Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

24/03/2020

Tái thiết thành Vinh: Một lịch sử hợp tác với Đông Đức thời Chiến tranh Lạnh


Bài trên Văn hóa Nghệ An.



---

Tái thiết thành Vinh: Một lịch sử hợp tác với Đông Đức thời Chiến tranh Lạnh

  •   CHRISTINA SCHWENKEL
  • Thứ hai, 02 Tháng 12 2019 09:46
  • font size  giảm kích thước chữ  tăng kích thước chữ

 Khu tập thể nhà tầng Quang Trung năm 1978. Ảnh tư liệu của Bảo tàng Nghệ An
Thành phố Vinh có xu hướng là một điểm dừng chân chớp nhoáng của những khách quốc tế đi du lịch giữa cố đô Huế và thủ đô Hà Nội. Người nước ngoài thường giả định một cách sai lầm rằng khu phức hợp nhà ở rộng lớn ở trung tâm thành phố này là do Liên Xô xây dựng. Tuy nhiên, người Vinh lại hiểu rằng chính Cộng hòa Dân chủ Đức đã cung cấp vật liệu và hỗ trợ kỹ thuật để xây “khu nhà Quang Trung” sau khi cuộc không chiến của Hoa Kỳ kết thúc. Một mục tiêu quan trọng của sự hỗ trợ này là giúp đỡ Vinh trở thành một thành phố XHCN kiểu mẫu để các nơi còn lại của Việt Nam có thể noi theo. Tuy nhiên, sự sụp đổ đã sớm xuất hiện. Khu nhà Quang Trung hiện nay đang trong quá trình bị phá dỡ, xóa ký ức này khỏi cảnh quan thành phố. Để hiểu được tầm quan trọng của giai đoạn lịch sử này, không chỉ đối với Việt Nam, mà đối với thế giới rộng lớn hơn, điều quan trọng là phải đặt khu nhà Quang Trung trong một bối cảnh lớn hơn và mang tính toàn cầu về vai trò của kiến trúc trong Chiến Tranh lạnh.
Kiến trúc và Chiến tranh Lạnh toàn cầu
Nhiều học giả từ lâu đã quan tâm đến kiến trúc và qui hoạch đô thị như là một chiến trường văn hóa trong thời Chiến tranh Lạnh. Cuộc “tranh luận nhà bếp” tai tiếng giữa Mỹ và Liên Xô đã cho thấy không gian riêng tư của ngôi nhà đã trở thành nơi phản ánh sự chạy đua công nghệ ra sao. Tuy nhiên, cái ít được biết đến hơn, đó là sự xung đột tư tưởng giữa chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa Cộng sản đã biểu lộ ra sao thông qua ngôi nhà - và kiến trúc - không chỉ vượt ra khỏi phương Bắc công nghiệp hóa, mà còn ở các nước XHCN, như Việt Nam, đã tham gia vào các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân vì độc lập. Chuyển giao công nghệ như một phần của quá trình phi thực dân hóa đã làm thay đổi cảnh quan của các thành phố ở khắp châu Phi và châu Á, nhưng mới chỉ có vài nghiên cứu về cảnh quan xã hội và kiến trúc được thực hiện. Đó là động lực đầu tiên để tôi nghiên cứu khu nhà Quang Trung.
PGS.TS Christina Schwenkel trong một chuyến nghiên cứu thực địa tại Khu tập thể Quang Trung năm 2011
Thứ hai, bởi vì kiến trúc XHCN được coi như không phù hợp kể từ sự sụp đổ của Liên Xô, lịch sử của kiến trúc này như là những dấu tích hợp tác liên quốc gia đã bị lãng quên trên toàn thế giới. Ví dụ, trong một nước Đức thống nhất, nhà ở tập thể XHCN có một sự kỳ thị gắn liền với nó. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự kỳ thị này đã giảm xuống và người ta trở nên quan tâm đến lịch sử kiến trúc của các dự án tương trợ thời chiến tranh lạnh này.
