Các bài bàn luận về kinh Vu Lan, trên Giao Blog có thể đọc ở đây hay ở đây.
Trong dịp Vu Lan năm 2022 này, cùng nhau đọc lại một bản diễn âm kinh Mục Liên (chuyển kinh từ Hán văn sang lời thơ lục bát và viết bằng chữ Nôm) của thiền sư Tính Định.
Về nhà sư Tính Định thì có thể đọc ở đây hay ở đây.
Bài ở dưới lấy về từ Fb Học Phật.
Tháng 8 năm 2022,
Giao Blog
---
佛說目連救母經演音
-Dịch giả: Thiền sư Tính Định
-Nơi khắc ván: chùa Xiển Pháp
-Thời gian khắc ván: cuối thế kỷ 19
——-
LỜI TRI ÂN
Bản Phật Thuyết Mục Liên Cứu Mẫu Kinh Diễn Âm chữ Nôm (gọi tắt Kinh Mục Liên) là quyển thứ ba thuộc bộ Chư Kinh Diễn Âm, do Thiền sư Tính Định (1842-1901) dịch từ bản kinh chữ Hán theo thể thơ lục bát. Đây là bản dịch Phật Thuyết Mục Liên Cứu Mẫu Kinh duy nhất tại Việt Nam.
Đệ tử sưu tập được bản Nôm bộ Chư Kinh Diễn Âm từ Thư viện Quốc gia Việt Nam và Thư viện Anh, vừa nghiên cứu vừa phiên dịch từ năm Canh Tý (2020) và suốt năm Tân Sửu (2021). Khi phiên âm gặp các chữ trong văn cảnh có thể đọc vài âm, mỗi âm sẽ khiến câu văn mang ý nghĩa khác nhau, đều phải căn cứ theo nghĩa kinh gốc Hán để quyết định âm đọc. Bộ kinh tám quyển, thì dễ dàng tìm được nội dung chữ Hán bảy quyển trên sách giấy và trên mạng, còn riêng quyển Phật Thuyết Mục Liên Cứu Mẫu Kinh thì không tìm được.
Theo thông tin tiếng Hoa trên mạng, thì bản kinh này có xuất xứ từ Nhật Bản, được truyền sang Trung Hoa nhưng đến nay có thể đã mất tích vì không thể tìm được nội dung kinh, chỉ tìm thấy bản gần giống nhan đề là Tam Thế Nhân Quả Mục Liên Cứu Mẫu Kinh 三世因果目連救母經 có nội dung khác nhau.
Suốt quá trình sưu tập kinh, chế bản Nôm, cũng như phiên dịch bộ Chư Kinh Diễn Âm, hễ đến khi cần điều gì, đệ tử đều có duyên lành tìm được tài liệu và gặp được người giúp. Trong đó, bản thần chú chữ Phạn là khó phiên nhất cũng đã gặp được đủ tài liệu để hoàn thành vào sáng ngày 12 tháng Bảy năm Tân Sửu (19/8/2021). Bấy giờ chỉ còn bản Mục Liên chữ Nôm có một số chữ thật sự khó quyết định cách đọc. Đệ tử luôn băn khoăn trăn trở, canh cánh trong lòng, tìm đi tìm lại, tìm mãi mà chẳng gặp được sách. Biết làm sao đây!
Thế rồi, ngày 22/12/2021, đệ tử thấy trên mạng Facebook xuất hiện bài đăng ảnh và giới thiệu cuốn kinh trên trang của thầy Quảng Thuyết (Hưng Ngọc Vũ) từ ngày 16/12/2021, mới biết ở nước ta vẫn còn Phật Thuyết Mục Liên Cứu Mẫu Kinh chữ Hán. Lúc đó trong lòng thật vui mừng khôn xiết, tự nghĩ tất cả đều là duyên lành Phật Tổ gia hộ để hoàn thành bản phiên dịch bộ kinh!
Bấy giờ vào dịp cuối năm, ai cũng bận rộn. Đệ tử gửi tin thỉnh sách, nhưng không thấy thầy hồi âm. Sau, mãi đến trưa mồng 6 tết Nhâm Dần, nhờ thầy Di Sơn xin được thầy Quảng Thuyết chụp ảnh riêng nội dung kinh Mục Liên gửi về, đệ tử miệt mài duyệt lại toàn bản Mục Liên, phiên âm và chú thích theo đúng ý nghĩa kinh văn, đến nửa đêm thì hoàn thành, ngay khi hoàn thành liền gửi thầy Di Sơn toàn file bộ kinh để đưa đến nhà in. Thượng toạ Tiến Đạt tổ chức xuất bản lần đầu 2000 cuốn, ra mắt trong dịp “Hội thảo Khoa học Tổ Tính Định - Cuộc đời, đạo nghiệp và di sản” tại chùa Võ Lăng vào ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Dần, tiếp đó cúng dàng trước 19 trường Hạ tại Thành phố Hà Nội, nhằm xiển dương bộ kinh báu của tiền nhân.
