, Bồ đề, Song Lâm, Phạm âm… Và trong bài minh trên khánh đồng ở chùa Cự Trữ, Lê Quý Đôn cũng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của mình về Phật giáo: “Lòng của người ta. Thay đổi không thường. Định là gốc tuệ. Giác ngộ cơ vi” [10].
Từ Thiền Dật cho thấy, Lê Quý Đôn từng nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kim Cương… Ông am hiểu về Phật giáo, có kiến thức Phật giáo sâu rộng. Chính ông đã nói ông thường xuyên đọc Kinh phật, nghiên cứu đạo Phật. Trong minh văn chuông chùa Phúc Khánh, Lê Quý Đôn viết: “Ta thường đọc Kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: “Cái thể của chân giáo phương này thanh tịnh, chính ở âm thanh nghe được, muốn có được Tam ma đề, ắt phải bằng con đường nghe thấy”[11].
Lê Quý Đôn nghiên cứu về Phật giáo, về tiểu sử các danh tăng ở nước ta. Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục là một tác phẩm mà Lê Quý Đôn dành riêng quyển 9 - thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam. Qua Thiền dật ta thấy, Lê Quý Đôn khảo cứu chi tiết về nhiều vị danh tăng của nước ta mà ông đánh giá là: “Bậc cao tăng nước ta không phải là ít”[12]. “Trong những người mặc áo cà sa, nhiều tiếng câu thơ của sư Thuận làm cho sứ thần nhà Tống phải kinh phục, văn từ của Chân Lưu vang tiếng trong một thời; Vạn Hạnh biết được lời sấm thay đổi ngôi vua; hai vị sư Bàn Tính và Minh Tâm thiêu mình đều thành thất bảo; sự Đạo Hạnh biết phép tu luyện, trút lốt ở núi Phật Tích, sư Minh Không có đạo thuật chữa được ác tật của Lý Thần Tông, sư Pháp Loa và Huyền Quang tinh thông luật giới, không hổ Then là đồ đệ pháp môn. Những dị nhân nghe rộng thấy xa như thế, thì trên từ vua chúa dưới đến dân gian, làm gì mà không tín ngưỡng một cách sâu sắc?” [13].
Thiền dật đã cung cấp những tư liệu quý giá về thiền sư Nguyễn Đạo Hạnh, Vạn Hạnh, Minh Không, Huyền Quang, Pháp Loa, Thiền sư Hương Hải, … Những bài thờ của bốn vị danh sĩ đời Đường nói về bốn vị Thiền sư An Nam cũng được Lê Quý Đôn tìm hiểu, ghi chép lại đầy đủ. (Thẩm Thuyên Kỳ và bài thơ Thăm ngài Vô Ngại Thượng nhân, chùa Tịnh Cư, núi Cửu Chân, Dương Cự Nguyên với bài thơ Tống Phụng Đình pháp sư quy An Nam (Tiễn pháp sư Phụng Đình trở lại An Nam), Trương Tịch và bài thơ Sơn trung tặng Nhật Nam tăng (Trong núi, tặng vị sư huyện Nhật Nam), Giả Đảo và bài thơ Tống An Nam Duy Giám pháp sư (Tiễn Duy Giám Pháp sư nước An Nam).
Trong Thiền dật cũng thể hiện khá nhiều về chính sách với Phật giáo của các vương triều ở Trung Quốc, Việt Nam. “Cao tổ nhà Hậu Chu nung chảy tượng Phật, đốt kinh Phật, chưa đầy một năm, khí độc nung nấu trong bụng, mụn loét phát sinh ngoài thân thể, được 7 ngày thì mất, vận nước dời về tay người khác, … Thế Tông nhà Hậu Chu huỷ tượng đồng trong nước để đúc tiền, …. Sau đó, đi đánh phương Bắc, sai người dùng súng bắn phá, trúng” [14]. “Đinh Tiên Hoàng lúc mới bình định được cả nước, liền xếp đặt phẩm cấp tăng và đạo, Ngô Chân Lưu và Trương Ma Ni làm Tổng thống. Tăng lục. Đặng Huyền Quang làm Uy nghi. Sau đó, Lê Đại Hành kế tiếp, cũng rất tôn trọng tăng đạo. Lúc Lý Thái Tổ mới lên làm vua, liền ban y phục cho tăng đạo, hai lần hạ lệnh độ dân làm thầy chùa. Sau khi đã dời kinh đô đến Thăng Long, bên ta dựng cung Thái Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế, suốt đời nhà Lý, tăng đạo đẩy dân gian, chùa quán khắp trong nước, tôn sùng Phật giáo, hơn cả các triều trước. … đến đời nhà Trần, lấy địa vị vua chúa mà làm đại sĩ, hoàng hậu mà làm tì khưu, khanh tướng mà làm thầy chùa” [15].
Lê Quý Đôn đã chú trọng đến việc giải thích (hoặc sao chép lại sách Phật giáo từ Trung Quốc) các Pháp số của Phật giáo, có cả phần phiên âm tiếng Phạn, hay giải thích các từ phiên âm tiếng Phạn sang tiếng Việt như: Thích ca mâu ni, Ca diếp, Thích ca, Cù đàmTì bà thi, Đầu đà, lục diệu… Tuy rằng, số lượng từ mà ông giải thích chưa nhiều nhưng cũng là đóng góp lớn của ông cho việc nghiên cứu Phật học.