Các tòa nhà từng bị ruồng bỏ hay bị xem là vật chướng mắt (eyesores) đã có cuộc sống mới, thường được xem như là các loại hàng hóa hay đối tượng của sự hoài niệm (nostalgia). Ví dụ, chúng ta có thể nhận ra điều này với nhà tập thể ở Hà Nội - vốn đã trở thành tâm điểm của các tác phẩm nghệ thuật, sách và các cuộc triển lãm gần đây.
Là một nhà nhân học đã sống ở Quang Trung, tôi thích nghiên cứu đời sống thường nhật như được thể hiện ở toàn 19 tòa nhà của khu tập thể (tính đến thời điểm nghiên cứu của tôi vào năm 2010-2011). Các nghiên cứu về nhà tập thể ở Đông Âu nói về những cảnh tượng xám xịt, buồn bã thiếu sự gắn kết và thiếu đời sống xã hội. Nhưng nghiên cứu của tôi về khu tập thể Quang Trung phát hiện ra điều ngược lại! Do đó, trong sự phân tích của tôi, tôi không nhấn mạnh vào sự hiu quạnh đô thị như các nghiên cứu khác, mà tập trung vào những tương tác kinh tế - xã hội năng động giữa người dân, khi họ tái thiết không gian đô thị và nhà ở của họ.
Lịch sử của sự phá bỏ
Trong khi nghiên cứu về kiến trúc có xu hướng tập trung vào sự kiến tạo của môi trường xây dựng, thì ở một nơi như Việt Nam với lịch sử chiến tranh kéo dài, cần phải dành sự quan tâm đến sự phá hủy kiến trúc. Trong giai đoạn 1964-1973, Mỹ thực hiện các cuộc tấn công lâu dài bằng không quân vào các mục tiêu cơ sở hạ tầng trên toàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đây vẫn thường được gọi là cuộc Chiến tranh phá hoại của Mỹ. Là một thành phố cảng và một trung tâm công nghiệp quan trọng, Vinh là mục tiêu của việc ném bom rải thảm lặp đi lặp lại: trong khoảng 10 năm, thành phố phải hứng chịu gần 5.000 cuộc không kích, trong đó ước tính có khoảng 250.000 tấn bom đã được ném xuống.
Ngày nay, các học giả nhắc đến các cuộc ném bom lên kiến trúc đô thị và các di tích lịch sử ấy như là sự hủy diệt đô thị - nghĩa là một sự tiêu diệt có chủ ý không chỉ con người, mà cả các địa điểm và tòa nhà gắn với bản sắc văn hóa của họ, chẳng hạn như các ngôi đền và các ngôi chùa linh thiêng.
Khi các cuộc không chiến kết thúc, thành Vinh nằm trên đống tro tàn. Vài tòa nhà sót lại đứng giữa một cảnh đổ nát kinh hoàng. Trong các cuộc phỏng vấn, người dân đã miêu tả sự hủy diệt tàn khốc đối với thành phố của họ, các đường phố bị băm nát thành gạch và tro. Các kĩ sư Đông Đức đến thăm Vinh vào năm 1973 nhớ lại rằng nó trông giống như “bề mặt mặt trăng”. Các trải nghiệm về sự phá hủy thành phố của chính họ thời chiến, và khả năng tái thiết nhanh chóng của họ, đã thôi thúc Hà Nội tiếp cận Berlin với yêu cầu giúp đỡ tái thiết thành Vinh.
Sự phục hồi đô thị thông qua hợp tác
Yêu cầu này có ý nghĩa tại thời điểm đó. Bởi vì phe XHCN giúp Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại các thế lực phá hoại của đế quốc Mỹ, nó đã cung cấp sự hậu thuẫn nhân đạo và quân sự to lớn cho Việt Nam. Ví dụ, các chiến dịch tương trợ của Đông Đức đã cung cấp viện trợ nhiều nhất cho Việt Nam trong số các quốc gia XHCN châu Âu, chỉ đứng sau Liên Xô. Sau khi kết thúc không chiến vào tháng 1 năm 1973, các nước XHCN đã cam kết hỗ trợ tài chính và kỹ thuật lớn cho Việt Nam để xây dựng lại nền kinh tế bằng cách mở rộng công nghiệp - điều sẽ giúp Việt Nam hòa vào mạng lưới thương mại XHCN toàn cầu.