Mấy hôm trước, đệ tử nhận được bản photocopy thầy Quảng Thuyết gửi tặng, xem tựa bạt thì bản này được chép từ bản khắc lại năm Thiệu Trị Giáp Thìn (1844), rồi khắc ván từ mùa Hạ năm Ất Tỵ (1905), hoàn thành mùa Thu năm Mậu Thân (1908) thời vua Duy Tân tại chùa Liên Hoa, xã Vĩnh Trụ, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, nội dung gồm kinh Mục Liên và các kinh khác. Nhờ thầy Quảng Thuyết mà bộ Chư Kinh Diễn Âm được hoàn thành trọn vẹn, thông qua bài viết này, đệ tử thành kính cảm niệm tri ân thầy!
Nay nhân mùa Vu Lan, đệ tử tạo file riêng kinh Mục Liên, một bộ kinh Hiếu trong Phật giáo, phiên bản đối chiếu Nôm-Quốc ngữ, đăng lên chia sẻ rộng khắp cộng đồng:
Đệ tử chí tâm đỉnh lễ mười phương Tam Bảo, thành kính tri ân Thiền sư Tính Định cùng các bậc tiền hiền đã soạn dịch và lưu truyền bộ kinh báu cho hậu thế, thành kính tri ân các thầy, các thiện hữu tri thức, đã giúp cho bản kinh hoàn thành và xuất bản phát hành trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam.
Chư Kinh Diễn Âm là bộ kinh đặc sắc của nước ta, nguyện cầu bộ kinh sẽ được các thầy ấn tống giảng giải lưu thông, khiến cho mọi tầng lớp nhân dân trong khắp xã hội đều được lợi lạc!
Ngày lành mùa Vu Lan năm Nhâm Dần
Đệ tử Học Phật khế thủ cẩn bạch!
——————
Toàn văn:
PHẬT THUYẾT MỤC LIÊN KINH TỰ DIỄN ÂM
Than ôi! Phật tăng thương người,
Kể đà rộng rãi như thời bể sâu.
Lấy chuyện nhà, dẫu về sau,
Để cho người biết mà mau sửa mình.
Tội khổ báo ứng nghĩ kinh,
Khổ rộng như bể phận mình ai lo.
Dạ người như đá trơ trơ,
Chẳng tin chẳng học chẳng tu mà đành.
Chỉ trông trước mắt lợi danh,
Chẳng ngoảnh mặt lại mà kinh sau này.
Thay thân đổi xác nào hay,
Mặc lông, đội nặng, cùng nay đeo sừng.
Quỷ đói, địa ngục mấy tầng,
Nào ai có biết nhiều chừng khổ sau.
Người nào sớm biết cho mau,
Quy y niệm Phật rồi sau ngại gì?
Có người sống chẳng tu trì,
Về sau con cháu vì thì làm chay.
Lòng chăm những chuyện vui hay,
Cỗ bàn thết đãi kể ngày kể đêm.
Kinh sám mấy bộ bao tiền?
Khác gì buôn bán tục duyên trong đời.
Ai hay Phật dạy những lời,
Thắp đèn treo phướn với thời phóng sinh.
Đọc tụng Đại Thừa chư kinh,
Lễ Phật sám hối siêu sinh cho người.
Bây giờ cứ Phật dạy lời,
Chớ sai kẻo lỡ mà hoài mất công.
Để người bắt chước theo dòng,
Tội thêm mà lại phá trong đạo Thiền.
Người nào thật vì gia tiên,
Kinh này phải xét mới nên việc mình.
Cứ Kinh Phật dạy phân minh,
Chẳng dám thêm đặt thế tình văn hoa.
Xem Kinh nhận nghĩa lý ra,
Đừng có chấp trước văn hoa như đời.
Bồ Tát giới Tính Định diễn âm.
Hà Nội Giám môn An Trạch thôn Xiển Pháp tự tàng bản.
PHẬT THUYẾT MỤC LIÊN CỨU MẪU KINH
DIỄN ÂM
Ta nghe một thuở ấy là,
Phật ở Xá Vệ, Kỳ Xà Quật Sơn.
Vạn hai Tăng chúng có hơn,
Phật nói về trước sự duyên Xá thành.
Có ông Phó Tướng là danh,
Cửa nhà giàu có khắp quanh ai bì.
Tiếp ai lòng cũng hoan hì,
Ở trong sáu độ hành trì đến nơi.
Hốt nhiên nhiễm bệnh quyên đời,
Ông bà chỉ có một người con trai.
Tên là La Bốc thuở hài,
Cha già đem táng ở ngoài núi Gia.
Ba năm hết chở rồi mà,
Trở về thưa mẹ: nhà ta xưa giàu.