2.2.2. Tin vào thuyết luân hồi, nhân quả
Qua những nội dung trong thiên Thiền Dật đã thể hiện Lê Quý Đôn tin vào thuyết nhân quả báo ứng. Lê Quý Đôn viết: “Kinh điển Tây Trúc nói về đời quá khứ, đời vị lai” [16]. “Muốn biết nguyên nhân kiếp trước, kinh nghiệm ngay vào sự hưởng thụ hiện tại. Muốn biết nguyên nhân kiếp sau, kinh nghiệm ngay vào hành vi hiện tại” [17]. Và “người làm việc thiện sẽ được trăm điều lành, người làm bất thiện sẽ phải trăm tai họa” [18]. Tất nhiên, sự giải thích của Lê Quý Đôn về thuyết nhân quả của Phật giáo nhưng dẫu sao với một nhà Nho thì đó cũng là sự hiểu biết đáng trân trọng.
Lê Quý Đôn cũng nghiên cứu, dẫn chứng nhiều đoạn kinh “Lăng già” nói về 10 giới, và xem kinh này có giá trị lớn, có tác dụng giáo dục, thức tỉnh người đời. Lê Quý Đôn viết về việc ông đọc “Thái bình quảng ký” chép những chuyện linh ứng khi đọc kinh “Kim cương”, kinh “Quan âm”, kinh “Cứu khổ”. Đó là những người tin tưởng kinh Phật giáo, đọc tụng nên được cảm ứng. Ông cũng tin tưởng chuyện vua Chu Cao tổ nung chảy tượng Phật, đốt cháy kinh Phật nên bị quả báo là lở lói, 7 ngày rồi qua đời, sau đó vận nước cũng đổi thay. Và chuyện Chu Thế tông bắn trúng vú của tượng Phật nên sau đó cũng bị ung thư vú mà chết, như Vương Củng đã chép trong “Tạp lục”. Đây là một điểm nữa, mà Lê Quý Đôn nhận thấy rất tương đồng với thuyết báo ứng mà trong “Kinh Thư và Kinh Dịch” đã chép.
Bài minh trên Khánh đồng ở chùa Cự Trữ (Phương Định, Trực Ninh, Nam Định) do Lê Quý Đôn soạn cũng thể hiện rõ niềm tin ấy. “Nhân quả không hoa. Chớ bảo qua loa”. Và ông khuyên mọi người: “Tôi bảo mọi người. Hãy làm việc thiện”[19].
Lê Quý Đôn tin vào yếu tố Mật tông, bằng cớ là dẫn sách “Thái bình quảng ký” nói về phương pháp thoát nạn: “nếu gặp người hung ác, thì cầm sừng tê giác hoặc con dao, rồi ngấm ngầm dùng ngón tay cái bên trái bấm vào chỗ vằn ngang ở đốt thứ ba ngón tay giữa về bên trái, miệng lẩm nhẩm tụng một lượt câu thần chú sẽ có thể tránh khỏi tai họa. Câu thần chú rằng: "Cát trung cát, ca tuất luật đề trung hữu luật đà ha bà ca ha"”[20].
Lê Quý Đôn còn đặc biệt xưng tán Kinh Lăng nghiêm “là tôn chỉ bí mật thứ nhất trong thiền gia, không những ý nghĩa sâu rộng, ngay đến văn pháp cũng cao siêu mầu nhiệm, những lời thí dụ biện luận, phân tích rất tinh tế tỉ mỉ, từ ngữ khí thế, có thể đổ núi, nghiêng sông”[21].
Ông cũng cho rằng, Phật giáo đã được truyền vào Trung Quốc từ lâu, có những triều đại, vua chúa, quan lại muốn tiêu diệt Phật giáo nhưng đâu loại trừ được. “Ngựa trắng sang Đông thổ[22], có lẽ hơn ngàn năm nay rồi, giáo hóa huyền vi, pháp thuật nhiệm màu, thật là cùng trời đất bất hủ, cho nên các vua chúa anh minh, khanh tướng danh vọng, không biết bao nhiêu lần bài tiễn trừ, chung quy lại vẫn không hủy bỏ đi được, thế thì sao chúng ta lại dày lời chê bai để rước lấy vạ miệng?” [23].
Đối với việc xây dựng, trùng tu chùa chiền, đúc chuông, đúc khánh, Lê Quý Đôn đánh giá là việc nên làm, “quả thực là việc thiện vậy” [24].
2.2.3. Đánh giá tính tích cực của Phật giáo, Nho - Phật nhất trí
Từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Nho sĩ dần dần chiếm vị trí quan trọng trên chính trường, Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, đất nước ta trong tình trạng các thế lực phong kiến xâu xé lẫn nhau, nội chiến giữa các thế lực của nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến, đã làm cho nhân dân khổ cực.
Trong bối cảnh đó, Phật giáo vốn có nền tàng sâu bền trong đời sống nhân dân lại được nhiều Nho sĩ quan tâm.