Đến năm 1974, hơn 350 dự án với Liên Xô và Đông Âu đã được phê duyệt, bên cạnh các dự án với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Cu Ba. Phần lớn sự trợ giúp này tập trung vào việc hiện đại hóa các thành phố: Ba Lan đã nỗ lực xây dựng lại Hải Phòng, Liên Xô hỗ trợ tái thiết thủ đô Hà Nội, trong khi Tiệp Khắc, Bulgaria và Romania lần lượt giúp phục hồi Thanh Hóa, Thái Bình và Nam Định. Cu ba chịu trách nhiệm về Quảng Bình, và CHDC Đức tập trung vào Nghệ An. Do đó, các thành phố bị phá hủy hiện lên như là chiến trường kiến trúc của Chiến tranh Lạnh toàn cầu, với những lời hứa sẽ mang lại cơ sở hạ tầng hiện đại, như nước và điện, cho quần chúng chứ không phải là một nhóm đặc quyền được ưu tiên.
Dự án Đông Đức tại Nghệ An tập trung vào cả thiết kế (quy hoạch đô thị) và xây dựng lại thành Vinh. Sau đó, một thỏa thuận song phương đã được ký tại Berlin vào ngày 22 tháng 10 năm 1973. Trong giai đoạn từ năm 1974 đến 1980, hơn 200 chuyên gia Đông Đức đã làm việc với sự tư vấn của một nhóm chuyên gia Việt Nam - những người có tiếng nói cuối cùng về quy hoạch đô thị. Các chuyên gia GDR là cố vấn, họ có thể đề xuất ý tưởng nhưng không quyết định. Rất độc đáo là các chuyên gia GDR đã sống tại Vinh suốt một hoặc nhiều năm mặc cho điều kiện sống khó khăn. Sự chung sống và làm việc lâu dài cùng với người dân Vinh để xây dựng lại thành phố của họ theo các điều khoản trước đó đã góp phần tạo nên ý thức sâu sắc về tình đoàn kết và tình bằng hữu cá nhân tiếp tục cho đến ngày hôm nay.
Qui hoạch và tái thiết đô thị
Nhiệm vụ đầu tiên là thiết kế. Các kiến trúc sư GDR đã mang đến cho Vinh một cách tiếp cận rất mới đối với quy hoạch đô thị - khác với các kiểu đô thị hóa tự phát ở Vinh trước đó, đặc biệt là sau chiến tranh. Vào thời điểm đó, vẫn chưa có một kế hoạch tổng thể cho thành phố. Trong thiết kế của họ, các nhà hoạch định GDR đã nỗ lực đưa ra trật tự không gian và xã hội để xây dựng hình mẫu đã được tuyên truyền là một thành phố XHCN lớn hơn, thịnh vượng và đẹp hơn. Cách tiếp cận của họ tương tự như thành phố chức năng vốn được lấy cảm hứng từ Le Corbusier. Các nhà hoạch định của Đông Đức đã xếp thành phố vào các loại không gian chức năng khác nhau, gần giống với kiểu quy hoạch của Liên Xô, lấy từ Hiến chương Athen, tách biệt các khu vực với nhau: các ngành công nghiệp; khu vực công và hành chính; khu dân cư; đất sản xuất nông nghiệp; và không gian xanh cho các công viên và khu giải trí.
