Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

20/05/2023

Câu chuyện sắc phong Đại Việt - thời điểm 2023 : rao bán trên mạng Trung Quốc và xung quanh

Các tháng 3 và 4 năm 2023, dư luận trong nước bùng lên với sự kiện sắc phong nguyên vật (bản gốc, nguyên bản) của Việt Nam được rao bán trên mạng Trung Quốc.

Trước đó khoảng nửa năm, vào tháng 10 năm 2022, nhóm Facebook "Hội mê sắc phong" đã trao trả của làng Tri Chỉ (Hà Nội) 22 đạo sắc phong. Đọc lại sự kiện này ở đây hay ở đây

Đại khái, làng Tri Chỉ hiện thuộc xã Tri Trung huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội. Làng vốn có gần 30 đạo sắc phong, được lưu giữ cẩn mật hàng trăm năm tại đình làng. Đến năm 2006, kẻ trộm đã đột nhập vào đình, lấy đi gần hết số sắc phong (chỉ còn duy nhất 1 đạo thời Nguyễn). Sau 16 năm lưu lạc, có 22 đạo sắc phong được trở về làng vào ngày 30 tháng 10 năm 2022.

Có rất nhiều làng cũng bảo lưu được mấy chục đạo sắc phong, tương tự như Tri Chỉ trước năm 2006, nhưng tiếc thay, vào khoảng các năm 2019-2022 (coi như 3 năm đại dịch) thì đã bị kẻ gian cuỗm toàn bộ ! Sau một đêm, cả mấy chục đạo săc phong đều đã bay ! Rồi bẵng cái, vào đầu năm 2023, có nhiều sắc phong bị mất được rao bán như bán sách vở hay tài liệu trên mạng của Trung Quốc !

Có một con đường rõ ràng như sau: trộm sắc phong ở các đình đền chùa Việt Nam --- lưu lạc sang Trung Quốc --- được rao bán trên mạng Trung Quốc.



31.747 lượt xem Đã công chiếu vào 16 thg 4, 2023.  VTC Now | Bàn về việc 12 sắc phong nghi của Việt Nam bị rao bán tại Trung Quốc, Giáo sư Trịnh Sinh - Nhà nghiên cứu Văn hóa Việt Nam nhận định việc đánh cắp cổ vật đã xảy ra từ lâu. Việc sắc phong Việt Nam nghi được rao bán tại Trung Quốc rất đáng tiếc là "giọt nước tràn ly" của tình trạng đánh cắp cổ vật.
(https://www.youtube.com/watch?v=N_dH5taCcbk)  

(đang viết)





---

CẬP NHẬT


5.


0 bình luậnTrần Quân - Vân Quế - Tuấn Dũng
ANTD.VN - Trở lại cuộc đấu giá mang tên “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” (Trung Quốc), câu chuyện này đã khiến các cơ quan quản lý văn hóa thực sự “giật mình” và vội vàng “chữa cháy” bằng cách rà soát lại hiện trạng sắc phong trong di tích đã mất đến đâu và còn những gì...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 1

Người dân thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội ngắm nhìn “báu vật” là sắc phong thời Nguyễn trở về với di tích Quán Vật (Ảnh: Trần Quân)

Thực tế kiểm tra và số lượng báo mất… đáng kinh ngạc

Theo văn bản của một số quận, huyện trên địa bàn Hà Nội gửi đến Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thì số lượng sắc phong mất rất nhiều, mất ở mọi thời điểm và đáng buồn hơn là địa phương cũng không… trình báo. Từ đó dẫn đến thực trạng hiện nay chuyện “vườn không, nhà trống” là có thật, bởi trong hồ sơ di tích cũng không còn lưu giữ gì dù chỉ là một bản sao nội dung hoặc vài bức ảnh, trong khi di tích đã được xếp hạng… quốc gia.

Khẩn trương vào cuộc với mục đích đưa những sắc phong khả năng có nguồn gốc từ Việt Nam trở về theo tinh thần Công ước UNESCO 1970. Trong các ngày 12-4-2023, 27-4-2023 và 28-4-2023, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch liên tiếp có công văn gửi các tỉnh, thành phố Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương (những địa danh có tên trên các đạo sắc thuộc phiên đấu giá “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm”) yêu cầu kiểm tra tính xác thực, thu thập thông tin pháp lý về sắc phong và việc mất cắp sắc phong. Đồng thời, xây dựng hồ sơ chứng minh nguồn gốc sắc phong từ các di tích, các địa điểm liên quan ở địa phương theo hướng dẫn của Công ước UNESCO 1970.

Ngày 13-4-2023, Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội đã có văn bản hỏa tốc số 1237/SVHTT-QLDSVN đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã rà soát thông tin bán đấu giá sắc phong theo Văn bản số 309 của Cục Di sản Văn hóa. Do hình ảnh đăng trên website của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” có nhiều bức hình không thực sự rõ nét, ngoài việc nhận diện chữ có các địa danh và niên đại nêu trên, Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội đề nghị khẩn trương rà soát, xác minh tính xác thực của các sắc phong hiện đang rao bán trên website của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” có nguồn gốc tại các di tích, các địa điểm liên quan ở địa phương. Thu thập và cung cấp các thông tin pháp lý về sắc phong (bao gồm hình ảnh, kích thước, chất liệu… và các văn bản pháp lý có liên quan), việc mất cắp sắc phong (đơn trình báo mất cắp, hình ảnh, biên bản và các hồ sơ liên quan đến vụ việc mất cắp sắc phong này). Ngoài ra, kiểm tra, kiểm kê hiện vật, đồ thờ tự trong di tích và tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ an toàn hiện vật, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại các di tích, trong đó có sắc phong. Giao Ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội phối hợp, đối chiếu hồ sơ xếp hạng di tích được lưu trữ tại cơ quan để cung cấp thông tin và tư liệu liên quan cho các quận, huyện, thị xã khi cần.

Cho tới thời điểm này, chỉ có 14/30 quận, huyện, thị xã gửi báo cáo hỏa tốc về tình trạng sắc phong trong di tích tới Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội. Theo đó, số lượng báo mất (mà chưa xuất hiện trên các cuộc đấu giá công khai ở nước ngoài) cũng ở mức… đáng kinh ngạc. Do số lượng là vô cùng nhiều (chỉ tính riêng địa bàn Hà Nội) nên trong khuôn khổ loạt bài viết này, chúng tôi không thể thống kê hết. Tuy nhiên, cũng có một vài ví dụ về các vụ mất trộm trong vài năm trở lại đây, đặc biệt là trong khoảng thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống đại dịch Covid-19.

Tháng 10-2020, đình Đồng Trữ (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) mất 3 đạo sắc phong. Cũng ở địa phương này, báo cáo cho thấy còn mất ở các di tích như miếu Mục Thanh, đình Tinh Mỹ, đình Thọ An, đình Yên Lạc, đình Tiên Trượng, đình Trí Thủy… Thời gian mất rải rác từ năm 1954 cho tới 2020. Báo cáo số 231/BC-UBND ngày 19-4-2023 của UBND huyện Chương Mỹ gửi Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội không có hình ảnh, biên bản liên quan đến các vụ mất trộm sắc phong.

Tại huyện Gia Lâm, tháng 6-2021 đình Tế Xuyên (xã Đình Xuyên) mất 9 đạo sắc phong (1 đạo sắc xuất hiện trong lịch sử giao dịch của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”). Huyện Phú Xuyên, tháng 12-2020, đình Thường Xuyên (xã Đại Xuyên) mất 6 đạo sắc phong (4 đạo sắc xuất hiện trong lịch sử giao dịch của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”). Trước đó, năm 2006, đình Đa Chất mất 9 đạo sắc (1 đạo xuất hiện trong lịch sử giao dịch của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”). Huyện Thạch Thất, tháng 3-2021, đình Hữu Bằng mất 25 đạo sắc phong (trong đó có tới 10 đạo sắc đã xuất hiện trong lịch sử giao dịch của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”)...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 2
Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 3
Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 4
Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 5
Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 6

Một số hình ảnh sắc phong hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Sự im lặng khó hiểu và “đụng vào đâu cũng không có”

Cho đến thời điểm này, trong 14 quận, huyện “chịu khó” làm báo cáo thì chỉ có quận Ba Đình khẳng định là không bị mất sắc phong (Văn bản số 624/UBND-VHTT về việc Báo cáo kết quả rà soát thông tin bán đấu giá sắc phong có nguồn gốc Việt Nam); quận Thanh Xuân báo cáo chung chung hiện có 38 sắc phong trên địa bàn 4 phường, nhưng không rõ lịch sử có bao nhiêu sắc phong, có xảy ra tình trạng mất cắp hay không; 16 quận, huyện, thị xã còn lại thì “im lặng” dù quá thời hạn (?). Phải chăng, do các địa phương này không có tên, sắc phong không liên quan đến danh sách đấu giá ở Thượng Hải nên… không cần báo cáo (?). Nhưng, không có tên trong danh sách đấu giá thì không có nghĩa là quận, huyện đó tuyệt đối an toàn, không (hoặc chưa) xảy ra mất cắp cổ vật trong di tích nói chung và mất cắp sắc phong nói riêng. Sở dĩ phải đưa ra một vài ví dụ ở quận, huyện và những con số cụ thể để thấy, tình trạng mất cắp sắc phong thực sự rất đáng báo động. Và lo ngại hơn, khi sắc phong mất đi cũng không còn bất cứ hồ sơ, hiện vật hay bản sao nào được lưu giữ cả.

Trong khoảng thời gian từ 18 đến 24-5-2023, Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội thực hiện chỉ đạo của Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội đã phối hợp cùng Phòng Văn hóa - Thông tin các quận, huyện, thị xã tiếp tục kiểm tra thực tế, rà soát hồ sơ xếp hạng, hồ sơ kiểm kê di tích, xác minh tính xác thực của các sắc phong được rao bán. Trong báo cáo kết quả của Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội thì một số tài liệu lưu theo hồ sơ xếp hạng, hồ sơ kiểm kê không thể sử dụng, không có các thông tin liên quan theo hướng dẫn của UNESCO 1970. Một số địa phương bị mất sắc phong nhưng không xác định được thời điểm, không có các tài liệu chứng minh kèm theo, có địa phương mất nhưng không trình báo… Lý do của việc “đụng vào đâu cũng không có” này là gì? Di tích đã được xếp hạng nhưng chỉ có danh sách thống kê niên đại hiện vật, không có ảnh chụp, không miêu tả kích thước, mỹ thuật, nội dung từng sắc phong. Hoặc di tích đã nằm trong danh mục kiểm kê nhưng chưa xếp hạng nên không có hồ sơ đối chiếu. Nhưng rất may vẫn còn một số ít quận, huyện có lưu hồ sơ, miêu tả kích thước, ảnh khảo tả trong hồ sơ. Cùng với đó, trong giai đoạn 2015 - 2020, Sở Nội vụ Hà Nội đã triển khai Đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn thành phố Hà Nội”, rất nhiều sắc phong đã được công nhận trong thời gian này và có hồ sơ lưu trữ đầy đủ, tiêu biểu là 25 sắc phong (đã mất) của đình Hữu Bằng (huyện Thạch Thất).

Mặc dù trong quá trình triển khai, Đề án “Sưu tầm tài liệu lưu trữ quý, hiếm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 - 2020” được cho là “dẫm chân” lên lĩnh vực quản lý di sản, tuy nhiên đến thời điểm này mới thấy, đề án của Sở Nội vụ Hà Nội đã thực sự phát huy tác dụng.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 7

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 8

Không gian trưng bày các đạo sắc phong tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Ảnh: Bùi Văn Quang)

Giữ sắc phong bằng cách nào?

Khi chúng tôi trò chuyện với nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và bảo tồn di sản, hầu hết đều khẳng định “sắc phong mất từ lâu rồi” hoặc “chuyện không có gì mới”. Thời điểm sắc phong, cổ vật mất nhiều nhất là từ những năm sau đổi mới, rồi cứ thế nay một vụ, mai vài vụ. Hà Nội trong thời gian giãn cách xã hội để chống dịch Covid-19, kẻ gian phá khóa trộm cắp đồ thờ trong di tích cũng không phải là ít, nhiều vụ công an bắt được thủ phạm, trả lại hiện vật cho di tích. Nhưng cũng có vụ phá cả đường dây buôn lậu cổ vật ra nước ngoài mà “chịu” không biết hiện vật nguồn gốc ở đâu để trả, cuối cùng đành phải gửi chúng “tá túc” trong bảo tàng .

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 9

Khi viết những lời kết cho loạt bài “Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về”, chúng tôi vẫn nhớ mãi câu nói của Trần Ngọc Đông (ảnh) - một người trẻ phát đi thông tin đầu tiên về phiên đấu giá “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” mà chúng tôi đã nhắc đến trong kỳ đầu tiên. Đông bảo: “Đất nước này đã mất mát quá nhiều rồi!”...

Theo nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Đức Dũng - chuyên viên chính Cục Di sản văn hóa, chỉ có sắc phong thời Nguyễn mới ghi rõ niên đại, tên tuổi người được phong thần, tên di tích, địa danh. Còn sắc phong thời Lê và Tây Sơn thường chỉ có một nhãn nhỏ phía sau ghi thông tin địa danh, tên thần… Để giấu vị trí, cái nhãn ấy đa phần bị cắt (thuật ngữ của dân buôn đồ cổ gọi là “cắt tai”). Cho nên, đi tìm sắc phong thời Nguyễn còn dễ, chứ sắc thời Lê và Tây Sơn thì vô cùng khó. Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng, nếu nói về sắc phong thì nói cả ngày và không biết phải bắt đầu từ đâu. Về nguyên tắc, sắc phong phải ở trong di tích, phải được bảo vệ ngay trong chính di tích đó. Thêm nữa, một di tích đã xếp hạng phải có bảng thống kê, ảnh hiện vật (khi chụp phải được đặt thước tỉ lệ), sơ đồ hiện vật, đủ 3 yêu cầu đó mới tạo thành hồ sơ hiện vật. Nhưng vì sao các di tích dù đã được xếp hạng, nhưng đến nay rà lại hồ sơ đều không có gì? Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng lý giải, đợt xếp hạng “Di tích quốc gia” đầu tiên ở Việt Nam là năm 1962, nhưng phải đến năm 2011 mới có Thông tư 09/2011/TT-BVHTTDL quy định nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Cho nên, những di tích đã được xếp hạng từ năm 2011 trở về trước thành phần hồ sơ thường không đầy đủ, khi có điều kiện kiểm đếm thì mới thấy mất mát nhiều.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng than thở: “Quá trình rà soát lại sắc phong trong phiên đấu giá của Công ty “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”, chỉ có Hải Dương là địa phương có hồ sơ kiểm kê tốt nhất. Bởi lẽ, tỉnh này đã cho chụp lại từng sắc phong, hầu như tất cả hình ảnh đều còn lưu. Còn hồ sơ kiểm kê của Hà Nội thiếu nhiều. Khi anh mất của và đi tìm thì anh phải chứng minh những thứ quý giá kia là của mình thì mới đòi được. Đằng này đụng đến đâu thiếu đến đó, thậm chí là không có gì. Chục năm trở lại đây, không thấy địa phương nào báo cáo lên Cục Di sản văn hóa về việc mất cắp trong di tích. Có nơi, mất chỉ báo công an, thậm chí có nơi còn “ỉm đi” vì sợ trách nhiệm. Địa phương thì “một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”, mất rồi chẳng nhẽ bắt tội người trông coi, quản lý?”.

Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn - Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) thì cho rằng, hiện vật mất, thất lạc… là vấn đề mà cơ quan quản lý Nhà nước phải xử lý triệt để. Để đưa ra tư vấn thì phải hiểu được giá trị (trong trường hợp cụ thể là sắc phong), phải thảo luận và đưa ra chính sách. Việc Công ty “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” bán đấu giá 672 món đồ, trong đó có các đạo sắc phong (khả năng là hiện vật gốc) có nguồn gốc từ các di tích Việt Nam là “chấn động ngành Di sản”. Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn khẳng định: “Lâu nay nghe tin di tích này, di tích kia mất trộm thì chỉ thấy gờn gợn. Bây giờ tận mắt thấy hiện vật được rao bán ở nước ngoài mới đau xót bội phần. Sách cổ, sắc phong được người ta đi thu gom từ nhiều năm nay. Đừng nói các nhà quản lý không biết, họ biết nhưng không thể khống chế được. Đã đến lúc sắc phong cần phải đưa vào danh mục cấm mua bán, trao đổi. Bất kỳ cái gì gây bất lợi cho văn hóa nước nhà thì đều khải khống chế. Rất cần Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch có tiếng nói mạnh mẽ hơn nữa. Cũng cần phải xét xử công khai một số vụ điển hình về buôn bán cổ vật hay trộm cắp cổ vật trong di tích, coi đó là “án điểm” để ai có tà tâm nhìn vào mà biết sợ. Có luật rồi thì phải theo luật. Xã hội dân trí cao là xã hội thượng tôn pháp luật”.

Sắc phong cần được bảo vệ bằng Luật

Quan điểm thống nhất giữa các nhà nghiên cứu văn hóa và quản lý văn hóa là, để hạn chế nạn mất trộm cổ vật nói chung, sắc phong nói riêng, nhất định là phải kiểm kê hiện vật trong di tích. Ngay trong Luật Di sản văn hóa có điều khoản về việc các di tích “5 năm kiểm đếm một lần”. Hiện nay, việc phân cấp quản lý đã được thực hiện, vì thế kiểm kê hiện vật trong di tích phải được chính các quận, huyện chủ trì thực hiện.

Việc kiểm kê hiện vật trong di tích vốn không mới mẻ, cách đây hơn 20 năm ngành Văn hóa Thủ đô đã triển khai và được xem là đột phá trong công tác quản lý di tích. Nói nôm na, đó là làm “chứng minh thư” cho từng hiện vật với các phần việc giám định về chất liệu, niên đại, phân loại giá trị, hiện trạng bảo quản, miêu tả hình dáng, kích thước, đặc điểm trang trí, màu sắc dễ nhận dạng. Mỗi hiện vật sau khi giám định đều được lập một phiếu khoa học, được bổ sung phần kỹ thuật chế tác, vị trí trong di tích, các thông tin để tra cứu, ảnh, đánh số chính xác trên bản vẽ mặt bằng kiến trúc... Việc kiểm kê, phân loại hiện vật này được xem như căn cứ để quản lý và bảo vệ, kịp thời phát hiện các di vật, hiện vật có dấu hiệu xuống cấp, hư hỏng. Nếu không may xảy ra mất mát, phiếu khoa học đóng vai trò như một “chứng minh thư” giúp cơ quan công an làm cơ sở điều tra và trả hiện vật về đúng nơi, đúng chỗ. Thời điểm đó, không nhiều nơi triển khai thành công, duy chỉ có quận Tây Hồ, Đông Anh, Long Biên là thực hiện hiệu quả.

Hơn 20 năm sau, khi đâu đâu cũng nói về công nghệ 4.0 thì các vấn đề của kiểm kê hiện vật trong di tích được yêu cầu hiện đại lên, tức là trước kia làm “chứng minh thư” cho di vật thì nay là làm “căn cước có gắn chíp” và số hóa là con đường tất yếu để có thể bảo quản di vật, bảo tồn di sản, cụ thể ở đây là sắc phong một cách tốt nhất. Theo nguyên tắc, trước khi triển khai, đầu tiên các quận, huyện phải xây dựng kế hoạch, chuẩn bị ngân sách, thành lập Hội đồng thẩm định là các chuyên gia đầu ngành về di sản văn hóa. Các phiếu hiện vật được lập dưới sự thông qua của Hội đồng thẩm định và hồ sơ kiểm kê hiện vật, sau đó phải được Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ký. Nguyên tắc là như vậy, nhưng triển khai thế nào và có thực hiện không, có ngân sách chi cho việc kiểm kê hiện vật hay không lại là “câu chuyện khó nói” của từng quận, huyện. Có nơi làm luôn, làm tốt và làm thực sự bài bản, khoa học. Nhưng cũng có nơi mãi không làm hoặc làm mãi không xong vì “không có kinh phí”. Phải nói rõ rằng, việc quản lý di sản trên địa bàn phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của những người đứng đầu. Nếu người đứng đầu thực sự coi trọng văn hóa, coi trọng di sản, thì việc kiểm kê, nói theo ngôn ngữ của giới trẻ bây giờ, chỉ “phút mốt” là xong. Nhưng nếu người đứng đầu chỉ mải mê với các vấn đề kinh tế, còn văn hóa là việc “cứ từ từ” thì... cũng chịu. Di sản mất mát thì cũng đau xót đấy, nhưng đau xong thì… thôi (!).

Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn khẳng định: “Cũng như hầu hết các vấn đề nan giải của di sản văn hóa, vấn đề đầu tiên vẫn là “tiền đâu?”. Trường hợp này cần phải lấy trách nhiệm quản lý Nhà nước, quản lý văn hóa ra làm đầu chứ đừng ngồi đợi đến lúc… có tiền. Đợi có tiền thì di sản “tan hoang” rồi. Một trong những tín hiệu tích cực nữa được xem là “phao cứu sinh” cho sắc phong khi nó là loại hình vừa vật thể vừa phi vật thể. Dự kiến, lần sửa đổi Luật Di sản văn hóa tới đây sẽ đưa sắc phong vào một chương riêng về Di sản tư liệu. Nếu được Quốc hội thông qua thì sắc phong, với tư cách là một trong những di sản tư liệu, sẽ chính thức được bảo vệ bằng Luật.

Theo PGS.TS Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, dự kiến Luật sửa đổi sẽ dành một chương về nội dung Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu, với các quy định cụ thể: Loại hình di sản tư liệu; tiêu chí nhận diện; danh mục; quy trình kiểm kê, ghi danh di sản tư liệu; quy trình thay đổi quyền sở hữu, thu hồi và hủy bỏ quyết định ghi danh; trách nhiệm quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu sau khi được ghi danh; bản sao di sản tư liệu; chính sách Nhà nước về di sản tư liệu…

Thay cho lời kết

Cũng giống như các di sản văn hóa khác, sắc phong nói riêng và di sản tư liệu nói chung vốn mong manh và nhạy cảm dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội. Chính vì vậy, khi đã xác định được giá trị của sắc phong thì phải bảo vệ giá trị đó một cách tối ưu nhất có thể. Khi viết những dòng cuối của loạt bài này, chúng tôi lại nhớ câu nói của anh Trần Ngọc Đông - người phát đi thông tin đầu tiên về phiên đấu giá “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”. Anh Trần Ngọc Đông bảo: “Đất nước này đã mất mát quá nhiều rồi!”. Đúng vậy! Trải qua bao cuộc chiến từ ngày dựng nước, giữ nước, giành độc lập dân tộc, chúng ta đã hy sinh, mất mát quá nhiều. Hòa bình, đất nước phát triển phồn vinh, xã hội tươi đẹp, nhân dân hạnh phúc thì tuyệt đối chúng ta không được thờ ơ, vô cảm để mất mát thêm nữa, đặc biệt là để mất di sản vô giá do cha ông để lại. Mọi nỗ lực đưa di sản “hồi hương” mà các cơ quan chức năng đang thực hiện cũng chỉ là giải pháp “chữa cháy”, tình thế. Trong khi, để bảo vệ di sản văn hóa chính xác nhất, ổn định nhất, bền vững nhất buộc phải “chủ động”. Nếu không, tất cả sẽ diễn ra theo cách mà giới trẻ bây giờ hay nói: “Có không giữ, mất đừng tìm”.

Sắc phong thật sự là báu vật, là giá trị lịch sử, là bằng chứng sống động về những mối liên hệ tinh thần của người Việt. Mỗi sắc phong là một câu chuyện, là gạch nối giữa hiện tại, quá khứ và tương lai mà chúng ta phải tuyệt đối giữ gìn.

PGS.TS Lê Thị Thu Hiền (Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch): “Hồi hương” sắc phong để nâng cao tự tôn dân tộc trên trường quốc tế

* Hồi chuông báo động khẩn cấp về tình trạng “chảy máu” cổ vật ra nước ngoài

* Sắc phong được bảo vệ và quản lý theo pháp luật về di sản văn hóa

* Bảo tồn sắc phong đảm bảo tính toàn vẹn của di sản văn hóa

* Xây dựng danh mục cổ vật của Việt Nam bị đưa ra khỏi đất nước bất hợp pháp

* Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

* Việt Nam tham gia Công ước UNESCO 1970 để bảo vệ di sản văn hóa trên phạm vi toàn cầu

- Phóng viên: Nhìn lại hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, bà nhận định ra sao về vấn đề bảo tồn di sản, cổ vật ở Việt Nam hiện nay?

- PGS.TS Lê Thị Thu Hiền (Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch): Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa, những năm gần đây, nhận thức chung của đại đa số cộng đồng, nhân dân địa phương tham gia vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên cả nước đã được nâng cao, thu được nhiều kết quả. Việc quản lý, bảo vệ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại di tích đã có những bước tiến rõ rệt hơn. Theo thống kê, những năm gần đây số vụ mất cắp cổ vật tại di tích giảm cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Hầu hết các vụ việc đều được các cơ quan điều tra giải quyết kịp thời, trả lại cổ vật bị mất cắp cho di tích. Số vụ mất cắp cổ vật tại bảo tàng gần như không có. Hầu như không còn tình trạng thăm dò, khai quật địa điểm khảo cổ không có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (trường hợp khai quật thông thường), của Chủ tịch UBND tỉnh (trường hợp khai quật khẩn cấp). Việc tự ý tìm kiếm, đào bới, làm sai lệch hoặc gây nguy cơ xâm hại, hủy hoại địa điểm khảo cổ, di vật khảo cổ; trao đổi, mua bán và vận chuyển trái phép di vật khảo cổ đã giảm hẳn.

- Ngoài một số nơi xảy ra việc mất cắp cổ vật, Cục Di sản văn hóa có những thống kê nào về số lượng cổ vật và tình trạng mất cắp cổ vật Việt Nam, thưa bà?

- Ngoài khoảng 4 triệu hiện vật là di vật, cổ vật đã được kiểm kê tại các bảo tàng trong hệ thống bảo tàng Việt Nam, hiện còn rất nhiều cổ vật được lưu giữ tại các di tích đã và chưa được kiểm kê (do thời điểm xếp hạng di tích từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước, chưa có Luật Di sản văn hóa), cùng với nhiều cổ vật được gìn giữ trong các sưu tập tư nhân không bắt buộc đăng ký kiểm kê. Do đó, số lượng chính xác cổ vật trên toàn quốc khó có thể xác định con số cụ thể.

- Bà có thể đánh giá một cách khách quan về công tác sưu tầm, kiểm kê, bảo quản hiện vật tại các bảo tàng trên cả nước hiện nay?

- Những năm qua, công tác sưu tầm, kiểm kê, bảo quản hiện vật tại hệ thống bảo tàng trên cả nước luôn được quan tâm, chú trọng, số lượng hiện vật không ngừng được bổ sung. Trong đó có nhiều sưu tập hiện vật quý về lịch sử, văn hóa, khoa học, dân tộc học, mỹ thuật… phản ánh được đặc trưng văn hóa của các địa phương, dân tộc, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bảo tàng. Hiện nay đã có 238 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia, trong đó 153 hiện vật, nhóm hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị tại các bảo tàng. Công tác kiểm kê, bảo quản luôn thực hiện đúng quy định, thông qua đó nhằm hoàn thiện hồ sơ pháp lý cho các hiện vật có giá trị, phù hợp với hoạt động của bảo tàng; đảm bảo sự an toàn của hiện vật trước những nguy cơ về an ninh, sự xâm hại của động vật, côn trùng, nấm mốc, sinh vật gây hại, tác động của môi trường… Tuy nguồn kinh phí dành cho hoạt động bảo tàng nói chung còn hạn hẹp, nhưng các đơn vị luôn chú trọng, ưu tiên để đầu tư những trang bị thiết yếu phục vụ cho công tác bảo quản, như: điều hòa, máy hút ẩm, máy lọc không khí, camera an ninh, phòng chống cháy nổ, cửa chống trộm, kính cường lực, hệ thống giá kệ, tủ hiện đại…

- Tháng 4-2023, một công ty đấu giá của Trung Quốc đã tổ chức phiên đấu giá, trong đó có 33 đạo sắc phong có nguồn gốc từ Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định, đây là hồi chuông báo động khẩn cấp về tình trạng “chảy máu” cổ vật ra nước ngoài. Quan điểm của Cục Di sản văn hóa thế nào về vấn đề này, thưa bà?

- Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền, tiếp đó là những nỗ lực xây dựng, phát triển kinh tế, vươn mình từ một quốc gia còn khó khăn sau chiến tranh thành một nước đang phát triển với sự tăng trưởng kinh tế đáng ghi nhận. Do vậy, sau chiến tranh, thông tin về cổ vật lưu lạc ở nước ngoài và tìm kiếm giải pháp đưa trở về Việt Nam chưa thực sự được quan tâm. Thực tế, nhiều cổ vật có nguồn gốc từ Việt Nam hiện đang được lưu giữ ở các bảo tàng lớn trên thế giới, hoặc trong các bộ sưu tập tư nhân ở nhiều quốc gia. Trong những năm qua, các học giả quốc tế, các chuyên gia bảo tàng cũng nhiều lần cung cấp danh mục những cổ vật có thể có nguồn gốc từ Việt Nam cho các cơ quan chức năng của Việt Nam. Việc “hồi hương” cổ vật hiện có rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đó là từ sự thông hiểu luật pháp giữa Việt Nam và quốc gia có cổ vật Việt Nam đang lưu lạc, cam kết quốc tế, Công ước quốc tế mà hai bên cùng tham gia, cho đến kinh phí phục vụ thương thảo, đàm phán, đền bù… để có thể chuyển giao, “hồi hương” cổ vật một cách hợp pháp, hạn chế các tranh chấp pháp lý kéo dài, có thể ảnh hưởng quan hệ ngoại giao cấp Nhà nước. Trong định hướng kêu gọi các cá nhân, tổ chức tham gia “hồi hương” cổ vật của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, những năm gần đây đã có một số cá nhân, tổ chức đã tham gia đấu giá cổ vật có nguồn gốc Việt Nam và hiến tặng cho các bảo tàng, di tích, như xe kéo của Hoàng Thái hậu Từ Minh được đưa về Huế năm 2015, cổ vật mũ quan đại thần và áo Nhật Bình triều Nguyễn cho Huế năm 2022...

- Ngay khi nhận được thông tin sắc phong có nguồn gốc Việt Nam được đem ra đấu giá tại Trung Quốc, được biết Cục Di sản văn hóa đã có Công văn khẩn gửi các địa phương như Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương…?

- Việt Nam và Trung Quốc cùng là thành viên tham gia Công ước UNESCO 1970 (Công ước về các biện pháp ngăn cấm xuất nhập khẩu và chuyển giao trái phép quyền sở hữu tài sản văn hóa), trong đó các nước thành viên công ước cùng cam kết: “Theo yêu cầu của quốc gia thành viên sở hữu tài sản, tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm phục hồi và trả lại bất cứ tài sản văn hóa nào được nhập khẩu vào nước đó sau khi công ước có hiệu lực ở cả hai nước hữu quan”. Đây là khuôn khổ pháp lý quốc tế quan trọng hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong phòng chống việc buôn bán trái phép di sản văn hóa, nâng cao nhận thức, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên phạm vi toàn cầu.