Trong tư tưởng của họ có sự dung hợp giữa Nho và Phật. Từ đó hình thành một trào lưu “cư Nho mộ Phật”, “Nho - Phật nhất trí”. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trịnh Tuệ.. là những danh Nho như vậy. Và Lê Quý Đôn cũng không nằm ngoài xu thế đó. Ông là nhà Nho, nhà khoa bảng lớn của triều Lê - Trịnh nhưng ông vẫn đánh giá cao những mặt tích cực của Phật giáo. Và ở mặt nào đó với Lê Quý Đôn thì Nho - Phật nhất trí.
Lê Quý Đôn đã nghiên cứu kĩ, chọn những đoạn dạy về đạo trị nước, được ghi chép trong sách "Thái bình quảng ký" và "Pháp uyển châu lâm" để chứng minh cho người đọc thấy rằng Phật giáo cũng dạy về đạo trị nước. Cụ thể, sách "Thái bình quảng ký" dẫn lời của Thiền sư Na-bạt-ma đáp câu hỏi của Tống Văn đế: “Về việc tu hành, vua chúa và thường dân cũng khác nhau… Vua chúa coi bốn bể như một nhà, muôn dân như con cái, nói ra một điều thiện thì dân chúng đều vui mừng…Được như thế thì trì trai cũng to lắm rồi”[25]. Còn "Pháp uyển châu lâm" thì dẫn lời Phật kể chuyện chim Anh vũ khuyên vua nước Ca - Xi: "Nhà vua làm 7 việc phi pháp, có thể hại đến bản thân như đam sắc dục, hay uống rượu, cờ bạc, săn bắn, nói điều hung ác, thuế khóa nặng nề và cướp bóc của dân". Lại nói: "Nhà vua có 3 việc có thể tan nát quốc gia; như thân cận với kẻ gian tà nịnh hót, không thu nạp lời nói phải và thích đánh dẹp nước khác. Này người làm vua một nước, cả nước đều mong đợi ngóng trông, nhà vua nên như cái cầu tế độ cho muôn dân, nhà vua nên như cái cản, dầu thân dầu sơ đều cần nhắc cho đúng, nhà vua nên như mặt trời soi khắp thế gian, nhà vua nên như mặt trăng, chiếu ánh sáng cho loài vật được trong mát, nhà vua như cha mẹ, nuôi dưỡng thương yêu nhân dân, nhà vua như trời che phủ tất cả, nhà vua như đất bồi dưỡng mọi loài"[26].
Lê Quý Đôn còn dẫn Kinh Lăng nghiêm nói về trách nhiệm của việc trị nước: “Kinh Lăng nghiêm nói: "Nếu chúng sinh biết yêu quý sửa sang đất nước, phán đoán công việc làng xóm, thì ở trước mặt những người ấy, ta sẽ hiện ra thân phận một quan tể, vì họ thuyết pháp, để nguyện vọng của họ được thành tựu; về phần nữ giới, nếu có người nào muốn làm việc nội chính, để sửa sang nhà và nước, thì ở trước mặt những người ấy, ta sẽ hiện ra thân phận nữ chúa, quốc phu nhân, mệnh phụ hoặc đại gia, vì họ thuyết pháp, để nguyện vọng của họ được thành tựu"”. Để rồi Lê Quý Đôn khẳng định: Phật giáo có ý nghĩa lớn trong tề gia, trị quốc: “Đấy chả phải ý nghĩa tề gia, trị quốc là gì?” [27]. Và Lê Quý Đôn đã kết luận rằng Phật hay Nho đều nói về đường lối trị nước. Thậm chí “Phật nói đường lối cốt yếu về việc trị nước, rất là đầy đủ” [28].
Về việc trừng trị những kẻ phạm tội, Lê Quý Đôn dẫn câu chuyện nhà sư Nhất Hành ra và cho rằng nhân từ của Phật giáo cũng không hẳn là sai. “Từ bi, hàng phục được mọi điều ám ảnh” và “có một lần, Thiên Vương thấy sư Hồng Phỏng xin tha tội cho quỷ Dạ Xoa. Người bảo: "Nhân từ nhỏ làm hại nhân từ lớn, lời nói của quỷ dữ không có bảo đảm gì". Rồi Lê Quý Đôn kết luận rằng: “Tôi trộm nghĩ, phép quan cũng thế, chỉ có thể nhân từ với người lương thiện, người ngu si hoặc lầm lỡ, mà không thể nhân từ với kẻ gian tham, nhũng lạm hoặc cố ý làm xằng được” [29].
Lê Quý Đôn chủ trương mọi người, nhất là quan chức cần rèn luyện đạo đức theo chuẩn mực đạo đức của Phật giáo để tích phúc cho bản thân: “Người làm quan, nên biết suy diễn lời nói này, lúc làm việc công, nếu giữ lòng từ bi thương xót, mở bụng cứu tế mọi người, làm tỏ rõ việc oan uổng, cứu vớt người bẩn cùng, khoan dung cho phạm tù, giảm bớt việc sai phái, ơn huệ thấm đến nhân dân, thì tự nhiên phúc trạch được dư dụ” [30]. “Chỗ bất cập của người khác, ta nên lượng tình mà tha thứ; chỗ thiếu sót của ta, ta cần dùng lý lẽ mà nghiêm trách” [31].