Một số kiến trúc sư địa phương đã ca ngợi mô hình thiết kế đô thị khoa học và hợp lý này - tương phản với việc sử dụng không gian manh mún của người Việt, vốn không được phân định rõ ràng. Tuy nhiên, trên thực tế, để duy trì kế hoạch hợp lý như vậy gặp phải trong những năm hậu chiến đói kém và khan hiếm là khá khó khăn. Những người di cư nghèo chuyển đến Vinh để xây dựng nhà tạm trong các vành đai xanh, trong khi các hoạt động thị trường phi chính thức đã xuất hiện trên toàn thành phố. Điều này làm mờ đi ranh giới giữa các khu vực và chức năng đã được phân định, không phù hợp với thực tiễn văn hóa hoặc kinh tế của Việt Nam.
Nhiệm vụ thứ hai là tái thiết lại môi trường kiến trúc. Đây là một nhiệm vụ to lớn do sự hủy diệt và thiếu nguồn lực sẵn có, ngoại trừ nguồn nhân lực. Hầu hết vật tư và thiết bị phải được nhập khẩu từ Đông Đức. Ngoài ra, các nhà quy hoạch đô thị phải đối mặt với một vấn đề nan giải là làm cách nào để thành phố hồi sinh. Giống như các Trümmerfrauenen ở Đức thời hậu chiến, một lực lượng lao động nữ chủ yếu làm việc chăm chỉ để dọn sạch đống đổ nát, lấp đầy các miệng hố và tạo ra một không gian bằng phẳng. Chỉ sau đó, họ mới có thể xây dựng một cơ sở hạ tầng vật chất và kỹ thuật mới với các hệ thống điện và nước hiện đại, đường rộng, các nhà trẻ và trường học, chợ, sân vận động và công viên, nhà máy, và nhà ở cao tầng cho công nhân và gia đình của họ - giống XHCN ở châu Âu.
Khu nhà tập thể Quang Trung
Trong lịch sử, ở các thành phố trên thế giới bị phá hủy bởi các vụ đánh bom nặng nề, việc xây dựng nhà ở cho những người phiêu bạt đã được ưu tiên. Vinh cũng không phải là một ngoại lệ; người dân ở đây cũng bị mất nhà cửa do không kích và rất cần nhà ở. Sau đó, dự án tương trợ tham vọng nhất là xây dựng khu nhà Quang Trung với các khối nhà độc lập và các dịch vụ công cộng tại chỗ, là công trình đầu tiên ở Vinh, nếu không phải là công trình đầu tiên của Việt Nam. Trong khi chúng trông giống như các khu nhà ở ở Đông Âu và Liên Xô thì chúng cũng có một số khác biệt. Chẳng hạn, chúng không được xây dựng bằng các khối bê tông đúc sẵn, mà bằng gạch - một công nghệ xây dựng truyền thống.
 
Nhiều toàn nhà cao tầng hiện đại được xây dựng trong mấy năm gần đây thay thế dần Khu tập thể Quang Trung. Ảnh Hoàng Nguyên
Thiết kế ban đầu cho Quang Trung rất ấn tượng đối với một thành phố nhỏ như Vinh: các nhà quy hoạch đã lập ra 36 khối nhà ở trong năm khu vực liền kề - ABCDE - để chứa mười lăm ngàn công dân được ưu tiên. Tuy nhiên, kế hoạch này là quá tham vọng. Đến cuối năm 1980, dự án đã khép lại chỉ với 22 khối ở Khu A, B và C, và một ở D. Tổng cộng 1.500 căn hộ đã được phân bổ cho khoảng 9.000 người thuê. Ngày nay, tất cả các căn hộ vẫn được sử dụng bởi hơn hai phần ba cư dân ban đầu - những người này hiện đã nghỉ hưu và người già. Điều này trái ngược hoàn toàn với Hà Nội và với các khu nhà trống ở các thành phố đang bị thu hẹp ở Đông Đức cũ, nơi mà người ta không còn thích ở trong những ngôi nhà như thế nữa.