Để tiếp tục triển khai các việc tiếp theo nhằm “hồi hương” các hiện vật, sắc phong có nguồn gốc Việt Nam theo nội dung Công ước UNESCO 1970, ngày 27-4-2023, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã có Công văn gửi các tỉnh, thành phố Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Hải Dương và Thái Bình đề nghị: Tiếp tục xác minh tính xác thực của các sắc phong hiện đang rao bán có nguồn gốc tại các di tích và các địa điểm liên quan ở địa phương; thu thập và cung cấp các thông tin pháp lý về sắc phong, việc mất cắp sắc phong; Xây dựng hồ sơ chứng minh nguồn gốc sắc phong từ các di tích và các địa điểm liên quan ở địa phương theo hướng dẫn của Công ước UNESCO 1970 (theo Phụ lục gửi kèm Công văn) để gửi cơ quan chức năng làm cơ sở thực hiện đàm phán ngoại giao “hồi hương” hiện vật sắc phong; Đề nghị có văn bản của UBND tỉnh, thành phố gửi Bộ Ngoại giao, Ủy ban Quốc gia

UNESCO Việt Nam và bộ, ngành liên quan để đề nghị phối hợp, làm việc, hỗ trợ các địa phương thực hiện các biện pháp, đàm phán để có thể “hồi hương” hiện vật, sắc phong theo Công ước UNESCO 1970. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục phối hợp, hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương trong việc “hồi hương” hiện vật, sắc phong nói trên. Đồng thời, Cục Di sản Văn hóa cũng đã có Công văn hướng dẫn các Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa - Thể thao triển khai các việc tiếp theo để “hồi hương” hiện vật theo nội dung Công ước UNESCO 1970.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 10

- Thưa Cục trưởng, chuyện mất mát rồi cũ nát dẫn đến không thể phục hồi các đạo sắc phong tại 5 tỉnh, thành phố nói riêng và cả nước nói chung đã “báo động” và “nghiêm trọng” đến mức các tỉnh, thành phố phải báo cáo hiện trạng về sắc phong hay chưa?

- Sắc phong tại các di tích là một trong các loại hình hiện vật thuộc di tích, được bảo vệ và quản lý theo pháp luật về di sản văn hóa. Ngoài ra, sắc phong còn là hiện vật thuộc sở hữu tư nhân tại các gia đình, cộng đồng, nhà thờ dòng họ, có nhân vật lịch sử được các triều đại phong kiến ban tặng. Hiện nay, các tỉnh, thành phố chưa có báo cáo, thống kê một cách hệ thống về các di vật, cổ vật tại các di tích, bị thất thoát, mất mát. Vì vậy, số lượng các sắc phong bị bán đấu giá tại Trung Quốc không thể xác định là tất cả số sắc phong bị mất trong thời gian qua tại các di tích.

Việc quản lý các sắc phong nói riêng và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại các di tích đã được quy định tại hồ sơ khoa học của di tích, bước đầu từ khi di tích được vào danh mục kiểm kê do Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố công bố, cho đến khi di tích được địa phương lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng (chi tiết về sơ đồ hiện vật, ảnh hiện vật, bản thống kê hiện vật). Vấn đề quản lý trực tiếp di tích cũng đã được các địa phương phân cấp cụ thể, tùy theo tình hình thực tế, đặc thù của mỗi địa phương, theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Do vậy, việc quản lý di tích và hiện vật của di tích, trong đó có sắc phong thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương có di tích, của tổ chức, cá nhân sở hữu di tích hoặc được giao quản lý di tích. Về cơ bản, các quy định pháp luật về di sản văn hóa liên quan đến việc quản lý hiện vật tại di tích đã đầy đủ, rõ ràng. Các địa phương cũng đã chủ động kiện toàn bộ máy quản lý di tích; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ khoa học di tích; tăng cường quản lý di tích cũng như các hiện vật trong di tích; đồng thời chịu trách nhiệm toàn diện đối với nhiệm vụ được giao bằng việc quy rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân quản lý trực tiếp di tích. Các địa phương và Ban quản lý di tích phải có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị tất cả các hiện vật thuộc di tích, thuộc trách nhiệm đã được phân cấp quản lý, không chỉ phải có trách nhiệm báo cáo riêng về sắc phong. Do đó, Cục Di sản văn hóa cũng không có dự kiến yêu cầu tất cả các tỉnh, thành phố báo cáo về hiện trạng riêng về sắc phong.

- Nhiều người cho rằng, sở dĩ để xảy ra tình trạng hư hỏng, mất cắp cổ vật, di vật trong di tích nói chung và sắc phong nói riêng một phần do phân cấp quản lý. Địa phương chưa nắm rõ được quy trình bảo quản cũng như an ninh, an toàn cho hiện vật. Sở Văn hóa - Thể thao, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch lại nghĩ đã phân cấp rồi thì đây là trách nhiệm của địa phương. Theo bà thì nguyên nhân do đâu?

- Mặc dù phân cấp cho các địa phương trong quản lý di sản, tuy nhiên công tác này trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những bất cập, là nguyên nhân gây nên một số tồn tại trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Vấn đề quản lý các di sản còn bất cập. Di sản nước ta đa dạng về loại hình, chủ sở hữu, vì vậy mô hình quản lý di tích của các địa phương hiện nay rất đa dạng. Các Ban quản lý, Trung tâm bảo tồn di sản là đơn vị sự nghiệp nên di tích được quản lý tốt. Các di tích cấp tỉnh và di tích trong danh mục kiểm kê nhưng chưa được xếp hạng, nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả bảo vệ và phát huy giá trị di tích còn thấp. Hàng năm, Cục Di sản văn hóa đều có các văn bản hướng dẫn việc thực hiện trách nhiệm quản lý rủi ro, ứng phó thiên tai nhằm bảo vệ tốt di sản văn hóa. Đồng thời, cũng gửi các tài liệu hướng dẫn chi tiết và phối hợp với UNESCO và một số tổ chức chuyên môn hướng dẫn, tập huấn về ứng phó rủi ro cho các bảo tàng, ban quản lý di tích.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 11

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu đạo sắc phong đang lưu giữ để tiếp tục nhờ sự hỗ trợ của các Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Hán Nôm giám định, dịch, tạo lập hồ sơ để trao trả các địa phương (Ảnh: Vân Quế)

- Vấn đề đưa cổ vật về nước đang rất được dư luận quan tâm. Bên cạnh Nhà nước, các Mạnh Thường Quân cũng khá tích cực tham gia đấu giá để tìm cơ hội đưa cổ vật trở lại Việt Nam. Từ những vụ việc vừa rồi, chúng ta sẽ có những định hướng như thế nào về việc “hồi hương” cổ vật, thưa bà?

- Năm 2005, Việt Nam đã tham gia Công ước UNESCO 1970 về các biện pháp ngăn cấm xuất nhập khẩu và chuyển giao trái phép quyền sở hữu tài sản văn hóa. Tuy nhiên, Việt Nam đã ý thức xây dựng, hoàn thiện những quy định pháp luật về việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đặc biệt, từ khi Luật Di sản Văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 với hàng loạt các văn bản liên quan khác, việc quản lý di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia ở Việt Nam đã được thực hiện tốt với sự tham gia của người dân và các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan. Trong thời gian tới, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch sẽ chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng danh mục cổ vật của Việt Nam bị đưa ra khỏi đất nước bất hợp pháp trong quá khứ và tham vấn Ban Thư ký Công ước năm 1970 của UNESCO về danh mục này. Sau đó, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch sẽ xây dựng phương án, giải pháp từng bước đưa cổ vật về Việt Nam, xin ý kiến các bộ, ngành liên quan và trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện. Việc đưa cổ vật lưu lạc ở nước ngoài trở về Việt Nam không chỉ để bổ sung, hoàn thiện các sưu tập cổ vật, bảo vật, di sản văn hóa bị thất lạc, “chảy máu” ra nước ngoài. Điều đó còn khẳng định quan điểm đúng đắn, tiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần định vị vị thế quốc gia, tinh thần tự tôn dân tộc trên trường quốc tế, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa của nhân loại. Đây cũng là việc làm rất có ý nghĩa đảm bảo tính toàn vẹn của di sản văn hóa - một nội dung quan trọng mà UNESCO rất chú trọng trong bảo tồn di sản văn hóa - đồng thời thể hiện vai trò của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

- Theo bà, các cơ quan chức năng cần làm gì để bảo tồn cổ vật được tốt hơn?

- Chúng ta cần tập trung xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa, đồng thời đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục, đưa pháp luật về di sản văn hóa và thực tiễn đời sống; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tăng cường xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời gian tới; tăng cường mức đầu tư cho hoạt động bảo tàng, kiểm kê, bảo quản cổ vật tại bảo tàng, di tích.

- Trân trọng cảm ơn Cục trưởng về cuộc trao đổi này!

Việc đưa cổ vật lưu lạc ở nước ngoài trở về Việt Nam không chỉ để bổ sung, hoàn thiện các sưu tập cổ vật, bảo vật, di sản văn hóa bị thất lạc, “chảy máu” ra nước ngoài. Điều đó còn khẳng định quan điểm đúng đắn, tiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần định vị vị thế quốc gia, tinh thần tự tôn dân tộc trên trường quốc tế, góp phần xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa của nhân loại”.

PGS.TS Lê Thị Thu Hiền (Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch)

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi! ảnh 12
Cách thức quản lý di sản, cổ vật

Điều 54 - Luật Di sản văn hóa quy định nội dung quản lý Nhà nước về di sản văn hóa, bao gồm:

1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa;

3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa;

4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa;

5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

6. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.

https://www.anninhthudo.vn/hanh-trinh-theo-dau-vua-ban-dua-sac-phong-tro-ve-5-cho-co-tien-moi-bao-ton-thi-sac-phong-ve-troi-va-di-san-tan-hoang-roi-post548231.antd



4.

ANTD.VN - Tiếp theo kỳ trước của loạt bài viết này, về câu chuyện của nhà sưu tầm Bùi Văn Quang (Nam Định) trao tặng hai đạo sắc phong thời Nguyễn cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội); về câu hỏi của chúng tôi với ông Quang “với nỗi niềm khi làm được một việc ý nghĩa” khi tìm mua, thuê người dịch, tìm đến địa danh trên sắc, liên hệ với địa phương, trao tặng và nhận lại cái lắc đầu khẳng định: “Tôi thấy thật nặng nề và mệt mỏi” của ông! Tại sao vậy (?!)...

Theo nhà sưu tầm Bùi Văn Quang, hành trình ấy mất tròn 3 năm! Hơn 1.000 ngày liên lạc qua lại giữa người cung tiến và địa phương, cụ thể ở đây là thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ thì hai đạo sắc của vua Duy Tân ban cho Quán Vật mới “trở về… được” đúng nơi vốn dĩ nó thuộc về!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 1

Nhóm Nhân sĩ Hà Đông trong lần trao tặng lại đạo sắc phong bị mất cho huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam

Cung tiến sắc phong: Lập công hay có tội (?!)

Lễ cung tiến hai đạo sắc cho di tích Quán Vật diễn ra ngày 25-7-2023 (tức là trước đúng một ngày giỗ đức Thánh của Quán Vật). Nghĩa là, trước đó 3 năm (năm 2020), sau khi sưu tầm được hai đạo sắc phong, ông Quang đã đăng tải thông tin lên mạng xã hội cá nhân về nội dung đạo sắc cùng thành ý trao tặng lại cho nhân dân và chính quyền địa phương theo đúng địa danh ghi trên sắc. Bản thân “chủ nhân” của hai đạo sắc nhiều lần liên lạc, thậm chí còn có lần ông Bùi Văn Quang một mình đi xe máy từ tỉnh Nam Định lên tới huyện Chương Mỹ (Hà Nội), vào tận di tích, gặp gỡ người dân địa phương, hỏi han xem có di tích còn tồn tại hay không, hay do những biến thiên của lịch sử di tích mất rồi.

Cụ Nguyễn Hữu An - một trong những thủ từ ở di tích Quán Vật luận giải rằng, ngót nghét 3 năm mới đón rước được sắc phong trở về, để có ngày vui như hôm nay là vì nhiều nhẽ. Thứ nhất, là do chưa hiểu, thứ hai là do chính quyền và người dân còn chưa thống nhất được. Cũng may là con trai cụ An (anh Nguyễn Hữu Dương, vốn tốt nghiệp đại học chuyên ngành Hán Nôm chính quy, hiện đang công tác tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn) lại có tình yêu đặc biệt đối với di sản cha ông nên anh Dương đã đóng vai trò “giao liên”, đả thông tư tưởng người nhận, động viên tinh thần người trao. Thành ra câu chuyện mới kéo dài 3 năm, lộ trình để “Bản sắc phong Tự Đức năm thứ 7 (1853) ban cho Trấn Duy Đôn Tĩnh Hùng Tuấn trác vĩ Thượng đẳng thần” và “Bản sắc phong Duy Tân năm thứ 3 (1909) ban cho Ngũ vị Đại vương” trở về tuy dài nhưng tâm niệm người trao lẫn người nhận cũng đã hoàn thành. Để rồi hôm nay đây, giữa không gian Quán Vật linh thiêng, tất cả đều hoan hỉ!

Nhà sưu tầm Bùi Văn Quang tâm sự, thường ở những nơi ông đề đạt nguyện vọng muốn cung tiến sắc phong, nếu đúng là đạo sắc của làng mình thật thì rất nhanh chóng, chính quyền và người dân trong làng cắt cử người đến nhận luôn vì nỗi sợ “đêm dài lắm mộng” hay “nhỡ đâu được giá ông ấy đổi ý, lại bán cho chỗ khác rồi thì mất toi”. Nhưng cũng có không ít địa phương, chính quyền thận trọng như di tích Quán Vật. Một ví dụ nữa, năm 2013, tại đền Bảo Lộc, xã Bảo Lộc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nhà sưu tầm Bùi Văn Quang chính là người cung tiến bức sắc phong cổ, quý hiếm được vua Thiệu Trị triều Nguyễn ban cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn năm 1845. Để hoàn thành việc cung tiến này, ông Bùi Văn Quang cũng đã phải trải qua một quá trình dài tới 3 năm với 3 đời thủ nhang.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 2

Hộp đựng sắc phong cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX được tìm thấy tại Huế (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử TP.HCM)

Và trên hành trình đưa được sắc phong trở về đúng nơi nó vốn thuộc về, cá nhân ông Quang đã phải phối hợp cùng nhiều nhà nghiên cứu và một số cán bộ Phòng Nghiên cứu - Sưu tầm thuộc Bảo tàng tỉnh Nam Định, dịch nghĩa, nghiên cứu, xác định chính xác niên đại, hồ sơ như một công trình khoa học để căn cứ vào đó Bảo tàng Nam Định khẳng định: hình thức, kích thước, hoa văn trang trí, bố cục, thư pháp... của sắc phong được trao tặng hoàn toàn phù hợp với những quy chuẩn của sắc phong triều Nguyễn nói chung và sắc phong thời Thiệu Trị nói riêng. Về nội dung, đây là sắc phong cho Hưng Đạo Thượng đẳng thần và sắc phong thực sự có nguồn gốc từ đền An Lạc (nay là đền Bảo Lộc) bị thất lạc trong quá trình di chuyển và xây dựng lại ngôi đền vào năm 1928-1929. Sắc phong này trước đó được nhà sưu tầm Bùi Văn Quang mua lại từ một nhà sưu tập ở TP.HCM.

Ông Quang trầm ngâm kể tiếp, bây giờ ông có trở về đền Bảo Lộc để xin một lá ấn vào đêm khai ấn linh thiêng thì những người ở đây hầu hết không biết ông là ai! Nếu như ông muốn nhận được một lá ấn được đóng trong thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới thì vẫn cứ phải “lao mình” vào đám đông, chen - lấn - xô - đẩy, may ra… mới có.

Trong suốt hành trình đi cung tiến sắc phong, bản thân ông Quang cũng đã gặp vô số những chuyện buồn - vui lẫn lộn mà nói theo chữ của ông là “kể cả ngày không hết”. Có địa phương 3 làng cạnh nhau, có 3 ngôi đình nhưng chỉ có duy nhất 1 sắc phong. Hàng năm vẫn cứ rước hộp sắc từ làng nọ sang làng kia rồi luân phiên mỗi đình giữ sắc phong 2 năm. Đùng một cái, bỗng dưng không thấy sắc phong đâu nữa, làng nọ nghi kị làng kia tham lam, muốn giữ luôn không trả. Mâu thuẫn nội bộ trầm trọng cũng từ đó mà ra. Thế rồi, bản sắc bị thất lạc đó được ông Quang tình cờ mua lại được, dịch xong, mang trao tặng lại cho địa phương. Thế là cả 3 làng thở phào, hóa ra trước đây toàn nghĩ oan cho nhau, mâu thuẫn làng xóm cũng từ đó mà hóa giải. Bây giờ, 3 làng lại khôi phục tục lệ cũ. Mỗi làng giữ sắc 2 năm, nhưng giữ thật cẩn thận và lúc bàn giao thì có người chứng kiến, ký tá sổ sách hẳn hoi.

Mới đây, nhà sưu tầm Bùi Văn Quang tiếp tục đặt vấn đề cung tiến hai đạo sắc phong cho một tỉnh phía Bắc. Rút kinh nghiệm, lần này ông Quang gọi điện tới thẳng số điện thoại của Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao & Du lịch tỉnh. Giám đốc Sở giao cho Giám đốc Bảo tàng tỉnh cùng nghiên cứu, xác định giá trị xong rồi mới nhận. Nghiên cứu tới lui một hồi thì phía bên kia bảo chỉ có một sắc của vua Duy Tân là chuẩn, sắc còn lại thời vua Khải Định nghi là “có vấn đề” vì chữ “Tuấn” trên sắc bị thay bằng chữ khác cùng với triện bị nhòe. Sự việc được đưa ra bàn thảo trong nhóm những nhà nghiên cứu lịch sử. Tất thảy đều khẳng định rằng vua Khải Định tên thật là Nguyễn Phúc Tuấn, cho nên “kỵ húy” mới viết chệch chữ Tuấn thành chữ khác. Còn ấn triện nhòe thì ai cũng biết, năm Khải Định 9 ban tứ tuần đại khánh. Sắc năm đó có thếp vàng, khi triện đóng lên vàng thì mực son không ăn vào giấy như bình thường. Có đóng cả nghìn bức cũng nhòe tất cả… Sau khi tranh luận về các chi tiết lịch sử như vậy, vị lãnh đạo bảo tàng vẫn tiếp tục quở trách “đây là tôi giúp anh cơ mà…”, chứ họ cũng không nghĩ rằng, mục đích xác minh và dịch nghĩa rõ ràng cho sắc phong để tặng lại cho chính tỉnh nhà.

Không chỉ thi thoảng bị lãnh đạo trách móc vô cớ, những người mang sắc phong trở về làng như ông Bùi Văn Quang còn thường xuyên bị “ném đá”. Bởi lẽ, có nhiều người quan niệm rằng, việc mua lại sắc phong mà không rõ nguồn gốc là tiếp tay cho trộm cắp, có người mua ắt hẳn có người bán. Có người mang cả chuyện thả chim phóng sinh ra để so sánh với việc trao tặng sắc. Rằng thì, trước khi thực hiện việc phóng sinh thì phải giăng lưới bẫy chim, sau đó thì nhốt vào lồng rồi đem đi bán cho người mua để thả…

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 3

Lễ trao tặng lại đạo sắc phong cho đình thôn Nhì, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định từ chị Hồ Hải Hà (thứ hai từ trái sang) vào ngày 4-9-2022

“Sở hữu” sắc phong: “Nhân duyên không thể bỏ qua” (!)

Nhưng có lẽ, từ sau sự kiện Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” đem sắc phong Việt công khai đấu giá, thì những việc làm của ông Quang mới được nhìn nhận góc độ rộng hơn và ít thiên kiến hơn. Nghĩ một cách tích cực, nếu không có các nhà sưu tập trong nước mua lại rồi giữ gìn, trao tặng, thì chắc chắn con đường ngắn nhất của sắc phong sẽ là ra nước ngoài. Cũng chẳng khó khăn gì để không hình dung được việc, sau phiên đấu giá vừa rồi, rất có thể sẽ lại có thêm vài công ty đấu giá khác, ở các quốc gia khác lại tiếp tục niêm yết công khai đấu giá sắc phong có nguồn gốc từ Việt Nam.

Cũng là một trong những người hoạt động tích cực mua lại sắc phong từ dân chơi đồ cũ, đồ cổ rồi tìm kiếm địa chỉ, cung tiến cho các di tích, Cổ Nguyệt Đề là cái tên hoạt động trên mạng xã hội mà nhiều người yêu di sản đều biết rõ. Cổ Nguyệt Đề tên thật là Hồ Hải Hà - một cô giáo của trường THCS Tuy Lộc (xã Tuy Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Chị kể với tôi rằng, hồi còn nhỏ, có lần chị được về nhà thờ tổ giỗ họ, rồi tình cờ được xem lá sắc của dòng họ, thế là cứ đam mê những hình ảnh rồng mây trong đó. Rồi lớn lên, dù làm cô giáo bận rộn đến mấy cũng không quên được niềm đam mê di sản.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 4

Nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Đức Dũng, chuyên viên chính Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch cho biết, nếu đánh giá câu chuyện mang sắc phong trở về với đình làng của các cá nhân, tập thể, các nhà sưu tầm hiện nay là hai mặt của một vấn đề thì phần tốt nhiều hơn cả. Cá nhân nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng đã từng dịch và chứng kiến toàn bộ quá trình 22 đạo sắc phong trở về với đình Tri Chỉ (xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội) sau 16 năm thất lạc. Có những đạo sắc, các nhà sưu tầm tình cờ mua được, họ giữ cũng phải trên dưới 20 năm ở nhà như “báu vật”, nhưng đến một giai đoạn nào đó, tự dưng có tâm nguyện, nên phát tâm hiến tặng, có thế thôi!

Chị Hồ Hải Hà nhớ lại, sắc phong đầu tiên mà chị bỏ tiền ra mua là từ cách đây khoảng 20 năm trước trên một website bán đồ cổ, đồ cũ. Lúc đó, chị chưa biết Hán Nôm, chưa có đông bạn bè và những người giúp đỡ nhiều như bây giờ. Nên cũng có lúc phải dùng đến cách là vay ngân hàng mới có đủ tiền mua một bản sắc mà chị nghĩ là “nhân duyên không thể bỏ qua”. Chúng tôi hỏi chị: “Không có tiền, vay tiền ngân hàng đi mua sắc rồi thì tiền đâu mà trả nợ?” thì chị cười đáp: “Công nợ trả dần”. Bây giờ có hẳn một nhóm cùng chung sức với chị, rất chuyên nghiệp. Dịch xong thì đi xác minh từng địa chỉ, liên hệ với chính quyền từng địa phương, từ Bí thư, Chủ tịch xã, Trưởng thôn rồi đến các cụ cao niên, đồng ý nhận là hẹn ngày đến bàn giao sắc.

Cũng không khác là mấy như nhà sưu tầm Bùi Văn Quang, chị Hồ Hải Hà cũng gặp vô vàn gian truân, thậm chí là những nỗi niềm mà theo chị “chẳng biết tỏ cùng ai” từ những lời nói ác ý vì đã “tiếp tay cho trộm cắp”. “Tôi quen rồi, kệ thôi, việc mình mình làm”; “Trao được sắc phong về với di tích và người ta nhận là tôi vui rồi” - chị Hồ Hải Hà tâm sự. Khá thông thuộc thị trường mua bán sắc phong, chị Hồ Hải Hà kể, thời điểm buôn bán, giao dịch, trao đổi sắc phong sôi động nhất là vào khoảng những năm 90 thế kỷ trước - thời kỳ sau Đổi mới. Sau đó, “cơn sốt” sắc phong tiếp tục được “nóng” trở lại vào khoảng những năm 2008 đến 2013, lúc này thị trường Trung Quốc thu mua khá nhiều. Nếu di tích nào mất đạo sắc vào thời điểm này thì xác định cầm chắc việc nó đã “bay” ra nước ngoài rồi, sự trở về gần như vô vọng!

Theo thống kê của chị Hồ Hải Hà, riêng ở địa bàn Hà Nội chị đã từng trao tặng lại sắc phong cho các di tích như: Đình Nam Dư Thượng (Thanh Trì); Vân Điềm, Vân Hà (Đông Anh); Ngũ Luân, Đại Hùng (Ứng Hòa); Nội Đồng, Đại Thịnh (Mê Linh); Cống Khê, Hồng Sơn (Mỹ Đức)… Cùng với đó là các di tích ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hưng Yên… Hiện tại, chị Hồ Hải Hà đang có mấy chục đạo sắc mua lại được, trong thời gian tới, chị sẽ tiếp tục dịch và liên hệ với các địa phương để cung tiến sắc phong về di tích.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 5

Lễ trao tặng lại hai đạo sắc phong cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) từ nhà sưu tầm Bùi Văn Quang (ở giữa) vào ngày 25-7-2023

(Ảnh: Trần Quân)

Không nhận sắc phong: Nguyên do vì đâu (?)

Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, chị Hồ Hải Hà nhắc đi nhắc lại rằng, chị không lấn cấn gì về chuyện tiền bạc, việc chị cung tiến sắc phong cho đình làng là xuất phát từ cái tâm. Chỉ cần chính quyền địa phương và người dân trong làng, trong xã nhận, bảo quản cẩn thận, tránh bị mất thêm một lần nữa là chị vui rồi. Điều đó có nghĩa, có sắc phong đấy, biết rõ là địa phương nào rồi, nhưng mà để được tặng lại (chưa nói đến chuyện tiền) đã là hẳn một hành trình gian truân.

Có lần mua được sắc phong, dịch ra thì địa chỉ sắc ở một di tích thuộc Hải Phòng. Đến tận nơi “thực địa” thì các cụ cao niên trong làng, từ đình cũng như chính quyền địa phương bảo “vớ vẩn”, sắc phong của đình tôi còn nguyên trong hộp, làm gì có chuyện mất bao giờ mà nói linh tinh trao với cả tặng. Khẩn khoản hết lời, thuyết phục hết nhẽ một hồi thì các cụ mới chiếu cố làm lễ mở hộp sắc. Lúc mở ra thì hốt hoảng: “Trời đất ơi, sắc phong đình làng tôi mất từ bao giờ rồi”. Thế là từ người đang xin được tặng sắc, người bị “soi” với muôn vàn ánh nhìn nghi kị bỗng hóa… “người hùng”. Câu chuyện diễn ra sau đó rất vui vẻ, các cụ trong làng ai ai cũng tay bắt mặt mừng, nhận lời cảm ơn không xuể. Tưởng thế là xong. Ai ngờ sáng hôm sau, xe vừa đỗ xuống, một toán các bà các chị đang ngồi buôn chuyện ngoài chợ, thấy chị Hồ Hải Hà cùng vài người bạn mang sắc về đình liền xông ra mắng chửi té tát. Rằng “chúng mày là một lũ ăn cắp; chúng mày ăn cắp sắc phong làng tao, thánh vật chúng mày, “nuốt không trôi” thì phải mang đi trả chứ gì”... Tự dưng bị chửi tối tăm mặt mũi, chả biết làm sao, có thanh minh cũng không đủ sức. Cũng may, đình ngay đầu chợ, lãnh đạo xã, huyện cùng các cụ cao tuổi liên tục chạy mắng át đi, rồi lôi mấy chị nóng tính vào phân tích cụ thể tình hình. Chắc sau đó hiểu ra vấn đề nên ai về nhà nấy, không thấy mắng thêm tiếng nào.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 6

Người dân làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội tổ chức đại lễ, mừng 22 đạo sắc trở về sau 16 năm lưu lạc (Ảnh: Trần Quân)

Nhà nghiên cứu “tay ngang” Trần Ngọc Đông - người đã từng phát hiện và lên tiếng cảnh báo về việc sắc phong Việt được bán đấu giá công khai trên sàn đấu giá Trung Quốc đã từng lên tiếng lý giải việc bỏ tiền túi ra mua sắc phong, trao tặng lại di tích nhưng chính quyền và người dân rất thờ ơ. Không nhận là vì đối với một số người, sắc phong chỉ là “nửa tờ giấy A2 vàng vàng có mấy chữ Tàu đen đen” không hơn không kém - đây được xem là lý do nhận thức. Và cũng theo Trần Ngọc Đông, thực tế không chỉ từ nhận thức mà còn nhiều nguyên nhân khác. Thứ nhất là do quan niệm, rất nhiều người đang suy nghĩ những người đem trao tặng sắc phong là đồng lõa với trộm cắp, hoặc biết rõ kẻ xấu là ai, thậm chí chính là “F0”, vì “nuốt không trôi” phải mang lễ trả cho đình để “chuộc tội”. Chưa hết, nhiều người cho rằng dù họ có là người mua đi chăng nữa, tức là “F2”,“F3, “F4” thì cũng là “mua của phường trộm cắp”. Người sở hữu sắc phong là kẻ tàng trữ vật phẩm do phạm tội mà có. Nhận hay mua lại đều tiếp tay cho tội phạm. Cuối cùng, có những người tự an ủi nói sắc đã có tên làng, sớm muộn cũng sẽ trở về vì không làng nào thèm lấy.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 7

Chị Hồ Hải Hà (xã Tuy Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) kể lại, có lần mua được sắc phong, dịch ra thì địa chỉ sắc ở một di tích thuộc Hải Phòng. Đến tận nơi “thực địa” thì các cụ cao niên trong làng, từ đình cũng như chính quyền địa phương bảo “vớ vẩn”, sắc phong của đình tôi còn nguyên trong hộp, làm gì có chuyện mất bao giờ mà nói linh tinh trao với cả tặng. Khẩn khoản hết lời, thuyết phục hết nhẽ một hồi thì các cụ mới chiếu cố làm lễ mở hộp sắc. Lúc mở ra thì hốt hoảng: “Trời đất ơi, sắc phong đình làng tôi mất từ bao giờ rồi”. Thế là từ người đang xin được tặng sắc, người bị “soi” với muôn vàn ánh nhìn nghi kị bỗng hóa… “người hùng”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 8

Nhà sưu tầm Bùi Văn Quang tâm sự, thường ở những nơi ông đề đạt nguyện vọng muốn cung tiến sắc phong, nếu đúng là đạo sắc của làng mình thật thì rất nhanh chóng, chính quyền và người dân trong làng cắt cử người đến nhận luôn vì nỗi sợ “đêm dài lắm mộng” hay “nhỡ đâu được giá ông ấy đổi ý, lại bán cho chỗ khác rồi thì mất toi”. Nhưng cũng có không ít địa phương, chính quyền thận trọng như di tích Quán Vật. Một ví dụ nữa, năm 2013, tại đền Bảo Lộc, xã Bảo Lộc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nhà sưu tầm Bùi Văn Quang chính là người cung tiến bức sắc phong cổ, quý hiếm được vua Thiệu Trị triều Nguyễn ban cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn năm 1845. Để hoàn thành việc cung tiến này, ông Bùi Văn Quang cũng đã phải trải qua một quá trình dài tới 3 năm với 3 đời thủ nhang.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 9

Nguyễn Tuấn Duy - một người trẻ, yêu di sản và cũng là người lên tiếng về việc sắc phong Việt Nam đang ở Bảo tàng Nhật Bản cho biết, trong vài năm gần đây, việc nhiều nhóm và tổ chức tìm mua lại được những hiện vật sắc phong và trao tặng lại cho những địa phương tạo nên một sự trở lại kỳ diệu ở nhiều làng xã. Những giá trị của cha ông được “hồi hương”, những di vật đã được trao truyền, gìn giữ qua nhiều thế hệ. Việc nhiều nhóm và tổ chức tìm lại được sắc phong và trao trả lại cho các di tích là một việc làm đáng hoan nghênh!

Nhưng sự thật bây giờ đang cho thấy, sắc phong là độc bản, không có bản thứ hai, và sắc phong Việt trên thị trường đấu giá lúc nào cũng là một món đồ cổ đắt khách. Nếu làng không nhận, ngộ nhỡ, cái người vốn dĩ hảo tâm kia sẽ bán, cho người khác, khi đó, có thể sắc sẽ lưu lạc ra nước ngoài, vĩnh viễn không bao giờ thấy lại đạo sắc này nữa. Hiện tại, nhóm Nhân sĩ Hà Đông cho biết sẽ gửi tặng thư viện, bảo tàng nếu làng không nhận. Hoặc cũng như nhà sưu tầm Bùi Văn Quang đã nói, nếu làng không nhận sắc, ông sẽ trao tặng cho các bảo tàng và Sở Nội vụ TP Hà Nội vì lẽ, Sở Nội vụ đang có “Đề án sưu tầm tư liệu quý hiếm” để bảo tồn và phát huy giá trị. Còn nhà sưu tầm Hồ Hải Hà thì bảo, địa phương nào không nhận, chị sẽ vẫn gìn giữ ở nhà, thờ cúng cẩn thận.