Về đạo hiếu, nếu như một số người cho rằng đi theo Phật là bỏ cha mẹ, không tròn chữ hiếu thì Lê Quý Đôn cho rằng Phật giáo chú trọng đến đạo hiếu. Lê Quý Đôn dẫn đoạn “Ta trước kia giàu lòng hiếu thảo nên nay được thành Phật” [32]. Ở đoạn khác Lê Quý Đôn dẫn Kim cương luận: "Ai hay kính thuận cha mẹ, thì gọi là người con trai hay con gái hiếu thuận". Và Lê Quý Đôn kết luận rằng, Phật giáo như thế “chả phải là bày tỏ đạo hiếu thảo đấy ư?” [33].
Như vậy, đối với Lê Quý Đôn, Nho hay Phật giáo đều thống nhất ở việc giáo dục con người về hiếu đạo nhưng Phật giáo thì nói được cụ thể và thâm thiết hơn rất nhiều.
Về “nhân” và “nghĩa” là những mặt mà Nho giáo rất coi trọng, là rường cột trong tư tưởng Nho giáo, có tác dụng rất lớn trong giáo dục đạo đức con người. Lê Quý Đôn cho rằng Phật giáo cũng có những nội dung tương tự. Phật giáo cũng dạy như thế, đó là sự làm lợi cho người, lợi mình. Lê Quý Đôn cho rằng: “Tôi thiết nghĩ: tôn chỉ pháp môn, chủ yếu là cho mọi việc ở thế gian, đều là hư vọng, cho nên tu thành bậc chân giác, để vượt ra ngoài lục trần", khi đã thành diệu đạo tuyệt đối, thì yêu thương chúng sinh, bố thí mọi phương tiện, có người nào muốn tu thành chính giác (xuất gia) thì giúp cho họ được viên thông, người nào muốn làm trọn nhân đạo (tại gia) cũng giúp cho họ được thành tựu. Không phải muốn người ta bỏ hết cương thường luân lý đâu. Gọi là "cứu đời hết thảy được an ninh, xuất gia thì pháp thân được thường trụ", vừa lợi người, vừa lợi mình, tóm lại đều là một lòng nhân từ cả”[34].
Như vậy, với Lê Quý Đôn, Phật giáo không bác bỏ luân thường đạo lý, “nhân”, “nghĩa” mà Phật còn dạy con người tu, giữ giới để làm tròn bổn phận của bản thân mình.
Về mặt Nhân sinh quan, Lê Quý Đôn cho rằng chủ trương thân con người được tạo nên từ 4 yếu tố (Tứ đại, hay còn gọi là Tứ hành) là đất - nước - lửa - gió của Phật giáo, được dẫn trong kinh Viên giác, là hoàn toàn tương đồng với thuyết Ngũ hành của Nho giáo[35].
Kết luận
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu về Lê Quý Đôn, nhất là qua thiên Thiền Dật và những văn bia, minh chuông, minh khánh mà ông để lại cho thấy ông là một Nho sĩ có thiện cảm với Phật giáo. Ông đọc nghiên cứu kinh điển Phật giáo, lịch sử Phật giáo. Ông đã có nhiều nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam, về nhiều danh tăng của Phật giáo Việt Nam. Qua tác phẩm của Lê Quý Đôn chúng ta thêm hiểu về tình hình Phật giáo đương thời. Đó là những cống hiến lớn cho Phật giáo nước nhà.
Các nhà sử học Việt Nam đều thống nhất nhận định: Lê Quý Đôn là nhà bác học có kiến thức uyên bác bậc nhất Việt Nam dưới thời phong kiến. Lê Quý Đôn là nhà Nho, trí thức Nho học điển hình ở thế kỉ XVIII, từng nắm quyền cao chức trọng ở triều đình Lê - Trịnh. Lê Quý Đôn đã vượt lên trên thiên kiến như một số Nho sĩ khác. Ông nhận thấy được những ưu điểm của Phật giáo trên nhiều phương diện, giữa Nho và Phật có nhiều điểm tương đồng cả về giáo dục đạo đức, đạo hiếu, về tu thân, tề gia, trị quốc… Tư tưởng Phật - Nho nhất trí đó của Lê Quý Đôn là sự kế thừa, ảnh hưởng từ nhiều học giả trước đó từ Thiền sư, Đạo sĩ, Nho sĩ cho đến vua, quan như: Thiền sư Viên Chiếu, vua Lý Nhân Tông, vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung thượng sĩ, Thiền sư Hương Hải. Đồng thời tư tưởng Nho - Phật nhất trí đó của Lê Quý Đôn lại tiếp tục được kế thừa, phát triển ở trong những thế kỉ sau. Nguyên nhân khiến Lê Quý Đôn có sự vượt trội hơn các Nho sĩ khác về nhiều mặt, nhất là đã nhận thấy ưu điểm của Phật giáo có nhiều, do chính sự ưu trội của Phật giáo, do sự thông minh tài năng của ông… Song như Gs.Trần Quốc Vượng đã lý giả rằng, do Lê Quý Đôn đã “tắm nhân dân, phá được cái khuôn sáo Nho gia đã đúc khuôn ông” hay “cái dung dịch văn hóa của ông đã tràn bờ ra ngoài cái khuôn hình mà gia đình và xã hội đã đúc nên ông”[36].