Là công trình kiến trúc năm tầng đầu tiên ở Vinh, Quang Trung nhanh chóng trở thành hiện thân cho nhà ở XHCN hiện đại ở Nghệ An, và trên toàn nước Việt Nam mới thống nhất. Những kiến trúc sư gạo cội ngày nay vẫn nhớ cái cách mà một thành phố nghèo như Vinh vươn lên trở thành trung tâm đô thị hiện đại bậc nhất của cả nước. Đây là những căn hộ cá nhân đầu tiên ở Vinh với những tiện nghi hiện đại, như hệ thống ống nước trong nhà và nhà bếp. Tiện nghi thuận tiện được sản xuất tại chỗ, như ở Đông Đức, bao gồm trung tâm thương mại, nhà trẻ, trường tiểu học, câu lạc bộ thanh thiếu niên, rạp chiếu phim, và nhiều không gian xanh cho các hoạt động giải trí. Một tờ báo ca ngợi các tòa nhà bởi sự xa xỉ của chúng, mặc dù không có nước hoặc điện. Sự khác biệt đã xuất hiện giữa lý tưởng và thực tế khắc nghiệt của sự khan hiếm sau chiến tranh.
Thiết kế sinh thái
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, khu nhà Quang Trung đã được thừa nhận về thiết kế kiến trúc đô thị bền vững ở tầm mức quốc gia. Dự án thành công một phần phải kể đến cách các chuyên gia Cộng hòa Dân chủ Đức ưu tiên kiến thức địa phương kết hợp với “thiết kế xanh”. Vì thiếu cơ sở hạ tầng, các nhà quy hoạch đã buộc phải làm việc với các nguồn lực tự nhiên, không giống như các hoạt động kiến trúc truyền thống ở Việt Nam. Ví dụ, các nền của khu nhà ở được thiết kế ở góc 23 độ để giúp lưu thông không khí bên trong và bên ngoài các tòa nhà. Một số cư dân hiểu điều này là một cố gắng thuận theo phong thủy. Thiết kế hàng của các khối nhà ở với một hành lang bên ngoài ở lối vào phía trước cũng cho phép thông gió chéo và chiếu sáng tự nhiên. Các cây trồng và thực vật địa phương đã che nắng và giảm nhiệt mặt trời cho các tòa nhà.
Các cư dân lớn tuổi tôi phỏng vấn đã ca ngợi thiết kế sinh thái của khu phức hợp, nơi họ thấy có một môi trường sống lành mạnh hơn. Trái ngược với sự ngột ngạt của những tòa nhà cao tầng mới được xây dựng không có không gian xanh, họ ca ngợi căn hộ của họ là mở và thoáng. Bất chấp tình trạng xuống cấp, nhiều người bày tỏ sự ưa thích của họ đối với các cấu trúc đơn giản và thân thiện với môi trường được xây dựng bởi CHDC Đức, thay vì các chung cư tư nhân mới mà họ cho là có chất lượng xây dựng thấp hơn.
Những đối lập kiến trúc                                                           
Mặc dù có những nỗ lực tốt nhất để kết hợp các thực hành và kiến thức văn hóa địa phương trong một kế hoạch tổng thể, vẫn có một số khác biệt về ý tưởng. Ví dụ, chính quyền thành phố đã đẩy mạnh việc phân bổ căn hộ một gia đình cho những gia đình nhiều người vì thiếu nhà ở.
Người thuê nhà, hầu hết là người di cư nông thôn đã lo ngại về sự không tương thích của các tòa nhà. Mặc dù khu Quang Trung được thể hiện như một cuộc sống hiện đại, họ không thích ý tưởng sống ở một tòa nhà cao tầng - ồn ào, đông đúc và bắt buộc phải leo lên cầu thang. Thay vào đó, họ thích một ngôi nhà một tầng có không gian ngoài trời để làm vườn.
