Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

15/07/2021

Mandala trong Phật giáo

Một chủ đề thú vị trong Phật giáo.

Bài đầu tiên lấy về từ trang Đại bảo tháp Mandala Tây Thiên.

Các bổ sung thì dán cập nhật ở dưới đó.

Tháng 7 năm 2021,

Giao Blog


---


Giới thiệu về hai Đại Mandala trong Phật giáo Mật thừa



10/06/2021 - 14:37

Lượt xem: 181


Mandala, là một hình vẽ biểu thị vũ trụ trong cái nhìn của một bậc giác ngộ. Manda nghĩ là "tinh túy", la là "chứa đựng”. Trong tiếng Phạn, mandala có nghĩa là một trung tâm. Có thể coi mandala là một hình vũ trụ thu nhỏ. "Mandala" dịch nghĩa theo chữ Hán là "luân viên cụ túc" nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Theo ý nghĩa thực tiễn thì mandala là đàn tràng để hành giả bày các lễ vật hay pháp khí để thực hành các nghi thức tu tập, cầu nguyện. Với các hành giả Đại thừaKim cương thừa thì Mandala là một mô hình về vũ trụ hoàn hảo, trong đó có một hay nhiều vị Phật Bản tôn an trụ.

Truyền thống Phật giáo Mật thừa có giới thiệu về hai Mandala rất quan trọng là Thai tạng giới mandala và Kim cương giới mandala, có nguồn gốc xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Trong quan kiến Vũ trụ quan Phật giáo, Vũ trụ gồm hai phần: một phần tương ứng với nhân cách và phần kia tương ứng với thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng của Phật. Hai mandala này là sự hội nhập giữa “thụ tri” và “sở tri”.

Thai tạng giới mandala (Garbhadhatu Mandala) là yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tính, như thai mẹ chứa đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện Đại bi tâm của Phật.

Kim cương giới mandala (Vajradhatu Mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên mãn, trí tuệ sở chứng của Phật. Ngũ Trí Như Lai là trọng tâm của Mandala này. Bí tạng ký viết: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí".

Màu sắc cũng mang tính tượng trưng cao trong những Mandala, với mỗi phương được biểu thị bằng một màu riêng: xanh lục tương ứng với phương Bắc, trắng tương ứng với phương Đông, vàng nêu biểu cho phương Nam và đỏ là phương Tây.

1.    Kim Cương Giới Mandala

Trong tiếng Phạn là Vajradhatu Mandala, cũng còn được gọi là: Tây Mandala, Quả Mandala, Nguyệt luân Mandala. Đây là một trong 2 bộ Mandala của Mật thừa, với nền tảng là Kinh Kim Cương Đỉnh. Hiện đồ Mandala Kim cương giới gồm 9 hội Mandala cấu tạo thành, vì thế còn được gọi là Cửu hội Mandala, Kim cương cửu hội, Kim cương giới cửu hội Mandala.

Trong 9 hội, thì 7 hội trước là phẩm Kim cương giới, trong đó 6 hội đầu là Luân thân tự tính của Đức Phật Đại nhật Như lai, hội thứ 7 là Luân thân chính pháp của Ngài; hội thứ 8 và thứ 9 thuộc phẩm Hàng tam thế, đều biểu thị Luân thân giáo lệnh của Đức Đại nhật Như lai. Cả chín hội trên đây, gọi chung là Mandala Kim cương giới.

Họa hình của Mandala này lấy phía trên làm phương Tây, 2 chiều ngang và dọc đều chia làm 3 phần, tổng cộng có 9 ô tức thành 9 hội. Trong hình vẽ này, nếu căn cứ vào ý nghĩa Hạ chuyển môn (môn hướng xuống) - từ quả hướng xuống nhân, thì hội thứ nhất ở chính giữa là hội Thành thân, từ đó, theo thứ tự hướng xuống đi theo phía bên trái như sau:

1. Hội Thành thân, cũng gọi là Yết ma. Hội này gồm 5 vòng tròn, trong trung tâm mỗi vòng tròn vẽ một đức Phật. Vòng ở chính giữa là Đức Đại Nhật Như Lai, xung quanh Ngài là 4 vị Bồ tát Ba la mật; ở 4 phương đều có nguyệt luân (vòng mặt trăng), trong mỗi nguyệt luân vẽ 1 vị Phật, mỗi vị Phật có 4 Bồ tát thân cận, tổng cộng có 16 Bồ tát. Ngoài ra, còn có 4 bồ tát Nội cúng dường, 4 bồ tát Ngoại cúng dường, 4 vị Nhiếp bồ tát, các vị trời hộ trì Mật thừa và 1.000 đức Phật ở kiếp Hiền..., tổng cộng có 161 vị Phật Bản tôn an tọa chung quanh đức Phật Đại Nhật Như lai. Hình vẽ của hội Thành thân này được biểu thị cho thực tướng của quả Phật.