Tác giả: Tống Thị Tâm Trường THPT Yên Khánh B, Ninh Bình ***
Tài liệu tham khảo 1. Bài minh khánh chùa Cự Trữ (xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) do Lê Quý Đôn soạn năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765). 2. Phan Huy Chú (1992). Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Thích Phước Đạt, Thích Hạnh Tuệ, Thích nữ Thanh Quế, Đinh Văn Viễn (2022), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Phạm Minh Đức (2019), Bảng nhãn Lê Quý Đôn đối với Phật giáo qua bài văn chuông ở chùa Phúc Khánh, tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2 (155). 5. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb. VHTT, Hà Nội. 6. Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, tập 1, Trần Văn Giáp dịch, Nxb. VHTT, Hà Nội. 7. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội. 8. Nhiều tác giả (1988), Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII, 2 tập, Sở Văn hóa và Thông tin Thái Bình, Thái Bình. 9. Trần Lê Sáng (2004), Ngữ văn Hán Nôm, tập 4. Nxb. KHXH, Hà Nội. 10. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Chú thích: [1] Ngô Đức Thọ (Chủ biên) (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, trang 680-681. [2] Phan Huy Chú (1992). Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 391. [3] Phan Huy Chú (1992). Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 136. [4] Trần Lê Sáng (2004), Ngữ văn Hán Nôm, tập 4. Nxb. KHXH, Hà Nội, trang 499-504. [5] Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Tập 1, Trần Văn Giáp dịch, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 43. [6] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 425. [7] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 426. [8] Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, trang 650. [9] Phạm Minh Đức (2019), Bảng nhãn Lê Quý Đôn đối với Phật giáo qua bài văn chuông ở chùa Phúc Khánh, tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2 (155). [10] Bài minh khánh chùa Cự Trữ (xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) do Lê Quý Đôn soạn năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765). [11] Phạm Minh Đức (2019), Bảng nhãn Lê Quý Đôn đối với Phật giáo qua bài văn chuông ở chùa Phúc Khánh, tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2 (155). [12] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 449. [13] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 454. [14] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 432. [15] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 453-454. [16] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 431. [17] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 14. [18] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 430. [19] Bài minh khánh chùa Cự Trữ (xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định) do Lê Quý Đôn soạn năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765). [20] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 433. [21] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 433. [22] “Ngựa trắng qua Đông thổ”: Ý nói sự du nhập của Phật giáo. Ý này bắt nguồn từ tích thời Hán Minh đế (58-74), nhà sư Tây Trúc là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng chở kinh Phật đến kinh đô Lạc Dương. [23] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 426. [24] Phạm Minh Đức (2019), Bảng nhãn Lê Quý Đôn đối với Phật giáo qua bài văn chuông ở chùa Phúc Khánh, tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2 (155). [25] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 428. [26] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 428. [27] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 429. [28] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 429. [29] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 430. [30] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 428. [31] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 16. [32] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 429. [33] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 429. [34] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 430. [35] Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb VHTT, Hà Nội, trang 433. [36] Nhiều tác giả (1988), Lê Quý Đôn, nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII, 2 tập, Sở Văn hóa và Thông tin Thái Bình, Thái Bình.
https://www.tapchinghiencuuphathoc.vn/le-quy-don-voi-phat-giao.html
1.
Tác giả: Phạm Minh Đức - Viện Nghiên cứu Hán Nôm Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 3/2019
Lê Quí Đôn (1726 - 1784) tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường còn có tên là Lê Danh Phương, người xã Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ông là người thông minh, học rộng, hiểu sâu; từ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu. Khoa thi năm Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông, Lê Quí Đôn thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, rồi được bổ làm quan, lần lượt giữ các chức như: Thị thư ở Viện Hàn lâm, Thừa chỉ tước Dĩnh Thành bá, lại thăng Nhập thị Bồi tụng, Tả Thị lang Bộ Hộ, tước Dĩnh Thành hầu; rồi giáng làm Thị lang Bộ Lễ, Tham tri kiêm Trấn thủ xứ Thuận Quảng. Sau ông lại được mời về kinh đô và giữ các chức như Tả Thị lang Bộ Hộ, Đô ngự sử, tước Nghĩa Phái hầu; rồi được cử làm Hiệp trấn Nghệ An, khi về kinh đô lại giữ chức Đô ngự sử. Ông từng được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư Bộ Công, gia phong Dĩnh Quận công. Lê Quí Đôn biên soạn nhiều sách về các lĩnh vực: Triết học, Kinh tế, Văn học, Sử học…Ngoài ra ông còn soạn văn bia, văn chuông ở các di tích: văn miếu, đền, chùa…tại các địa phương.
Quả chuông do Lê Quí Đôn soạn bài minh hiện được lưu giữ tại chùa Phúc Khánh, thôn Phúc Lộc, xã Thái Giang, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. “Phúc Khánh tự hồng chung trùng tạo” có lẽ là bài văn chuông duy nhất của Bảng nhãn Lê Quí Đôn hiện còn. Đây là bài luận về Phật học xuất sắc và rất có giá trị, qua bài văn chuông này có thể thấy Lê Quí Đôn là người rất am hiểu về Phật giáo, có kiến thức Phật giáo sâu rộng, ông hiểu tường tận triết lý sắc không trong đạo Phật: “Âm thanh của bản tính là chân không, cái không của bản tính lại là chân âm, thanh âm của pháp khí cũng giống như vậy. Quả chuông này lúc trước bị hỏng mà không có tiếng, nhưng chẳng phải thật không có tiếng đâu, cái tính vốn sẵn của nó vẫn còn. Nay đúc lại mà có tiếng, chẳng phải bỗng nhiên có tiếng, cũng là do cái tính vốn sẵn đó còn. Cái bản nguyên của tiếng chuông hòa vào vũ trụ, ngụ ở hình khí, theo hư không mà có, theo hư không mà không, chưa bao giờ có, chưa bao giờ không”.