Bây giờ gần hết chưa lâu,
Tôi đi buôn bán ở đâu mới đành.
Bảo ngươi Ích Lợi trục thành,
Gia tài vàng bạc còn rành tam thiên.
Chia ba, một phần gia duyên,
Một phần vì mẹ, Tăng chiền cúng trai.
Ngày năm trăm số chớ sai,
Cúng dàng Tam Bảo, Tăng trai cho thành.
Một phần sang Kim Địa thành,
Sinh nhai kinh kỷ phận mình là khi.
Bấy giờ mẹ thấy con đi,
Gọi thầy tớ lại: ngươi thì cứ ta.
Sư Tăng mà lại đến nhà,
Chúng ngươi cứ đuổi chớ hòa cúng chi.
Đem tiền con cúng trai nghi,
Mua dê, gà, lợn nuôi thì béo ra.
Ngày ngày giết lợn, mổ gà,
Tiếng kêu eo óc, gần xa cũng tường.
Làm ra vui vẻ đủ đường,
Tế Thần, cúng quỷ, thế thường làm hay.
Bấy giờ La Bốc buôn nay,
Một nghìn vốn, lợi hóa ngay ba nghìn.
Trở về đến nước nhà bên,
Thành Tây cây liễu đưa tin đến nhà.
Khiến người về bạch nương gia,
Hễ làm thiện sự thời ta đưa tiền.
Bằng làm ác nghiệp nhân duyên,
Thời ta đem tiền vì mẫu thí đi.
Ích Lợi về thấy Kim Chi,
Báo gia nương đã gần khi con về.
Bà vào trong chốn phòng khuê,
Tràng phan, bảo cái bày chia sau vườn.
Bảo nô: Ta hẹn cùng chàng,
Trai Tăng ngũ bách vẫn thường chẳng sai.
Ngươi dù chẳng tín thiết trai,
Trong nhà thờ Phật còn bài bát mâm.
Bây giờ nô thấy mừng thầm,
Bảo lang quân ấy, bà tâm phi phàm.
Ngày trai ngũ bách mà cam,
Hương đèn mọi vật ngổn ngang còn bày.
Lang quân nghe nói thẹn thay,
Trông không mà lễ kể nay hơn nghìn.
Bấy giờ làng nước láng giềng,
Ra thấy La Bốc lễ liền không thôi.
Gọi lang quân nói kể lời,
Trước sau không Phật, thế thời lễ ai?
Rằng mẫu tôi ngày cúng trai,
Năm trăm Tăng chúng nên tôi thẹn lòng.
Hương lân đáp rằng: nói không,
Đuổi Sư Tăng đánh, còn chưng cúng gì.
Đem tiền mua những lợn dê,
Sát sinh hoan lạc, tế chư quỉ thần.
La Bốc nghe nói cất thân,
Chân lông ra máu như rần ngoài da.
Lâu lâu tỉnh, mẹ mới ra,
Thấy con ngã đất vội mà cầm tay.
Thề rằng: sông rộng đất dày,
Nên người thời ít, bại nay thời nhiều.
Ta mà có nói sai điều,
Chẳng trai Tăng ắt phải chiều nặng đau.
Qua bảy ngày nữa về sau,
Chết đọa A Tỵ mãi đầu ngục trung.
La Bốc nghe thề tin lòng,
Hốt nhiên mẹ ốm chết trong bảy ngày.
La Bốc táng mẹ khi nay,
Kết am, ấp mộ đã đầy ba năm.
Ngày thời ấp mộ gia công,
Đêm thời tụng đọc kinh trong Đại thừa.
Cảm được bạch hạc trình thơ,
Chín sắc lộc tử sớm trưa lại chầu.
Từ ô nhãn xuất huyết châu,
Trăm chim ngậm đất gieo đầu phần linh.
La Bốc hoan hỉ tâm sinh,
Tô thành Phật tượng, tụng kinh cúng dàng.
Ba năm hiếu phục mãn tang,
Từ phần linh mới đi sang Kỳ Xà.
Quỳgối lễ Phật bạch ra,
Rằng tôi cha mẹ đều là tảo vong.
Ba năm hiếu phục vừa xong,
Tôi xin tùy thuận một lòng xuất gia.
Xuất gia công đức bao là?
Phật bảo La Bốc: Người mà thế gian.
Trai gái hầu ở hỷ hoan,
Cho đi theo Phật để toàn xuất gia.
Hơn xây tám vạn tháp ra,
Ngất cao lên đến trời xa không bằng.
Hiện đời cha mẹ phúc tăng,
Bảy đời tiên tổ cùng thăng Phật đình.
Lại phát Bồ Đề tâm sinh,
Kể công đức ấy trong kinh đã bàn.
Bấy giờ Phật sắc A Nan,
Cạo đầu rồi lại đặt tên cho liền.