2. Hội Tam muội da, cũng gọi là hội Yết ma: Tam muội da Mandala trong bốn loại Mandala, là hình thức các vị Bản tôn dùng ấn khế,... để tượng trưng cho bản thệ của các Ngài; chẳng hạn tháp Đa bảo tượng trưng cho thân Tam muội da của Đức Phật Đại nhật Như lai; cây chày kim cương 5 chĩa được đặt ngang dưới thân tháp là hình Tam muội da biểu thị cho Ngũ trí hiển hiện. Hình Tam muội da của 4 vị Phật ở 4 phương theo thứ tự là: Phật A Súc ở phương Đông là Chày kim cương dựng đứng, Phật Bảo Sinh ở phương Nam là Bảo châu, Phật A Di Đà ở phương Tây là Hoa sen, Phật Bất Không Thành Tựu ở phương Bắc là Chày kim cương Yết ma. Các vị Bồ Tát cũng đều dùng hình Tam muội da để tượng trưng cho bản thệ của các Ngài. Hội Tam muội da có tất cả 73 chư tôn.

3. Hội Vi tế, cũng gọi là hội Yết ma, hội Kim cương vi tế: Pháp Mandala trong bốn loại Mandala. Tức thân Tam muội da của chư Bản tôn đều hòa nhập vào nhau để hiển bày nghĩa Đức tính của một vị Bản tôn có đầy đủ đức tính của các vị Bản tôn, cho nên Mandala này biểu thị chư Phật Bản tôn đều có đầy đủ trí dụng vi tế của Ngũ trí. Hội này tổng cộng có 73 chư tôn.

4. Hội Cúng dường, cũng gọi hội Đại cúng dường, là Yết ma Mandala trong bốn loại Mandala. Hội này trình bày nghi thức chư Bản tôn cúng dường lẫn nhau, cho nên, ngoại trừ 5 đức Phật, còn có các vị Bồ tát khác đều nắm tay trái, tay phải cầm hoa sen, trên hoa đặt hình Tam muội da. Hội này cũng có tất cả 73 chư tôn.

5. Hội Tứ ấn: Biểu thị nghĩa Tứ mạn bất li, tức hội này bao quát tất cả bốn loại Mandala. Hình vẽ là: Đức Đại nhật Như lai ở chính giữa, 4 phương vẽ 4 vị: Kim cương tát đỏa, Quan âm, Hư không tạng và Tỳ thủ yết ma. Ở 4 góc của 4 vòng tròn lớn vẽ hình Tam muội da (chày 5 chĩa, bảo châu, hoa sen, yết ma) của 4 bồ tát Ba la mật và hình Tam muội da (chày 3 chĩa, tràng hoa, đàn không hầu, yết ma) của 4 Bồ tát: Kim cương hí, Kim cương man, Kim cương ca, Kim cương vũ. Đức Đại Nhật Như lai trong bức vẽ tượng trưng cho chỗ nương tựa của bốn loại Mandala, còn 4 bồ tát Ba la mật thì theo thứ tự tượng trưng cho bốn loại Mandala. Hội này tổng cộng có 13 chư tôn.

6. Hội Nhất ấn: biểu thị nghĩa chư tôn của bốn loại Mandala đều qui về tính hải bất nhị. Họa hình phần này chỉ đơn thuần biểu hiện có 1 vị Phật Bản tôn là Đức Đại Nhật Như Lai, đặc biệt được dùng trong pháp tu Đại nhật. Đại Nhật Như Lai an tọa trong Đại nguyệt luân ở giữa bức vẽ, đầu đội mũ báu Ngũ Phật, mình mặc áo trời mầu trắng, trụ trong ấn Trí quyền, tượng trưng nghĩa Pháp thân duy nhất đầy đủ Ngũ trí.