Ông hiểu được tính nhân duyên trong Phật giáo và vận dụng một cách rất tài tình: “Con người dựa vào âm thanh mà phát mở nhĩ căn, tùy duyên tu tập hiểu được tính nhân làm cho thân tâm thanh tịnh, bỗng thoát khỏi cõi trần nhơ bẩn, vượt lên nhận ra cả cõi không mà giác ngộ được chính giác cao nhất”.
Ông là người theo Nho học nhưng cũng thường xuyên đọc Kinh phật, nghiên cứu đạo Phật:
“Ta thường đọc Kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: “Cái thể của chân giáo phương này thanh tịnh, chính ở âm thanh nghe được, muốn có được Tam ma đề, ắt phải bằng con đường nghe thấy”. Những điển tích của Phật giáo trong bài minh chuông được ông sử dụng rất chính xác, chuẩn mực: Tam ma đề, lục trần, pháp môn, Tam muội, Bồ đề, Song Lâm, Phạm âm…Sau đây là toàn văn bài minh chuông chùa Phúc Khánh (Bài dịch).
Bài minh chuông ở chùa Phúc Khánh, xã Phúc Lộc, huyện Đông Quan, phủ Thái Bình và lời tự dẫn.
Ta thường đọc Kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: “Cái thể của chân giáo phương này thanh tịnh, chính ở âm thanh nghe được, muốn có được Tam ma đề (1), ắt phải bằng con đường nghe thấy”. Ta chợt giác ngộ mà than rằng: Chí lý thay! Nghe được lời huyền diệu đầy ở trong tai. Tuy ở trong lục trần (2) mà muốn giác ngộ pháp môn (3), tất phải qua đôi tai làm sáng tỏ Tam muội (4), tâm tự tại thì mới đạt được thành tựu Bồ đề (5), phàm là nhất động, nhất tĩnh, nhất thanh, nhất âm đều có thể dấy lên, có được cơ duyên mà trở thành cảnh trí bình thường. Vậy nên đức Phật ta mở mang đại pháp, tuyên giảng từ bi, dậy bảo tiên âm, khiến cho người ta nghe theo mà nhập đạo. Từ khi đắc đạo ở Song Lâm (6), thì ý nghĩa sâu xa của đạo pháp được ghi lại trong kinh sách, do vậy mà tiếng sóng Phạm âm (7) không phải kẻ tầm thường có thể nghe được. Điều nghe thấy được thể hiện ra ắt phải nhờ vào pháp khí, tức quả chuông này vậy. Nay xem quả chuông lớn thể tròn, hình cứng khi đánh lên thì thông suốt trần gian, cảm động tới cả cõi người, cõi trời, giúp người ta dứt bỏ ý nghĩ sai lầm và mở rộng tầm mắt cho con người. Tai nghe được tiếng này há chẳng sợ hãi mà nghĩ đến điều thiện, bỗng nhiên thấy bản tính dần ngộ được Tam đức (8) viên thông ư ? Ôi! Chân lý có sẵn thế mà người hiểu được, ít lắm. Quả chuông treo lên, chầy kình gõ vào, lúc yên lúc gõ mà không biết ai có thể giác ngộ, được tất cả âm thanh, tức là Như Lai tạng tính mà ngay lập tức giác ngộ qua đôi tai. Những người muốn chứng được ở chí đạo chính là dựa vào chỗ này đây.
Phía Đông Nam của làng ta có huyện gọi Đông Quan, có xã tên là Phúc Lộc. Xã có chùa, chùa có chuông, vốn do bọn viên mục Điện tiền trong ấp là Bùi Văn Phụng đã quyên góp tiền của đúc ra. Đến năm Canh Thân bị cướp phá nên chuông đã hỏng. Nay Văn Phụng siêng cần theo đạo, kế nối công xưa, kính cẩn hợp cùng quan viên sắc mục, già trẻ trong xã lại bỏ tiền của đề xướng lên, lại được thiện tín mười phương vui vẻ hưởng ứng, đúc thành một quả chuông lớn nặng 400 cân đặt ở lầu phía Tây của chùa. Bọn kỳ mục trong làng đến xin ta viết văn ghi lại. Ta nhận lời nói rằng: “Đây quả thực là việc thiện vậy”. Có lẽ bọn họ cũng biết về thuyết giáo của đại giác, mà có riêng một diệu lý: Âm thanh của bản tính là chân không, cái không của bản tính lại là chân âm, thanh âm của pháp khí cũng giống như vậy. Quả chuông này lúc trước bị hỏng mà không có tiếng, nhưng chẳng phải thật không có tiếng đâu, cái tính vốn sẵn của nó vẫn còn. Nay đúc lại mà có tiếng, chẳng phải bỗng nhiên có tiếng, cũng là do cái tính vốn sẵn đó còn. Cái bản nguyên của tiếng chuông hòa vào vũ trụ, ngụ ở hình khí, theo hư không mà có, theo hư không mà không, chưa bao giờ có, chưa bao giờ không. Con người dựa vào âm thanh mà phát mở nhĩ căn, tùy duyên tu tập hiểu được tính nhân làm cho thân tâm thanh tịnh, bỗng thoát khỏi cõi trần nhơ bẩn, vượt lên nhận ra cả cõi không mà giác ngộ được chính giác cao nhất. Còn như mong mỏi phúc điền ích lợi, khoa trương công đức viên thành, thì đó là những kiến thức tầm thường chẳng phải là thứ mà ta biết vậy. Mọi người đều cho là ta nói phải, nhân đó viết bài minh ghi lại.