Cải tên Đại Mục Kiền Liên,
Thần thông hơn cả ở trên mười người.
Mục Liên bạch Phật dạy tôi,
Bảo tháp cao rộng phúc thời được bao?
Phật bảo rằng: Tháp dẫu cao,
Lên đến thiên thượng rồi sao được bền.
Trăm năm mưa nắng liên miên,
Phật tượng vỡ nát, tội liền lại sinh.
Xuất gia công đức phân minh,
Vàng cứng chẳng nát, sinh sinh vững bền.
Mục Liên từ Phật xin lên,
Sơn lâm học đạo cho chuyên phận mình.
Phật bảo Mục Liên phân minh,
Ở đây học Đạo chớ kinh phương ngoài.
Mục Liên bạch Phật: Lỡ mai,
Sơn Trung học đạo nhờ ai tư dùng?
Phật bảo Mục Liên: Sơn trung,
Hổ lang chim chóc vì chưng cúng dàng.
Mục Liên nghe Phật nói tường,
Buông bát bay đến vào đường Quật Sơn.
Đến đấy là Bát La am,
Chợt biết Thiền định dần quan lên trời.
Đến tầng Hóa Lạc thiên giai,
Thấy cha cả chịu phúc trời vinh xương.
Khắp trông chẳng thấy a nương,
Thụ sinh ở đấy lòng thương càng rầu.
Trở về bạch Phật khấu đầu,
Mẹ tôi lúc sống thường hầu cúng trai.
Lẽ sinh Hoá Lạc thiên thai,
Bây giờ chẳng thấy, biết nơi nào tìm?
Phật bảo Mục Liên xét xem,
Mẹ ngươi lúc sống chẳng tin đạo thiền.
Lòng thường tích ác tham kiên,
Tội to như núi, thác miền ngục trung.
Mục Liên nghe nói sầu lòng,
Cất mình chợt thấy chơi vòng âm ty.
Mục Liên thấy trước đường đi,
Cối dao địa ngục những thì người ta.
Ngồi trong cửa cối dao mà,
Cắt thân mười đoạn thịt da rụng rời.
Muôn lần sống chết chưa thôi,
Ngày ngày nào cũng thế thời không sai.
Mục Liên trông thấy bi ai,
Mới hỏi ngục chúa rằng thời chúng sinh.
Trước kia tội gì ở mình,
Bây giờ chịu khổ thảm hình thiết tha?
Ngục chúa đáp rằng: Người ta,
Ở trên dương thế hay đà sát sinh.
Trai gái ăn uống thích mình,
Bây giờ phải chịu khổ hình tay tôi.
Mục Liên đi thấy một nơi,
Hai viên đá lớn ép người tội nhân.
Máu trôi tan tác quanh thân,
Mục Liên trông thấy muôn phần thảm thương.
Hỏi ngục chúa: Kiếp trước thường,
Tội gì nay chịu khổ thương ngục này?
Ngục chúa rằng: Người ấy nay,
Sâu kiến giết chết kể thay đã nhiều.
Địa ngục đá ép hai chiều,
Bây giờ chịu khổ đủ điều tay tôi.
Mục Liên lại đi một nơi,
Thấy đàn quỷ đói đầu thời như sơn.
Bụng như là núi to hơn,
Cổ như kim nhỏ, đi ồn tiếng xe.
Mục Liên hỏi lũ quỉ kia,
Tội gì thân trước thảm thê những là?
Quỉ rằng: Thân trước lũ ta,
Chẳng tin Tam Bảo phá hòa vong trai.
Kiếp dài chẳng thấy nước nôi,
Chẳng được ăn uống chúng tôi tội này.
Mục Liên thần túc đi ngay,
Thấy Khôi Hà ngục nhiều rày chúng sinh.
Nước sông đen ngâm thân hình,
Chạy trên mặt sóng, khắp mình rỗ ra.
Thấy bên đông mở cửa ra,
Hướng đông mà lại cửa đà đóng ngay.
Thấy bên tây mở cửa nay,
Hướng tây mà lại thời tây đóng liền.
Thấy cửa nam mở quả nhiên,
Hướng nam mà lại nam liền đóng ngay.
Thấy cửa bắc ngỏ ra nay,
Hướng bắc mà lại bắc rày lại im.
Chạy trên mặt sóng liền liền,
Kiếp dài mà chẳng được yên lúc nào.
Mục Liên thương hỏi làm sao,
Người nay dương thế tội nào mà nên?
Ngục chúa đáp: Lúc thân tiền,
Gà non nung nấu tội nên chịu rày.
Cho nên vào tay tôi đây,
Chỉ được hoan hỷ chịu ngay tội mình.
Mục Liên trông thấy tiền hành,
Vạc sôi địa ngục chúng sinh ngâm vào.