Một lý do nữa của việc không nhận lại đạo sắc là vướng “thủ tục hành chính”. Thực tế, ở một số địa phương, khi được thông báo có người trao tặng lại đạo sắc thì phải báo cáo lên các cấp chính quyền và yêu cầu thủ tục nhận là phải có “giấy phép con”, tức là “giấy xác nhận đây là sắc thật”. Ở đâu là nơi xác nhận thật - giả của đạo sắc và cấp giấy chứng nhận có dấu đỏ thì các bên liên quan vô cùng lúng túng. Tất thảy đều không biết xin ở đâu (?!). Hiện tại, Viện Nghiên cứu Hán Nôm là cơ quan cao nhất đảm trách các vấn đề của văn bản Hán Nôm thì chỉ có trách nhiệm phiên âm dịch nghĩa chứ không có nhiệm vụ xác nhận văn bản thật - giả.

* * *

Làng Việt đang biến đổi và ý niệm về tinh thần của làng cũng khác xưa. Nhưng việc sắc phong không trở về được với di tích vì “vướng” những lý do rất “giời ơi đất hỡi” là một thực trạng đáng buồn và thực sự tổn thất cho di sản Việt Nam. Sắc phong lưu lạc, rồi lại tiếp tục được bán ra nước ngoài với giá cao thì còn gì đau xót hơn! Tất nhiên, đình, đền, chùa, miếu… vẫn còn đó, có suy chuyển đi đâu đâu. Về mặt vật chất là thế, nhưng về mặt di sản tinh thần nó đã khuyết đi một mảng lớn, không gì bù đắp được. Chính vì thế, quan điểm về việc mang sắc phong cung tiến của làng của những nhà sưu tầm tư nhân cũng nhận được những đánh giá tích cực từ những nhà nghiên cứu, nhà quản lý. Ông Lê Hồng Vệ - Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản, tu sửa tác phẩm mỹ thuật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam nhìn nhận, khi ai đó có duyên sở hữu những đạo sắc phong từ nhiều yếu tố khác nhau, nay liên lạc để trao tặng lại cho di tích từng bị thất lạc là việc làm cao quý và đáng được trân trọng!

Trưởng phòng Quản lý di sản (Sở Văn hóa - Thể thao TP Hà Nội) Phạm Thị Lan Anh: Sắc phong chưa phải là di sản tư liệu, cũng không phải di sản cần bảo vệ khẩn cấp

“Việc bảo vệ, bảo quản hiện vật đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với giá trị của chính hiện vật đó. Hơn 20 năm trước, khi sắc phong liên tục bị mất ở các đình, đền, Hội Di sản văn hóa Việt Nam cùng Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch đã từng phát động phong trào bảo vệ sắc phong. Năm 2004, Hà Nội thậm chí còn có cả hội nghị chuyên đề về bảo vệ cổ vật, nhưng hầu như những đạo sắc phong bị mất cũng không thể tìm lại được. Cho nên việc gìn giữ, bảo quản, bảo vệ đối với sắc phong luôn là vấn đề cấp thiết” - đó là nhận định của bà Phạm Thị Lan Anh, Trưởng phòng Quản lý di sản, Sở Văn hóa - Thể thao TP Hà Nội khi trao đổi với phóng viên An ninh Thủ đô xung quanh vấn đề này.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 10

Qua soi chiếu rất khó để Hải quan phát hiện ra sắc phong

- Phóng viên: Việc cổ vật bị mất, cổ vật Việt Nam bị đem ra đấu giá ở nước ngoài thì xưa nay chúng ta vẫn coi là chuyện bất khả kháng, dù có đau xót nhưng cũng không biết phải làm thế nào. Nhưng với sắc phong, trên đó còn ghi rõ địa chỉ thôn, xã (đơn cử như sắc phong triều Nguyễn) thì chúng ta có cách gì không? Như đợt đấu giá vừa rồi của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” (Trung Quốc) thì Hà Nội là địa phương có số lượng lớn nhất trên sàn đấu giá với 31 đạo sắc phong!

- Bà Phạm Thị Lan Anh - Trưởng phòng Quản lý di sản, Sở Văn hóa - Thể thao Hà Nội: Những việc này đối với cấp địa phương như Hà Nội thì không đủ thẩm quyền mà phải ở tầm quốc gia, bởi nó liên quan đến Công ước quốc tế về di sản văn hóa. Khi tham gia Công ước thì chúng ta có quyền lên tiếng để được bảo vệ, nhưng quyền này không được phân cấp về các tỉnh, thành phố mà Chính phủ phải can thiệp, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành liên quan. Ví dụ như vừa rồi chúng ta có “hồi hương” được ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” (kim ấn triều Nguyễn được làm bằng vàng, đúc năm 1823 thời vua Minh Mạng (1820-1841) từ sàn đấu giá bên Pháp (Hãng đấu giá Millon, thành lập năm 1928, có trụ sở chính tại Thủ đô Paris) cũng phải cấp Chính phủ can thiệp bằng con đường ngoại giao và văn hóa. Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch đã cử một đoàn công tác sang Pháp để làm việc và cuối cùng chiếc ấn đã được “hồi hương”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 11

Nghi lễ linh thiêng tại di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) khi nhận lại sắc phong (Ảnh: Trần Quân)

- Một pho tượng, bộ gốm, sứ… nghi ngờ là cổ vật đi qua cửa khẩu, Hải quan soi chiếu có thể dễ dàng phát hiện, giữ lại để truy xuất nguồn gốc và tính hợp pháp, nhưng với một đạo sắc phong để trong vali thì theo bà lực lượng chức năng có phát hiện ra không?

- Điều này tùy thuộc vào thiết bị và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thực thi. Theo nhận định của cá nhân tôi thì rất khó để Hải quan phát hiện ra, bởi sắc phong là chất liệu giấy, hoàn toàn khác với pho tượng hay các loại hiện vật như gốm, sứ, sắt, đồng… Rất khó để máy soi chiếu có thể phân biệt được các loại giấy thời xưa và thời nay. Một đạo sắc phong cuộn lại, khi qua soi chiếu cũng giống như một bức tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ vốn bán nhan nhản trên phố cổ mà thôi. Tôi đã mua những bức tranh như vậy và mang theo trong các chuyến công tác làm quà tặng thì chưa bao giờ bị lực lượng chức năng hỏi cả.

- Các chuyên gia cho rằng, sắc phong là một loại di sản hội tụ cả 2 hình thái vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, tính bền vững vật lý của nó lại kém hơn rất nhiều so với các loại hiện vật di sản khác được làm bằng đá, gỗ, kim loại... Trong khi đó, những người được giao nhiệm vụ cất giữ sắc phong đã có các biện pháp bảo quản rất cực đoan, phản khoa học dẫn đến hư hại. Hà Nội có tập huấn hay hướng dẫn các đình, đền về phương pháp bảo quản sắc phong không, thưa bà?

- Nếu nói sắc phong bằng giấy là loại vật liệu kém bền hơn các hiện vật khác thì chưa hẳn đúng. Thực tế đã minh chứng, có những nơi vẫn còn giữ được nguyên vẹn những đạo sắc phong có tuổi thọ đã 400 năm, nhưng cũng có những cấu kiện kiến trúc đã hư hỏng khi mới có 100 năm. So sánh vậy để nói rằng, tất cả là do cách bảo quản. Ở di tích bao giờ cũng có những hiện vật đặt trong cung cấm theo cách bảo quản truyền thống, ví dụ như long ngai, bài vị, thần phả, sắc phong, mũ, áo, hia, hài... và người ta chỉ đem ra trong những kỳ lễ trọng. Những hiện vật như long ngai, bài vị cũng chỉ đến kỳ lễ mới mang ra “bao sái”, nói nôm na là lau chùi, bảo dưỡng. Nhưng riêng sắc phong thì tôi thấy đến 90% là các cụ không dám tự tiện mở ra mà thường cất giữ theo đủ cách khác nhau. Có cụ thì cho vào hộp rồi nhét vào sau ban thờ, có cụ thì treo tít lên mái đình, tóm lại là cứ cất theo lối suy nghĩ làm sao để không ai biết và lấy trộm được.

Thị trường tiêu thụ sắc phong đã tồn tại từ rất lâu rồi. Trong thời kỳ chiến tranh, đền, miếu… hư hỏng, người dân thu nhặt các hiện vật, trong đó có cả sắc phong mang đi sơ tán, tản cư. Sau này quay về, do thiếu hiểu biết nên đôi khi họ mang đến các di tích một cách nhầm lẫn. Có trường hợp cán bộ bảo tàng đi cơ sở thấy người dân bảo quản không tốt, thế là xin đưa về bảo tàng. Cách đây mấy năm, Bảo tàng Hà Nội cũng đã xác minh, dịch, rồi bàn giao lại sắc phong cho các di tích có địa chỉ cụ thể ghi trên đạo sắc. Tôi nhớ là có di tích ở xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai (Hà Nội) có 6 đạo sắc phong, lúc đó bảo tàng còn bỏ tiền để phục chế một chiếc hộp đựng sắc rồi trao lại cho các cụ…”.

Bà Phạm Thị Lan Anh (Trưởng phòng Quản lý di sản, Sở Văn hóa - Thể thao TP Hà Nội)

Những năm 2002-2004, ngành Văn hóa đã cảnh báo rất nhiều lần về vấn đề này và thường tập huấn hàng năm cho những người quản lý đình, đền, chùa chiền, thậm chí cả Ban khánh tiết, Trưởng thôn, Bí thư chi bộ thôn có di tích. Ấy vậy mà khi về họ vẫn bảo quản theo cách riêng của mình, bởi đó là tập tục kiêng kị từ xưa đã hằn in trong tiềm thức. Họ luôn nghĩ rằng, sắc vua ban thì không thể ai cũng vào xem được, thậm chí còn cấm phụ nữ đến gần. Có những nơi kiêng đến mức, trời nóng sẽ không được mở hộp sắc, trời nồm ẩm càng không được mở, phải đợi đến khi tiết thu hanh hao thì mới mang sắc phong ra để hong, gọi là “hong hanh”. Ngày xưa các cụ cuộn sắc phong rất chặt và cất trong ống quyển, thế nên có nơi khi lôi ra thì sắc đã giòn, gẫy, rách, mủn. Giấy sắc nếu bảo quản đúng thì sẽ rất dai, bền. Cho nên có những đạo sắc đã 400 năm nhưng vẫn tốt là vì thế. Chúng tôi khuyến nghị các cụ vẫn có thể dùng ống quyển, nhưng ống quyển phải to một chút để sắc được cuộn lỏng, đến lúc muốn lấy ra cũng dễ dàng. Thứ nữa là các di tích phải thường xuyên kiểm kê, kiểm tra mỗi năm 1 lần, tuy nhiên không phải nơi nào cũng làm được như vậy.

- Hiện nay, để chống mất cắp, nhiều nơi giao cho người quản lý đình, đền mang sắc phong về nhà cất, thậm chí giao cho Bí thư chi bộ lưu giữ. Theo bà làm như vậy có tối ưu không?

- Tuy không phải tối ưu, nhưng nó là phương pháp an toàn, vì kẻ xấu sẽ không biết đạo sắc phong cất ở đâu mà rình rập. Còn nhớ có năm tôi về huyện Thanh Trì, người ta còn đem sắc phong ra cất nhờ ở két sắt của Ủy ban nhân dân xã. Cũng có nơi thì cất trong két sắt nhà riêng và chỉ 3 cụ giữ chìa khóa mới biết cái két ấy để ở nhà nào. Các cụ giữ kín, không báo cáo với bất kỳ ai kể cả xã, thôn, muốn lấy ra thì phải 3 cụ cùng mở. Vẫn biết là các cụ cẩn thận, nhưng như thế thì cực đoan quá. Tôi nghĩ, nếu không may mất mát, hư hỏng thì 3 cụ sẽ thành “tội đồ” của làng mất. Bây giờ có những việc mà chúng tôi rất băn khoăn, đó là xưa kia di tích luôn được coi là chốn linh thiêng, người ta bảo vệ di tích bằng tính linh thiêng đó. Nhưng nay thì tính thiêng đã bị suy giảm, thành ra có những đối tượng không còn e ngại gì thần thánh và sẵn sàng lấy trộm bất cứ thứ gì miễn là có thể bán ra tiền, thế nên mới xảy ra tình trạng mất cắp cổ vật nói chung và sắc phong nói riêng nhiều như vậy.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai! ảnh 12

“Bản sắc phong Tự Đức năm thứ 7 (1853) ban cho Trấn Duy Đôn Tĩnh Hùng Tuấn trác vĩ Thượng đẳng thần” và “Bản sắc phong Duy Tân năm thứ 3 (1909) ban cho Ngũ vị Đại vương” đã được nhà sưu tầm Bùi Văn Quang cung tiến cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) (Ảnh: Trần Quân)

- Chúng tôi đã gặp khá nhiều cá nhân, tập thể từng mua lại các sắc phong được rao bán trên thị trường cổ vật rồi đem trao trả, tặng lại cho di tích nơi chúng thuộc về. Nhưng điều làm chúng tôi ngạc nhiên hơn cả là có nơi lại dửng dưng, thậm chí còn không muốn nhận. Bà nghĩ sao về câu chuyện này?

- Tôi biết những câu chuyện đó và hiểu suy nghĩ của người dân địa phương nơi bị mất trộm sắc phong. Đôi khi họ dửng dưng là bởi cách quan niệm rất giản đơn: “Trống làng nào thì làng ấy đánh, thánh làng nào thì làng ấy thờ”. Họ nghĩ, ông có giữ sắc phong của các cụ làng tôi thì cũng chẳng giải quyết được việc gì. Điều này cũng giống như việc chẳng ai đi rước bài vị, bát hương gia tiên nhà anh hàng xóm rồi mang về nhà mình thờ phụng cả. Có mà dở hơi! (Cười). Nhưng họ không hiểu, người ta mua sắc phong là để chơi, để sưu tầm vì thú vui cá nhân chứ không phải mua về thờ. Thêm nữa, họ quan niệm những người sưu tầm cổ vật là tiếp tay cho trộm cắp, vì rõ ràng phải có người mua thì mới có kẻ ăn trộm đem bán. Tuy nhiên, số địa phương như chúng ta vừa nói ở trên là không nhiều.

Sắc phong bị bán ra nước ngoài sẽ rất khó thu hồi, hoặc sẽ mất vĩnh viễn

- Sau trường hợp Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” đưa ra đấu giá sắc phong của Việt Nam thì mới thấy, nếu không có những người sưu tầm có tâm đem trả, tặng lại cho di tích thì những hiện vật ấy sẽ ra nước ngoài và cơ hội quay về gần như bằng 0. Bà có nghĩ đây là câu chuyện có tính hai mặt của một vấn đề?

- Sắc phong thì phải ở trong đình, phải được giữ trong hậu cung, đó là vị trí đích thực của nó. Nhưng có những giai đoạn như tôi vừa nói, sắc phong buộc phải gửi trong két sắt của Ủy ban nhân dân xã. Đình, đền là một thiết chế văn hóa mở, nhưng bây giờ lại phải đóng cửa thường xuyên bởi cứ mở ra là bị mất cắp. Câu chuyện sắc phong đã “mở ra” rất nhiều vấn đề, chúng ta không chỉ mất sắc phong mà còn bị trộm nhiều thứ khác. Và câu chuyện sưu tầm cổ vật thì nhìn dưới góc độ nào cũng thấy vừa đúng, vừa sai.

Khía cạnh đầu tiên, sắc phong bị mất là điều không ai muốn. Kẻ lấy trộm không bán được cho người này sẽ bán được cho kẻ khác, không tiêu thụ được ở trong nước thì tuồn ra nước ngoài. Thậm chí, nếu không bán được cho ai thì chúng sẵn sàng phi tang, tiêu hủy, và lúc đó chúng ta vĩnh viễn mất di sản. Vậy nên, các nhà sưu tầm ở trong nước có mua (mua bằng cách nào thì họ không bao giờ tiết lộ) thì hiện vật vẫn sẽ còn ở lại trong nước, đấy là khía cạnh nên nhìn nhận theo hướng tích cực. Khi còn những người sưu tầm lại của những người sưu tầm (như nhóm “Nhân sĩ Hà Đông” chẳng hạn) rồi hoàn trả, trao tặng lại cho di tích là rất đáng quý và trân trọng. Khía cạnh thứ hai, khi lấy trộm được thì kẻ gian sẽ bán và người mua sẽ có hai mục đích. Một là sưu tầm, hai là tiếp tục mua đi bán lại kiếm lời. Cả hai mục đích ấy buộc họ phải có ý thức giữ gìn, bảo quản thật tốt. Nhưng dù có ở khía cạnh nào thì vẫn mong hiện vật còn ở trong nước, chứ nếu bán ra nước ngoài thì sẽ rất khó thu hồi, hoặc sẽ mất vĩnh viễn.

- Nếu chúng ta phát động phong trào mang trả lại hiện vật cho di tích thì liệu có khả thi và hiệu quả không, thưa bà?

- Phát động thì dễ, nhưng khó ở việc liên quan đến những vấn đề pháp lý kèm theo. Người ta có thể, có quyền đặt câu hỏi: Do đâu mà anh có nhiều cổ vật như vậy? Liệu lúc đó người tặng có vi phạm pháp luật hay không? Trừ khi chúng ta phải cam kết nếu đem tặng lại di tích sẽ không bị phiền hà bất cứ vấn đề gì về mặt pháp lý thì may ra họ mới dám làm.

- Có một điều xưa nay chúng ta vẫn rất đau đáu là văn hóa luôn bị xếp sau kinh tế hoặc các ngành nghề khác về đầu tư. Theo bà, nếu tới đây chúng ta tăng mức đầu tư các nguồn lực cho văn hóa thì sẽ có những bước đi dài hơn trong công cuộc bảo tồn di sản hay không?

- Câu hỏi này khiến tôi tới nhớ tới vấn đề số hóa di sản. Cùng là một hiện vật, nhưng giữa bản gốc và bản ảnh thì đã khác nhau rất nhiều, muốn chính xác thì phải số hóa. Nhưng để số hóa chính xác lại cần phải có công nghệ và đó mới chỉ là để bảo tồn, tư liệu hóa. Tiếp đến, cũng không phải chỉ là tăng đầu tư đâu mà còn nhiều vấn đề khác. Ví dụ như, hiện kinh phí dành cho tu bổ di tích của Hà Nội không phải ít, nhưng để sử dụng được thì cần rất nhiều quy trình, thủ tục. Nếu triển khai khởi công, các công ty tham gia có thể đủ giấy tờ, tư cách pháp nhân, nhưng chưa chắc đã đủ năng lực thực sự. Nói một cách đơn giản, cùng tốt nghiệp đại học nhưng có người rất xuất sắc, nhưng cũng có anh trình độ chỉ… làng nhàng.

Công ty tu bổ cũng vậy, có công ty thì nhân lực tốt, họ có đội ngũ thợ có thể làm ra được những con rồng, vân mây chuẩn, còn các công ty khác chưa chắc đã có người thợ như thế dù về giấy phép thì họ vẫn có đủ để hoạt động. Rồi còn vấn đề định mức, tu bổ di tích phải có định mức trong khi có những thứ chưa thể có định mức chuẩn. Bây giờ tôi đặt câu hỏi: Để làm một cái cột thì cần bao nhiêu công của nghệ nhân? Bao nhiêu công của thợ phổ thông? Định mức hao phí vật tư, tức là để biến một cây gỗ thành một cái cột đình thì hao phí bao nhiêu phần trăm gỗ? Để sửa một cái hương án, một pho tượng bị hỏng thì định mức sẽ như thế nào? Quy chuẩn kỹ thuật ra sao? Những định mức này hiện đang không có. Vì vậy, có muốn làm thì đến Sở này họ bảo chỉ làm được cái này, đến Cục kia lại bảo chỉ làm được cái kia. Rất khó…

Chưa có văn bản nào coi sắc phong là di sản tư liệu

- Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch đang sửa đổi Luật Di sản văn hóa, trong đó có việc đưa Di sản tư liệu vào thành 1 Chương của Luật. Theo bà, thì khi sắc phong được coi là Di sản tư liệu và được luật hóa thì nó sẽ được bảo tồn như thế nào?

- Chúng ta chưa có văn bản nào coi sắc phong là di sản tư liệu. Di sản tư liệu là loại hình gì thì trong Luật chưa quy định. Để tôi kể bạn nghe câu chuyện này. Khi chúng tôi làm về bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Từ Giám là muốn thế giới công nhận đó là Di sản thế giới. Và để thế giới công nhận thì trước tiên phải được khu vực châu Á - Thái Bình Dương công nhận đó là di sản tư liệu. Để ra đến quốc tế thì chúng ta phải có di sản tư liệu được quy định trong Luật. Tư liệu đó phải gắn với tấm bia, gắn với mỹ thuật, chất liệu, và đó phải là những hiện vật vật thể. Vậy như thế nào là di sản tư liệu? Di sản đó có gắn với vật thể hay không, có gắn với thứ gì khác hay không, tất cả cần phải được đưa vào trong Luật và các văn bản dưới Luật. Sau đó mới đến bước tiếp theo là quy định một bộ hồ sơ di sản tư liệu gồm những gì? Chứ chúng ta làm hồ sơ di sản thế giới xong, quay về làm hồ sơ ở trong nước thì lại không có. Quay lại câu chuyện sắc phong, chúng ta sẽ xếp nó vào cái gì? Hiện nay trong Luật đang xếp nó vào hiện vật thuộc di tích, nó không phải di sản tư liệu, cũng chẳng phải di sản cần bảo vệ khẩn cấp. Cho nên chúng ta sẽ còn nhiều thứ cần phải sửa, phải ban hành và hướng dẫn.

- Có ý kiến cho rằng, ngành Nội vụ công nhận tài liệu lưu trữ đặc biệt đối với sắc phong là một sự chồng chéo, dẫm chân vào lĩnh vực văn hóa, bà nghĩ sao?

- Có một câu chuyện vui thế này, trước đây chúng tôi hay đi các di tích để khảo sát cùng các nhà khoa học. Về đến nơi, nhìn thấy cái gì cũng giá trị nên thường tư vấn với các cụ là cái này hay lắm, cái kia quý lắm, các cụ dặn con cháu cố gắng giữ gìn, bảo quản thật cẩn thận. Nhưng khốn nỗi, cứ dặn bảo vệ cái gì thì y như rằng cái đó sẽ mất. Thế là các cụ đổ tại các ông, các bà ngành Văn hóa, cứ nói là quý với hiếm nên mới bị mất, có khi đi “do thám” hộ kẻ trộm cũng nên (Cười). Mà khi đã mất thì thường họ rất sợ, vì không biết mất từ bao giờ, vì sao mất, có phải lỗi tại mình hay do lỗi của người được giao nhiệm vụ coi giữ trước đó. Về sau chúng tôi quay lại dứt khoát họ không tiếp, không thừa nhận là đã mất, không khai báo. Cho nên mới dẫn đến tình trạng có đình, đền đã mất sắc phong từ rất lâu nhưng không ai hay. Sau này kể cả khi có công việc, có nhiệm vụ chính thức nhưng các cụ vẫn không hợp tác. Nói như thế để thấy, bây giờ giải pháp như thế nào cũng là cả một vấn đề…

- Theo bà, cách phân cấp quản lý như hiện nay có vấn đề gì không? Vì ở địa phương đôi khi sự hiểu biết còn hạn chế và phương thức bảo quản cũng chưa thực sự khoa học, liệu chúng ta có cần rà soát lại?

- Chúng ta tinh giản bộ máy thì phải phân cấp, vấn đề còn lại chỉ là ý thức và trách nhiệm thôi. Ngày xưa các cụ làm nhiệm vụ cho làng, xã thì không quan trọng công xá như thế nào mà hoàn toàn xuất phát từ cái tâm. Các cụ từ đình, từ đền khi đã được bầu lên thì rất toàn tâm toàn ý cho việc chung. Ngày nay, những nơi thu được tiền công đức thì có thể phát lương cho cụ từ, phát lương cho Ban quản lý di tích và họ sẽ dành thời gian cho việc làng. Nhưng những nơi không có nguồn thu ấy mà cụ từ cũng nghèo thì làm sao có thể đòi họ hỏi dồn tâm dốc sức ra được.

Cho nên, chúng ta một mặt vẫn tuyền truyền, nhưng không phải tuyên truyền suông mà lãnh đạo cũng phải làm gương, quan tâm đến di tích. Tôi nói thật, nhiều nơi từ huyện đến xã cũng có ỏ ê gì đến di tích đâu. Có ngôi chùa mà hiện vật quý từ thời Trần đến thời Lê đều xuống cấp nghiêm trọng, đổ nát tan hoang. Rồi có nhà sư về trụ trì không biết hợp tác với ai xây ngay một ngôi chùa mới 2 tầng bên cạnh, vậy thì ý thức lãnh đạo để đâu? Từ thời Hà Tây còn chưa sáp nhập về Hà Nội, chúng tôi đã vận động địa phương làm hồ sơ để xếp hạng, nhưng họ không làm. Mà họ đã không muốn thì chúng tôi cũng không thể “đè ngửa” ra bắt phải xếp hạng được. Vậy nên tôi mới nói, lãnh đạo phải nêu gương, phải quan tâm, phải có ý thức trách nhiệm là vì vậy.

Điều cuối cùng cũng rất quan trọng, đó là khi chúng tôi về cơ sở thì thấy vô cùng áy náy, đó là sự xô bồ. Không thể coi di sản giống như văn hóa cơ sở được. Ví dụ, lễ hội thì quy định là 3 năm làm 1 lần, điều này khiến tâm thức người dân luôn có sự tôn trọng và họ sẽ chuẩn bị trong suốt 3 năm để chờ đến kỳ lễ hội. Nhưng bây giờ thì năm nào cũng có lễ hội. Hay như nghi thức ngày xưa là cấm đàn bà con gái vào hậu cung chẳng hạn, nhưng nhiều lãnh đạo nữ cứ yêu cầu “tôi là lãnh đạo, phải cho tôi vào”. Đôi khi sự dễ dãi, dung tục quá lại thành ra là coi thường tính thiêng của di tích. Hay như lãnh đạo địa phương mà thỉnh thoảng đến thăm di tích, quan tâm, nhắc nhở thì Trưởng thôn ý thức cũng sẽ khác. Ông Trưởng thôn hay qua di tích kiểm tra, nhắc nhở thì người trông coi di tích ý thức cũng sẽ khác. Những việc đó phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của lãnh đạo.

- Trân trọng cảm ơn bà về cuộc trao đổi này!

(Còn nữa)

https://www.anninhthudo.vn/hanh-trinh-theo-dau-vua-ban-dua-sac-phong-tro-ve-4-noi-gian-truan-khong-biet-to-cung-ai-post548146.antd




3.


ANTD.VN -  Trong quá trình đi thực tế để thu thập tài liệu thực hiện loạt bài viết này, nhóm tác giả đã được nhiều cụ từ đình, từ đền ở những di tích đã từng bị mất, bị hỏng sắc phong gửi lời rằng, nếu biết ở đâu có sắc phong của làng, biết nơi nào phục dựng lại được sắc phong thì nhắn cho các cụ đến chuộc về hoặc tu sửa! Chứ bây giờ mất cả, hỏng hết sắc thế này, mấy nữa "trăm tuổi", xuống “dưới kia” gặp lại tổ tiên, dòng họ, người làng… thì biết ăn nói thế nào! Chúng tôi cũng “vâng, dạ” để các cụ tạm an lòng chứ trong đầu cũng ngổn ngang suy nghĩ, nhìn ngược ngó xuôi câu chuyện sắc phong lúc này khác gì một khối lập phương rubik, tiếp cận mặt nào thì vẫn còn “vướng” những “mặt khác”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 1

Lễ trao tặng hai đạo sắc phong thời Nguyễn cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) từ nhà sưu tập Bùi Văn Quang (Nam Định) vào ngày 25-7-2023 (Ảnh: Trần Quân)

Bảo quản sắc phong: Lúng túng và phản khoa học

Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản, tu sửa tác phẩm mỹ thuật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - ông Lê Hồng Vệ cho biết, hiện nay, chưa có một thống kê cụ thể trong các làng xã Việt Nam còn lưu giữ được bao nhiêu đạo sắc phong. Bao nhiêu số sắc được cho là có kết cấu còn tốt và nguyên lành; bao nhiêu sắc bị hư hỏng, mục nát do những tác động cả khách quan lẫn chủ quan không mong muốn; sắc hiện tại được lưu giữ, bảo vệ phổ biến ở một số ít cơ quan Nhà nước chuyên ngành, chủ yếu ở các di tích như đình, đền, các nhà thờ dòng họ và một số người yêu quý di sản sưu tập.

Thực tế, vấn đề an ninh, an toàn tại các di tích ở địa phương không đảm bảo. Hàng ngày, ở đâu đó, hiện tượng mất cắp các đạo sắc phong vẫn diễn ra. Vậy phải làm thế nào (?!). Nhiều nơi chọn lựa người có uy tín mang về nhà riêng cất giữ, đợi đến ngày làng hay dòng họ có sự lệ, lúc đó mới cẩn cáo đức thánh, tổ tiên mang ra hành lễ. Quả thật công tác bảo vệ, gìn giữ sắc phong đang gặp nhiều lúng túng, thậm chí phản khoa học về cả về mặt tự nhiên như phòng ngừa côn trùng cũng như chống chế với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm ở nước ta. Một số nơi, coi sắc phong thiêng hóa đến mức không dám mở ra, hay cuốn bọc nilon kỹ lưỡng và gác lên chỗ cao nhất gần thượng lương của nơi thờ tự để “cách biệt phàm trần”, việc này vô tình làm cho giấy bị khô keo và giòn, dễ rách nát.

Theo tập quán trước đây, mỗi năm trước khi có sự lệ của làng, các cụ có uy tín chọn ngày lành tháng tốt để xin rước sắc ra sân đình “bao xái”, phơi nắng vài canh giờ sau đó mang vào để thực hiện lễ nghi. Đây là một tập tục tốt, vừa để phòng ngừa côn trùng, vừa để kiểm tra biến động “tài sản” quý báu linh thiêng sau một năm gìn giữ. Thế nhưng, do tình hình mất cắp nhiều, có nơi thậm chí còn không dám mang ra làm “thủ tục” truyền thống này nữa.

Ông Lê Hồng Vệ phân tích thêm, lâu nay chúng ta hiểu đơn giản là, cứ cuộn cho vào ống, hộp sắc, cất vào hòm sắt khóa kỹ và gọi đó là “bảo quản” là không đúng. Nội hàm của bảo quản là nghiên cứu, bảo dưỡng, bảo tồn, bảo trì, quản lý, gìn giữ, có cơ sở vật chất thiết bị để duy trì nhiệt độ, độ ẩm cả ngày lẫn đêm phù hợp với chất liệu đó mới gọi là bảo quản mang tính khoa học. Việc này chỉ có các đơn vị Nhà nước chuyên ngành mới có thể có điều kiện làm được.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 2

Người dân làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội tổ chức đại lễ, mừng 22 đạo sắc trở về sau 16 năm lưu lạc (Ảnh: Trần Quân)

Cất giữ sắc phong: Mỗi di tích theo một cách khác nhau

“Hầu hết những người có trách nhiệm ở di tích đều chưa được hướng dẫn, chưa có cẩm nang chuyên sâu về phòng ngừa, bảo quản liên quan đến khí hậu vùng miền, về chất liệu… - ông Lê Hồng Vệ, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản, tu sửa tác phẩm mỹ thuật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam nhận định - “Theo tôi biết hiện nay, đối với những sắc thời Lê, chất liệu dó vẫn là nguyên liệu chính để bồi sắc, tuy nhiên thời kỳ này làm kỹ hơn rất nhiều so với các sắc triều Nguyễn - đó là phôi sắc được nghè kỹ, hàm lượng keo thực vật và tinh bột giấy nhuyễn đến mức như lụa, mặt giấy sắc trơ lì và được vẽ thủ công hoàn toàn với keo màu thực vật hay hoàn kim bạc, khó để những tác động thời tiết bất lợi xâm nhập. Còn sắc từ triều Tây Sơn trở về sau này đến Bảo Đại, phôi sắc bị xốp, kết cấu hạt giấy không mịn, hoa văn đã kết hợp in và vẽ, phôi sắc dễ bị ẩm mốc, rách và mủn, dễ bị xâm nhập tác hại khi gặp thời tiết nồm ẩm hay nắng nóng”.