Bài minh nói rằng:
Duy Giác Hoàng (9) ta,
Hiển hiện ánh sáng.
Chiếu khắp mười phương,
Giác ngộ người đời.
Thật ở tiếng nghe,
Hợp với bản chân.
Đại pháp viên thông,
Ngụ trong hình khí.
Duy chuông lớn này,
Người thấy đạo ít.
Ai là người biết,
Phát khởi cơ duyên.
Họ Bùi tín tâm,
Nối pháp âm này.
Ở ngôi chùa đó,
Thiện quả viên thành.
Tiếng chuông vang xa,
U mê giác ngộ.
Diệu âm tràn đầy,
Văn tính hiển hiện.
Vốn là tự nhiên,
Ta có một lời.
Xem lại nhĩ căn,
Học ta từ tôn.
Những người công đức để đúc chuông là Điện tiền Bùi Văn Phụng cùng vợ là Bùi Thị Pha, cập tiền Bùi Công Khanh hiệu Phúc Kế cùng vợ là Lương Thị Uỷ hiệu Diệu Thế, Tiền hậu thần Trần Đắc Phúc tự Phúc Thọ cùng vợ là Phạm Thị Thanh hiệu Diệu Kiên, Văn hội chủ huyện Thanh Lan xã Trừng Uyên là Thừa Trừng thọ nam Nguyễn Công Bằng cùng vợ và các thiện nam tín nữ cùng công đức.
Lại công đức để đúc chuông có: Điện tiền Bùi Văn Phụng tự Phúc Tịnh cùng vợ Bùi Thị Pha hiệu Diệu Vinh bỏ 25 quan tiền để mua đồng, thiếc đúc chuông, chỉnh biện 60 mâm thịt chín để cúng và làm 150 mâm cơm.
Các quan viên trong xã công đức: Thiêm tri Thị nội hộ phiên Tả trung cửu Phúc Trạch tử là Bùi Đình Túc, Thị hầu thuộc viên Thiêm Tổng tri Bùi Nguyễn Tuấn, Tổng tri Bùi Tử Diễn, Tri phủ Bùi Văn Trọng, Điện tiền Bùi Đăng Xuân; Phó thiên hộ Bùi Hữu Nghiêm, Huyện thừa Bùi Đình Tiêu, Bùi Văn Thẩm, Bách hộ Bùi Văn Hội, Tri bạ Bùi Đình Bảng, Tri sự Bùi Khắc Nghi, Phó sở sứ Bùi Đăng Truyền, Nho sinh Bùi Đình Tỏa, Xã trưởng Bùi Đình Mưu, Sinh đồ Bùi Nguyễn Xiển, Hương lão Bùi Văn Tuân, Bùi Vũ Nghi cùng già trẻ trong xã, các danh nhân, tổng cộng là 150 quan.
Các tín nữ trong xã công đức: Bùi Thị Gia, Bùi Thị Vịnh, Bùi Thị Di, Cao Thị Túc tổng cộng 3 quan 2 mạch.
Các vị danh nhân trong huyện xã công đức: Huyện thừa xã Hạ Liệt là Cao Đắc Học, Cao Đắc Diên công đức 1 quan 2 mạch; Tri bạ xã Ngô Xá huyện Nam Xương là Trần Hữu Tri công đức 2 quan; Cai hợp xã Văn Xá huyện Thanh Oai là Phùng Hữu Dực công đức 1 quan; Chu Văn Thông ở huyện Trân Định xã Trà Lý công đức 1 quan; Bùi Vương Trướng công đức 6 mạch; các vị danh nhân, thiện nam tín nữ thập phương công đức 35 quan.
Ngày 16 tháng 5 năm Quý Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14 (1753).
Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh khoa Nhâm Thân làm chức Thị thư ở Viện Hàn lâm là Lê Quí Đôn tự Doãn Hậu người Diên Hà soạn.