Mục Liên thương dạ biết bao,
Hỏi ngục chúa ấy tội nào mà nên?
Ngục chúa đáp: Người ấy duyên,
Chẳng tin Tam Bảo sinh miền giàu sang.
Sát sinh ninh nấu làm thường,
Bây giờ nhẫn chịu tội ương tay này.
Mục Liên khi ấy đi ngay,
Thấy một địa ngục tên nay Hỏa Bồn.
Thấy chúng sinh đầu vẫn còn,
Chậu lửa nghi ngút bằng non trên đầu.
Mục Liên xem thấy thương âu,
Mới hỏi ngục chúa tiền đầu tội chi?
Ngục chúa đáp: Người này khi,
Hay ăn xương tủy những thì chúng sinh.
Ngày nay lửa đốt thân hình,
Cho nên nhẫn chịu tội tình tay tôi.
Mục Liên kêu lên một hồi,
Mẹ ôi lúc sống vẫn thời cúng trai.
Hay đồ hương thực có sai,
Hay chẳng nghiêm khiết, lẽ thời sinh thiên.
Thiên cung tìm cả các miền,
Địa ngục chưa thấy tội khiên chốn nào?
Bấy giờ ngục tốt xôn xao,
Hơn tám vạn quỉ ào ào bảo nhau.
Trước cửa tiếng người nói đâu,
Hẳn người dương thế tội đầu ở đây.
Ta cầm tầm sét ra ngay,
Móc tim lôi lại chốn này thử qua.
Mục Liên trong ngục chợt ra,
Thân chứng tam muội biết ra tọa thiền.
Ngục chúa kêu mấy tiếng liền,
Mục Liên thiền định bởi nên vững vàng.
Ngục chúa hỏi Sư thế thường,
Người nào quyến thuộc đến đường ngục đây.
Có duyên gì, nói tôi hay?
Đáp rằng chớ giận tôi nay đạo hiền.
Đến nơi tìm mẹ nhân duyên,
Ngục chúa lại hỏi: Ai nên bảo người?
Mục Liên rằng: Phật bảo tôi!
Ngục chúa lại hỏi: Phật thời với ông.
Họ hàng gì? Quyến thuộc không?
Mục Liên lại đáp: Phật chưng là Thầy.
Thụ ký ma đỉnh tôi nay,
Đại Mục Liên gọi, tên này Phật cho.
Ngục chúa thấy nói buông xoa,
Lễ hơn nghìn lễ tán hoà: Thiện tai!
Ngày nay quả báo chẳng sai,
Thấy Phật đệ tử nhan hoài từ bi.
Ngục chúa lại bạch rằng thì:
Mẫu sư tên họ là gì thuở xưa.
Để tôi xem sổ tôi thưa?
Trở vào kiểm xét, bấy giờ bảo không.
Rằng tiền đầu đại ngục trung,
Tên gọi A Tỵ có trong họa là.
Mục Liên trước mặt đi ra,
Thấy một ngục lớn vách xa muôn trùng.
Tường cao muôn trượng mờ trông,
Lưới sắt che khắp ở chưng tường đầu.
Bốn con chó đồng đuổi nhau,
Miệng thở ra lửa ở hầu hư không.
Mục Liên vừa gọi vừa trông,
Chẳng người nào đáp ở chưng chốn này.
Trở lại hỏi ngục chúa nay,
Trước kia có ngục cao thay muôn trùng.
Lưới sắt che khắp trên không,
Gọi lên nghìn tiếng, chẳng trông thấy người?
Ngục chúa rằng: Ngục không khai,
Cửa này trường kiếp chẳng ai mở rày.
Mục Liên hỏi ngục chúa nay:
Những người có tội dễ hay mà vào?
Ngục chúa đáp rằng: Người nào,
Bất hiếu ngũ nghịch hợp vào tội đây.
Cùng người bất tín Phật nay,
Chẳng tin Kinh giáo với rày Tăng ni.
Lúc chết phải nghiệp phong xuy,
Dốc đầu mà xuống cứ chi cửa vào.
Ngục chúa hỏi Mục Liên sao,
Chốn này u ám Sư vào việc chi?
Rằng đi tìm mẹ tôi thì,
Ngục chúa lại hỏi: Ai khi bảo thầy?
Mục Liên lại đáp rằng nay:
Phật bảo tôi đến ở đây mà tìm.
Ngục chúa lại hỏi Mục Liên:
Sư cùng với Phật căn nguyên họ gì?
Rằng là: Hòa Thượng tôi khi!
Ngục chúa hỏi: Mẹ tên chi họ nào.
Để tôi vào ngục Công Tào,
Tìm sổ xem thấy thế nào tôi thưa?
Đáp rằng: Vương Xá thành đô,
Phó Tướng vợ cả, tên thô Thanh Đề.
Họ Lưu đệ tứ Nương kia!