7. Hội Lí thú, cũng gọi hội Tát đỏa, hội Phổ hiền. Hội này biểu thị nghĩa Đại Nhật Như Lai hiện thân Kim Cương Tát Đỏa đem chính pháp giáo hóa chúng sinh. Trong bức vẽ, Kim Cương Tát Đỏa đầu đội mũ báu Ngũ trí an tọa ở chính giữa, 4 phương là 4 vị Kim cương: Dục, Xúc, Ái, Mạn và ở 4 góc là 4 vị Kim cương nữ: Ý sinh, Kế lí cát la, Ái lạc và Ý khí. Viện Ngoài thì vẽ 4 vị Nhiếp bồ tát và 4 vị bồ tát Nội cúng dường là: Kim cương hí, Kim cương man, Kim cương ca và Kim cương vũ. Nhưng vị trí của các bồ tát Nội cúng dường, Ngoại cúng dường của hội này đặc biệt khác với các hội khác, đó là biểu thị nghĩa Nội, Ngoại dung hợp, không ngăn ngại. Hội này có tất cả 17 chư tôn.

8. Hội Hàng tam thế yết ma, gọi tắt là hội Hàng tam thế: Biểu thị nghĩa Đại Nhật Như Lai hiện thân uy mãnh để hàng phục những chúng sinh ương ngạnh khó dạy. Trong họa hình, đức Đại nhật Như lai an trú trong ấn Trí quyền, ngự ở chính giữa, hiện tướng hàng phục 4 loài ma (Ngũ ấm ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma). Tại bốn phương là 4 vị Phật và 16 vị Bồ tát cũng đều nắm tay và hiện tướng uy mãnh, nhất là Đức Kim Cương Tát Đỏa thị hiện thân hình đặc biệt khác lạ, đó là tướng Minh vương phẫn nộ hàng tam thế với 3 mặt 8 tay. Nơi 4 góc của Kim cương bộ ngoài là hình tướng 4 vị Đại minh vương: Kim Cương Dược Xoa, Quân Đồ Lợi, Đại Uy Đức và Bất Động, hoặc vẽ hình tướng 4 bà vợ của 4 vị Đại minh vương là; Sắc, Thanh, Hương, Vị. Hội này tổng cộng có 77 chư tôn.

9. Hội Hàng tam thế tam muội da: Biểu thị nghĩa bản thệ của Đức Đại Nhật Như Lai là hàng phục trời Đại tự tại. Cách bài trí chư tôn trong hội này hoàn toàn giống với hội Hàng tam thế ở trên, chỉ có vị trí của hình Tam muội da là khác. Lý do là vì hội Hàng tam thế biểu hiện cho thân tướng đầy đủ sự nghiệp của chư Bản tôn, còn hội này thì biểu hiện đức nội chứng của chư Bản tôn. Trong bức vẽ, hình Tam muội da của Đức Kim Cương Tát Đỏa là bánh xe có 8 nan, đây là  Pháp khí dùng để phá dẹp, tượng trưng cho tâm Bồ đề thanh tịnh kiên cố sẵn có của chúng sinh. Cõi trời Đại tự tại trong bức vẽ thì tượng trưng cho căn bản vô minh, bởi thế, hội này biểu hiện uy nghi dùng ánh sáng của trí tuệ thanh tịnh xua tan bóng tối vô minh ô nhiễm trong nội tâm của hành giả.

Nói theo môn thượng chuyển Từ nhân hướng tới quả, thì ý nghĩa của các hội là biểu thị thứ tự tu hành của Bồ tát hoặc của hành giả Chân ngôn thừa, tức là thứ tự đoạn chướng ngại và khai phát tâm địa như sau:

1. Hội thứ nhất, đảo ngược thứ tự mà chỉ cho hội Hàng tam thế tam muội da, tức là Minh vương Hàng tam thế tự hiện hình Tam muội da, hàng phục 3 độc tham, sân, si để dẹp trừ chướng nạn gây trở ngại cho việc hành đạo.

2. Do hình Tam muội da biến làm thân Yết ma, hiện tướng đại phẫn nộ, chân trái đạp lên trời Đại tự tại, tượng trưng đoạn trừ phiền não chướng; chân phải đạp lên Ô ma (vợ của trời Đại tự tại), tượng trưng đoạn trừ sở tri chướng. Đây tức là Hội Hàng tam thế yết ma

3. Hội trước đã trừ 3 độc, 2 chướng, mà ngộ được lí thú Bát nhã. Như vậy, tất cả 17 vị chư Bản tôn bao gồm Dục, Xúc, Ái, Mạn,... tượng trưng cho tâm trong, cảnh ngoài đều thị hiện thể  tính Bát nhã ngay từ ban đầu vốn chẳng sinh. Đây tức là Hội Lí thú.