Tóm lại, bài văn chuông của Bảng nhãn Lê Quí Đôn ở chùa Phúc Khánh là bài văn chuông mẫu mực, ít có bài văn chuông nào hay như thế. Qua bài văn chuông này có thể thấy ông cũng là người hiểu tường tận những triết lý sâu sa, mầu nhiệm của đạo Phật. Bài văn chuông này cho thấy một góc nhìn mới về nhà bác học Lê Quí Đôn – góc nhìn Phật giáo. Đây là trước tác quan trọng về Phật giáo của nhà Bác học Lê Quí Đôn. Bài văn chuông được Lê Quí Đôn soạn năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753) tức là năm ông 27 tuổi, sau khi ông đỗ Bảng Nhãn được một năm. Lúc đó ông đã được bổ nhiệm giữ chức Thị thư ở Viện Hàn lâm, công việc nhiều vậy mà ông vẫn quan tâm đến văn hóa tín ngưỡng ở làng xóm, điều này cho thấy tình cảm của ông đối với quê hương Thái Bình rất nồng nàn. Việc ông soạn bài minh chuông cho chùa Phúc Khánh cũng chứng tỏ rằng Lê Quí Đôn là người có quan điểm dung hòa về đạo Nho và đạo Phật chứ không cực đoan như một số nhà nho khác. Ông là người theo Nho học nhưng cũng hiểu được tính tích cực của Phật giáo, thường xuyên đọc kinh Phật để mở rộng tri thức. Chính vì sự ham hiểu biết, ham học, đọc mọi sách vở này mà ông đã trở thành nhà bác học lớn của nước ta, ông được coi là “tập đại thành” của tri thức Việt Nam thế kỉ thứ XIII, đạt được thành tựu trên nhiều lĩnh vực. Nói như Phan Huy Chú: "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".
Tác giả: Phạm Minh Đức - Viện Nghiên cứu Hán Nôm Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 3/2019 --------------------------- CHÚ THÍCH: 1. Tam ma đề: Hết thảy Thiền định nhất tâm, sáng suốt, còn dịch là Tam muội. 2. Lục trần: chỉ 6 cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu cảnh này do 6 căn là mắt, tai v.v… mà nhập vào thân làm ô nhiễm tịnh tâm nên gọi là Trần. Kinh viên giác viết: “Nhận sằng Tứ đại là tướng tự thân. Sáu trần duyên ảnh mà là tướng tự tâm”. 3. Pháp môn: Những lời nói của Phật làm chuẩn tắc cho đời, gọi là Pháp. Pháp đó là chỗ chung cho cả chúng nhân và thánh nhân nhập đạo, cho nên gọi là Môn (cửa). Lại có nghĩa: các pháp đều thông tới một thực thể, cho nên gọi là Môn; lại có nghĩa là nơi Như Lai thánh trí đi về, cho nên gọi là Môn. 4. Tam Muội: Samàdi (thuật ngữ). Từ dịch âm từ tiếng Phạn, xưa dịch âm là Tam muội, Tam ma đề, Tam ma đế. Tam muội vốn là pháp tu dưỡng của nhà Phật. Nay nói về các sự vật huyền diệu cũng gọi là Tam - muội. 5. Bồ Đề - Bodhi (thuật ngữ). Cũ dịch là Đạo, mới dịch là Giác. Đạo nghĩa là thông suốt, giác nghĩa là giác ngộ. Bồ đề của Phật gồm cả Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí, cho nên gọi là Đại Bồ - đề. 6. Song lâm - Tạp danh. Hai cây Sa - la (khu rừng mà Đức thế tôn nhập diệt ở giữa 2 cây Sa la). 7. Phạm âm (thuật ngữ): giọng nói, âm thanh của bậc Đại phạm Thiên vương. Có năm loại thanh tịnh âm. Đó là: 1. Tiếng nói chính trực; 2. Tiếng nói hòa nhã; 3. Tiếng nói trong trẻo; 4. Tiếng nói sang sảng; 5. Tiếng nói vang ngân, ở nơi xa cũng nghe thấy. Đủ năm đặc tính này gọi là Phạm âm”. 8. Tam Đức: Ba đức (số). I. Kinh Niết bàn nói Đại Niết bàn có đủ ba đức: 1. Pháp Thân đức: Là bản thể của đức Phật lấy pháp tính thường trụ bất diệt làm thân; 2. Bát nhã đức: Bát nhã dịch là Trí tuệ, là cái Pháp tướng thật giác ngộ trọn vẹn; 3. Giải thoát đức: Xa rời mọi sự trói buộc mà được đại tự tại. Ba đức trên mỗi đức lại có bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, nên gọi là Tam đức. Và ba đức này là bất nhất bất dị, chẳng dọc chẳng ngang, như ba chấm chữ y, như ba mắt của Thư la thiên, gọi là Bí mật tạng của đại Niết bàn. Thông thường gọi là Hỉ, Ưu, Ám. Tự tính có ba đức ấy, nên sinh ra đủ mọi loại pháp thiện, ác, đẹp, xấu. 9. Giác Hoàng (thuật ngữ). Cũng gọi là Giác vương, chỉ đức Phật. Sách thích môn chính thống, q8: “Lòng tốt của Giác Hoàng là muốn đưa thiên hạ lên cõi nhân thọ”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Từ điển Phật học. tập 1, 2. Phân viện Nghiên cứu Phật học, 1994. 2. Từ điển Nho Phật Đạo. Lao Tử - Thịnh Lê chủ biên, Nxb. Văn học, 2001. 3. Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2002. 4. Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, Nxb. Văn học, 2000.
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/bang-nhan-le-quy-don-doi-voi-phat-giao-qua-bai-van-chuong-o-chua-phuc-khanh.html
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.