Ngục chúa vào ngục Thanh Đề gọi tên:
Tứ Nương ngoài cửa ngục tiền,
Có con tu Đại Mục Liên đi tìm.
Lớn chẳng khá kể nhân duyên,
Là Phật đệ tử, tội liền được tha.
Ngục chúa gọi Thanh Đề ra,
Sao mà chẳng đáp lời ta thế nào?
Đáp rằng: Thấy ngục chúa vào,
Đem chốn ngục khác, sợ nào dám thưa.
Rằng tôi dương thế thuở xưa,
Một con La Bốc xuất gia bao giờ?
Ngục chúa trở ra bạch sư,
Rằng Thanh Đề nói ngôn từ đầu đuôi.
Mục Liên đáp lại rằng thời:
Từ bi nên tín mẫu tôi những là.
Phụ mẫu tôi ở dương gia,
Đặt tên La Bốc, mẹ già rồi sau.
Xuất gia Phật đặt cho hầu,
Mười người đệ tử kể đầu Mục Liên.
Ngục chúa lại hỏi lời liền:
Tìm được thấy mẹ báo đền gì ân?
Đáp rằng: Bồ Tát hữu thân,
Đại thừa Kinh điển vì nhân tụng đền.
Ngục chúa hướng Thanh Đề ngôn:
Mừng cho, La Bốc thực con cửa ngoài.
Thanh Đề rằng: Thực nhi hài,
La Bốc hiếu tử thốn hoài lòng nhân.
Bây giờ ngục chúa chuyển thân,
Lấy thiết xoa kéo đinh dần rụng ra.
Trăm chân lông máu chảy qua,
Lại mắc gông sắt quanh là dao côn.
Đưa ra trông thấy mặt con,
Ngục chúa lại hỏi: Sư còn nhớ chăng?
Sư rằng: lâu chẳng được trông,
Trỏ bảo: mãnh hỏa dung dung ấy là.
Mục Liên trông thấy mẹ ra,
Khóc kêu vái gọi: Nương gia thuở còn.
Trai tăng hiến cúng Thiền môn,
Tinh nghiêm phép tắc lòng son lẽ là.
Sinh lên Hóa Lạc thiên gia,
Thiên cung chẳng thấy bèn sa ngục này.
Con từ thuở ấy đến nay,
Có gì quí vật ngày ngày cúng nương.
Nương sao hình sắc khác thường?
Gọi rằng: Kiều tử kiếp trường khó trông.
Ngày nay thấy ở ngục trung,
Mẹ chịu khổ não kể chưng khôn bàn.
Đói thì ăn những thiết hoàn,
Khát uống đồng thủy, nói còn chưa xong.
Ngục chúa lấy đinh sắt đồng,
Đóng thân lửa đốt, nấu nung dạ tràng.
Người trong ngục nói lo lường,
Người ta mẫu tử lại thường gặp nhau.
Lũ ta biết thuở nào lâu,
Ở trong địa ngục chịu sầu tân toan.
Ngục chúa bảo sư: phản hoàn,
Chẳng được nói chuyện thở than lâu dài.
Sư nương chịu tội đến nơi,
Nhược bằng chẳng bỏ thì tôi đem vào.
Lưỡi câu sắc móc tâm bào,
Đem vào trong ngục Công Tào chẳng lâu.
Mục Liên trong dạ âu sầu,
Ngục chúa mới đuổi vào lầu ngục trung.
Mẹ ngoảnh mặt lại đoái trông,
Gọi rằng: con hỡi khổ trong ai bàn.
Xin con phương kế nào toan,
Cứu lấy tội mẹ gian nan trong này.
Mục Liên ngoài cửa ngục nay,
Nghe tiếng mẹ gọi gieo ngay đầu vào.
Cột ngục, máu ra ào ào,
Xin người tha mẹ, tôi vào thay nương.
Ngục chúa đáp rằng: dễ thường,
Mẫu sư nghiệp chướng rộng trường chưa nên.
Muốn cho nương khỏi tội khiên,
Trở về hỏi Phật nhân duyên chăng là.
Mục Liên nghe thấy nói ra,
Đằng không đi đến Kỳ Xà Quật sơn.
Nhiễu Phật, bạch rằng: Thế Tôn!
Đến ngục thấy mẹ nguồn cơn sự tình.
Làm sao cứu được mẫu sinh,
Ra ngoài địa ngục tội hình đắng cay.
Phật bảo: Ta cứu cho nay,
Mục Liên lại hỏi: Cứu rày được chăng?
Thế Tôn bảo Mục Liên rằng:
Ta cứu chẳng được ta bằng thay cho.
Bấy giờ Phật lĩnh chư đồ,
Tăng ni, cư sĩ, số thừa ức muôn.
Trước sau vi nhiễu Thế Tôn,
Lên không cao ngất cây non bảy lần.