Hiện tại, Trung tâm Bảo quản, tu sửa tác phẩm Mỹ thuật trực thuộc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam là nơi duy nhất được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch) ra quyết định (ngày 26-1-2006) về chức năng, nhiệm vụ thực hiện bảo quản tu sửa sao chép, chuyển đổi chất liệu phục vụ nhiệm vụ của bảo tàng và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu. Ông Lê Hồng Vệ chia sẻ thêm, Trung tâm có bộ phận Giấy lụa, chuyên nghiên cứu bảo quản tu sửa các tác phẩm mỹ thuật, các tư liệu cổ. Nhưng do khối lượng công việc lớn, chủ yếu tập trung thực hiện nhiệm vụ của bảo tàng và nhân sự mỏng, nên không đáp ứng được nhu cầu hiện tại của những nơi cần phục chế sắc. “Cá nhân tôi dù đã nghiên cứu về mảng này trên dưới chục năm nhưng cũng chỉ mới đi vào nghiên cứu chất liệu, hoa văn, hình thức bồi biểu, nghè và các phương pháp làm màu, phủ keo hạn chế nấm mốc… chứ chưa đạt đến mức trọn vẹn, vì để làm được một phôi sắc mất bao nhiêu công đoạn và bao lâu thời gian thì khó để nói, cá nhân tôi chỉ tranh thủ thời gian sau giờ hành chính chứ không phải tập trung dành riêng cho nó. Ước tính, để làm được một bản gọi là “phỏng cổ”, ít nhất cũng 9-10 công đoạn và thời gian có thể 3-4 tuần mới có thể đạt. Chủ yếu địa phương gặp chúng tôi để nhờ tham mưu gợi ý cho chế độ phòng ngừa bảo quản là chính”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 3

Hiện nay, chưa có một thống kê cụ thể trong các làng xã Việt Nam còn lưu giữ được bao nhiêu đạo sắc phong. Bao nhiêu số sắc được cho là có kết cấu còn tốt và nguyên lành; bao nhiêu sắc bị hư hỏng, mục nát do những tác động cả khách quan lẫn chủ quan không mong muốn; sắc hiện tại được lưu giữ, bảo vệ phổ biến ở một số ít cơ quan Nhà nước chuyên ngành, chủ yếu ở các di tích như đình, đền, các nhà thờ dòng họ và một số người yêu quý di sản sưu tập”.

Ông Lê Hồng Vệ (Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản, tu sửa tác phẩm mỹ thuật, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)

Với góc nhìn của một chuyên gia về bảo quản, phục chế, ông Lê Hồng Vệ chia sẻ thêm, hiện nay các di tích lớn, nhỏ trên cả nước rất nhiều, về vấn đề gìn giữ, bảo vệ tư liệu cũ có thể hiểu 2 vấn đề, đó là các di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, thành phố hay quốc gia đều có Ban quản lý di tích được thành lập phân công trông coi bảo vệ, nhiều nơi có chế độ cho việc này. Còn các di tích chưa được hay chưa đủ điều kiện xếp hạng thì địa phương cũng có nơi lập ra một Ban quản lý di tích cấp thôn, chủ yếu cắt cử người trông coi và đa số là các cụ thủ từ thủ nhang là chính.

Không riêng gì sắc phong mà còn nhiều đồ tế lễ tế tự có giá trị lịch sử - văn hóa trong di tích đều phải được tôn trọng như nhau, phải được gìn giữ, bảo vệ. Vì cho rằng sắc phong là một phần “linh hồn” của cả làng, nên rất nhiều địa phương không muốn gửi gắm hay mang ra khỏi địa bàn sinh sống. Chính vì vậy, công tác bảo quản tư liệu này đặt ra vô số thách thức khó khăn, vì mỗi vùng miền, nhiệt độ, độ ẩm không giống nhau. “Từ những kinh nghiệm xử lý chuyên ngành, theo tôi, những làng xã, dòng họ đang sở hữu, gìn giữ sắc phong cần lưu ý: Nên mua giấy phi a-xít (giấy bọc bảo quản), cứ mỗi tờ sắc lót một tờ giấy này thứ tự lần lượt, sau đó mới cuộn lại cho vào ống quyển và hòm sắc để cất giữ, để nơi khô ráo không có mưa dột ẩm ướt, loại giấy này ở nhiều nơi bán như các cửa hàng thư họa… Hàng năm, phải mở kiểm tra và không bao giờ được tùy tiện mang đi ép plastic hay dùng băng dính keo để can thiệp vào sắc và cho rằng đó là cách bảo quản. Các địa phương nên tăng cường an ninh bảo vệ, thêm số lượng người trông coi. Tôi đặc biệt mong muốn cơ quan chức năng xử lý nghiêm tình trạng trộm cắp di vật, cổ vật trong các di tích hiện nay” - chuyên gia về bảo quản và phục chế Lê Hồng Vệ nhấn mạnh.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 4

Người già, người trẻ thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội ngắm nhìn “báu vật” trở về với Quán Vật

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 5
Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 6

Đình Tri Chỉ: Chuyện mất trộm và sự trở về tình cờ của 22 đạo sắc phong

Ngày 30-10-2022, người dân làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội tổ chức đại lễ, mừng 22 đạo sắc sau 16 năm lưu lạc ngoài nhân gian, nay đã trở về với đình làng.

Gần 1 năm sau ngày vui được dân làng ví là “không thể tưởng tượng nổi”, chúng tôi đến với Tri Chỉ để gặp lại những người dân trong ngôi làng ngoại thành Hà Nội. Hôm đó, ở Tri Chỉ, chúng tôi gặp Lê Đăng Phát - một Trưởng thôn trẻ thuộc thế hệ 8X - người có công lớn trong việc đi lại, gặp gỡ, trò chuyện với nhà sưu tập Đặng Vũ Khương, phối hợp cùng các nhà nghiên cứu Hán Nôm như Nguyễn Đức Dũng, Chu Xuân Giao tổ chức dịch để đưa sắc về đình. Hôm đó, chúng tôi gặp cả cụ Phạm Vũ Đỉnh - người từng có thời gian dài trông coi đình, dịch và ghi lại tất cả nội dung của 27 đạo sắc phong từ mấy chục năm trước. Cũng là hôm đó, tại đình Tri Chỉ, còn có cả cụ Phạm Quang Vinh, nguyên là Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch xã Tri Trung, bây giờ là Chi hội trưởng Chi hội người cao tuổi; cụ từ đình hiện tại là Nguyễn Văn Công…

PGS.TS Lê Thị Thu Hiền (Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch): Khó khăn trong hoạt động thực tiễn lưu giữ, bảo quản cổ vật

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 7

“Cổ vật được lưu giữ, bảo quản chủ yếu tại bảo tàng, di tích và các sưu tập tư nhân. Đối với bảo tàng, di tích đã được xếp hạng, việc bảo quản cổ vật cơ bản đều có các cán bộ được đào tạo tham gia việc bảo quản cổ vật. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, cụ thể như sau:

- Nhiều bảo tàng cấp tỉnh vẫn phải dùng chung trụ sở với đơn vị khác, rất khó khăn khi triển khai hoạt động. Nhiều trụ sở bảo tàng cấp tỉnh hiện nay chỉ là các công trình kiến trúc vốn xây dựng cho những mục đích sử dụng khác (kho tàng, công sở, thậm chí là nhà thờ công giáo...), nay được cải tạo để làm bảo tàng, nên không đáp ứng yêu cầu về không gian chức năng và kỹ thuật.

- Mức đầu tư kinh phí cho công tác đầu tư xây dựng bảo tàng, cải tạo nâng cấp trụ sở và kinh phí dành tổ chức hoạt động chuyên môn, thường xuyên của bảo tàng còn thấp.

- Thiếu đội ngũ chuyên gia và cán bộ giỏi trong lĩnh vực chuyên môn bảo tàng. Công tác đào tạo bảo tàng học trong 20 năm qua dù đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động bảo tàng, công tác đào tạo cơ bản ở nhà trường và trong bảo tàng còn chậm đổi mới. Các kiến thức về quản lý thiết chế bảo tàng, nghiên cứu xây dựng nội dung trưng bày bảo tàng; ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong bảo tàng, xây dựng và tổ chức các chương trình tham quan, giáo dục, marketing bảo tàng, bảo quản phục chế... chưa được hình thành rõ nét.

- Xã hội hóa hoạt động bảo tàng chưa được đẩy mạnh. Đến nay, hầu như vẫn chưa xuất hiện việc các doanh nghiệp, thông qua việc tài trợ cho hoạt động bảo tàng để giới thiệu, quảng bá hình ảnh của mình. Chính sách về thuế, tạo điều kiện cho “quan hệ” này được thúc đẩy trong môi trường thuận lợi, vẫn chưa có những điều chỉnh cụ thể và phù hợp”.

Biết tin chúng tôi về làng để hỏi chuyện sắc phong, từ sớm, các cụ đã đông đủ ra đình làng đón đợi. Gần 1 năm, quả là dư âm vẫn còn mới lắm, vẫn còn nhiều chuyện muốn kể lắm, quả thật, gặp rồi mới thấy, ngày 22 đạo sắc trở về trong tâm trí của các cụ vẫn còn nguyên niềm vui như chỉ mới hôm qua thôi. Cụ Đỉnh kể, làng Tri Chỉ vốn có 28 đạo sắc. 22 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn ban phong. 6 đạo còn lại là của triều Tây Sơn. Cái ngày xảy ra mất sắc là một buổi chiều ngày 29-10-2006. Hôm đó, thanh niên trong làng vẫn tụ tập ở sân đình đánh cầu lông như mọi khi, trẻ con vẫn chạy chơi quanh đó. Cụ từ đình năm ấy chỉ tranh thủ về nhà ăn cơm lúc trời nhập nhoạng tối, chừng 2 tiếng đồng hồ thôi. Thế mà, ra đến nơi trộm đã phá tung cả 2 lần cửa khóa, vào hậu cung lấy tất cả đạo sắc mang đi. Nhưng may sao, trong lúc vội vàng, tên trộm vô tình làm rớt lại một đạo sắc của Vua Đồng Khánh.

Thế là, đình năm đó, mất 27 đạo sắc và chỉ giữ lại 1 đạo do may mắn. Tất cả bát hương bằng sứ trên ban thờ cũng bị mất. Trộm đổ tung tóe chân hương ra ban thờ. Cơ quan Công an đến, khám nghiệm hiện trường, khoanh vùng điều tra. Niềm an ủi của các bậc cao niên trong làng khi đó là 1 đạo sắc còn lại và tất cả những bản sắc đó đều đã được cụ Đỉnh - người biết chữ Hán Nôm ghi lại nội dung sắc và dịch đầy đủ.

Hồi mất sắc năm đó, cũng còn một cái may nữa, dân làng tin vào sự trong sạch của cụ thủ từ - người đã có 20 năm trông coi và hương khói ở đình. Nhưng niềm hy vọng tìm lại các đạo sắc chưa bao giờ nguôi trong các thế hệ người làng. Cụ Phạm Quang Vinh kể lại, thời điểm 2006 còn đang làm Phó Chủ tịch xã Tri Trung. Ngày ấy, cụ cùng người dân trong làng ngược xuôi tìm sắc, hỏi hết từ những tay chơi cổ vật quanh vùng cho đến ngoài Hà Nội. Việc tìm kiếm vô vọng đến nỗi phải nhờ đến “niềm tin tâm linh” kiểu như “đông tây y tử vi kết hợp cúng bái”. Khi đó, cụ đại diện cho chính quyền địa phương cùng vài người làng đi gặp một nhà ngoại cảm nổi tiếng ở Hải Dương. Cũng phải lần mò qua vài mối quan hệ để “có lời”… nhờ, xếp hàng mãi mới đến lượt vào gặp nhà ngoại cảm. Nhà ngoại cảm ở Hải Dương lúc đó phán: “Về đi, bây giờ chưa thấy, nhưng rồi sẽ thấy!”. “Đoàn quân” đi tìm sắc phong của cụ Vinh thôi thế là thôi, đành đi về và chờ...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 8

Di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội)

Năm 2022. 16 năm sau ngày bị mất sắc phong, nhà sưu tập Đặng Vũ Khương đăng lên mạng xã hội nội dung thông tin của 8 đạo sắc thời Nguyễn, có địa chỉ chính xác và tên đình Tri Chỉ, đồng thời bày tỏ muốn tặng lại cho chính quyền và nhân dân địa phương. “Tìm lại được 8 đạo sắc thôi cũng đã sung sướng quá rồi, ầm hết cả làng lên, ai cũng vui. Thật bất ngờ và niềm vui cộng hưởng, sau một thời gian, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Dũng và Tiến sĩ Chu Xuân Giao dịch thêm những bản sắc đang được nhà sưu tập Đặng Vũ Khương lưu giữ thì tổng cộng có 22 đạo sắc của đình Tri Chỉ cả thảy” - cụ Phạm Vũ Đỉnh kể lại - “Lúc đó chúng tôi cũng bày tỏ nguyện vọng tìm lại thêm 5 đạo sắc thời nhà Tây Sơn, nhưng các nhà nghiên cứu giải thích lý do là những sắc của nhà Tây Sơn bây giờ hiếm lắm. Bởi lẽ, khi Vua Gia Long lên ngôi, lập ra nhà Nguyễn thì cái gì tồn dư từ thời Tây Sơn hầu hết đều bị phá bỏ. Đình làng Tri Chỉ còn giữ được 5 đạo sắc đến giờ là quá giỏi. Thêm nữa, sắc phong thời Tây Sơn thường không ghi rõ địa danh cụ thể như thời Nguyễn, nên rất khó tìm. Sắc cầm đây rồi nhưng cũng chưa biết có phải thật sự của đình làng mình không. Nhưng thôi, 22 đạo sắc sau 16 năm mất cắp bằng một sự thần kỳ đến không ngờ đã quay trở về. Tìm lại được sắc phong như là hồn cốt của ngôi đình đã trở về”.

Đình Tri Chỉ thờ Linh Lang đại vương là một võ tướng thời Lý (chính là hoàng tử Hoằng Chân). Thần đã chiến đấu dũng cảm trên dòng sông Như Nguyệt trên trận tuyến sông Cầu chống quân Tống xâm lược. Thần đã hy sinh anh dũng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhà Vua vô cùng thương tiếc ban phong sắc chỉ, truyền các nơi thờ phụng để nhớ công đức. Đình Tri Chỉ thờ Ngài làm Thành hoàng làng. Ngoài thờ Linh Lang đại vương, đình Tri Chỉ phối hợp thờ các vị Đông Hải, Thủy Hải là những người tài cao học rộng, dũng cảm phò Vua Lê trong công cuộc chống quân xâm lược nhà Minh thế kỷ XV.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 9

Đình Tri Chỉ cơ bản vẫn giữ được những nét cổ kính gồm các ngôi đại bái, trung cung và hậu cung. Ngôi đại bái có cấu trúc mặt bằng hình chữ Nhất, gồm có ba gian hai chái. Kiến trúc bên ngoài xây tường hồi vỉ ruồi tay ngai, bốn mái đao cong, lợp ngói mũi. Kết cấu bộ khung bên trong bốn hàng chân cột gỗ, sáu bộ vì với tổng số 24 cột bằng gỗ tứ thiết. Cột gỗ vì giữa có đấu vuông thót đáy là dấu tích còn lại từ thời Lê. Trên thượng lương còn ghi dòng chữ Hán cho biết thời điểm khởi dựng ngôi đình là năm 1771; đến thời Nguyễn năm 1886, 1940, đình được tu sửa và tôn tạo lần cuối vào năm 1988 để có quy mô di tích như hiện nay.

Cấu trúc các bộ vì làm theo kiểu thức thượng rường cốn, hạ bẩy. Điêu khắc nghệ thuật tập trung trên bốn câu đầu dư đục chạm đầu rồng và bức cốn trên hai bộ vì gian giữa trang trí các khối chạm voi, rồng, phượng mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung hưng. Ngoài ra trên cốn, đầu bẩy còn được đục chạm các điển tích tứ linh long, ly, quy, phượng và tứ quý tùng, cúc, trúc, mai miêu tả con rồng đuôi xoắn, bờm rậm, mặt nom dữ tợn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn muộn. Đặc điểm kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trong đình Tri Chỉ có những mảng khối tương đối rõ nét của hai thời Lê - Nguyễn. Với những giá trị của mình, đình Tri Chỉ được xếp hạng cấp Quốc gia năm 1985.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 10

Người dân thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội chuẩn bị các công đoạn cho thời khắc đón 2 đạo sắc phong thời Nguyễn trở về Ảnh: Trần Quân

Diện kiến “báu vật” trở về với Quán Vật

Cũng là may mắn, trong quá trình tìm kiếm tư liệu cho loạt bài viết này, chúng tôi tình cờ được tham dự Lễ trao tặng hai đạo sắc phong thời Nguyễn cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) từ nhà sưu tập Bùi Văn Quang (Nam Định) vào ngày 25-7-2023. Lễ trao tặng diễn ra trước ngày giỗ đức Thánh của Quán Vật đúng một ngày.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 11

Cụ Phạm Vũ Đỉnh (người dân làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội) - người từng có thời gian dài trông coi đình kể lại, làng Tri Chỉ vốn có 28 đạo sắc. 22 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn ban phong. 6 đạo còn lại là của triều Tây Sơn. Cái ngày xảy ra mất sắc là một buổi chiều ngày 29-10-2006. Hôm đó, thanh niên trong làng vẫn tụ tập ở sân đình đánh cầu lông như mọi khi, trẻ con vẫn chạy chơi quanh đó. Cụ từ đình năm ấy chỉ tranh thủ về nhà ăn cơm lúc trời nhập nhoạng tối, chừng 2 tiếng đồng hồ thôi. Thế mà, ra đến nơi trộm đã phá tung cả 2 lần cửa khóa, vào hậu cung lấy cả 28 đạo sắc mang đi.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 12

Cụ Phạm Quang Vinh kể lại, thời điểm 2006 còn đang làm Phó Chủ tịch xã Tri Trung. Ngày ấy, cụ cùng người dân trong làng ngược xuôi tìm sắc, hỏi hết từ những tay chơi cổ vật quanh vùng cho đến ngoài Hà Nội. Việc tìm kiếm vô vọng đến nỗi phải nhờ đến “niềm tin tâm linh” kiểu như “đông tây y tử vi kết hợp cúng bái”. Khi đó, cụ đại diện cho chính quyền địa phương cùng vài người làng đi gặp một nhà ngoại cảm nổi tiếng ở Hải Dương. Cũng phải lần mò qua vài mối quan hệ để “có lời”… nhờ, xếp hàng mãi mới đến lượt vào gặp nhà ngoại cảm. Nhà ngoại cảm ở Hải Dương lúc đó phán: “Về đi, bây giờ chưa thấy, nhưng rồi sẽ thấy!”. “Đoàn quân” đi tìm sắc phong của cụ Vinh thôi thế là thôi, đành đi về và chờ...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 13

Cụ Vũ Đình Thức vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa kể rằng, nhận được thêm 2 đạo sắc nữa từ nhà sưu tập Bùi Văn Quang không chỉ người già trong thôn đâu mà người trẻ cũng vui lắm. Đây này, cụ nói rồi lấy tay chỉ, cả khoảng sân rộng của Quán Vật hôm nay ngày sắc phong trở về toàn thanh niên trai trắng đỡ đần việc Thánh. Người thì cắt mấy nải chuối xanh ra khỏi buồng, người thì đồ xôi, đóng oản. Kiệu đã được khênh ra giữa sân, chuẩn bị sẵn cho lễ rước tế vào ngày hôm sau. Cụ Thức bảo, di tích làng tôi, tưởng giữ được 2 đạo sắc vua ban đã quý, giờ lại có thêm hai đạo nữa thì chẳng còn niềm vui nào lớn hơn thế!

Quán Vật (thôn Đồng Nanh) nằm trên núi Đồng Nanh, xưa kia gọi là núi Mã Yên. Đứng từ sân Quán Vật bây giờ, có thể phóng tầm mắt ra nhìn khắp cả cánh đồng trước mặt rộng lớn, nhìn được cả sang “bên kia” là trung tâm Hà Nội, nơi có những tòa nhà bê tông cao lừng lững, chen chúc nhau đứng. Ông Nguyễn Hữu An - một trong những thủ từ của Quán Vật cho biết, ngôi quán với lối kiến trúc độc đáo này là 1 trong 5 quán và đình của xã Tiên Phương ngày nay, xưa là Tiên Lữ, thờ Ngũ vị Đại vương, gắn liền với thánh tích chùa Trăm Gian từ thời nhà Trần. Tương truyền, khoảng năm 1310 thời Trần Anh Tông, vua cho xem địa thế đất, xây dựng chùa Trăm Gian đồng thời cho thờ Ngũ phương để trấn yểm nhằm giữ cho chùa và nhân dân Tiên Lữ được bình yên. Do đó, Quán Vật cũng được khởi dựng từ thời điểm này thờ Đức Nam phương đại vương hay còn gọi là Mã Yên cao sơn đại vương.

Qua các triều đại, Đức Nam Phương được thờ ở Quán Vật có nhiều lần hiển linh giúp Vua Trần và các triều đại sau này đánh thắng giặc ngoại xâm nên được vua và các triều đại sau này ban cấp sắc phong là Thượng đẳng thần. Có một điều rất đặc biệt về nội dung của sắc phong ở Quán Vật là, dù là đời vua nào phong thì cũng có hai đạo sắc giống hệt nhau cả về ngày tháng, chỉ khác nhau một chữ “Nội thôn” hoặc “Thượng thôn” mà thôi. Điều này được các cụ trong làng giải thích rằng, thời phong kiến, Tiên Lữ chia làm hai thôn Thượng thôn và Nội thôn đồng thời cũng chia ra làm Đông Lý và Nam Lý cai quản và lo việc cúng tế, xây dựng Quán Vật. Hàng năm luân phiên giữa Đông Lý và Nam Lý lo việc cúng tế. Cũng vì cả hai thôn đều lo việc tế lễ và xây dựng Quán Vật nên các triều đại cũng đã cùng lúc ban cấp sắc phong cho cả hai thôn thờ phụng Đức Nam Phương. Cụ thể nhất là thời Sơn Tây và Vua Duy Tân.

Những người già ở thôn Đồng Nanh kể rằng, cụm di tích gồm 3 quán và 2 đình của xã có khoảng 12 sắc phong qua các triều đại. 10 đạo sắc còn lại mất khi nào, trong bối cảnh nào, thậm chí mất năm nào cũng không ai biết. Người thì bảo thời điểm mất vào khoảng những năm 90 của thế kỷ trước. Người thì khẳng định, chắc chắn phải mất vào khoảng những năm 60.

Rót chén trà đầy rồi đẩy đĩa trầu cau trước mặt chúng tôi mời, cụ Vũ Đình Thức vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa kể rằng, nhận được thêm 2 đạo sắc nữa từ nhà sưu tập Bùi Văn Quang không chỉ người già trong thôn đâu mà người trẻ cũng vui lắm. Đây này, cụ nói rồi lấy tay chỉ, cả khoảng sân rộng của Quán Vật hôm nay ngày sắc phong trở về toàn thanh niên trai tráng đỡ đần việc Thánh. Người thì cắt mấy nải chuối xanh ra khỏi buồng, người thì đồ xôi, đóng oản. Kiệu đã được khênh ra giữa sân, chuẩn bị sẵn cho lễ rước tế vào ngày hôm sau. Cụ Thức bảo, di tích làng tôi, tưởng giữ được 2 đạo sắc vua ban đã quý, giờ lại có thêm hai đạo nữa thì chẳng còn niềm vui nào lớn hơn thế!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 14

Nhà sưu tập Bùi Văn Quang hôm đó cũng có mặt ở thôn Đồng Nanh. Trò chuyện cùng chúng tôi, anh bảo, không thể lý giải được việc vì sao anh lại “bén duyên” với sắc phong, đi thu mua, thuê dịch rồi mang đến tặng lại cho từng di tích. Mới hai hôm trước thôi, anh đã tặng lại 3 sắc phong cho Thanh Lãm, phường Phú Lãm, quận Hà Đông.

Tìm mua sắc phong, thuê người dịch, tìm đến từng địa danh ghi trên sắc để tìm cho đúng di tích, rồi liên hệ với địa phương và trao tặng… Nếu hiểu theo cách nghĩ thông thường, thì hẳn nhiên nhà sưu tập Bùi Văn Quang làm những việc này vì đam mê. Chúng tôi đã hỏi anh một câu theo đúng “công thức” của phỏng vấn báo chí, tức là mỗi khi làm xong được một việc có ý nghĩa như này, hẳn anh sẽ thấy lòng mình nhẹ nhõm thì nhận lại cái lắc đầu của anh: “Không! Tôi thấy thật nặng nề và mệt mỏi!”.

PGS.TS Phạm Lan Oanh - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia: Bảo vệ sắc phong là bảo vệ di sản văn hóa

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 15

PGS.TS Phạm Lan Oanh - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia trao đổi với phóng viên An ninh Thủ đô

* Sắc phong thật sự là một báu vật được giữ kín

* Ứng xử cực đoan đối với di sản là câu chuyện có thật

* Chuyện mất sắc phong râm ran từ những năm 90 thế kỷ trước

* Công cuộc tìm lại cả “phần xác” lẫn “phần hồn” cho di tích

* Đề cao nhận thức sắc phong là di sản tư liệu thiêng

* Bảo vệ sắc phong là trách nhiệm của cả cộng đồng

Từ hòm sắc biến thành… hòm sắt

- Phóng viên: Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết sắc phong được bảo tồn qua các dòng họ, làng, xã… và vẫn luôn chờ đợi các cuộc khám phá sâu rộng hơn của đội ngũ chuyên gia nghiên cứu để khơi mở, làm giàu thêm ý nghĩa và giá trị của các đạo sắc phong. Vậy, sắc phong hình thành và tồn tại thế nào trong ký ức của bà, thưa Phó Viện trưởng?

- PGS.TS Phạm Lan Oanh - Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia: Giữa niềm tin linh thiêng và gìn giữ di sản văn hóa, sắc phong thật sự là một báu vật được giữ kín. Tại sao vậy? Bởi những gì liên quan, gắn liền đến vua, thần thường rất thiêng liêng, là sự “kỵ húy” không được nhắc đến, hoặc bàn ra tán vào. “Kính thần như thần tại” là như vậy đó! Người lạ không được lại gần, người làng không có nhiệm vụ cũng không được tiếp cận, hoàn toàn không được biết trong đó có gì. Trong đình, chỉ có ông từ mới được chạm đến các đạo sắc phong. Trải qua thời gian, không gian trong hậu cung cũng vì thế mà bảo mật hoàn toàn, gọi là cung cấm một phần vì lẽ đó. Từ năm 1990 trở về trước hay thậm chí đến những năm 2000, những ông từ, người trông coi hương khói ở các nơi thờ tự là những bậc cao niên giữ nguyên tắc lắm, nên có khi nhìn thấy hòm sắc trong hậu cung cũng không dám mở ra xem, nếu vô tình có thấy cũng không biết nội dung là gì. Khi các đoàn công tác là cán bộ bảo tàng về di tích làm hồ sơ, đề nghị các cụ cho xem sắc phong thì rất nhiều thủ tục được diễn ra. Ông từ hoặc người trông coi di tích vào hậu cung, làm lễ, mời chính quyền địa phương, cán bộ văn hóa thôn, làng đủ đầy thành phần chứng kiến mới dám mở hòm lấy sắc phong cho “người lạ” xem…

Quay trở lại câu chuyện của tôi, bắt đầu đi làm tôi đã biết tới các đạo sắc phong khi đến các di tích đình, đền, nghè… Thường sắc phong được lưu giữ tại đình, đôi khi được cất tại nghè, miếu hoặc từ đường dòng họ, thậm chí có trường hợp cất tại nhà riêng của người trông coi di tích. Thực tế được trải nghiệm mới thấy, chỉ đến lúc cán bộ văn hóa tiếp cận hòm sắc mới biết được có bao nhiêu sắc phong, đời nào, nội dung gì... Sự tôn kính quá mức lại thành bất ổn bởi lẽ, các đạo sắc mỏng manh được gìn giữ “nghiêm ngặt” trong chiếc hòm sắc đôi khi bị mất cắp lúc nào cũng chẳng hay! Một hòm sắc chuẩn được làm bằng chất liệu gỗ, sơn son. Nhưng thực tế, rất nhiều sắc phong được bọc gói kín bằng túi nilon và đựng trong hòm bằng sắt tây để trong hậu cung. Vậy là từ hòm sắc biến thành hòm sắt!

- Theo ý Phó Viện trưởng, việc “mất cắp bất cứ lúc nào” có phải xuất phát từ cả nguyên nhân trong ý niệm cực đoan về bảo quản đồ thờ, mà cụ thể ở đây là các đạo sắc phong?

- Ứng xử rất cực đoan đối với di sản là câu chuyện có thật. Trong quá trình điền dã của chúng tôi, thực sự nhiều cụ từ “ngại cho xem” sắc phong. Nguyên do vì giữ tính thiêng thì như tôi đã trình bày ở trên, thêm nữa cũng có chuyện các cụ kể lại rằng, có đoàn cán bộ văn hóa đến, mở hòm sắt cho xem đạo sắc phong, mấy tháng sau các đạo sắc bỗng dưng… biến mất. Mà đúng thế thật, chuyện sắc phong bị mất trộm đâu có xa lạ gì! Nhưng tất nhiên không phải vì có cán bộ văn hóa về làm việc phục vụ công tác nghiên cứu dẫn đến mất trộm! Chúng tôi là các nhà nghiên cứu, làm công tác bảo vệ di sản chứ có phải những “kẻ môi giới” cho các đối tượng trộm cắp đâu! Mất sắc phong là câu chuyện không hề đơn giản khi truy tìm nguyên do.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 16

Ngày 30-10-2022, người dân làng Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, Hà Nội tổ chức đại lễ mừng 22 đạo sắc sau 16 năm lưu lạc ngoài nhân gian đã trở về với đình làng

- Theo Phó Viện trưởng, công tác gìn giữ, bảo vệ các đạo sắc phong tại các nơi thờ tự ngoài việc cực đoan còn thực trạng gì nữa không?

- Cực đoan là cho sắc phong vào hòm sắt, cất vào két, xoay mã, khóa chặt. Không ai được xem, chẳng ai được tiếp cận, nhiều năm chẳng mở ra xem trong ruột còn hay mất, thực trạng thế nào. Nhiều người dân không hề biết làng, xã mình có bao nhiêu sắc phong, không biết sắc được phong cho ai, nội dung trong đó viết gì, đúng sai như thế nào. Thời kỳ cải cách ruộng đất, rồi sang Đổi mới, nhiều đồ thờ tự trong quá trình tiêu thổ kháng chiến được dồn về một nơi, di tích nào thiêng thì đưa vào, có thể là chùa, đình, đền, nghè… Giai đoạn này, đình hoặc nghè, là nhiều đồ thờ tự nhất, cất hết vào hòm sắt, niêm phong, khóa chặt, miễn là không mất là được, có gì, còn gì không ai biết, chẳng ai hay. Từ đó dẫn đến việc bảo quản đồ thờ nói chung và các đạo sắc phong nói riêng rất lộn xộn.

Sắc phong được quan tâm trong bối cảnh phục dựng di tích

- Đến khi nào thì đạo sắc phong được người dân địa phương thực sự quan tâm?