4. Khi pháp quán Ngũ tướng thành thân được thành tựu, thì tự thân hành giả tức là thể của Bản tôn Đại nhật Như lai, thu nhiếp tất cả chư Bản tôn vào 1 thể duy nhất. Đây tức là Hội Nhất ấn.

5. Hành giả phải được sự gia hộ của 4 vị Phật, thì mới có thể quyết định thành Phật, lúc ấy, 4 vị Phật hiện ra trước, vây quanh Đức Đại Nhật Như Lai. Đây chính là Hội Tứ ấn.

6. Các vị Phật Bản tôn đều dâng mũ báu, tràng hoa,... cúng dường Đức Đại Nhật Như Lai để biểu hiện nghi thức cúng dường chư Phật. Đây tức là Hội Cúng dường.

7. Do chư Bản tôn hiển hiện Tha thụ dụng thân mà có Hiện trí thân, Kiến trí thân, Tứ minh,... để hiển bày tướng vào khắp trong Thiền định kim cương vi tế. Đây tức là Hội Vi tế.

8. Trong Đạo tràng quán, kết ấn Như lai quyền, từ văn tự chủng tử mà chuyển biến thành hình Tam muội da. Đây tức là hội Tam muội da.

9. Lại từ hình Tam muội da chuyển biến mà thành thân yết ma của Tì Lư Giá Na Như Lai. Đây tức là hội Yết ma.

Toàn thể 9 bộ tổng cộng có 1,q461 chư tôn, gồm 136 vị Phật, 297 vị Bồ tát, 4 chư tôn hiện thân uy mãnh, 4 chư tôn Chấp kim cương và 120 chư tôn thuộc Kim cương bộ ngoài. Ngoài thứ tự của các hội được sắp xếp như trên ra, còn có nhiều thuyết khác, trong đó có thuyết Mandala biểu thị Tự chứng hóa tha chiết phục nhiếp thụ bất nhị được sắp xếp theo thứ tự như sau: Thứ nhất hội Tát đỏa (hội Lí thú), thứ hai hội Hàng tam thế, thứ ba hội Hàng tam thế tam muội da, thứ tư hội Tứ ấn, thứ năm hội Cúng dường, thứ sáu hội Yết ma (hội Vi tế), thứ bảy hội Nhất ấn, thứ tám hội Thành thân (hội Yết ma), thứ chín hội Tam muội da. Thứ tự này biểu thị ý nghĩa từ tự chứng đi đến hóa tha, rồi từ hoá tha trở về tự chứng.

 

2.Thai tạng giới Mandala

Thai tạng giới Mandala, gọi đầy đủ là Đại Bi Thai Tạng Sinh Mandala. Gọi tắt: Thai tạng Mandala, Đại bi Mandala. Cũng được gọi là: Nhân Mandala, Đông Mandala, Lí Mandala. Mandala thuộc Thai tạng giới của Mật thừa, đối lại với Kim cương giới Mandala.

Thai tạng tiếng Phạn: Garbha, hàm nghĩa đại bi. Mandala, bao hàm các nghĩa: sinh ra chư Phật, ý vị tròn trịa đầy đủ, tột cùng không gì sánh bằng. Mandala Thai tạng giới chính là Đại Mandala sinh ra từ trong tâm địa bình đẳng Đại bi thai tạng của đức Tì Lư Giá Na Như Lai. Bởi vì Mandala Thai tạng giới vốn căn cứ vào ý nghĩa nói trong phẩm Cụ duyên, kinh Đại nhật mà được kiến lập, rồi lại theo Đại nhật kinh sớ mà bổ sung thêm, vì thế xưa nay thường gọi Mandala Thai tạng giới này là Kinh sớ Mandala.

Lấy phía trên của Mandala làm phương Đông mà chia ra như sau:

1.    Viện Trung Đài Bát Diệp: Trung Đài Bát Diệp Viện là một trong 12 viện của Hiện đồ Thai Tạng Giới Mandala. Viện này là trung tâm của Thai Tạng giới, chính giữa là Đại Nhật Như Lai, xung quanh có 4 vị Như Lai khác (màu vàng) và 4 Bồ Tát thân cận (màu trắng); từ trái sang phải theo chiều từ trên xuống: Bảo Tràng Phật (Ratnaketu), Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra), Khai Phu Hoa Vương Như Lai (Samkusumitaraja), Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjushri), Vô Lương Thọ Như Lai (Amitabha), Quán Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara), Thiên Cổ Lôi Âm Phật (Divyadundhubhimeghanirghosa), Từ Thị Bồ Tát (Maitreya), trụ ở Bát diệp (8 cánh sen), tất cả có 9 chư vị Bản tôn.