Phóng ra năm sắc quang vân,
Chiếu phá địa ngục đồng thần biến ra.
Giường sắt hóa làm liên hoa,
Những tòa cây kiếm hóa ra ngọc lành.
Vạc sôi hóa phù dung xanh,
Diêm Vương trông thấy phân minh tán rằng:
Thiện tai! Ngày nay ta chăng,
Được thân lễ bái, hương đăng cúng dàng.
Thuở xưa tin Phật chưa tường,
Bèn sai ngục tốt các đường tha ngay.
Ngục tù khi ấy mừng thay,
Bao nhiêu người tội được rày sinh thiên.
Mục Liên bạch Phật tòa tiền:
Bao nhiêu người tội sinh thiên được mà.
Mẫu tôi chốn nào sinh ra?
Phật bảo: Nhữ mẫu tội đà nặng sâu.
Nghiệp chướng chưa hết lại hầu,
Sa vào Hắc Ám ngục màu tối đen.
Nay chư Bồ Tát trai duyên,
Cho cơm đỡ đến ngục tiền mẫu ngươi.
Mục Liên đưa cơm đến nơi,
Ngục trung mẹ thấy cơm thời lòng tham.
Tay tả cầm cơm hỷ hoan,
Tay hữu che lấy những toan sợ người.
Cơm ăn vào miệng tức thời,
Hóa ra lửa cháy giống nơi ngục tiền.
Mục Liên hỏi Phật nhân duyên,
Thế nào cứu được tối đen ngục này?
Phật bảo: Muốn mẹ ra ngay,
Thỉnh Bồ Tát tụng kinh nay Đại Thừa.
Sư nghe Phật sắc bấy giờ,
Thỉnh Bồ Tát tụng Đại Thừa chư kinh.
Bấy giờ sư mẫu phân minh,
Được ra Hắc Ám ngục hình ngại chi.
Mục Liên hỏi Phật thế thì,
Ra được Hắc Ám thác đi chốn nào?
Phật bảo khỏi đấy lại vào,
Sinh đường quỷ đói, khát khao trong lòng.
Mục Liên bạch Phật: Tôi mong,
Muốn ra cùng mẫu uống sông Hằng Hà.
Đáp rằng: Chư Phật uống mà,
Giống như Nhũ lạc kể đà ngọt ngon.
Chúng Tăng uống nước thời còn,
Đã như Cam Lộ mà ngon thôi là.
Người tu thập thiện uống ra,
Chỉ được khỏi khát những là thế thôi.
Mẹ ngươi mà uống nước thời,
Hóa ra lửa dữ cháy trôi nát lòng.
Mục Liên bạch Phật trông mong,
Xin cứu ngã quỷ ở trong đường này.
Phật bảo thỉnh Bồ Tát nay,
Thắp đèn tứ cửu phóng rày mệnh sinh.
Thần phan tạo lập cẩn thành,
Được khỏi ngã quỷ tội tình chẳng sai.
Mục Liên cứ Phật sắc lời,
Thỉnh chư Bồ Tát tạo thời thần phan.
Thắp đèn phóng sinh đã hoàn,
Được khỏi ngã quỷ, lại bàn sinh đâu?
Phật bảo mẹ ngươi lại đầu,
Hoá làm mẫu cẩu ở hầu thành trung.
Mục Liên cầm bát đằng không,
Đến thành Vương Xá vào trong gọi mà.
Cẩu trông thấy sư chạy ra,
Lấy chân đập vỗ, vào ra não sầu.
Rằng là mẹ con với nhau,
Cẩu thân, địa ngục cũng hầu khác chi.
Cẩu bảo Mục Liên nay thì,
Kiếp dài làm cẩu, ngục khi cũng bằng.
Mục Liên lại bạch Phật rằng:
Xin cứu lấy mẹ tôi đằng cẩu thân.
Phật sắc Mục Liên cứ tuân,
Ngày Rằm tháng Bảy tạo tuần Vu Lan.
Thế thì mẫu cẩu thoát an,
Mục Liên lại hỏi: Sự quan sao mà.
Mười ba, mười bốn chăng là,
Cứ Rằm tháng Bảy thời đà cớ sao?
Phật bảo: Giải Hạ năm nào,
Ngày Rằm tháng Bảy, tết vào chúng tăng.
Hoan hỷ hội họp một đằng,
Cứu độ nhữ mẫu siêu thăng Thiên đường.
Mục Liên nghe Phật sắc tường,
Dương chi bách diệp cúng tràng Vu Lan.
Lan Bồn trai hội đã hoàn,
Gia nương thoát khỏi bần hàn cẩu thân.
Mục Liên đối Phật ân cần,
Thụ giới, thuyết Pháp vì thân nay mà.
Từ đây xin mẫu xả tà,
Quy về chính đạo để mà tu thân.