- Trong bối cảnh phục dựng di tích. Thứ nhất, trước năm 1954, chúng ta có đình, đền, miếu…; đình bị phá nhưng vẫn may mắn còn lại nhiều nhất, nhưng đền, miếu… bị hư hỏng hoặc mất hết! Trên nền di tích cũ, chính quyền địa phương và người dân có ý định xây dựng lại và bắt đầu đi tìm bằng chứng để được cấp phép xây dựng. Thứ hai, sau khi di tích được phục dựng, sắc phong còn lại là một trong những chứng cứ đắt giá để xếp hạng di tích cấp tỉnh, thành phố, quốc gia. Quá trình ấy phục vụ cho công cuộc tìm lại cả “phần xác” lẫn “phần hồn”. Không chỉ sắc phong, từ “ngọc phả”, “thần tích”…, tất tần tật những gì liên quan đến di tích đều được tìm kiếm. Lúc này cơ quan nghiên cứu, giới chuyên môn, cán bộ bảo tàng mới vào cuộc vì hàng năm vẫn được cấp ngân sách phục vụ công tác chuyên môn, mà ở đây là quá trình làm hồ sơ di tích. Tiếp nữa, gắn với các di tích lịch sử - văn hóa của làng, xã không thể thiếu lễ hội nhằm góp phần bảo lưu, phục hồi những nét đẹp truyền thống trong đời sống cộng đồng. Thế là, những câu chuyện gắn với các vua quan, thần thánh xuất hiện để phục dựng lễ hội. Bằng cách nào? Người dân mới nảy sinh ra nhu cầu tìm lại lai lịch thần hoàng làng hoặc thánh thần địa phương. Vậy họ tìm ở đâu? Tìm ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm; Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội; các bảo tàng tỉnh, thành phố; các Sở Văn hóa…; thậm chí tìm ở các nhà sưu tập tư nhân và ở thư viện nước ngoài. Trong số này, Viện Thông tin Khoa học Xã hội có nhiều công trình nghiên cứu nhất, được kế thừa tư liệu và sau đó tập hợp in trong 2 tập thư mục về “thần tích, thần sắc” của Viện Viễn Đông Bác cổ từ năm 1938. Chính quyền địa phương nhờ cán bộ bảo tàng tìm tư liệu, chụp lại, phục dựng và rước về làng, xã để thờ phụng, hợp thức hóa lai lịch của các vị thần. Nhờ quá trình truy tìm sắc phong, rất nhiều địa phương đã thành công trong việc đưa trở lại những sắc phong đã bị mất lâu nay về đúng địa chỉ, hoặc có được những thông tin đắt giá, đáng tin cậy về những sắc phong đã từng có ở địa phương, mang lại niềm tự hào cho cộng đồng.

- Trong hành trình tìm lại “phần hồn” cho di tích, sắc phong có giá trị quan trọng như thế nào?

Sắc phong là một hiện vật đặc biệt trong di tích

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (3): Chuyện bảo quản “báu vật” và những đạo sắc bất ngờ... trở về ảnh 17

“Sắc phong là loại văn bản tư liệu chữ viết của Triều đình Nhà nước phong kiến dành phong tặng cho hệ thống thần linh đất nước và những cá nhân có công lao xuất sắc trong gia tộc, dòng họ. Sắc phong cùng với hệ thống hoành phi, câu đối, ngọc phả, truyền thuyết địa phương... khiến cho việc nhận diện khuôn diện tín ngưỡng, tâm linh của cha ông ta trở nên có bề dày và cơ sở đáng tin cậy. Câu chuyện về sắc phong cũng không kém phần ly kỳ, mất khi nào không ai biết, mất cách nào không ai hay nhưng lại trở về đúng nơi xuất phát một cách thần kỳ - “kính thần như thần tại”. Bảo vệ sắc phong là bảo vệ di sản văn hóa, là trách nhiệm của toàn thể cộng đồng”.

PGS.TS Phạm Lan Oanh (Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia)

- Câu chuyện sắc phong lúc này mới đặt ra một cách cấp thiết. Bởi vì làng thờ ai? Có sắc phong không? Thực tế làng có nhiều sắc phong chứng tỏ có các vị thành hoàng làng có bề dày công trạng được các triều đại phong kiến công nhận. Từ nhu cầu chính đáng đó bắt đầu nảy sinh câu chuyện rất đáng suy ngẫm. Đó là dân số người Việt ở Bắc bộ có quy mô “nở”, cứ sau 10 - 20 - 30 năm dân số ở làng ngày một tăng lên, khoảng 50 - 100 nóc nhà là bắt đầu hình thành nên các xóm, trại, thôn, làng mới. Mà đã là làng thì phải có đình - là nơi tụ họp toàn dân, chùa - nơi thờ Phật, nơi nào thờ thần thì xây dựng đền, miếu, có học vấn thì xây văn chỉ, văn từ… Thực tế là quy mô dân số tăng lên sẽ hình thành các thiết chế tâm linh mới phục vụ “phần hồn” trong đời sống người dân. Việc làm đơn giản nhất là quay về chốn xưa làng cũ để xin sao chép ngọc phả. Từ những năm 1938, trong cuộc điều tra của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, bản khai “thần tích, thần phả” được viết lại bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán Nôm, chữ Pháp, có dấu triện của chính quyền địa phương. Sau này, người dân tìm kiếm từ kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Viện Thông tin Khoa học Xã hội sao ra để thờ tự. Thế nhưng, làng mới thì lấy đâu ra sắc phong, họ chỉ có thể sao chép “ngọc phả” mà thôi (?!). Chỉ làng gốc mới có sắc phong. Có khi tại làng gốc bị mất sắc phong tự bao giờ còn chẳng biết thì làng mới lấy đâu mà sao chép (?!). Sao chép bằng cách nào (?!). Bởi vậy, giá trị của sắc phong đối với các địa phương càng trở nên quý giá!

Chuyện mất sắc phong lâu rồi, hơn 30 năm nay rồi…

- Vậy chuyện thờ phụng chung sắc phong, chung ngọc phả là có thật?

- Lịch sử hình thành làng, xã có từ rất lâu đời. Sự đa dạng của cơ cấu làng, xã liên quan trực tiếp đến việc chính danh cho các vị thần được thờ phụng ở các địa phương, bằng việc khẳng định các chức danh Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần hay Hạ đẳng thần. Một vị thần có thể từ Hạ đẳng thần, qua năm tháng được “thăng hạng” lên Trung đẳng thần, được ban thêm mỹ tự rồi lên Thượng đẳng thần. Vì vậy, 1 vị thần 10 làng đều thờ dù các làng đó ở cùng hoặc ở các tổng/huyện khác nhau là chuyện hết sức bình thường. Có làng thờ chính, các làng khác chỉ đến góp lễ và rước kiệu về. Hoặc có những vị thần không phải chỉ có một làng thờ mà tầm quốc tế - (tức là vua về tế lễ). Bình thường là quan đầu tỉnh, đầu huyện tế, có những năm vua đích thân về tế chứ không phải làng, xã tế thần.

Về chuyện sắc phong, 3 làng, 10 làng thờ một vị thần nhưng sắc phong chỉ có một làng nhận ân điển, các làng còn lại do quy mô dân cư “giãn, nở” thì sẽ rước vòng quanh, luân phiên giữ sắc phong, ai giữ phải có trách nhiệm bảo vệ an toàn. Nhưng cũng có chuyện, làng tôi là “anh cả/dân tạo lệ” nên có quyền giữ mãi mãi, làng khác phận “làm em” thì đi xin sao chép để làng anh anh giữ, làng em em giữ. Tuy nhiên, theo lệ xưa, chỉ sao chép ngọc phả chứ không được sao chép sắc phong. Vẫn chuyện sắc phong, khi tổ chức lễ hội thì sắc vẫn “đâu yên vị đó”, không mở, không khoe vì các thông tin trong ngọc phả đã được thể hiện trong văn tế đúng niên hiệu, mỹ tự của các thần rồi. Sắc phong vô hình trung là câu chuyện bí mật, hầu như không bao giờ được đề cập đến. Lưu ý, ngọc phả là nội dung liên quan tới các vị thánh thần được thờ tại di tích đó hoặc vùng, miền đó có liên hệ rất chặt chẽ với truyền thuyết địa phương. Nhiều làng, xã có chung ngọc phả nhưng không phải làng, xã nào cũng có sắc phong. Thế nên chung sắc phong là chuyện hy hữu, chung ngọc phả là chuyện bình thường.

Từ những năm 90 thế kỷ trước, khi lễ hội rầm rộ trở lại là râm ran chuyện mất sắc phong. Nghĩa là, câu chuyện mất cắp sắc phong đã lâu lắm rồi! Không phải đến khi Đền Quốc tế ở thôn Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ hay đình Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội mất sắc phong, được bán đấu giá ở Trung Quốc gây xôn xao dư luận mới tá hỏa “lạ thay”! Chuyện này lâu rồi, hơn 30 năm nay rồi…

- Chuyện diễn ra lâu, nhưng không phải ai cũng biết, chỉ đến khi Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” phát đi thông tin đấu giá trong đó có những đạo sắc là hiện vật gốc có nguồn gốc của Việt Nam vào lúc 9h30 ngày 22-4-2023 thì đó thật sự là nguy cơ hiện hữu?

- Tôi không chủ quan để nói nhiều người biết, cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản lý, bảo tàng, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, giới trong nghề… đều biết. Một phần nơi bị mất sẽ báo, cũng có chỗ mang tâm lý giấu giếm thông tin, nhưng nếu đã mất kiểu gì cũng bị lộ ra. Mới đây, khi chúng tôi đi khảo sát một số làng ở huyện Mỹ Đức và Ứng Hòa, nhờ các cụ mang hết sắc phong ra cho kiểm tra, bỗng dưng thấy có thêm một sắc phong “mới”, hóa ra là có từ lâu rồi nhưng các cụ giữ bí mật nhất quyết không kê khai, hoặc kê khai “thiếu sót”, “đếm nhầm”… Điều đó có nghĩa, việc quản lý di sản, đặc biệt là sắc phong ở nhiều địa phương khá là/hoặc rất là… hời hợt. Thời gian gần đây, khi thông tin báo chí “bùng lên”, dư luận xôn xao về chuyện mất sắc phong như “thông tin giật gân”, nhưng các nhà nghiên cứu, quản lý, bảo tồn di sản đã phải đối mặt từ nhiều năm rồi.

Dự kiến, năm 2024, Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi Luật Di sản văn hóa. Chúng tôi đã nghiên cứu để góp ý xây dựng Luật hơn 2 năm nay, cẩn thận, tỉ mỉ, chi tiết, dự kiến đến tháng 12-2023, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phải góp ý xong để hoàn thiện trình Chính phủ. Thực sự đang có rất nhiều việc trên phương diện nghiên cứu được các chuyên gia đặt ra mà chưa xử lý được. Đơn cử, sắc thật đã mất, nhiều nơi có bản chụp hình ảnh nội dung sắc phong, nếu in ra mang về đình thờ thì có được không? Có bị quy là nhái, làm giả sắc của chính địa phương mình không? Có đóng dấu đỏ không? Chất liệu giấy gì, giấy sắc trang trí có đúng niên đại không? Ai làm dịch vụ sao sắc, phục chế sắc… Sắc để ở hậu cung hay treo tường để mọi người cùng biết?... Đây là các vấn đề đã đặt ra từ thực tiễn.

Sắc phong là di sản văn hóa vật thể, nhưng thực hành thờ cúng lại là di sản văn hóa phi vật thể. Niềm tự hào là có thật, nguyện vọng của người dân là chính đáng, nhưng nguyên tắc cũng phải đúng. Câu hỏi đặt ra là làm gì để không vi phạm luật? Sửa đổi luật là trách nhiệm của cơ quan quản lý. Quan trọng nhất là chúng ta sửa đổi luật thế nào để cập nhật, theo kịp được những thực tiễn đặt ra từ công tác quản lý di sản văn hóa trong bối cảnh biến đổi của xã hội hiện nay mà vẫn đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân, tránh sự tự phát dẫn đến vi phạm luật.

Thời gian gần đây, tính chất nghiêm trọng của chuyện mất sắc phong được đẩy lên cao trong sự bức xúc. Nhưng thực ra về phương diện quản lý xã hội thì không có gì bất ngờ, chỉ có điều, chúng ta chưa có quy định trong luật, chưa trở thành chủ đề “nóng” cho mọi người cùng luận bàn. Sắc phong khác nhiều so với những hiện vật đã được công nhận bảo vật quốc gia. Ví dụ như thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế ở dạng “nhất thi nhất họa”, “nhất tự nhất họa” ở cố đô Huế được công nhận di sản văn hóa, là niềm tự hào của quốc gia. Phục chế như thế nào, quy định, tỷ lệ, đánh số, Luật Di sản văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả đều có rồi (và có thể tham chiếu với các quy định của những nước tiên tiến trên thế giới), nhưng rõ ràng việc tích hợp các luật hay các nghị định chưa gắn với đời sống tâm linh làng, xã mà thường có xu hướng gắn với sản phẩm công nghiệp văn hóa, sản phẩm có tính chất thương mại nhiều hơn.

Thất thoát di sản văn hóa một cách đáng tiếc xảy ra tại cộng đồng

- Mất hàng chục năm về trước, ai cũng biết, vậy tại sao tới tận bây giờ chúng ta mới bàn thảo vấn đề sửa luật?

- Bởi vì chưa thực sự bức xúc ở phạm vi toàn xã hội, thậm chí là ở cả nước ngoài do truyền thông bây giờ quá nhanh!

- Vậy thời điểm này đã đủ cấp thiết, thưa Phó Viện trưởng?

- Rất cấp thiết. Thực ra trước đây mảng di tích và các di vật phụ thuộc (hiểu là đồ thờ tự trong di tích) đã “nóng”, đến bây giờ vẫn “nóng” và trong tương lai càng “nóng”. Mất tượng, mất sắc phong, mất đồ thờ như là đỉnh đồng, lư hương, chóe cổ, bình hoa cổ… đều đã xảy ra. Có những nơi may mắn thì mua/chuộc được về. Có những nơi cực kỳ may mắn thì chính kẻ trộm mang trả lại di tích đồ đánh cắp với tâm thế sám hối ăn năn. Nhưng rất nhiều nơi, đồ thờ đã mất không bao giờ có cơ hội tìm lại. Đây chính là hiện tượng thất thoát di sản văn hóa một cách đáng tiếc xảy ra tại cộng đồng.

- Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu, Phó Viện trưởng đánh giá như thế nào về việc sửa đổi Luật Di sản văn hóa?

- Chắc chắn phải sửa luật. Trong những giai đoạn khó khăn nhất của đại dịch Covid-19 diễn ra, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, cụ thể là Cục Di sản văn hóa vô cùng tích cực, làm trong âm thầm nhiều năm liền, họp bàn tới hàng chục lần mới ra được một dự thảo. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu vô cùng quan tâm, như cá nhân tôi, chỉ tính riêng Chương về Di sản phi vật thể đã góp ý bằng nhiều hình thức tới cả chục lần rồi.

Vậy giới nghiên cứu đề xuất việc bảo vệ sắc phong được lợi gì? Tôi khẳng định rất được lợi bởi câu chuyện sắc phong là chỉ một ví dụ, giống như đồ thờ trong di tích, như hoành phi, câu đối, y môn, cửa võng, bình phong…, rồi còn sách đồng, “ngọc phả” giấy dó 300-400 năm đã được chụp chiếu để lưu giữ.

Hiện tại, UNESCO phân loại di sản văn hóa phi vật thể có 5 loại, nhưng Luật Di sản văn hóa về nội dung phi vật thể của mình phân ra 7 loại. Có loại vừa là vật thể, vừa là phi vật thể như hoành phi, câu đối, sách cổ, minh văn trên bia, trên đá, chuông đồng, bát hương… thì xếp vào loại gì? Đòn Kiệu thời Hậu Lê đã 300 năm bị mối mọt hết có thay/làm mới được không? Bát hương, hoành phi, câu đối, nhang án… có được làm y như thật không?... Vậy luật nên bổ sung thêm di sản tư liệu dù đề xuất này vẫn đang có nhiều tranh luận. Tất cả phải được tích hợp với các liên quan gắn với trường hợp cụ thể là sắc phong để phân loại. Khi đưa ý kiến góp ý về di sản văn hóa phi vật thể, theo tôi cũng nên phân theo 5 loại để tương đồng với thế giới, ủng hộ một chương viết kỹ hơn về di sản tư liệu.

- Nếu Luật Di sản văn hóa được thông qua thì di sản như sắc phong sẽ được bảo vệ như thế nào?

- Đại hội XIII của Đảng đã ra Nghị quyết khẳng định vị thế của văn hóa. Kế thừa và tiếp nối tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943, chúng ta nên đề cao nhận thức sắc phong là di sản tư liệu thiêng. Sắc phong gốc ở di tích nào thì địa phương ấy phải là nơi bảo vệ, gìn giữ một cách an toàn nhất. Địa phương để mất sắc phong nói riêng, cũng như các vật thiêng, bảo vật, cổ vật trong di tích nói chung phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan quản lý văn hóa, ở đây có trách nhiệm của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch phải tổng rà soát, kiểm đếm khoa học định kỳ, dịch nghĩa, số hóa, dù tiêu tốn ngân sách vẫn phải làm đối với sắc phong cũng như các di sản văn hóa hiện tồn ở địa phương - đó là một trong những giải pháp hữu hiệu mà đã được quy định trong luật. Bảo vệ sắc phong là trách nhiệm không của riêng ai, mà phải của cả cộng đồng!

(Còn nữa)

https://www.anninhthudo.vn/hanh-trinh-theo-dau-vua-ban-dua-sac-phong-tro-ve-3-chuyen-bao-quan-bau-vat-va-nhung-dao-sac-bat-ngo-tro-ve-post548030.antd



2.

ANTD.VN - Không chỉ là một hiện vật có tuổi đời lên tới hàng trăm năm, mỗi đạo sắc phong ngoài giá trị về triều chính, thể chế thì nó còn là một loại hình di vật hàm chứa đầy đủ văn hiến học, văn hóa học cũng như lịch sử học. Dẫu biết giá trị là thế, nhưng cho đến nay, sắc phong hoàn toàn chưa được nhìn nhận và bảo tồn theo cách đúng đắn nhất có thể. Mỗi nơi một kiểu, mỗi phương một cách, mạnh di tích nào di tích ấy bảo quản, thậm chí là cất giấu theo nhiều biện pháp vô cùng… bất ổn.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 1

Sắc phong luôn được đặt ở trên ban thờ, nơi tôn nghiêm nhất trong hậu cung (Ảnh: Trần Quân)

Sắc phong dưới góc nhìn mỹ thuật và giá trị lịch sử

Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh - Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, dưới góc độ lịch sử, một đạo sắc có nội dung phản ánh về tên làng, xã, tỉnh… nơi có không gian thờ tự gắn với tên vị thần được thờ, niên hiệu đời vua cùng ngày, tháng, năm ban cấp sắc phong cho làng, xã, tổng huyện và vị thần được thờ đó.

Dưới góc độ khoa học, hệ thống lớp lang các đạo sắc từ nội dung đến hình thức sẽ góp phần đưa ra những nhận xét mang tính khoa học như: Việc ban cấp sắc phong cho những vị thần thường vào dịp nào? Mỹ tự được phong ban là gì? Bậc thần nào thì sẽ tương ứng với hình thức của đạo sắc như thế nào?...

Dưới góc độ nghệ thuật, mỹ thuật, mỗi đạo sắc không chỉ dừng lại là một văn bản mang tính pháp lý mà còn chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa cũng như giá trị thẩm mỹ sâu sắc. Nếu nội dung sắc phong cùng cách bố cục tạo nên một bức thư pháp hoàn chỉnh, thì đồ án hoa văn tạo thành nền trên mỗi đạo sắc là một bức đồ họa mang đến những cảm nhận thị giác về màu sắc, đường nét, hình khối, mà đề tài của đồ án hoa văn luôn hàm chứa, biểu đạt một ý nghĩa dường như nhất quán - đó là hình rồng trên đạo sắc tượng trưng cho nhà vua. Hình rồng chuyển động từ đầu sắc về đến cuối sắc (theo hướng nhìn của người đọc là từ phải qua trái), đầu ngoái lại “nhả ngọc phun châu” chính là các hàng chữ tạo nên nội dung sắc phong.

Bên cạnh đó, những hoa văn mây, chấm tròn phủ nhũ màu bạc giúp rồng ẩn hiện tạo nên lớp lang, chiều sâu cho bức tranh đồ họa. Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh phân tích, cách thức, kỹ thuật tạo nên những bản phôi sắc có phần tương đồng với kỹ thuật in, vẽ tranh Hàng Trống - đấy là in nét lấy hình và tô vờn màu. Nền giấy đạo sắc thường màu vàng, nhưng sắc độ giấy thì đa dạng. Hình rồng với mắt, vảy, cùng các họa tiết mây, đao lửa thường được phủ nhũ màu trắng bạc tạo nên hiệu quả ánh bạc lấp lánh trên nền giấy vàng. Những đồ án cùng hoa văn dù ở mặt trước hay mặt sau luôn mang đến những cảm nhận về không gian cả về bề rộng và chiều sâu. Nếu mặt trước là hình rồng chuyển động trên bầu trời đầy mây và tinh tú thì mặt sau sắc là sự chuyển động của tứ linh theo ngược chiều kim đồng hồ hay hình chữ vạn.

Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng, xét về văn hiến học, sắc phong là loại hình có văn tự, có ngữ nghĩa trong đó và có thể chế văn học. Sắc có quy cách viết theo từng thời vua và từng giai đoạn của vị vua đó. Nghĩa là, nội dung của sắc phong là một thể loại văn học. Ngoài giá trị về thể chế, triều chính ban cho một vị thần ở một địa phương di tích cụ thể thì nó là một loại hình di vật chứa đầy đủ văn hiến học, văn hóa học và lịch sử học của lịch sử văn hóa xã hội Việt Nam. Nó thực sự phải được coi là di sản của dân tộc chứ không phải của riêng cá nhân, làng, xã, huyện nào.

Nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Đức Dũng - chuyên viên chính Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch cho biết thêm, trên thị trường mua bán sắc phong, nhiều khi người mua sắc không quan tâm đến nội dung mà quan tâm nhiều hơn đến mỹ thuật - tức là giá trị mỹ thuật và niên đại. Người ta mua bản sắc vì con rồng đẹp, hoa văn lạ chứ thường là không thực sự quan tâm tới sắc này là phong cho ai và ở đâu!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 2

Sắc Huệ Trạch Hoằng Hiệp Đông Hải chi thần, hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Huệ Trạch Hoằng Hiệp Quảng Nhuận chi thần. Nhưng chuẩn Phú Xuyên huyện, Tri Chỉ xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu, bảo ngã lê dân. Khâm tai! Triệu Trị lục niên thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật (Dịch nghĩa: Sắc cho Huệ Trạch Hoằng Hiệp Đông Hải chi thần, giữ nước che chở cho dân, lâu nay tỏ rõ linh ứng. Nay Trẫm cả nhận mệnh trời, nhớ tới phúc thần, nên gia tặng là Huệ Trạch Hoằng Hiệp Quảng Nhuận chi thần. Vẫn cho xã Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên thờ phụng như cũ. Thần hãy phù hộ, che chở cho dân ta. Kính đấy! Ngày 26 tháng 12 năm Triệu Trị thứ 6 (1846)

(Ảnh: Trần Quân)

Sắc phong bị trộm cắp khủng khiếp nhất là sau đổi mới

Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam - PGS.TS Phạm Lan Oanh cho biết, gần 30 năm trước, khi bà mới tốt nghiệp đại học, đi làm, từ những buổi đầu đã có cơ hội được tiếp xúc với nhiều loại sắc phong trong di tích. Có những địa phương, sắc phong được để trong đền, trong đình hay nghè nhưng thông thường nhất vẫn là cất giữ ở hậu cung trong đình. Với quan niệm “kính thần như thần tại” thì sắc phong thực sự là hiện vật thiêng liêng. Chính vì thế, không phải người nào trong làng cũng được xem sắc phong, không phải ai cũng biết đình làng quê mình chính xác có bao nhiêu đạo sắc phong, nếu có biết thì cũng không hay sắc phong ấy ở thời nào, được vị vua nào ban, ban cho ai… Thường là chỉ có vài người có trách nhiệm trong việc thờ cúng ở di tích mới được “tận mục sở thị” sắc phong, bởi lẽ, bất cứ hiện vật nào liên quan đến thần thánh, đến sự linh thiêng nơi thờ tự đều được xếp vào diện “kỵ húy” hay “hèm”.

Thời điểm sắc phong bị trộm cắp khủng khiếp nhất là sau đổi mới, khoảng những năm 1990 thế kỷ trước trở đi. Khi đó, đời sống người dân bắt đầu khấm khá hơn. Chiến tranh đã lùi xa, kinh tế đất nước bắt đầu phục hồi trở lại. Các lễ hội sau bao năm chiến tranh, nghèo khó, bao cấp “thắt lưng buộc bụng” thì nay bỗng được “bung ra”, phục hồi theo cấp số nhân. Mặt trái của cuộc sống kinh tế thị trường lúc này là niềm tin tâm linh suy giảm ở một bộ phận người dân, thôi thì của thánh của thần nhưng mà thiếu cảnh giác, cửa giả mở toang, trông coi di tích toàn người già cả, mắt mờ chân chậm, thế là… “vô tư đi”. Có nơi, lợi dụng đêm tối hay giữa trưa vắng vẻ, tiện đường sá thì có khi đánh cả xe tải vào cửa đình, sân chùa hay đền phủ mà khuân đồ lên xe… rồi chạy.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 3

Đình Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội

Muôn phương ngàn cách cất giữ sắc phong

Trước thực trạng đó, để chống chọi với nạn trộm cắp cổ vật “nhanh như chảo chớp” thì rất nhiều người trông coi di tích đã nghĩ ra những cách bảo quản, cất giấu sắc phong nói riêng và di vật quý trong di tích nói chung theo những cách “vô tiền khoáng hậu”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 4

“Sắc có quy cách viết theo từng thời vua và từng giai đoạn của vị vua đó. Nghĩa là, nội dung của sắc phong là một thể loại văn học. Ngoài giá trị về thể chế, triều chính ban cho một vị thần ở một địa phương di tích cụ thể thì nó là một loại hình di vật chứa đầy đủ văn hiến học, văn hóa học và lịch sử học của lịch sử văn hóa xã hội Việt Nam. Nó thực sự phải được coi là di sản của dân tộc chứ không phải của riêng cá nhân, làng, xã, huyện nào”.

Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 5

“Với quan niệm “kính thần như thần tại” thì sắc phong thực sự là hiện vật thiêng liêng. Chính vì thế, không phải người nào trong làng cũng được xem sắc phong, không phải ai cũng biết đình làng quê mình chính xác có bao nhiêu đạo sắc phong, nếu có biết thì cũng không hay sắc phong ấy ở thời nào, được vị vua nào ban, ban cho ai… Thường là chỉ có vài người có trách nhiệm trong việc thờ cúng ở di tích mới được “tận mục sở thị” sắc phong, bởi lẽ, bất cứ hiện vật nào liên quan đến thần thánh, đến sự linh thiêng nơi thờ tự đều được xếp vào diện “kỵ húy” hay “hèm”.

PGS.TS Phạm Lan Oanh (Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam)

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 6

“Trong quá trình nghiên cứu về sắc phong, tôi từng có lần tận mắt chứng kiến 22 đạo sắc của một làng được bọc mấy lượt ni lông cất đi. Đến lúc mở ra thì cả 22 đạo sắc đều rơi ra từng mảnh vì ni lông hấp hơi nước. Tất nhiên, chuyện vô tình để mất hay hỏng sắc phong là việc ngoài ý muốn, nhưng đối với những người già, lại là những người có tâm huyết với việc làng, việc thánh… thì “cú sốc” đó thực sự là nỗi buồn đeo đẳng các cụ cho đến tận cuối đời”.

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh (Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 7

“Hiện nay, dù dòng họ Lại ở Nghĩa Đô không còn tiếp nối làm giấy sắc nữa, nhưng vẫn có một vài gia đình đang gìn giữ nghề thủ công làm giấy dó truyền thống nhiều đời của tổ tiên. Đó là những người thợ thủ công làng giấy Đông Cao, Võ Cường, Bắc Ninh, làng nghề này đã có thể tạo ra một tờ giấy dó bóc 2-3-4 có độ mịn và thấm màu, khâu giải quyết chất liệu được kiểm chứng từ khi lọc, ngâm vỏ, nấu chín, giã bột, ủ keo pha chế, xeo phơi…”.

Chuyên gia Lê Hồng Vệ, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản tu sửa tác phẩm mỹ thuật - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 8
“Trên thị trường mua bán sắc phong, nhiều khi người mua sắc không quan tâm đến nội dung mà quan tâm nhiều hơn đến mỹ thuật - tức là giá trị mỹ thuật và niên đại. Người ta mua bản sắc vì con rồng đẹp, hoa văn lạ chứ thường là không thực sự quan tâm tới sắc này là phong cho ai và ở đâu!”.

Nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Đức Dũng (Chuyên viên chính Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch)

Thường thì, các đạo sắc phong được cuộn tròn, để trong một hộp hình trụ rỗng bằng gỗ hoặc tre, thường gọi đó là ống quyển. Ống quyển này được để trong một chiếc hộp dài, sơn son thếp vàng gọi là hộp sắc phong. Cả ống quyển hay hộp sắc phong, nếu còn giữ được (nhiều nơi chỉ giữ được sắc phong còn hộp sắc và ống quyển mất vì đó cũng chính là đồ cổ, được giới sưu tầm cổ vật săn lùng) thì tiếp tục được đặt trong một chiếc hòm sắt hoặc két sắt (sản phẩm của thời đại mới). Hòm sắt, két sắt này được khóa lại, cất trong hậu cung, phân công nhiệm vụ cho hai ba người, người này giữ khóa, người kia nhớ mã...

Vì là “kỵ húy” với “hèm” nên có nhiều nơi, trong quá trình cất giữ, người trông coi di tích sợ không dám mở hộp sắc ra xem bên trong sắc phong còn hay mất, tình trạng thế nào, có ẩm mốc, hưu hại gì không. Cứ thế mà cất đi thôi. Ngày này qua tháng khác, có nơi cất liền cả chục năm. Bỗng một ngày mở ra thì hỡi ôi, bao năm cất giữ cái hộp không, sắc phong đã không cánh mà bay từ đời nào rồi, hoặc cũng có khi là các đạo sắc mủn ra vì ẩm mốc. “Kỵ húy” quá, “hèm” quá lại thành… bất ổn.

Cách thứ hai được nhiều nơi bảo quản một cách đơn giản nhất, đó là bọc ni long… cho sắc phong; hoặc cuộn tròn sắc phong lại nhét vào bên trong ống nhựa PVC; hoặc là treo sắc phong lên trên thượng lương của di tích; hoặc là sắm cái két thật to, thật nặng, cho sắc phong vào, khóa mã đầy đủ rồi khệ nệ bê vào trong hậu cung cất sắc phong… Cẩn thận hơn nữa là đem sắc phong về nhà thủ từ cất, hoặc mang ra két sắt đến Đảng ủy xã cất nhờ. Thực ra, muôn phương ngàn cách thì phương án nào cũng bấp bênh và vô cùng may rủi cả thôi! Chưa kể, việc mang sắc phong đi gửi hoàn toàn không đúng với truyền thống, mất đi giá trị và tính thiêng vì sắc phong phải luôn được đặt ở trên ban thờ, nơi tôn nghiêm nhất trong hậu cung. Chuyện cất giữ sắc phong có muôn vàn kế sách nhưng để đâu cũng “vướng”, mang lại hậu thì sớm muộn gì cũng… mất (!).