Hoa sen 8 cánh tượng trưng cho trái tim có 8 khía của chúng sinh, biểu thị ý nghĩa chữ A vốn không sinh, hiển bày lí thú tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Viện Trung đài bát diệp là tổng thể của Thai tạng Mandala, các viện khác là biệt đức của viện này.

2.    Viện Biến Tri (cũng gọi Viện Phật Mẫu): Nằm ở phía trên viện Trung Đài Bát Diệp, có 7 vị Bản tôn gồm Phật nhãn, Phật mẫu,... Viện này biểu thị cho đức biến tri (biết khắp) và đức năng sinh của chư Phật.

3.    Viện Quán Âm: Nằm về phía bắc viện Trung Đài Bát Diệp, có 37 chư vị Bản tôn như Bồ tát Đại thế chí,... Viện này biểu thị cho đức đại bi hạ hóa của Như lai.

4.    Viện Kim Cương Thủ (cũng gọi Viện Tát Đóa), nằm về phía nam viện Trung Đài Bát Diệp, có 33 vị chư tôn như Hư Không Vô Cấu Luân Trì Kim Cương,... Viện này biểu thị cho đức đại trí thượng cầu.

5.    Viện Trì Minh (cũng gọi Ngũ đại viện, Phẫn nộ viện): Nằm ở phía dưới viện Trung Đài Bát Diệp, có 5 chư tôn như Bồ tát Bát nhã,... Viện này biểu thị cho 2 đức chiết phục và nhiếp thụ.

6.    Viện Thích Ca: nằm phía trên viện BiếnTri, có 39 chư tôn như đức Phật Thích Ca Mâu Ni,... Viện này biểu thị cho đức phương tiện nhiếp hóa. Dùng 2 đức trí và bi biến hiện thành Thích ca Như lai cứu độ chúng sinh.

7.    Viện Trừ Cái Chướng: nằm về phía nam viện Kim cương thủ, có 9 chư tôn, như Bồ tát Bi mẫn,... Viện này biểu thị cho việc dùng trí môn kim cương để diệt trừ phiền não chướng của chúng sinh.

8.    Viện Địa Tạng: nằm về phía bắc viện Quán Thế Âm, có 9 chư tôn, như Bồ tát Địa tạng,... Viện này biểu thị việc dùng bi môn của Quán âm để cứu mê tình trong chín cõi.

9.    Viện Hư Không Tạng: Nằm ở phía dưới viện Trì minh, có 28 chư tôn, như Bồ tát Hư Không Tạng... Viện này biểu thị cho bi và trí hợp nhất, bao hàm muôn đức, có năng lực tùy theo nguyện vọng của chúng sinh mà ban cho tất cả của báu, đầy đủ trí đức và lấy phúc đức làm gốc.

10. Viện Văn Thù: Nằm ở phía trên viện Thích Ca, gồm có 25 chư tôn, như Bồ Tát Văn Thù... Viện này biểu thị cho trí tuệ của đức đại lực, có công năng dứt trừ tất cả hí luận, đầy đủ phúc đức và lấy trí tuệ làm gốc.

11. Viện Tô Tất Địa: nằm phía dưới viện Hư Không Tạng, gồm có 8 chư tôn, như Bồ tát Thập Nhất Diện Quan Âm... Viện này biểu thị cho đức thành tựu việc lợi mình lợi người.

12. Viện Ngoại Kim Cương Bộ: Lớp bên ngoài bao quanh 4 phía Đông, Tây, Nam, Bắc của Mandala Thai tạng giới, cộng chung 4 phía có tất cả 205 chư tôn. Viện này biểu thị đức tùy loại ứng hóa và lí phàm thánh bất nhị.

13. Viện Tứ Đại Hộ: Trong Hiện đồ Mandala lược bỏ viện thứ 13 này. Còn lại 12 viện thì viện Trung Đài là Phật bộ, viện Quán Âm là Liên hoa bộ, viện Kim Cương Thủ là Kim cương bộ, 6 viện Biến Tri, Thích Ca, Văn Thù, Trì Minh, Hư Không Tạng và Tô Tất Địa thuộc Phật bộ, viện Địa Tạng thuộc Liên Hoa Bộ, viện Trừ Cái Chướng thuộc Kim cương bộ, Ngoại Kim Cương thuộc cả ba bộ.

http://daibaothapmandalataythien.org/gioi-thieu-ve-hai-dai-mandala-trong-phat-giao-mat-thua

---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.