Bấy giờ thiên mẫu, thiên nhân,
Tiếp sư nương thoát đăng vân thiên đường.
Chịu đủ khoái lạc lạ thường,
Đương tràng thuyết Pháp lợi đường chúng sinh.
Người nào nam nữ hữu tình,
Vì thân thư tả thử kinh tụng trì.
Ba đời cha mẹ với thì,
Bảy đời tiên tổ cùng về Tây Phương.
Ở đời cơm áo lạc thường,
Sống lâu mà lại giàu sang đây là.
Phật thuyết kinh này rồi mà,
Các chư Bồ Tát với hòa Mục Liên.
Thiên long bát bộ tại tiền,
Nhân, phi nhân đẳng đều liền hỷ hoan.
Cứ kinh tin chịu vâng làm,
Lễ Phật rồi mới các đường mà đi.
MỤC LIÊN KINH DẪN DIỄN ÂM
Có người biết thụ Tam quy,
Cầu thoát khổ nạn mà đi đến chùa.
Rồi lại đồng bóng tranh đua,
Để cho kẻ khác cũng dua theo mình.
Có gì là sách là kinh,
Mê mang thầy dạy chưa minh nghĩa Thiền.
Chẳng biết Phật Pháp cho nên,
Chẳng học rành rõ đạo Thiên, đạo Thần.
Là vì ít học chẳng cần,
Tội mình lại nối mê nhân sau này.
Tam quy mất cả ngày nay,
Ba đường ác đạo dễ hay khỏi vòng.
Có người biết tỉnh trong lòng,
Đi tu cầu thoát khỏi vòng trần duyên.
Rồi lại tham trước chùa chiền,
Chiều đời đồng cốt khiên triền lấy đông.
Thờ Chầu nghi ngút đèn dong,
Phật điện u ám chẳng trong siêng cần.
Biết đâu là Phật là Thần,
Phúc lực sai đẳng, biết phân nào bàn.
Mười phương tam giới vạn bang,
Cả nhờ sức Phật cũng an được mình.
Bởi thế mới chịu chúng sinh,
Cúng dàng lễ bái phúc mình dài lâu.
Nhân duyên giải thoát về sau,
Thành được Phật quả nữa hầu mới thôi.
Người tu nên xét lấy lời,
Khuyên đừng lẫn lộn sau rồi khổ thân.
Hỗ dụng, phá Pháp tội nhân,
Trong kinh Địa Tạng vân vân đã rành.
Học mà chẳng biết nghĩa kinh,
Phá Phật hoại Pháp là mình phải mang.
PHỤ TỊNH ĐỘ DIỄN ÂM
Tu hành phương tiện nhiều đường,
Niệm Phật một pháp là thường dễ thay.
Gọi là cầu sinh Phương Tây,
Cực Lạc thế giới ta nay mong về.
Gọi là Tịnh Độ tu trì,
Nghĩa là thanh tịnh tội thì không sinh.
Ba tạng mười hai bộ kinh,
Kinh nào cũng nói phân minh Pháp này.
Tám vạn bốn nghìn môn nay,
Môn nào cũng khuyến vãng rày Tây Phương.
Niệm Phật một Pháp rõ ràng,
Hơn cả mọi Pháp chẳng đường nào hơn.
Cổ Đức bàn rằng các môn,
Học đạo như kiến lên non bao giờ.
Niệm Phật tu hạnh nhất thừa,
Chóng như gió thổi buồm nhờ nước xuôi.
Tây Phương mà đã sinh rồi,
Chỉ phần lên, chẳng phần lui sau này.
Thượng phẩm Phật quả chứng ngay,
Hạ phẩm thời cũng hơn rày thiên cung.
Công đức lớn rộng chẳng cùng,
Tu thời dễ dãi nào chưng khó gì.
Gái trai già trẻ với khi,
Sang hèn tăng tục cùng thì mặn chay.
Ai ai tu cũng được rày,
Ngày mười câu niệm, công nay cũng thành.
Niệm rồi khấn nguyện phân minh,
Sau này đến lúc Phật nghinh tiếp về.
NIỆM PHẬT NGHI
Nam Mô A Di Đà Phật. (100 lần trở lên)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (10 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (10 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (10 lần)
Xin người niệm Phật với tôi,
Cùng sinh nước Phật Rất Vui thay là.
Thấy Phật rồi, khỏi luân hồi,
Cũng như Đức Phật độ loài quần sinh.
Nam Mô Phật - Nam Mô Pháp - Nam Mô Tăng
Quy y Phật - Quy y Pháp - Quy y tăng
https://www.facebook.com/HocPhatNiemPhat/posts/pfbid0iUnHDVn8EFsE74GuiH9q8fGeT1MBrzViKDXRtsiVdHydeY5zrvucYdMUxcu7zQT6l
..
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.