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh kể lại, trong quá trình nghiên cứu về sắc phong, anh từng có lần tận mắt chứng kiến 22 đạo sắc của một làng được bọc mấy lượt ni lông cất đi. Đến lúc mở ra thì cả 22 đạo sắc đều rơi ra từng mảnh vì ni lông hấp hơi nước. Thời khắc đó, cụ từ đình nhìn thấy những đạo sắc do chính mình cất giữ cẩn thận đến vậy mà vẫn hỏng đến mức vô phương cứu chữa thì “sốc” đến mức tăng huyết áp. Tất nhiên, chuyện vô tình để mất hay hỏng sắc phong là việc ngoài ý muốn, nhưng đối với những người già, lại là những người có tâm huyết với việc làng, việc thánh… thì “cú sốc” đó thực sự là nỗi buồn đeo đẳng các cụ cho đến tận cuối đời.

Cũng đã từng có nhiều tranh luận, trong lúc chưa tìm được các giải pháp đảm bảo an toàn cho sắc phong, nên chăng các làng cắt cử đại diện, mang sắc phong ra bảo tàng, trung tâm lưu trữ quốc gia để gửi. Ở đó, vừa đảm bảo an toàn lại vừa áp dụng những phương pháp bảo quản hiện đại nhất. Tuy nhiên, ý kiến này không được cộng đồng chấp nhận với suy nghĩ theo dân gian là “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Di vật được ví là “trái tim”, là “linh hồn” của di tích mà mang đi gửi thì còn chuyện gì để nói (?!).

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 9

Sắc phong thuộc Di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) (Ảnh: Trần Quân)

Bàn chuyện sắc phong thì phải kể việc làm giấy sắc

Hiện tại, Sở Văn hóa - Thể thao TP Hà Nội đã đưa tri thức làm giấy sắc phong của gia đình dòng họ Lại ở phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể thành phố Hà Nội ở hạng mục tri thức dân gian. Tương truyền, nghề làm giấy sắc phong ở làng Nghè (nay là Tổ dân phố số 13, 14, 15, 16 phường Nghĩa Đô) có từ thời vua Lê - chúa Trịnh do gia đình ông Diệm Châu quận công truyền lại. Hiện nay, chỉ có ông Lại Phú Thạch còn nắm giữ được cách làm nhưng không thực hành. Tri thức làm giấy sắc phong thuộc danh mục ưu tiên bảo vệ.

Nghệ nhân cuối cùng của nghề làm giấy sắc là cụ Lại Phú Bàn, đời thứ 20 theo nghề làm giấy sắc nhưng nay cụ đã mất. Lần cuối cùng cụ Bàn làm giấy sắc là năm 1944, niên hiệu Bảo Đại năm thứ 19. Dưới thời phong kiến, dòng họ Lại làm giấy sắc theo sự đặt hàng của Triều đình. Giấy sắc là loại đã được vua, chúa thẩm định kỹ lưỡng và đều thuộc loại quý hiếm. Giấy sắc không chỉ óng mịn như lụa mà còn bền dai như tơ, rất “cắn mực” khi viết, vẽ... Có những sắc phong trải qua gần 400 năm mà nét chữ, màu sắc, họa tiết vẫn tươi nguyên như thuở ban đầu; trong khi loại giấy tốt nhất hiện nay cũng chỉ “thọ” được 50 năm là cùng, dễ bị hỏng nát do mối mọt xông, hoặc bị ố nhòe, bay mực.

Xưa kia giấy sắc là “Quốc bảo”, nếu để thất thoát ra ngoài tờ nào thì “phạm thượng”. Chính vì vậy mà cho đến nay họ Lại không lưu được bộ giấy sắc các triều đại. Nay muốn tìm hiểu diện mạo sắc phong các triều đại phải khổ công đến các đình, đền, miếu hoặc các dòng họ “thế gia lệnh tộc” may chăng còn giữ được một số mẫu. Sắc có nhiều loại: nhất gấm, nhất cáo sắc và nhị cáo sắc. Mỗi loại có kích thước và đường nét hoa văn trang trí khác nhau.

Theo một công trình nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Thị Trung được giới thiệu trên website của Bảo tàng Hà Nội, thì nghề làm giấy dó đã công phu, nghề làm giấy sắc còn công phu gấp bội. Muốn có được một tờ giấy sắc phải qua một số công đoạn phức tạp. Chọn dó làm giấy sắc phải chọn loại tốt, nuột, chất lượng cao. Giấy dùng để phong cho hàng nhất phẩm phải có 5 thợ cùng làm một lúc mới xeo nổi một tờ. Giấy dùng để phong sắc cho hàng phẩm trật thấp hơn (từ nhị phẩm xuống đến cửu phẩm) cũng phải ba người xeo một tờ. Khi xeo xong cần phải dùng que dò để cuốn thuận tiện cho việc bóc dời từng tờ giấy ra. Khi xeo xong phải dùng que dò để cuốn, khi can cũng phải có 2 người, phải dùng thép can chát bóng bôi lên tường mới dính được giấy để phơi. Giấy khô, dùng da trâu bò nấu kỹ (nung keo) gọi là nước keo, nước keo phải có phèn chua, dùng thép bồi giấy, thép lên hai mặt, mỗi mặt hai lần.

Sau khi giấy khô thì bắt đầu nhuộm màu bằng nước hoa hòe. Nhuộm sắc phải có hai màu chính là màu da thị và da đồng, nhưng muốn có màu da đồng thì nước trưng hoa hòe phải có thêm hồng đơn, một chút bột điệp. Mỗi mặt thép hai lần nước màu. Nhuộm xong đến công đoạn nghè, nền nghè là một phiến đá lớn có mặt phẳng nhẵn bóng. Đặt giấy lên hai người dùng chày đập đều đặn lên lần lượt khắp mặt giấy, lúc đầu giấy xốp, tiếng chày nghe bình bịch, đập đến khi nghe tiếng chày đanh là được, mặt giấy rất mịn và bền chắc. Sau đó dùng bản in khắc gỗ để in bo viền xung quanh và các chữ triện.

Nam giới chuyên vẽ, phụ nữ chuyên xeo giấy. Vẽ có 2 loại: Vẽ chạy và vẽ đồ. Vẽ chạy nét cần người khéo tay và vẽ đẹp, vẽ đồ chỉ là vẽ để bổ sung và hoàn thiện. Hoa văn trang trí tờ sắc bằng kim nhũ có 2 màu vàng hoặc bạc. Dùng quỳ vàng bạc thật, thấp hơn thì dùng quỳ đồng và quỳ thiếc. Hình rồng uốn lượn trong vân mây có ánh vàng hoặc ánh bạc lấp lánh trên nền da thị, da đồng rất đẹp. Những tờ sắc xưa còn lại cho đến ngày nay đã vài thế kỷ giấy vẫn bền chắc, nét vẽ và chữ viết vẫn mềm mại sắc nét, chỉ có viền sắc phong và màu là chứa đậm nét thời gian, càng tăng thêm vẻ trang trọng và linh thiêng.

Các công đoạn để làm giấy sắc được giữ bí mật và chỉ truyền cho con trai và con dâu, không truyền cho con gái. Từ khâu chọn dó, nấu dó, nghiền lọc thành bột đến khâu xeo giấy, ép giấy và vẽ đều đòi hỏi người thợ có tay nghề cao, dày dặn kinh nghiệm. Cũng do công phu chế tác mà giấy sắc giá rất cao. Từ năm 1945 đến nay nghề làm giấy sắc ở Nghĩa Đô không còn nữa!

Thế nhưng, theo ông Lê Hồng Vệ, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo quản tu sửa tác phẩm mỹ thuật - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam thì hiện nay, dù dòng họ Lại ở Nghĩa Đô không còn tiếp nối làm giấy sắc nữa, nhưng vẫn có một vài gia đình đang gìn giữ nghề thủ công làm giấy dó truyền thống nhiều đời của tổ tiên. Đó là những người thợ thủ công làng giấy Đông Cao, Võ Cường, Bắc Ninh, làng nghề này đã có thể tạo ra một tờ giấy dó bóc 2-3-4 có độ mịn và thấm màu, khâu giải quyết chất liệu được kiểm chứng từ khi lọc, ngâm vỏ, nấu chín, giã bột, ủ keo pha chế, xeo phơi… Còn lại, màu sắc hoa văn và xử lý độ loang hay thẩm thấu thì phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thực hiện.

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh - Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam: Để mất, hỏng sắc phong, chúng ta nên trách chúng ta!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 10

Đạo sắc phong có niên đại 1497 (Dẫn theo Nguyễn Doãn Minh trong bài “Ba đạo sắc phong niên hiệu Hồng Đức”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 427, năm 2020)

Hư hỏng, mục nát sắc phong là do bảo quản chưa đúng cách

- Phóng viên: Đã từng nghiên cứu nhiều năm về sắc phong,vậy anh có thể khái quát thực trạng đang diễn ra đối với công tác bảo tồn sắc phong trong giai đoạn hiện nay?

- Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh (Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam): Sắc phong là văn bản mang tính pháp lý do Triều đình ban phong cho nhiều đối tượng trong xã hội, trong đó có hệ thống sắc ban phong cho các đức, thánh thần được lưu giữ trong không gian thiêng của các làng, xã như: đình, đền, miếu, chùa, am, phủ, lăng tẩm… Và cơ bản những văn bản này đều có chất liệu từ giấy dó. Về mặt logic, ai cũng nghĩ đó là loại chất liệu dễ hư hỏng, mục nát , nhất là khi gặp ẩm mốc. Tuy nhiên, cho đến nay những bản sắc phong bằng giấy dó có niên đại từ thế kỷ XV vẫn tồn tại. Đã hơn 600 năm trôi qua với sự tác động khắc nghiệt của cả yếu tố khách quan và chủ quan, sự tồn tại của những văn bản sắc phong đó chứng minh độ bền của giấy dó không hề thấp,dẫu rằng tính nguyên vẹn không còn.Thời gian gần đây, việc mất sắc phong, thất lạc sắc phong trong các di tích đền, miếu, lăng tẩm, đình, đền, nhà thờ họ, thậm chí chùa chiền được thông tin rộng rãi. Thực trạng hoàn toàn có thật. Vì sao? Tôi đã nhiều lần trả lời phỏng vấn, đề cập một cách thẳng thắn, trực diện về vấn đề mất mát, hư hỏng sắc phong.

Thứ nhất, vấn đề mất sắc phong, thường do đối tượng trộm cắp. Những đối tượng này thì không từ thủ đoạn nào, mục đích cuối cùng là quy đổi ra được tiền là sẵn sàng trộm. Chưa kể đến việc đối tượng trộm cắp hiểu biết địa bàn, manh động, tinh vi, có đầu mối buôn bán, trao đổi cổ vật. Người bảo quản trông coi di tích thường cao tuổi, và cũng chỉ có một mình. Dù di tích có kiên cố đến đâu thì suy cho cùng sự an toàn của di vật, cổ vật đều do con người, máy mọc chỉ là công cụ hỗ trợ giúp con người xử lý tình huống tốt hơn, không có thiết bị nào giữ được sự an toàn tuyệt đối. Chuyện mất cắp sẽ trở thành đương nhiên, khi trong xã hội luôn tồn tại hai yếu tố biện chứng có cầu ắt có cung và ngược lại.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 11

Đình Tri Chỉ, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội (Ảnh: Trần Quân)

Thứ hai, về vấn đề hư hỏng, mục nát sắc phong, hầu hết là do nhận thức về bảo quản chưa đúng cách. Một số nơi có ý thức, bảo quản trong két, lưu giữ tại gia đình, người cầm khóa, người nhớ mã. Tuy nhiên, đó đơn thuần là chuyện bảo quản về mặt cơ học, không hề có “trị liệu” về tính chất của sắc phong. Cất giữ trong két không phải là giải pháp an toàn nhất. Ngày xưa, các cụ chỉ đơn giản bảo quản trong ống quyển bằng tre, nứa, đặt trong hòm gỗ mà vẫn tồn tại đến ngày nay. Điều này cho thấy các ống quyển bằng tre, nứa đấy được xử lý chống mối mọt rất tốt. Bên cạnh đó, vào mùa hanh khô, sắc phong vẫn được các cụ mang hong khô, nhưng không trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời. Và cũng vào dịp sinh hay hóa của các vị thánh, thần cũng là dịp lễ hội của làng, những bản sắc phong lại được đưa ra kiểm tra, dâng đọc nội dung. Nhân đó, sắc phong cũng được kiểm tra định kỳ. Ngày nay, đa phần sắc phong được cất giữ nghiêm cẩn, không được động đến. Có nhiều lý do trong đó, có việc không biết chữ Hán, để đọc trực tiếp nội dung sắc phong, vô tình làm cho sắc phong dần trở thành vật báu, vật kỷ niệm. Tôi biết có trường hợp các cụ cụ bọc sắc phong trong áo mưa. Tính chất áo mưa kín, khi thời tiết nóng lên, áo mưa hấp thụ hơi nước, sau một thời gian mấy chục đạo sắc phong mủn nát hết. Thật là đáng tiếc, đau xót vô cùng! Cũng có trường hợp bảo quản bằng cách cho vào ống nhựa PVC bịt kín hai đầu mà không biết rằng đó cũng là vật liệu có đặc tính hấp hơi nước như túi ni lông ở trên, nhiều trường hợp thì đi ép plastic cả bản sắc phong… Những cách bảo quản không đúng trên đều vô tình hủy hoại sắc phong.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 12

Sắc phong thường được cất giữ trong két sắt có khóa mã

Bản thân tôi khi đi tư vấn cho các cụ về cách bảo quản sắc phong đều lưu ý rất kỹ là không được bọc trong áo mưa, không được cho vào ống nước nhựa (nếu có phải định kỳ kiểm tra và có hạt chống ẩm, và không cho sắc không tiếp xúc trực tiếp với lớp nhựa hấp hơi), sau mùa mưa nồm đầu xuân cần kiểm tra nấm mốc, đến mùa hanh phải hong ra, tránh tiếp xúc trực tiếp dưới ánh nắng. Còn đề xuất đưa sắc phong vào bảo tàng để gìn giữ, bảo quản là vạn bất đắc dĩ, bởi tính thiêng lẫn giá trị tâm linh bị giảm sút, vì đó là bằng sắc gắn liền với một không gian thiêng cụ thể. Khi vào các di tích, thấy chữ Hán đề trên hoành, biển, câu đối... cùng các mảng chạm trổ mang tính điển lễ đã thấy di tích có hồn và thiêng rồi. Huống chi trên những bản sắc phong ngoài chữ nó còn có yếu tố hình họa, màu sắc mang tính quan phương tượng trưng cho Triều đình, cho nhà vua (hình rồng 5 móng)… nó càng làm tăng giá trị lịch sử, văn hóa, nhất là tính thiêng cho không gian di tích.

- Như anh phân tích, mất cắp và hư hỏng sắc phong - hai thực trạng đang tồn tại, và nghe qua thấy cả sự “bất lực” mà nguyên do chính xuất phát từ yếu tố con người?

- Đã đề cập đến thực trạng thì phải “mổ xẻ” cho đến cùng, nói cho bằng hết. Về trường hợp mất cắp là do nhận thức bảo quản không đúng dẫn đến đã mất cắp là mất hẳn. Thời gian gần đây báo chí, truyền thông “nóng lên” việc sắc phong được đem đấu giá trên thị trường đấu giá cổ vật ở nước ngoài. Chắc chắn những sắc phong được đem đấu giá là đồ trộm cắp. Vậy sắc phong mất cắp thì bán đi đâu? Phải có thị trường tiêu thụ thì mới bán được chứ! Từ đó dẫn đến thực trạng tất cả những gì có trong di tích đều có thể bị trộm cắp.

Chưa “thổi hồn”, “truyền lửa” được vào câu chuyện bảo tồn sắc phong

- Vậy chúng ta phải nhận thức rõ việc bảo quản vật chất và bảo quản tinh thần sắc phong như thế nào cho đúng?Câu chuyện phải hiểu sắc phong có giá trị gì?

- Tôi hiện đang có nguồn tư liệu ảnh chụp sắc phong có dung lượng khá lớn, lên đến hàng vạn ảnh. Một phần trực tiếp do tôi đi chụp, một phần do bạn bè yêu quý chia sẻ. Đa phần trong số đó là ảnh chụp những bản sắc gốc, số ít là những bản sắc sao… Tôi cho rằng, muốn bảo vệ được những giá trị tinh thần của sắc phong thì phải ưu tiên bảo vệ những giá trị vật chất trước. Nhưng bản sắc mà ta sờ, cầm, nắm được thì những giá trị văn hóa, tinh thần của sắc mới có chỗ nương vào để tồn tại. Tinh thần là “phần hồn”, là nội dung câu chữ, đường nét và hình họa lưu trên mỗi đạo sắc. Bởi bản thân mỗi đạo sắc phong là một tác phẩm mỹ thuật đẹp với sắc vàng, nhũ bạc kết hợp với các thể chữ trở thành một bức tranh thư pháp tuyệt mỹ. Người viết chữ phải được chọn lựa kỹ, theo với quy định của xã hội đương thời. Đương nhiên, dùng chữ Hán trong bối cảnh xã hội phong kiến thì có phần dễ chọn lựa được nhiều người viết chữ đẹp hơn. Trước khi văn bản được viết, phôi sắc đã được hoàn thiện theo một quy trình nghiêm cẩn và hết sức cầu kỳ. Bản thân phôi sắc khi chưa có chữ đã là một bức tranh rất đẹp, với mặt trước - chính là hình rồng,có thêm nhiều loại hoa văn họa tiết phân định khác như là mây như ý, hình hồi văn, quy bối, thủy ba, văn gấm…; đường diềm vẽ hình hoa chanh, văn gấm quy bối…; với mặt sau - phụ là hình tứ linh, nhị linh, hình bầu rượu, quạt tiêu… Mỗi thời Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng, Nguyễn… hình rồng sẽ có một dáng vẻ khác nhau.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 13

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu với phóng viên các đạo sắc phong đang lưu giữ (Ảnh: Trần Quân)

Khi bảo tồn được vật chất sẽ gìn giữ được hoa văn trên sắc phong. Ở một giác độ khác, khi bảo tồn, tôn tạo di tích trong bối cảnh hiện nay, thì việc đi tìm những họa tiết hoa văn, đồ án hình họa, không phải tìm đâu xa, tìm ngay hoa văn trên những đạo sắc phong mà di tích lưu giữ, hoặc có thể tham khảo ở những di tích khác có để trang trí cho công trình. Làm được như vậy đã rất thành công, bởi hoa văn trên những đạo sắc phong nó đã hàm chứa những giá trị mang tính truyền thống cũng như chuẩn mực về mặt thẩm mỹ nên chúng đủ sức “thổi hồn” vào cho di tích.

Nghiên cứu một cách kỹ lưỡng sẽ thấy, với các đạo sắc thời Nguyễn, nếu là người không đọc được nội dung văn bản, thì chỉ cần nhìn vào mặt sau của đạo sắc thời Nguyễn sẽ thấy sắc được vẽ như thế nào về sự phân hạng Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, mỹ tự trên sắc được ban cho bậc thần nào. Trong văn bản quy định 3 mức Thượng, Trung và Hạ nhưng trên sắc phong, tôi chưa gặp dùng chữ “Hạ đẳng thần” mà chỉ gặp chữ Chi thần, Tôn thần, tức là thần được liệt vào diện được tôn thờ.

- Vậy phương pháp, giải pháp bảo tồn sắc phong thế nào trước tiên cho đúng, sau là khoa học, bài bản?

- Trước tiên, muốn bảo tồn hay phát huy giá trị của sắc phong nói riêng, thì phải đánh giá đúng những giá trị của sắc phong. Nói nôm na là phải biết sắc phong có những giá trị gì, lịch sử, văn hóa hay thẩm mỹ… Từđó mới có giải pháp bảo tồn đúng cách. Chứ không thể cứ hô hào bảo tồn bằng được, bảo tồn thế này, gìn giữ thế kia, vận dụng luật này, biện pháp kia một cách dễ dàng được. Thực tế, chúng ta chưa “thổi hồn”, “truyền lửa” được vào câu chuyện gìn giữ, bảo tồn sắc phong nói riêng được bao nhiêu. Phần lớn những sự việc liên quan đến sắc phong bị hư hỏng, đều do người không phải làm trong công tác bảo tồn phát hiện ra. Các cơ quan chuyên môn, chức năng khi biết được thì phần lớn là việc đã rồi. Tức là số phận của những đạo sắc nói riêng, các cổ vật nói chung đã được cấp “hộ chiếu” mới, ngoài sự điều chỉnh của luật pháp của Việt Nam.Vì vậy, giải pháp bảo tồn sắc phong đầu tiên chính là các cơ quan quản lý Nhà nước kết hợp với cán bộ có chuyên môn về sắc phong, về bảo quản sắc phong có những buổi tập huấn chung nhằm nâng cao nhận thức về giá trị của những đạo sắc phong, cũng như nhận thức về cách thức bảo quản gìn giữ sắc phong được tốt nhất.

Vật chất mất đi rồi thì bảo tồn cái gì, bảo tồn thế nào(?!)

- Theo anh, chuyện bảo tồn bằng được đã thực sự cấp thiết vào thời điểm này chưa vậy?

- Khi thấy mất cắp, hư hỏng rất nhiều thì cơ quan quản lý “nhảy vào” yêu cầu bảo tồn bằng được. Đúng! Đó là bảo tồn vật chất, nhưng nếu giả sử, quay lại việc tôi đã đề cập ở trên, vật chất mất đi rồi thì chúng ta bảo tồn cái gì, bảo tồn thế nào (?!). Để ngăn chặn nó không thể xảy ra, trong thời đại công nghệ số, buộc chúng ta phải số hóa. Sau khi số hóa xong thì làm gì tiếp theo? Quay trở lại nhận thức đầy đủ về chất liệu giấy trên sắc phong để có cách bảo quản chuyên nghiệp - việc này không ai giỏi hơn cơ quan chuyên môn như các trung tâm bảo quản, bảo tàng, trung tâm lưu trữ quốc gia; nhưng có điều không phải tất cả di vật trong di tích đều được đưa về các địa chỉ nêu trên. Từ đó dẫn đến việc phải trang bị kiến thức cơ bản tối thiểu cho địa phương, cơ quan quản lý trực tiếp, phòng văn hóa, ban quản lý di tích, Sở Văn hóa theo ngành dọc. Khi có kiến thức, hiểu giá trị sẽ “bắt đúng bệnh” và bảo quản tốt, lưu giữ đúng cách về mặt vật chất.

- Nếu không có thay đổi từ nhận thức đến hành vi thì bao lâu sắc phong sẽ mai một?

- Tôi cho rằng không có gì là vĩnh viễn, nhưng để kéo dài tuổi thọ cho các đạo sắc phong sẽ có những giải pháp hiệu quả về bảo quản và trị liệu. Điều này liên quan đến kinh phí. Và như vậy thì các cơ sở - nơi các không gian thờ tự không dễ gì có nguồn kinh phí để triển khai thực hiện. Do đó, đòi hỏi sự đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước chắc mới giải quyết được. Tuy nhiên, kinh phí cho việc bảo tồn, số hóa thì không dễ. Sắc phong có phải là thứ thiết thực để ưu tiên hay không? Trách nhiệm và nghĩa vụ thuộc về ai?... Đối với những người có hiểu biết và yêu di sản văn hóa của cha ông chắc sẽ có câu trả lời dễ dàng.

- Theo anh, sự việc sắc phong có nguồn gốc Việt Nam xuất hiện trên sàn đấu giá nước ngoài đã nghiêm trọng chưa?

- Thực ra, sắc phong chỉ là một trong nhiều cổ vật, bởi nó có chữ viết, bởi nó có cái “duy danh” tên làng, xã cụ thể thì mới có bằng chứng để chúng ta nói ở đây, chứ cổ vật Việt Nam mất quá nhiều rồi! Những cổ vật không có chữ, không có “duy danh” được giao bán công khai trên nhiều trang mạng quốc tế, chỉ dùng một vài thao tác đơn giản là có thể có cả vạn hình ảnh liên quan. Nói thực trạng đáng buồn để thấy cổ vật của chúng ta “chảy máu” quá nhiều! Đấu giá sắc phong là việc chúng ta thấy gần đây, nó diễn ra ngang nhiên, công khai, thách thức. Trước tiên chúng ta phải tự xem lại công tác quản lý của mình, để thấy còn nhiều lỗ hổng. Những văn bản luật liên quan đến di sản được xây dựng rất bài bản và chặt chẽ, nhưng để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống vẫn còn một khoảng cách khá xa.

Trở lại câu chuyện về sắc phong, tôi được biết, đến giờ vẫn chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện để đánh giá về giá trị của sắc phong, như vậy để thấy, chưa thể nhận thức đầy đủ về sắc phong. Và, như vậy câu chuyện về bảo tồn, phát huy, giá trị của những đạo sắc phong hàm chứa vẫn là do nhận thức của con người, trong đó có cả chúng ta!

- Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh về cuộc trao đổi này!

(Còn nữa)

Cổ vật “chảy máu” quá nhiều!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (2): Giá trị lịch sử, mỹ thuật và trăm cách gìn giữ sắc phong “vô tiền khoáng hậu”  ảnh 14

Giấy sắc là loại đã được vua, chúa thẩm định kỹ lưỡng và đều thuộc loại quý hiếm

“Nói thực trạng đáng buồn để thấy cổ vật của chúng ta “chảy máu” quá nhiều! Đấu giá sắc phong là việc chúng ta thấy gần đây, nó diễn ra ngang nhiên, công khai, thách thức. Trước tiên chúng ta phải tự xem lại công tác quản lý của mình, để thấy còn nhiều lỗ hổng. Những văn bản luật liên quan đến di sản được xây dựng rất bài bản và chặt chẽ, nhưng để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống vẫn còn một khoảng cách khá xa”.

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh (Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam)

https://www.anninhthudo.vn/hanh-trinh-theo-dau-vua-ban-dua-sac-phong-tro-ve-2-gia-tri-lich-su-my-thuat-va-tram-cach-gin-giu-sac-phong-vo-tien-khoang-hau-post547969.antd



1.

4 giờ trước 
0 bình luận

Vân Quế - Trần Quân - Tuấn Dũng

ANTD.VN - Tháng 4-2023, nhà nghiên cứu “tay ngang” Trần Ngọc Đông (Thị trấn Hương Canh, tỉnh Vĩnh Phúc) đưa ra những thông tin rất cụ thể về phiên đấu giá “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn”. Rà lại lịch sử giao dịch được website của nhà đấu giá Trung Quốc đăng tải có cả thảy 102 đạo sắc có nguồn gốc từ Việt Nam đã, đang và sẽ đấu giá tại thời điểm đó. Địa phương có số lượng sắc lớn nhất có tên trên sàn đấu giá là Hà Nội với 31 đạo sắc thuộc các huyện: Thạch Thất, Quốc Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Đan Phượng, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức và Gia Lâm (địa danh trước thuộc thôn Tế Xuyên, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh).

LỜI TÒA SOẠN

Cổ vật Việt Nam “bỗng dưng” xuất hiện trong các phiên đấu giá của nước ngoài vốn là việc không hề xa lạ. Những người yêu di sản, có ước mong bảo tồn văn hóa của dân tộc mỗi lần “va chạm” với thực tế phũ phàng này đương nhiên đau xót! Tiếc nuối đấy thì làm được gì (?!). Có kêu đến tuyệt vọng thì nạn trộm cắp cổ vật trong di tích, buôn lậu cổ vật ra nước ngoài cũng chẳng vì thế mà thuyên giảm đi được.

Thực tế phũ phàng hiện hữu ngay trung tuần tháng 4-2023, Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” công bố phiên đấu giá với tên gọi “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm”. Phiên đấu giá có ký hiệu S23041 được ấn định ngày 22-4-2023 tại Khách sạn Majesty Plaza ở Thượng Hải. Đáng chú ý, trong số 672 món đồ bằng giấy được đấu giá, có 12 đạo sắc khả năng là hiện vật gốc, có nguồn gốc từ Việt Nam, trong đó có các đạo sắc ghi rõ địa chỉ huyện Tam Nông (Phú Thọ), Mỹ Đức, Gia Lâm (Hà Nội)…

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 1

Thông tin về phiên đấu giá công khai thực sự là cú “sốc” nặng nề cho những người yêu di sản, đặc biệt là các nhà quản lý văn hóa. Bởi lẽ, những cổ vật thông thường như cái bình, cái lọ hay bức tượng không thể “lên tiếng” về thân thế của mình, không thể “kể” được chuyện mình đã bị lấy đi như thế nào, nhưng sắc phong lại khác. Sắc phong có “duy danh định nghĩa” - tức là có tên, có tuổi, chủ nhân của sắc phong là ai, cùng với đó là nguồn gốc, niên đại được viết rõ ràng, chính xác tuyệt đối (sắc thời Nguyễn).

Đó là chuyện hiện tại, quay ngược thời gian về năm 2021, mấy chục đạo sắc phong vẫn còn nguyên vẹn trong đền Quốc Tế (xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ); hay vừa mới trước thời điểm giãn cách xã hội để phòng, chống đại dịch Covid-19 năm 2021, hơn 25 đạo sắc còn vẹn nguyên ở đình Hữu Bằng (xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất), thậm chí đã được Sở Nội vụ TP Hà Nội đưa vào “Đề án sưu tầm tư liệu quý hiếm để bảo tồn”. Ấy vậy mà bước đi ngoảnh lại, chớp mắt một cái là các đạo sắc ấy đã “xuất ngoại” và “chễm chệ” trong cuộc đấu giá công khai ở nước ngoài.

Di sản Việt Nam bị đánh cắp trong nước, có mặt trong phiên đấu giá ở nước ngoài, xót xa ấy, không biết dùng ngôn từ nào diễn tả nổi!

Sắc phong là một hiện vật thiêng liêng trong di tích. Sắc phong được ví như “trái tim”, như “linh hồn” của di tích. Bởi vậy, đạo sắc luôn được đặt trong hậu cung, vị trí thiêng liêng nhất của ngôi đình. Chỉ khi có lễ trọng, hộp sắc mới được cẩn trọng mở ra, để cẩn cáo với trời đất, thánh thần, có khi là mỗi năm một lần, không thì vài năm mới may mắn thấy một lần.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 2

Sắc phong được cho là ở đền Quốc Tế, xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ được Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” giới thiệu trong phiên đấu giá (Ảnh: Yangming Auction)

Cuộc sống ngày càng đổi thay theo hướng tích cực, nhưng mặt trái của nó phải nhìn thẳng và nói thật, đó là không gian linh thiêng bị xâm hại một cách trắng trợn không thương tiếc. Đình làng - di tích vốn tồn tại, hiện hữu trong những thiết chế mở thì nay cửa đóng then cài để… chống trộm. Nhưng kể cả tường có cao, cửa có chắc, khóa có chặt thì những gì trong đình làng có thể hoán đổi ra tiền thì kẻ gian vẫn rình mò ghé thăm. Chưa hết, ngoài việc phải tự mình đối mặt với “phường trộm, kẻ cắp” thì sắc phong, thứ được coi là “tối linh” còn phải đối diện với muôn vàn thách thức khác đến từ thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu ẩm, nồm, mốc đặc trưng của xử sở nhiệt đới gió mùa. Không hiếm các địa phương, sau bao năm kiêng kị “cấm động chạm vào hiện vật”, đến một ngày mở hòm, sắc phong hình rồng 5 móng chỉ còn lại những mảnh vụn mục nát, sắc thì mối mọt “ăn ruỗng” hết cả.

Quay trở lại với “cú sốc” mang tên “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” đã thực sự gây choáng váng cho nền bảo tồn di sản Việt Nam, nhưng người lạc quan thì lại suy nghĩ rằng - đôi khi là cần thiết, là “giáo cụ trực quan sinh động” để “đánh thức” chúng ta thấy được, nhìn vào và sửa mình. Dân tộc Việt Nam đã phải trải qua biết bao hy sinh, gian khổ suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, phải gồng mình đối diện với biết bao cuộc chiến để bảo vệ độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao binh biến thăng trầm, qua tiêu thổ kháng chiến, vẫn còn nguyên bao di sản tinh thần lẫn vật chất, vậy mà, hòa bình và phát triển, di sản lại mất mát, mai một, tàn phai nhanh đến vậy sao (?!). Phải chăng là điều đáng trách lắm hay sao (?!).

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 3

Sắc phong thần được Công ty đấu giá giới thiệu của Vua Thiệu Trị, ban năm 1844 (Ảnh: Yangming Auction)

Không bao giờ là quá muộn khi đặt vấn đề bảo tồn di sản văn hóa - đặc biệt quý giá thì phải giữ cho chặt, nắm cho chắc. Bây giờ chính là lúc, toàn bộ hệ thống sắc phong còn lại của di tích phải được bảo vệ theo một chuẩn riêng, chứ không thể cứ mãi coi đó như một hiện vật đơn thuần trong di tích với chế độ và hình thức bảo quản tương đương với ngói với gỗ hay đầu đao, gác mái. Sắc phong phải được nhìn nhận ở cả hai chiều di sản phi vật thể và di sản vật thể.

Trong các “Group” (hội, nhóm) liên quan đến di sản Việt thì chẳng ai lạ gì Trần Ngọc Đông - một thành viên trẻ tuổi, nhiệt tình và năng nổ. Các thông tin phát ra từ Đông bao giờ cũng mang tính học thuật, chính xác và đầy đủ sự tin cậy. Và câu chuyện sắc phong Việt Nam xuất hiện trên sàn đấu giá nước ngoài đầu tháng 4-2023 như đã đề cập ở trên, không ai khác, chính Trần Ngọc Đông là người đầu tiên lên tiếng. Cũng xuất phát từ những lời cảnh báo, những thông tin mà Trần Ngọc Đông đưa ra khiến nhóm tác giả thực hiện tác phẩm này có thêm niềm tin, nhiệt huyết bước vào “Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về”.

Chuyện người khơi chuyện

Tất nhiên, để hiểu được ngọn ngành câu chuyện thì nhất định phải gặp bằng được người khơi chuyện. Bởi lẽ, nếu không có đam mê, nhiệt huyết và tình yêu đặc biệt đối với di sản, thì mấy ai như Trần Ngọc Đông - một người trẻ tuổi, một nhà nghiên cứu “tay ngang” lại tẩn mẩn, mò mẫm đi “soi” tận sàn đấu giá ở tận Trung Quốc.

Chúng tôi gặp và ngồi trò chuyện cùng Đông dưới mái đình Hương Canh cổ kính, thật tình cờ, trên bức tường đối diện có treo một khung ảnh, bên trong ghi lại danh sách 22 đạo sắc mà các vị vua từ triều Lê đến triều Nguyễn sắc phong cho 3 ngôi đình Hương Canh. Trần Ngọc Đông thở dài khi được hỏi về danh sách những gạch đầu dòng đang treo trên bức tường trong đình. 22 đạo sắc đó giờ lưu lạc phương nào hoặc mất trong hoàn cảnh nào thì buồn một nỗi, người làng Hương Canh bây giờ không ai biết. Nhưng cũng may sao, tất cả thông tin về các đạo sắc, thờ ai, vua nào ban, thời điểm nào của đình Hương Canh đều đã được lưu lại trong đợt điền dã “thần phả, thần tích” của Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp) từ năm 1938 thế kỷ trước.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 4

Đình Tri Chỉ- Tri Trung Phú Xuyên từng có 27 đạo sắc bị mất năm 2006 và nay 22 đạo sắc đã trở về

Câu chuyện với Trần Ngọc Đông bắt đầu như thế! Và với Đông, thời điểm mới tròn 20 tuổi, chân ướt chân ráo từ Vĩnh Phúc về Hà Nội học đại học, “dắt lưng” chút kiến thức về Hán Nôm tự học đã tìm lại danh sách “thần phả, thần tích” của làng mình còn lưu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Thông tin khoa học xã hội. “Việc làm ấy hình như hơi già so với tuổi của mình?” - Chúng tôi hỏi Đông thì câu trả lời đi kèm nụ cười của chàng trai ấy vẫn theo lối suy nghĩ “không thể già dặn hơn”: “Từ nhỏ, em lớn lên trong một ngôi làng giàu có với đình, chùa to lớn. Những ngày còn bé, sống bên mái đình làng được nghe các cụ kể những tích xưa chuyện cũ, cùng với sự đau đáu về việc hơn hai chục đạo sắc phong bị mất từ hồi kháng chiến chống Pháp. Nỗi niềm của lớp người xưa muốn tìm lại “phần hồn” của đình làng đã thôi thúc em tự mày mò, tìm hiểu về những tư liệu cũ của làng cũng là để biết làng mình còn thờ ai, lịch sử như thế nào”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 5

Trần Ngọc Đông thở dài khi được hỏi về danh sách những gạch đầu dòng đang treo trên bức tường trong đình. 22 đạo sắc đó giờ lưu lạc phương nào hoặc mất trong hoàn cảnh nào thì buồn một nỗi, người làng Hương Canh bây giờ không ai biết. Lâu nay đơn thuần chỉ nghĩ sắc phong Việt Nam nếu có thất lạc cũng chỉ loanh quanh đâu đó trong nước. Vậy mà đùng một cái, một người bạn trước kia học cùng lớp Hán Nôm với Đông là Bùi Quang Tuấn gửi cho cái ảnh sưu tầm trên mạng Internet có nội dung của sắc phong làng Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Lần mò tìm hiểu, trên tấm ảnh đó có tên một website đấu giá nước ngoài...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 6

Nguyễn Tuấn Duy kể, xuất phát ban đầu là đam mê lịch sử, trong một lần tình cờ “lang thang” trên mạng Internet để tìm kiếm thông tin về lịch sử các triều đại phong kiến của Việt Nam tìm thấy những hiện vật cổ “hình như là của Việt Nam” ở một website của Nhật Bản. Không rõ vì sao, vào thời điểm nào mà 28 đạo sắc bị lưu lạc sang đất nước Nhật Bản. Hành trình di chuyển của các đạo sắc đến Nhật Bản bằng cách nào? Do chiến tranh loạn lạc hay do buôn bán cổ vật (?!).

Cũng giống như suy nghĩ của nhiều người, Trần Ngọc Đông kể lại rằng lâu nay đơn thuần chỉ nghĩ sắc phong Việt Nam nếu có thất lạc cũng chỉ loanh quanh đâu đó trong nước. Vậy mà đùng một cái, một người bạn trước kia học cùng lớp Hán Nôm với Đông là Bùi Quang Tuấn gửi cho cái ảnh sưu tầm trên mạng Internet có nội dung của sắc phong làng Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Lần mò tìm hiểu, trên tấm ảnh đó có tên một website đấu giá nước ngoài... Vốn thích Hán Nôm, từng có thời gian học tiếng Trung, lại có đam mê di sản văn hóa, Đông mày mò tìm lại các thông tin lịch sử, lại cũng đã từng có may mắn được xem qua ảnh sắc phong của đền Quốc Tế (xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) nên ngay lập tức Đông dò tìm theo địa chỉ trang web kể trên. Vào website mở rộng Dương Minh, thấy toàn là cổ vật… Tra thêm một hồi, đọc thấy các địa danh của Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam... Lại thấy cả sắc mang tên đình Hữu Bằng (huyện Thạch Thất, Hà Nội) - nơi từng mất sắc phong vào năm 2021.

Trong số các đạo sắc có nguồn gốc từ Việt Nam được đem ra đấu giá, có sắc phong có giá khởi điểm là 2.000 Nhân dân tệ, có cái đã giao dịch xong, có cái chờ đến ngày 22-4-2023 mới đấu giá. Thời điểm Trần Ngọc Đông lên tiếng cảnh báo, lập tức ngay sau đó Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch, các Sở Văn hóa - Thể thao, Sở Văn hóa - Thể thao & Du lịch có liên quan đã vào cuộc rà soát, xác minh, so sánh, đối chiếu. Sau khi Bộ ngoại giao Việt Nam, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam đã có những cuộc đàm phán, đại diện Cục Văn hóa và Du lịch Thượng Hải đã yêu cầu công ty đấu giá dừng bán đấu giá các hiện vật nói trên và sẵn sàng làm việc với cơ quan chức năng của Việt Nam để tiếp tục giải quyết các vấn đề liên quan. Đến nay, trên website của Công ty đấu giá “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” đã không còn tìm thấy thông tin liên quan đến các hiện vật, sắc phong khả năng có nguồn gốc từ Việt Nam. Trong văn bản gửi các tỉnh, thành phố có liên quan đến vụ đấu giá, Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch Hoàng Đạo Cương nhận định, việc các cơ quan chức năng của Thượng Hải sớm đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam thể hiện thiện chí của nước bạn trong việc giải quyết vấn đề này

Cũng theo tìm hiểu của Trần Ngọc Đông, thị trường mua bán di sản tư liệu bao gồm sách cổ, giấy tờ cổ, bằng sắc… ở châu Á hiện khá sôi động. Nhiều công ty đấu giá “tung” người đi thu mua sách cổ, giấy tờ cổ… trên cả thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là lần đầu tiên Việt Nam phát hiện có sắc phong Việt được chào bán công khai trên một trang đấu giá. Và tất nhiên, ở Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung có cả nghìn công ty thu mua và bán đấu giá sách cổ, giấy tờ cổ... Nghĩa là, có hẳn một thị trường sôi động. Sắc phong, sách cổ “chảy máu” ra nước ngoài, không có công ty này mua thì doanh nghiệp khác mua, không có thị trường nước này mua thì nước khác sẽ mua mà thôi.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 7

Các vị vua từ triều Lê đến triều Nguyễn ban 22 đạo sắc phong cho 3 ngôi đình Hương Canh (tỉnh Vĩnh Phúc)

Sau khi có sự can thiệp của Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch, Bộ Ngoại giao, các thông tin về sắc phong Việt Nam trên trang đấu giá nước ngoài đã bị gỡ bỏ. Cuộc đấu giá ngày 22-4-2023 tại Thượng Hải đã không diễn ra. Thông tin về hai sắc phong cuối cùng đang chờ đấu giá trong ngày hôm đó mang mã 2248, niên hiệu sắc phong Tự Đức (niên hiệu 1880 với địa danh trên sắc là Mỹ Đức - Tuy Lai (hiện là xã Tuy Lai, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội), tên thần (mỹ tự) Thần Tối linh. Sắc phong mang mã số 2251 có niên hiệu Duy Tân 2 (1909), địa danh Tế Xuyên, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thôn Tế Xuyên, xã Đình Xuyên, huyện Gia Lâm, Hà Nội); Tên thần: Bản cảnh Thành Hoàng… đã hủy trên website.

Đáng chú ý, Công văn số 1142 của UBND huyện Gia Lâm gửi Sở Văn hóa - Thể thao TP Hà Nội có gửi kèm bản chụp các phiếu kiểm kê sắc phong, ảnh chụp sắc phong. Có nghĩa, bản chụp sắc phong thôn Tế Xuyên với đầy đủ nội dung sắc vẫn được UBND huyện Gia Lâm lưu trong hồ sơ di tích. Trong số 31 bản sắc có địa chỉ liên quan đến Hà Nội thì có tới 12 bản sắc, hiện vẫn đang được một số quận, huyện còn có bản lưu hình ảnh, như “thần phả, thần tích”.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 8

PGS.TS Phạm Lan Oanh (Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) khẳng định, sắc phong là loại văn bản quý của Triều đình Nhà nước phong kiến dành cho hệ thống thần linh đất nước và những cá nhân xuất sắc trong gia tộc, dòng họ. Tài liệu văn bản đặc biệt này đã tồn tại cả mấy trăm năm. Hiện nay, sắc phong hiện còn giữ được cổ nhất được biết tới là sắc dưới triều Vua Lê Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) sắc cho thôn Thượng, xã Thiện Trạo, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 9

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh (Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử Văn hóa - Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho biết, việc ban sắc phong thần ở nước ta được sử liệu ghi chép từ sớm. Việt điện u linh cho biết, Vua Lý Thái Tổ khi mới thiên đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về miền đất Đại La đã phong cho thần Tô Lịch là Quốc đô Thăng Long hoàng thành đại vương. Vua Lý Thái Tông sắc phong cho Hiệp Chính Hựu Thiên Trinh Liệt chân Mãnh phu nhân làm Hiệp chính nương. Vua Lý Anh Tông sắc phong cho Nhị Trưng phu nhân là Trinh linh phu nhân.

Chuyện “linh hồn” của di tích trong trái tim người trẻ

Câu chuyện về đấu giá sắc phong có nguồn gốc từ Việt Nam ở nước ngoài còn chưa lắng xuống thì ngày 23-7-2023, một tài khoản mạng xã hội là Nguyễn Tuấn Duy (huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn) tiếp tục đưa lên “Group Hoàng Triều Hậu Lê” một thông tin đáng tin cậy về 28 đạo sắc phong Việt Nam được thông tin đầy đủ trên website của Bảo tàng Kyushu (Nhật Bản). Thông tin ngay lập tức được nhiều người quan tâm và bỏ công dịch thuật cũng như tìm hiểu.

Trao đổi cùng phóng viên, Nguyễn Tuấn Duy kể, xuất phát ban đầu là đam mê lịch sử, trong một lần tình cờ “lang thang” trên mạng Internet để tìm kiếm thông tin về lịch sử các triều đại phong kiến của Việt Nam, Tuấn Duy tìm thấy những hiện vật cổ “hình như là của Việt Nam” ở một website của Nhật Bản. Sau đó, toàn bộ thông tin, hình ảnh và đường link của website được Nguyễn Tuấn Duy gửi vào “Group Hoàng Triều Hậu Lê”, nơi có sự tham gia của đông đảo người yêu di sản Việt. Những người biết Hán Nôm và tiếng Nhật đã cùng nhau dịch chữ và dịch nghĩa để tìm cho ra nguồn gốc sắc phong đó là ở địa phương nào.

Cũng theo Nguyễn Tuấn Duy, sở dĩ đưa thông tin lên mạng xã hội để xem về phía các địa phương xuất hiện tên trên sắc có còn lưu trữ những bản sắc phong này không, hay do chiến tranh, thời cuộc lưu lạc nên những sắc phong này đang nằm trong tay các nhà sưu tập quốc tế. Chàng trai yêu di sản văn hóa truyền thống sinh năm 1998 Nguyễn Tuấn Duy trong cuộc trò chuyện với chúng tôi còn động viên ngược lại phóng viên rằng: “Anh chị yên tâm, dù sao thì Bảo tàng Kyushu - Nhật Bản cũng đang bảo quản các sắc phong được cho là có nguồn gốc từ Việt Nam rất tốt”.

Nói là thế, nhưng Nguyễn Tuấn Duy cũng không tránh khỏi những trăn trở rằng: “Không rõ vì sao, vào thời điểm nào mà 28 đạo sắc bị lưu lạc sang đất nước Nhật Bản. Hành trình di chuyển của các đạo sắc đến Nhật Bản bằng cách nào? Do chiến tranh loạn lạc hay do buôn bán cổ vật (?!). Nguyễn Tuấn Duy kể thêm, đình làng quê Duy trước có 7 đạo sắc phong, giờ cũng thất lạc hết cả, chưa biết có thể tìm được ở đâu! Bởi thế, thấy ở đâu nhắc đến sắc phong là Duy cũng mày mò tìm đọc, may ra thấy được sắc của đình làng mình bởi lẽ: “Chỉ mong những di sản này được quay trở về với đúng quê hương của nó, vì đó là những tài liệu vô giá, là chứng tích lịch sử đặc biệt quan trọng. Có thể coi các sắc phong như “trái tim”, “linh hồn” của một di tích nào đó, vì qua những bản sắc phong ấy, ta lấy được nhiều dữ kiện lịch sử quan trọng về mặt giá trị tâm linh cũng như tên gọi, địa chí. Sắc phong phải được trân trọng và bảo quản không kém gì thư tịch văn bản địa bạ, đinh bạ, sử ký…” - Nguyễn Tuấn Duy chia sẻ.

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 10

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu các đạo sắc phong đang lưu giữ để tiếp tục nhờ sự hỗ trợ của các Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Hán Nôm giám định, dịch, tạo lập hồ sơ để trao trả các địa phương (Ảnh: Trần Quân)

Hiện tại, 28 đạo sắc phong thần đang được kê khai tại Bảo tàng Kyushu (Nhật Bản) có niên đại sớm nhất là thời Vua Lê Thần Tông niên hiệu Dương Hòa và muộn nhất là nhà Nguyễn niên hiệu Khải Định. Các sắc phong này có phong cho một số vùng, bao gồm Phú Xuyên, Thanh Oai (Hà Nội); huyện Thanh Liêm, Duy Tiên (tỉnh Hà Nam); huyện Hương Thủy (Phủ Thừa Thiên); huyện Trực Ninh, Nam Trực cũ (tỉnh Nam Định).

Chuyện sắc phong trong dòng chảy lịch sử Việt Nam

PGS.TS Phạm Lan Oanh, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam giải thích theo cách đơn giản nhất thì sắc phong được hiểu là những văn bản do nhà vua ban tới các địa phương nhằm lấy đó làm căn cứ cho việc thờ phụng thần thánh tại đình làng. Tuy nhiên, nghiên cứu về văn bản sắc phong sẽ cho góc nhìn đa nghĩa hơn. Không chỉ là văn bản liên quan đến việc thờ phụng Thành hoàng làng, các sắc phong còn là văn bản mang tính khen thưởng, ngợi ca của Triều đình đối với dòng họ, hoặc cá nhân ai đó có công với đất nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Chính vì thế, sắc phong không chỉ được xuất hiện và lưu giữ tại đình làng, mà còn là tài sản của các dòng họ hoặc cá nhân.

Các sắc phong thần - thánh được thờ tự trong cộng đồng làng, xã thường có nhiều đạo khác nhau, gắn với các đời vua ở mỗi triều đại. Tức là, cùng một hay nhiều vị thần trong làng, các đời vua nối tiếp nhau gia phong sắc thần, cho địa phương tiếp tục được thờ phụng với những mỹ tự mới, gọi là gia tăng phẩm trật cho thần. Cũng có khi, đời vua sau hạ phẩm trật của thần so với đời vua trước, thậm chí, không cho thờ phụng nữa với lý do liệt thần làng, xã đó vào loại “dâm thần”, nghiêm cấm thờ phụng. Tuy nhiên, trường hợp giáng truất thần thánh như trên không nhiều. Các sắc phong chủ yếu vẫn là ca ngợi và tôn vinh. Các sắc phong đời vua sau thường gia tăng thêm mỹ tự (chữ đẹp) và phẩm trật cho thần, hoặc giữ nguyên phẩm trật của thần và đồng ý cho địa phương thờ phụng như cũ.

Thông thường, mỗi đạo sắc phong thường có những yếu tố gồm: Địa chỉ nơi thờ thần (thôn, xã, phủ, huyện, tỉnh…). Tên gọi của thần (bao gồm thần hiệu, huy hiệu, duệ hiệu, mỹ tự…). Lý do thần được sắc phong hoặc nâng cấp phẩm trật (Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần). Trách nhiệm của thần đối với dân sở tại (che chở, bảo hộ cho dân). Trách nhiệm của dân đối với thần (tôn kính, thờ cúng thần). Ngày tháng năm (thuộc đời vua nào) được ban sắc. Các sắc phong cho cá nhân và gia tộc có những vị đóng góp nhiều công trạng cho đất nước thường được kết cấu tương đối giống các yếu tố đã nêu trong sắc phong cho thần thánh. Vì lý do sắc phong cho người - còn sống hoặc đã khuất nên các yếu tố công trạng, thành tích cũng được ghi cụ thể tỉ mỉ hơn. Phần khen thưởng bằng vật chất thường cũng được liệt kê thể hiện trong sắc phong.

Trong lịch sử Việt Nam, nhiều đợt sắc phong dưới các triều vua đã được ban ra. Người có công lớn trong việc soạn và biên chép các sắc phong là Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, Nguyễn Bính (Hồng Phúc thứ nhất (1572) và Quản giám bách thần tri điện, Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền (Vĩnh Hựu thứ ba (1737). PGS.TS Phạm Lan Oanh khẳng định, sắc phong là loại văn bản quý của Triều đình Nhà nước phong kiến dành cho hệ thống thần linh đất nước và những cá nhân xuất sắc trong gia tộc, dòng họ. Tài liệu văn bản đặc biệt này đã tồn tại qua gần nghìn năm. Hiện nay, sắc phong hiện còn giữ được cổ nhất được biết tới là sắc dưới triều Vua Lê Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) sắc cho thôn Thượng, xã Thiện Trạo, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Cùng với các tín ngưỡng dân gian, hệ thống sắc phong đã trở thành di sản quý báu của địa phương, được các thế hệ công dân Việt Nam gìn giữ, bảo quản nơi làng xã qua nhiều thế kỷ. Các sắc phong đã trở thành tư liệu chữ viết quan trọng cùng với hệ thống hoành phi, câu đối, thần phả, truyền thuyết địa phương khiến cho việc phục dựng khuôn diện tín ngưỡng cha ông ta có những cơ sở đáng tin cậy.

Trong một nghiên cứu mang tên “Định chế và mô thức sắc phong thần triều Nguyễn” từng công bố trên Tạp chí Hán Nôm năm 2018, Tiến sĩ Đinh Thanh Hiếu cho biết, sắc phong thần là một loại hình văn bản hành chính của các triều đại quân chủ Trung Hoa và một số quốc gia nằm trong ảnh hưởng của văn hóa Hán. Thần khi được sắc phong tức là được sự nhìn nhận của Triều đình tư cách Chính thần, Phúc thần và được liệt vào tự điển (điển lễ tế tự) với một phẩm trật nhất định cùng các mỹ tự nằm trong sự quản lý của Bộ Lễ triều đình.

Sắc, ngoài chức năng phong tặng phẩm trật cho bề tôi theo định chế của từng triều đại, còn có một chức năng khác, đó là dùng để phong tặng bách thần. Theo quan niệm truyền thống của thể chế chuyên chế Trung Hoa (và các nước trong ảnh hưởng), thiên tử nhận mệnh trời trị thiên hạ, ngoài tư cách là chủ sở hữu tất cả hiện hữu dưới gầm trời “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; suất thổ chi tân, mạc phi vương thần (Dưới gầm trời không gì không phải đất đai của thiên tử; suốt khắp đất đai bờ bến, không ai không phải bề tôi của thiên tử) (Kinh Thi - Bắc sơn) thì còn là chủ của bách thần trong thế giới u linh “Bách thần nhĩ chủ hĩ” (Bách thần ngài làm chủ) (Kinh Thi).

Bách thần có nhiệm vụ phải “hiệu linh (dốc sức linh ứng), “hiệu thuận (dốc sức thuận theo) phù trợ cho thiên tử, vị đại diện của trời dưới trần gian. Như thế, bách thần cũng có tư cách bầy tôi (trong thế giới u linh) và nhiệm vụ “âm phù” cho thiên tử cùng với các bầy tôi trên nhân gian đảm nhận chức năng “dương trợ”. Với quan niệm như thế, bách thần cũng phải được nhận sắc phong của nhà vua để chính thức hóa danh phận và ngôi thứ của bách thần cũng phỏng theo quan giai cõi người mà chia ra phẩm trật Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần cùng các duệ hiệu, mỹ tự thông qua các đạo sắc phong.

Tiến sĩ Nguyễn Doãn Minh (Trưởng phòng Nghiên cứu Lịch sử Văn hóa - Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho biết, việc ban sắc phong thần ở nước ta được sử liệu ghi chép từ sớm. Việt điện u linh cho biết, Vua Lý Thái Tổ khi mới thiên đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về miền đất Đại La đã phong cho thần Tô Lịch là Quốc đô Thăng Long hoàng thành đại vương. Vua Lý Thái Tông sắc phong cho Hiệp Chính Hựu Thiên Trinh Liệt chân Mãnh phu nhân làm Hiệp chính nương. Vua Lý Anh Tông sắc phong cho Nhị Trưng phu nhân là Trinh linh phu nhân. Phổ biến hơn là vào năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), thứ 4 (1288) đời Trần Nhân Tông (1285) và năm Hưng Long thứ 20 (1312) ghi chép các sự kiện, ban mỹ tự. Như vậy việc sắc phong và gia phong mỹ tự cho bách thần, theo ghi chép còn lại thì đã là điển lệ có ít nhất từ thời Trần. Tuy nhiên, một số đạo sắc sớm ít ỏi còn lại đến nay trên thực tế chỉ có niên đại Lê sơ và Mạc. Hiện tại, sắc phong thần chủ yếu còn lại là niên đại Lê Trung hưng, Tây Sơn và Nguyễn. Trong đó, sắc phong thần triều Nguyễn chiếm số lượng nhiều nhất và cũng được điển chế hóa nhất.

Quyết tâm trao tặng tất cả sắc phong về nơi nó thuộc về!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 11

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam

- Phóng viên: Bắt nguồn từ đâu, nguyên do nào ông và nhóm Nhân sĩ Hà Đông trong nhiều năm qua cất công tìm kiếm, gìn giữ, trao tặng lại tất cả những đạo sắc phong cho làng quê Việt Nam - nơi ghi dấu vua ban vốn dĩ nó thuộc về?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam): Ngày xưa, anh em chúng tôi trong nhóm Nhân sĩ Hà Đông có một vài người sưu tầm các đạo sắc phong, hoàn toàn đơn thuần mang tính chất chơi cổ vật chứ chưa hiểu hết những giá trị của nó. Theo thời gian, trong quá trình tìm hiểu nhận ra giá trị lịch sử và văn hóa thiêng liêng của sắc phong dần dần lan tỏa đến các thành viên trong nhóm. Cũng phải đến 10 năm rồi, lặng lẽ và bền bỉ. Chúng tôi thường xuyên trao đổi với nhau về những vấn đề văn hóa dân tộc. Sắc phong, phải hiểu sâu hết nó là cổ vật, được làm ra bởi một chất liệu đặc biệt, được đóng dấu bởi nhà vua, và có giá trị về mặt thời gian, 100-200 năm tùy theo từng đời. Dông dài kể chuyện các bạn nghe, tối qua thôi, nhóm Nhân sĩ Hà Đông lại họp nhóm, để bàn việc kiểm kê xem sắc phong nào đang lưu giữ mà chưa dịch, để hoàn tất những công đoạn còn lại nhằm tiến hành trao trả. Xót xa trước di sản văn hóa dân tộc bị mất mát, thất lạc, tản mát, hư hỏng, rồi bỗng dưng trở thành thứ hàng hóa được mua đi bán lại, cả nhóm đã bàn nhau tìm kiếm bằng nhiều phương cách. Khi có được sắc phong, nhóm thuê dịch, hợp tác với chuyên gia, phân loại để biết sắc phong đó được vua ban cho địa phương nào. Khi xác định được nguồn gốc, xuất xứ của sắc phong, nhóm sẽ tìm cách liên hệ với địa phương bị mất để tặng lại. Nhóm Nhân sĩ Hà Đông quyết tâm trao tặng tất cả những sắc phong mà chúng tôi có về nơi vốn dĩ nó thuộc về!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 12

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (bên phải) trao đổi với phóng viên An ninh Thủ đô (Ảnh: Vân Quế)

- Cá nhân ông quan niệm thế nào về giá trị của sắc phong trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc?

- Có sắc phong, giữ sắc phong, hiểu sắc phong để thấy giá trị của di sản này. Các đạo sắc được quy ước như một giá trị quý báu về cả tinh thần lẫn vật chất. Đó là văn bản cổ do nhà vua ban tặng cho những người có công với đất nước; ân điển của nhà vua được các địa phương coi đó là sự xác nhận tối cao về mặt lịch sử, văn hóa, hành chính lẫn tâm linh. Sắc phong gần như là một bản phong thần, là hồ sơ thể hiện hai khía cạnh rất quan trọng về mặt pháp lý của quốc gia, giá trị văn hóa của một dân tộc, đồng thời có giá trị về mặt tâm linh trong đời sống tinh thần của cộng đồng.

Về mặt pháp lý, sắc phong thể hiện một quốc gia có chế độ, có vua, triều đình, có hệ thống chính trị, những vấn đề về văn hóa, tâm linh; đặc biệt, sắc phong xác lập được chủ quyền về mặt hành chính đối với các địa danh, sắc phong cho làng, xã nào thì thông qua đó có thể vẽ được bản đồ hành chính với đầy đủ quy định, nguyên tắc và luật lệ kèm theo. Sắc phong là một trong những hồ sơ gốc khẳng định pháp lý chủ quyền lãnh thổ mà không phụ thuộc vào quốc gia khác, là một quốc gia độc lập có vua tôi, địa lý, hành chính, luật pháp. Về văn hóa, những gì được ghi trên sắc phong có ý nghĩa là bản đồ văn hóa, trong đó có làng nước, phong tục tập quán, là “căn cước” văn hóa của một quốc gia.

Chuyện “chảy máu” sắc phong là có thật…

- Chúng tôi tìm đến ông, phần nào đó trong tâm thức cũng để hiểu thêm về tình trạng mất sắc phong! Vì sao mất? Mất từ bao giờ? Sao mất nhiều thế?...

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 13

Với cá nhân tôi, dưới cách nhìn của một nhà văn mà thấy vô cùng xúc động bởi lẽ, phía cuối sắc phong thường có câu đại ý rằng “Phong thần cho khanh để che chở và bảo vệ lê dân của Trẫm”. Tiếp nối mạch nguồn thiêng liêng ấy, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ các đạo sắc phong như “báu vật” của lịch sử dân tộc”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam)

- Mất mát nhiều lắm mà chúng tôi chẳng tìm lại được hết, ước tính cũng phải 40%. Chúng ta có hồ sơ gốc vô cùng quan trọng liên quan đến chủ quyền, lịch sử, liên quan đến “căn cước” văn hóa mà bị lãng quên, thất thoát, mất mát, phá hủy ở rất nhiều góc cạnh, từ biến thiên của thời gian, tác động của thiên nhiên đến cả sự vô cảm của con người, để giá trị tinh thần được mua bán như vật chất. Lấy cắp… dễ lắm! Sắc phong được để trong hậu cung, mỗi năm lễ hội, ngày linh thiêng mới được mở ra, nên mất cắp lúc nào không ai biết, chẳng ai hay. Việc bảo quản sắc phong cũng là một thách thức, mặc dù hơn 100 năm, được để trong hậu cung thiếu ánh sáng, ẩm thấp của mùa nồm miền Bắc rất khủng khiếp mà sắc phong vẫn vẹn nguyên, nhưng chất liệu bằng giấy sao trường tồn được mãi.

Cách đây vài năm, tôi đã nghe chuyện về một người đang giữ tới cả nghìn đạo sắc phong, sau này cũng nghe rằng số sắc phong đó được định giá khoảng 5 tỷ đồng và phải mua hết chứ họ không bán lẻ. Một là chúng tôi không có khả năng kinh tế, hai là vào thời điểm đó ý thức chưa thật sự mạnh mẽ, sau này thấy rằng bản thân có thể kêu gọi các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, doanh nhân cùng chung tay đóng góp, đặt lại vấn đề mua nhưng không thành vì họ tránh, cũng có thể chủ quan suy luận rằng vì… sợ liên lụy! Chuyện “chảy máu” sắc phong là có thật, đã, đang và sẽ còn diễn ra ngày một nghiêm trọng hơn.

- Góc nhìn khái quát, đa chiều của ông về hiện trạng sắc phong của Việt Nam hiện nay?

- Hiện có 5 vấn đề đang “đe dọa” sắc phong. “Đe dọa” thứ nhất chính là sự không hiểu biết, không đánh giá đúng giá trị về mặt pháp lý liên quan đến quốc gia, dân tộc, hành chính; “đe dọa” thứ hai là hầu như cơ quan quản lý lâu nay không để ý đến sắc phong; “đe dọa” thứ ba là sự phá hủy của thời gian trong khi không hề có hướng dẫn công tác bảo quản, một số đạo sắc phong đã bị hư hại, có dấu hiệu mủn nát xung quanh; “đe dọa” thứ tư là biện pháp bảo vệ thế nào để không bị mất cắp và đưa ra nước ngoài bán theo hình thức công khai lẫn không công khai; “đe dọa” cuối cùng chính là công tác tuyên truyền về di sản văn hóa dân tộc này quá ít, chưa muốn nói là hầu như không, nên chính trong cộng đồng cũng không có ý thức bảo quản, gìn giữ. Có thể nói, từ quản lý đến nhận thức đến việc bảo vệ mang tính vật chất đều bất cập, đều phải xem xét lại, “mẫu gene gốc” về văn hóa dân tộc không được bảo vệ thì đến một ngày, chúng ta sẽ thất thoát hết, mất hết!

Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam ảnh 14

Trần Ngọc Đông là người đầu tiên lên tiếng về việc sắc phong Việt Nam xuất hiện trên sàn đấu giá nước ngoài đầu tháng 4 - 2023

- Ông có thể kể một vài câu chuyện trong việc tìm kiếm và trao trả sắc phong cho chúng tôi lẫn độc giả biết về hành trình giữ lại di sản văn hóa dân tộc?

- Có những câu chuyện thú vị lắm! Đó là chuyến trao trả sắc phong tại một địa phương ở tỉnh Hà Nam. Lần theo địa chỉ có ghi trong sắc phong, một địa phương có từ hơn một thế kỷ trước, đến nơi, nhờ cả cơ quan chức năng ở tỉnh tìm giúp nhưng không thấy. Lần mò cả một ngày trời, cuối chiều thì quyết định quay về, khi đi qua một cánh đồng, nhóm chúng tôi dừng xe để nghỉ tạm trong một quán nước nhỏ lụp xụp. Tại đây, tình cờ gặp mấy cậu thanh niên tay xăm trổ đầy mình, thấy khách ở xa đến thì hỏi: “Các chú đi đâu mà gần tối rồi còn dừng chân vào quán này?”. Thuật lại câu chuyện thì được đáp: “Thế thì bọn cháu dẫn các chú đến gặp một người” kèm theo lời quả quyết: “Người đó mà không biết thì không ai biết”.

Đó là một căn nhà cũ, ngay từ cửa đã thấy hương hoa, mùi thuốc Bắc tỏa ra, ngồi đó là một ông giáo già gần 90 tuổi người Nghệ An ra đây dạy học, về hưu làm nghề bốc thuốc, đọc sách, xem kinh dịch. Nghe chuyện chúng tôi, ông giáo già ôm cuốn sách cổ ra tra cứu, và thế là tìm ra tên ngôi làng hiện đang được ghi trong sắc phong… Quay xe trở lại, tình cờ gặp tiếp một cụ già khác, cụ khẳng định, đúng là ngày xưa tên làng như vậy. Thế là chúng tôi đã tìm được nơi cần tìm theo cách kỳ diệu như vậy… Hành trình ấy như được các Ngài “đưa đường dẫn lối” cho chúng tôi.

Hầu hết những nơi mất sắc phong đều rơi vào trường hợp không có khả năng tìm, hoặc chấp nhận bỏ tiền ra để chuộc lại. Với chúng tôi, tự ý thức được bản thân mình không đủ sức làm một việc lớn như thế trong suốt quá trình lâu dài nên thường đưa thông tin lên mạng xã hội, kêu gọi ai đang giữ sắc phong hãy dâng tặng, ai trước đây mua bao nhiêu thì để lại giá ấy cho dân làng. Chứng kiến hoạt động ý nghĩa của nhóm Nhân sĩ Hà Đông, một số người buôn bán thì dừng lại, có người sưu tập đã tặng lại khoảng 50 đạo sắc phong họ đang giữ, họa sĩ Lê Thiết Cương cũng sưu tầm được một vài đạo sắc phong cũng trao lại cho chúng tôi. Nhóm nhận nhiệm vụ kết nối, làm việc với địa phương để trao trả bằng nghi lễ long trọng về văn hóa, tinh thần người dân hoan hỉ, mừng vui. Nhưng nói thật là có những nơi còn nghèo lắm, chúng tôi dịch sắc phong, đặt mua hộp đựng sơn son thếp vàng, rồi tài trợ kinh phí để địa phương tổ chức lễ đón rước.

Có một câu chuyện cách đây 3 năm trước khi đại dịch Covid-19 hoành hành, chúng tôi muốn tặng lại Bảo tàng Cao Bằng 335 hiện vật liên quan đến văn hóa của các vùng dân tộc thiểu số như Tày, Mường, Mèo, Thái… nhưng không hiểu vì lý do gì họ không nhận (?!) Sau đó, chúng tôi trao lại cho Hòa Bình, một triển lãm rất lớn được tổ chức và người dân Hòa Bình đến xem rất đông. Theo các chuyên gia về cổ vật định giá khoảng 1,5 triệu USD, chúng tôi trao hết, trọn vẹn, từ cồng chiêng, đồ thờ cổ, sách cổ, tranh thờ cổ… rất đẹp để đưa vào bảo tàng thành một hệ thống trưng bày tốt hơn.

“Đình làng chúng tôi không có hồn cho đến ngày sắc phong trở về”

- Dù chỉ là hành động của một nhóm nhân sĩ, nhưng quan trọng hơn là đã “đánh thức” được một số người trong chuyện gìn giữ, bảo vệ, trả lại đạo sắc phong, phải không ông?

- Các thành viên nhóm Nhân sĩ Hà Đông không nhớ nổi đã đến bao nhiêu làng quê Việt Nam để trao trả lại đạo sắc phong. Chúng tôi hạnh phúc bởi đã “đánh thức” được ý thức lẫn sự quan tâm của người dân với những di sản văn hóa dân tộc. Ban đầu chúng tôi nghĩ sắc phong chỉ có người cao tuổi, các ông từ quan tâm, nhưng thực tế đến giờ nhiều người trẻ ở nhiều vùng miền cũng đặc biệt quan tâm. Khi công bố lên mạng xã hội Facebook là hiện nay chúng tôi đang giữ cái gì, ở đâu, của ai, thì không ít người trẻ ở những địa phương bị mất đã nhờ đến chúng tôi tìm cho, có thấy thì báo giúp thông tin. Làm bền bỉ cả chục năm nay, tính tới thời điểm này, nhóm Nhân sĩ Hà Đông đã trao tặng khoảng 500 đạo sắc phong; hiện giờ tôi vẫn đang giữ khoảng 200 đạo sắc phong để tiếp tục nhờ sự hỗ trợ của các Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu Hán Nôm giám định, dịch, tạo lập hồ sơ để trao trả các địa phương. Hà Nội, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nam… lần lượt đến nhận đưa sắc phong trở về.

- Theo ông, vụ việc sắc phong có nguồn gốc của Việt Nam được đem ra đấu giá tại Trung Quốc đủ khiến chúng ta “giật mình” về hiện trạng bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam?

- Chỉ khi mất sắc phong, nước ngoài bán đấu giá các đạo sắc phong có nguồn gốc của Việt Nam, mạng xã hội, báo chí quan tâm, lên tiếng chúng ta mới “giật mình” (?!) Chúng ta nói về văn hóa, cả xã hội hô hào bảo vệ giá trị văn hóa, nhưng hoàn toàn không thực thi một cách đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ di sản. Buôn bán đồ cổ thoải mái, sắc phong lại càng dễ vì đơn thuần chỉ là một tờ giấy, không ai để ý đến giá trị nhiều mặt của nó.

Sắc phong chỉ thuần được coi là một hiện vật trong di tích; bảo vệ sắc phong hiện đơn thuần là trách nhiệm của một cộng đồng làng xóm, của địa phương chứ chưa hề có chủ trương, chính sách của cơ quan quản lý các cấp…

- Tới đây, ông và nhóm Nhân sĩ Hà Đông có dự định gì để tiếp tục lan truyền và góp tiếng nói mạnh mẽ về việc phải bảo tồn bằng được sắc phong?

- Cuối năm nay, dự kiến khoảng tháng 12, với nỗ lực và sức lực cá nhân, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc triển lãm và tọa đàm về sắc phong Việt Nam. Triển lãm để đông đảo người dân đến xem sắc phong, tọa đàm sẽ mời các chuyên gia nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chuyên gia nghiên cứu văn hóa dân gian nêu bật lên được giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh của sắc phong. Có lẽ, chưa bao giờ, và khi diễn ra, đây là sẽ là lần đầu tiên nói cho người Việt Nam biết đến câu chuyện sắc phong, sắc phong là gì, giá trị ở đâu, hiện trạng thế nào để làm nổi bật giá trị sắc phong trong đời sống xã hội. Từ đó sẽ đề nghị cơ quan chức năng, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch có những biện pháp bảo vệ sự an toàn và bền vững của sắc phong trong dòng chảy lịch sử, văn hóa dân tộc.

10 năm đã qua, chưa một cơ quan quản lý nào tìm đến chúng tôi (?!) Duy nhất ở giải thưởng “Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội” lần thứ 13 - năm 2020, ở hạng mục “Việc làm - Vì tình yêu Hà Nội” đã trao cho nhóm Nhân sĩ Hà Đông với việc dâng tặng lại sắc phong. Việc làm của chúng tôi muốn gửi đi một thông điệp đến người dân và toàn thể xã hội rằng, sắc phong là một di sản của dân tộc, phải ý thức và nhận thức lại giá trị văn hóa lịch sử.

Kể thêm với các bạn câu chuyện này, có những ngôi đình mà người dân cung tiến vào đó rất nhiều đồ đắt tiền, vậy mà người già trong làng vẫn nói rằng: “Đình làng chúng tôi không có hồn cho đến ngày sắc phong trở về”. Còn với cá nhân tôi, dưới cách nhìn của một nhà văn mà thấy vô cùng xúc động bởi lẽ, phía cuối sắc phong thường có câu đại ý rằng “Phong thần cho khanh để che chở và bảo vệ lê dân của Trẫm”. Tiếp nối mạch nguồn thiêng liêng ấy, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ các đạo sắc phong như “báu vật” của lịch sử dân tộc.

Hy vọng, mọi việc với câu chuyện sắc phong sẽ tốt lên!

- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

(Còn nữa)

https://www.anninhthudo.vn/hanh-trinh-theo-dau-vua-ban-dua-sac-phong-tro-ve-1-lan-theo-dau-vet-cac-dao-sac-phong-ben-ngoai-lanh-tho-viet-nam-post547906.antd?fbclid=IwAR1UUX7eWae5CIOQ0TgUKmBxi3chbp3qJn6Evebhm9FGF_mUcgQC6u0fOkU

..




---



BỔ SUNG


1. Ngày 12/4/2023

Fb Bùi Xuân Đính















Lời tác giả ; Mấy ngày nay, mạng xã hội sôi sục về tin hàng loạt sắc phong thần ở các làng xã bị đánh cắp đưa sang Trung Quốc đấu giá (!?). Về vấn đề này, mình đã có bài viết trên Báo Nhân dân ngày 5/3/1996, chưa tìm thấy), báo Quân đội nhân dân (1998, chưa tìm thấy), trả lời trực tiếp trên Bản tin Văn hóa VTV1 Đài THVN (khoảng tháng 4/1999).
Nhân sự kiện này, xin đăng lại mục "Sắc phong" trong "Bách khoa thư làng Việt cổ truyền". Bài dài, các bạn kiên nhẫn đọc nhé!
Văn bản viết trên giấy Sắc (xem Giấy sắc), có ấn của vua, có nội dung công nhận việc thờ thần của một làng (Sắc phong thần) hay phong chức tước cho một vị quan (Sắc phong chức tước). Mỗi đơn vị sắc phong còn được gọi là Đạo sắc.
1. Sắc phong thần
Nếu tính theo chất liệu giấy thì đạo Sắc xuất hiện sớm nhất cho đến hiện nay là hai đạo sắc lưu ở đền làng Quang Lang (xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Một đạo ghi ngày 28 tháng Tám năm Hồng Đức 23 (19 - 9 - 1492) và một đạo ghi ngày 25 tháng Bảy năm Hồng Đức 28 (22 - 8 - 1497). [Thùy Vinh, 2001, tr. 57 - 66]
Tuy nhiên, Giáo sư Hà Văn Tấn khảo sát ngôi quán làng Lại Yên (xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội) đưa ra thông tin, tại di tích này, còn lưu tấm bia Cổ tích thần từ bi ký, mặc dù được dựng vào năm Gia Long thứ 15 (Bính Tý, 1816), nhưng nội dung lại khắc nguyên văn tấm bia do Trương Hán Siêu soạn bài văn vào ngày 17 tháng Sáu năm Hưng Long thứ 20 (Nhâm Tý, 22 - 7 - 1312). Nội dung cụ thể của bài văn bia cho biết, thần Chí Minh Đại vương (thiên thần) được thờ tại quán Lại Yên, được phong Sắc là “Đương cảnh thành hoàng” vào ngày 15 tháng Hai năm Thuận Thiên thứ bảy (27 - 3 - 1016). Năm Thiên Tư Gia Thụy thứ tư (năm 1189), lại được phong Đại vương, dự hàng quốc tế ở Võ Miếu. Đến năm Nhâm Tý niên hiệu Hưng Long (1312), nhân Vua Trần Anh Tông dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được Vua Chiêm là Chế Chí, thu được nhiều chiến lợi phẩm trở về, bèn sai Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn ban Sắc cho thần là “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh Đại vương; xếp lên hàng quốc tế”, ban lệnh cấp tiền để tế Xuân, mỗi năm 30 quan để tỏ ý thành; đặc sai Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn ban chiếu chỉ, Hàn lâm Học sĩ Trương Hán Siêu vâng biên chép (Hà Văn Tấn, 2002, tr. 170 - 186). Cũng ở đền này, còn có một tấm bia khác lập tháng Hai năm Gia Long thứ 15 (năm 1816) liệt kê lại các Sắc phong cho Chí Minh Đại vương từ năm Cảnh Thống thứ ba (năm 1500) đến năm đầu niên hiệu Chiêu Thống (năm 1787). Như vậy, theo các tấm bia trên đây thì từ thời Lý Thái Tổ, các vị thành hoàng đã được phong Sắc; các đời vua sau, tiếp tục công việc này. Tuy nhiên, có lẽ lúc đó, kỹ thuật làm giấy còn thấp, nên Sắc phong chỉ được làm bằng giấy thường, có ấn của vua; song không bảo quản được lâu, nên phải khắc lại nội dung Sắc phong vào bia đá.
Sắc phong cho thần được viết trên 3 hạng giấy, để phân biệt các nhân thần, thiên thần cao thấp khác nhau.
- Giấy hạng nhất, chung quanh khung có vẽ 8 con rồng nhỏ, mặt trước vẽ một con rồng lớn, ẩn trong mây, mặt sau vẽ tứ linh (long, ly, quy, phượng).
- Giấy hạng nhì, chung quanh khung vẽ mây hoặc họa tiết hồi văn, mặt trước vẽ một con rồng, mặt sau vẽ nhị linh (hai con vật trong tứ linh).
- Giấy hạng ba, chung quanh in triện gấm, mặt trước vẽ một con rồng ở giữa và bốn góc in hình năm ngôi sao, mặt sau vẽ bầu rượu, túi thơ.
Về kích thước, các đạo sắc phong đều có hình chữ nhật, phổ biến có chiều dài trong khoàng 119 - 140cm và rộng từ 44cm đến 53cm; riêng Sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) có kích thước lớn hơn (dài 195cm, rộng 60cm).
Trên mặt trước của mỗi đạo sắc thường có diềm vẽ nền gấm chữ Vạn, bên trong diềm vẽ trang trí hình Rồng, mây và chữ Thọ.
Thông thường, mỗi bản Sắc phong gồm hai phần:
Phần bên phải (theo hướng người đọc, đọc từ trên xuống dưới, từ phải qua trái), có các nội dung:
- Địa chỉ thờ thần (thôn, xã, phủ, huyện, tỉnh, thưởng chỉ xuất hiện trong các Sắc phong từ thời Nguyễn; còn ở Sắc phong thời Lê, địa chỉ này được ghi bằng một dòng nhỏ ở mép trên của mặt sau tờ Sắc);
- Tên của thần (thần hiệu, húy hiệu, duệ hiệu);
- Lý do thần được phong Sắc (hay công lao của thần) là Trung đẳng thần hay Thượng đẳng thần…), hoặc được nâng cấp phẩm trật; các mỹ tự thần được ban;
- Trách nhiệm của thần đối với dân sở tại (che chở bảo hộ cho dân);
- Trách nhiệm của dân đối với thần (tôn kính, thờ cúng thần).
Ở phần bên trái của Sắc phong, ghi niên hiệu triều vua, ngày tháng năm ban sắc, gọi là dòng lạc khoản và có ấn của vua (dấu Kim bảo màu son đỏ) áp lên với 4 chữ Hán theo kiểu Triện thư. Dấu triện này có thể xem như biểu tượng linh thiêng của nhà vua.
Về ấn triện trên Sắc phong, các nghiên cứu cho biết, từ thời Lê Sơ đến thời Nguyễn , trên các đạo Sắc phong thần đã sử dụng những loại dấu triện Kim bảo như sau:
- Thời Lê Sơ (1428-1527), năm 1435, đúc kim bảo Sắc mệnh chi bảo, mặt ấn có kích thước 11,5cm x 11,5cm. Sắc này được làm năm Ất Mão niên hiệu Thiệu Bình đời Lê Thái Tông (năm 1435), cùng 5 loại ấn khác.
- Thời Mạc (1527-1593) và thời Lê Trung Hưng (1533 -1788), cũng sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo như thời Lê Sơ. Các ấn sắc thời Lê Trung Hưng có chiều cao 11,0cm; cạnh 14,0cm x 14,0cm, dầy 2,5cm. Kim bảo có 2 cấp hình vuông, quai rồng cuộn ngồi xổm, đầu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xoè 9 dải hình ngọn lửa, chân rồng 5 móng; lưng kim bảo khắc 2 dòng chữ Hán.
- Thời Tây Sơn (1788-1802), đúc mới và sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo khác, cùng dấu Tiên nhu chi bảo (kích thước 15,2cm x 15,2cm). Các Sắc phong niên hiệu Thái Đức 10 và 11 (1787 -1788) xuất hiện dấu triện Quảng vận chi bảo đóng trên các văn bản; Sắc phong niên hiệu Quang Trung 5 (1792) có dấu Triều Đường chi ấn.
- Thời Nguyễn, giai đoạn từ năm 1802 - 1827 sử dụng dấu Phong tặng chi bảo, giai đoạn từ 1828-1945, sử dụng dấu Sắc Mệnh chi bảo (Nguyễn Công Việt, 2005; Nguyễn Đình Chiến, 2017).
Việc nghiên cứu các dấu triện Kim bảo này, không chỉ làm rõ về những loại dấu triện đóng trên các đạo sắc phong thần qua các vương triều, từ Lê đến Nguyễn mà còn có ý nghĩa với công tác giám định sắc phong thật và giả trong tình hình nạn đánh cắp cổ vật, nạn làm giả sắc phong hiện nay.
Về trang trí rồng trên Sắc phong, vẫn theo tác giả Thùy Vinh khi khảo 32 tấm sắc phong mang tính tương đối liên tục của các triều vua, từ niên hiệu Hồng Đức đến cuối thời Nguyễn, còn lưu tại đền Quang Lang (xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), hình rồng trên Sắc phong thế kỷ XVII, XVIII rất to, khỏe, uốn lượn nhiều vòng; trong khi trên Sắc phong thời Nguyễn hình rồng cũng to khỏe với các bờm và móng vuốt nhìn dữ dằn, nhưng không rườm rà như trên sắc thế kỷ XVII.
Về lời văn trên Sắc phong, văn bản Sắc phong thường dùng các điển tích, điển cố để ngợi khen công đức của thần, nhưng trên văn bản sắc Hồng Đức, câu chữ không rườm rà như trên sắc thời Lê trung hưng hoặc thời Tây Sơn. Cách diễn đạt súc tích, giản dị, không cầu kỳ phô trương. Trên Sắc phong thời Nguyễn và thời Lê Trung Hưng thường trình bày nguyên nhân phong Sắc là do các vị vua, chúa nhân dịp vui, như mới đảm nhiệm cương vị mới ở chính phủ, nhân dịp sinh nhật vua, hoặc dịp có ngày vui của cả nước (quốc khánh, trong khi Sắc phong Hồng Đức không có); do công lao của thần đã phù giúp dân, giúp nước khiến cho dân yên vật thịnh, mưa thuận gió hòa (Thùy Vinh, 2001).
Sắc phong thần mang nhiều giá trị quý báu, vì chứa đựng nhiều thông tin có giá trị về các mặt:
- Tín ngưỡng thành hoàng làng, thông qua các loại thần được các làng thờ và được Nhà nước phong sắc (Thiên thần, Địa thần, Thủy thần, Mộc thần và Nhân thần với các thành phần khác nhau);
- Tên làng và sự phụ thuộc của làng vào các đơn vị hành chính qua các triều vua phong sắc (các Sắc phong thời Nguyễn);
- Giá trị lịch sử qua các vị thần liên quan đến sự nghiệp dựng nước và giữ nước của làng xã và của người Việt; sự thể chế hóa việc thờ thần và “phong kiến hóa” các vị thần;
- Giá trị mỹ thuật, thể hiện qua hình ảnh con rồng trong Sắc phong ở từng triều vua;
- Giá trị về văn bản học, thể hiện qua chữ viết trên Sắc phong của các triều vua;
- Thông tin về các loại ấn của các triều vua.
Trong lịch sử các vương triều của Nhà nước phong kiến Đại Việt - Việt Nam, thường khi vua lên ngôi, mừng sinh nhật 40, 50 của vua hoặc có những điều vui khác, đều thực hiện phong Sắc cho các vị thần ở các làng quê. Ban Sắc là một một chính sách, ân điển lớn của các vương triều; là một trong những biện pháp của Nhà nước phong kiến nhắm nắm làng xã về phương diện tâm linh, tinh thần. Sắc phong thần còn phản ánh quyền uy tối thượng của nhà vua.
Nếu Sắc phong giấy đầu tiên xuất hiện vào niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) còn giữ được đến ngày nay như thông tin của Phạm Thùy Vinh thì đợt phong Sắc cuối cùng diễn ra vào năm Khải Định thứ chín (Giáp Tý, 1924). Đa số các Sắc phong vào năm này mà tác giả tiếp cận đều khi vào ngày 25 tháng Bảy (25 - 8 - 1924).
2. Sắc phong chức tước cho cá nhân
Về cơ bản cũng được kết cấu tương đối giống Sắc phong cho thần. Riêng các nội dung về thành tích, công trạng, được ghi cụ thể, tỉ mỉ hơn.
Ngoài các giá trị thông tin về địa danh, đơn vị, đơn vị hành chính … như ở Sắc phong cho thần, Sắc phong chức tước còn cho biết hành trạng, đóng góp của người được phong. Nhiều người giữ những trọng trách trong bộ máy Nhà nước phong kiến các cấp và có vai trò cùng những đóng góp lớn ở những giai đoạn, thời điểm nhất định; nên Sắc phong là tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử địa phương, lịch sử đất nước, bổ sung nguồn tài liệu chính sử. Nhìn chung, Sắc phong là tư liệu chữ viết quan trọng, tin cậy, cùng với hệ thống hoành phi, câu đối, gia phả, thần phả, truyền thuyết địa phương, là những tư liệu thiết yếu trong nghiên cứu lịch sử nói chung, lịch sử làng xã nói riêng.
Không chỉ có những giá trị quý báu về phương diện tư liệu, Sắc phong là loại cổ vật, di sản vô giá, của địa phương, dòng họ do tính độc bản, duy nhất của nó (mỗi làng hay mỗi người được phong Sắc chỉ được nhận một bản). Điều này thể hiện rõ nhất với Sắc phong thần, vào tháng Mười năm Tự Đức thứ sáu (tháng 11 - 1853) “Định lệ cấp sắc lại cho bách thần, nơi nào bị mất sắc thần, thì người giữ sắc và lý trưởng bị phạt trượng, chỉ được cấp cho 1 đạo sắc văn lần cuối cùng thôi” (Đại Nam thực lục,/ Bảy, tr. 290).
Vì những lý do trên, Sắc phong là niềm tự hào, mang tính thiêng liêng với mỗi làng và cá nhân người được phong Sắc; được giữ gìn rất cẩn thận qua nhiều thế kỷ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả những lúc nguy cấp (cháy đình, cháy nhà, nước lụt…) cũng tìm mọi cách để bảo quản hoặc cứu giữ.
Cũng vì tính vô giá nêu trên mà trong quá khứ, thậm chí cả ngày nay ở một số địa phương, từng diễn ra những tranh chấp Sắc phong giữa các cộng đồng cư dân vốn cùng một gốc (từ một làng) tách ra, dựng đình riêng nhưng vẫn thờ chung thành hoàng, hoặc hai làng vốn chung đình, thờ chung thành hoàng, cùng tổ chức các lễ thức thờ cúng, song vì mâu thuẫn, đã “biệt tự” (dựng đình riêng, tổ chức thờ cúng riêng). Cũng từng xảy hiện tượng một số vị quan có chức quyền khai man thần sắc cho ông bà, cha mẹ mình, điển hình là vụ khai man thần sắc vào đời Vua Gia Long (1).
Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều đình bị lính địch đốt cháy, Sắc phong cũng cháy theo; hoặc dân làng phải đi tản cư, Sắc phong được cất giấu ở nơi bí mật, nhưng rồi không bảo quản được nên bị ẩm mốc, rách nát hoặc thất lạc. Sau hòa bình lập lại, việc thờ cúng tại các đình ở nhiều địa phương bị gián đoạn, di tích không được quan tâm, Sắc phong không được bảo quản chu đáo. Trong cuộc cải cách ruộng đất (1953 - 1956), nhiều địa phương bị tư tưởng tả khuynh lấn át, ngoài việc phá đình, đền, miếu, còn cho người đi thu các văn bản Hán Nôm, trong đó có các Sắc phong để tiêu hủy. Nhiều gia đình có Sắc phong của cha ông sợ bị liên lụy đến “phong kiến” phải tự tay đốt hoặc hủy bỏ.
Giai đoạn đầu của công cuộc hợp tác hóa, nhiều làng xã tháo dỡ đình để có nguyên vật liệu xây dựng các công trình công cộng; nếu không bị phá thì đình được dùng làm trụ sở của chính quyền xã, hợp tác xã hoặc làm kho. Sắc phong càng không có điều kiện để bảo quản, gìn giữ; nhiều làng phải “gửi” ở chùa, đền. Tình hình này tiếp diễn trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, khi phần lớn đình được dùng làm kho chứa vật liệu quốc phòng hoặc kho của hợp tác xã, Sắc phong phải chuyển đi cất giữ ở nơi khác, nhưng việc bảo quản, bàn giao không chu đáo, nên bị hư hỏng, mất mát.
Bất chấp những khó khăn do điều kiện bảo quản, cho đến cuối thập niên 1980, rất nhiều làng vẫn giữ được bộ Sắc phong mà các triều vua đã ban cho thần của làng mình, cũng là sự công nhận của các triều vua đối với việc thờ thần của làng. Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990 trở đi, Sắc phong là đối tượng đánh cắp của bọn tội phạm. Do vẫn bảo quản theo phương thức cũ nên rất nhiều làng bị mất Sắc phong, thậm chí hai - ba làng liền nhau bị mất Sắc phong trong cùng một đêm. Việc mất Sắc phong không chỉ gây tổn thương về niềm tin tâm linh cho dân làng, mà còn tạo ra những nghi ngờ nội bộ. Sau khi báo chí lên tiếng, nhiều làng đã chủ động đưa ra các biện pháp bảo vệ Sắc phong. Tuy nhiên, hiện tượng Sắc phong bị đánh cắp vẫn tiếp tục xảy ra. Chính quyền, ban quản lý di tích cấp xã và tiểu ban quản lý di tích ở các thôn làng cùng ngành văn hóa các cần có những giải pháp để bảo vệ nguồn tài liệu đã trở thành báu vật này.
Ngày nay, điều kiện kỹ thuật và công nghệ cho phép phục chế lại Sắc phong rất giống nguyên bản. Điều này cho phép các làng xã bị mất Sắc phong, hoặc Sắc phong bị rách nát phục chế lại theo nguyên mẫu, dựa theo bản sao Sắc phong của một số cá nhân tự ghi chép (hoặc cộng đồng giao cho cá nhân ghi chép). Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến tình trạng một số người đến liên hệ với tiểu ban quản lý di tích hoặc tập thể các cụ ở làng để xin “phục chế giúp” Sắc phong với giá rất cao; thậm chí đã có hiện tượng, có kẻ tự phục chế Sắc phong của một đình làng (đã bị mất), rồi liên hệ để tuyên truyền trong các cụ, dân làng là “đã tìm thấy sắc phong bị lưu lạc”, đánh vào tâm lý của các cụ để mua với giá rất cao do họ đặt ra.
Sắc phong - tài liệu tâm linh vô giá cần được quản lý, bảo vệ với chế độ nghiêm ngặt hơn, với sự vào cuộc của chính quyền, ngành văn hóa.
Chú thích (1)
Tháng Năm, năm Tân Mùi (tháng 6 - 1811), các địa phương ở Bắc Thành và Thanh - Nghệ tiến hành kê khai về việc thờ thần phong sắc cho thành hoàng các làng. Lợi dụng cương vị được giao, Vũ Quý Dĩnh làm cả sắc phong cho cha ông, bố mẹ mình làm “phúc thần”. Các quan phụ tá cũng dựa vào đó làm gian, khiến việc phong sắc cho các vị thần bị man trá tới hơn 560 đạo sắc. Đáng lưu ý, trong số các “man thần”, có cả Hoàng Ngũ Phúc - viên tướng từng dẫn đại quân Trịnh vượt sông Gianh đánh quân Nguyễn ở Đàng Trong vào năm Giáp Ngọ - 1774. Việc gian lận bại lộ. Các quan phải chịu các mức án khác nhau, trong đó, Đặng Trần Thường là tâm phúc của Gia Long cũng bị trảm giam hậu (Đại Nam thực lục / Một, tr. 815).

https://www.facebook.com/bui.xuandinh.53/posts/pfbid0382YuoNgMZc7DXEuUrGqp163qimHEtSY7aA65t9DB7G3VM62KDyjrKKb1yRWQ6bPNl

..

4 nhận xét:

  1. 1.

    Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (1): Lần theo dấu vết các đạo sắc phong bên ngoài lãnh thổ Việt Nam

    Trả lờiXóa
  2. 1. Ngày 12/4/2023

    Fb Bùi Xuân Đính

    Trả lờiXóa
  3. 4.

    Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (4): Nỗi gian truân không biết tỏ cùng ai!

    3 giờ trước
    0 bình luận
    Vân Quế - Trần Quân - Tuấn Dũng
    ANTD.VN - Tiếp theo kỳ trước của loạt bài viết này, về câu chuyện của nhà sưu tầm Bùi Văn Quang (Nam Định) trao tặng hai đạo sắc phong thời Nguyễn cho di tích Quán Vật (thôn Đồng Nanh, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội); về câu hỏi của chúng tôi với ông Quang “với nỗi niềm khi làm được một việc ý nghĩa” khi tìm mua, thuê người dịch, tìm đến địa danh trên sắc, liên hệ với địa phương, trao tặng và nhận lại cái lắc đầu khẳng định: “Tôi thấy thật nặng nề và mệt mỏi” của ông! Tại sao vậy (?!)...

    Trả lờiXóa
  4. 5.


    Hành trình theo dấu vua ban đưa sắc phong trở về (5): Chờ có tiền mới bảo tồn thì sắc phong “về trời” và di sản “tan hoang” rồi!


    08/08/2023 21:45
    0 bình luận
    Trần Quân - Vân Quế - Tuấn Dũng
    ANTD.VN - Trở lại cuộc đấu giá mang tên “Giấy cũ phồn hoa - Lịch sử văn hiến và bằng sắc trăm năm” của Công ty “Thượng Hải Dương Minh phách mại hữu hạn” (Trung Quốc), câu chuyện này đã khiến các cơ quan quản lý văn hóa thực sự “giật mình” và vội vàng “chữa cháy” bằng cách rà soát lại hiện trạng sắc phong trong di tích đã mất đến đâu và còn những gì...

    Hành trình theo dấu

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.