Người dân cũng chỉ trích thiết kế của các căn hộ là không thuận theo phong thủy, không giống như thiết kế bên ngoài. Ví dụ, phòng tắm được đặt ở phía trước của ngôi nhà bên cạnh lối vào, thay vì ở phía sau. Tìm một vị trí phù hợp cho bàn thờ gia đình tỏ ra khó khăn. Các kiến trúc sư Đông Đức đã nhận thức được những cảm giác này về các tòa nhà. Trong các cuộc phỏng vấn, họ giải thích rằng nhu cầu cấp thiết về nhà ở tại thời điểm đó được ưu tiên hơn các hoạt động văn hóa địa phương.
Đáp lại, các cư dân đã sửa lại căn hộ của mình để phù hợp hơn với mong muốn và nhu cầu của riêng họ, và họ tiếp tục làm như vậy cho đến ngày hôm nay. “Cơi nới” có lẽ là ví dụ điển hình nhất về cách mọi người mở rộng không gian sống của họ như thế nào. Ví dụ như cơi nới ở Quang Trung khá độc đáo so với Hà Nội. Theo thời gian, chúng ngày càng lớn hơn - trong một số trường hợp kéo dài tới ba phòng! Họ đã thiết kế lại nội thất của các phòng của mình cho phù hợp hơn với phong thủy; ví dụ, bằng cách di chuyển cửa phòng tắm ra khỏi hướng bàn thờ để nó đối diện với ban công và mở ra nhà bếp.
Tương lai của Khu Nhà Quang Trung
Trong bức tranh “Chung sống trên thiên đường” được vẽ năm 2011, họa sỹ Nguyễn Mạnh Hùng đã lột tả đặc trưng nông thôn của các khối nhà ở Việt Nam - mà ông gọi là một kiểu làng thẳng đứng. Các tác phẩm nghệ thuật nhấn mạnh những cách sáng tạo mà người dân đã cố gắng cải thiện điều kiện sống của họ, như ở Quang Trung. Cùng thời điểm đó, nó cũng chỉ ra sự kết nối sâu sắc giữa các cư dân, những người đã sống cạnh nhau trong thời gian dài. Đối với du khách đến Quang Trung, cuộc sống xã hội sôi động của khu phức hợp ngay lập tức hiển hiện. Cảm giác không phải là một sự lạ lẫm, mà là sự tương tác kinh tế và xã hội năng động. Không có không gian nào là không được sử dụng bởi những người từ trẻ đến già. Không có gì ngạc nhiên khi sự mất mát của không gian này là điều mọi người sợ hãi nhất về việc tái phát triển.
Đến giữa những năm 1990, nhà ở Quang Trung không còn là biểu tượng cho sự tiến bộ và niềm tự hào của thành phố. Do thiếu bảo trì và khí hậu khắc nghiệt, các tòa nhà bị xuống cấp nhanh hơn dự kiến. Ngày nay, các tòa nhà tọa lạc trên khu đất vàng ở trung tâm thành phố, và các nhà đầu tư thèm khát phá hủy và tái thiết để bắt đầu. Trong một khoảng thời gian ngắn, tổ hợp nhà ở đã chuyển đổi từ “hiện đại sang không còn hiện đại nữa. Lối sống mới đã khiến Quang Trung trở nên lỗi thời, và những căn hộ trở nên quá nhỏ. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu của tôi, một số cư dân thời đầu (thế hệ cũ) đã tranh luận bảo vệ việc cải tạo, thay vì loại bỏ các tòa nhà. Một số người thậm chí còn kêu gọi bảo tồn các khối di sản đô thị nhằm đảm bảo rằng lịch sử tương trợ trong Chiến tranh Lạnh không bị lãng quên. Với sự hoài niệm về nhà tập thể, một tòa nhà thậm chí có thể được bảo tồn cho mục đích du lịch, vì câu chuyện về Đông Đức giúp xây dựng một thành phố mới ở Vinh chắc chắn được nhiều người quan tâm. Hiện tại, các khối nhà ở, với biểu tượng của họ là “VĐ” vì sự đoàn kết Việt - Đức phía trên mỗi lối vào cầu thang, như một lời nhắc nhở về chương quan trọng này của lịch sử đô thị toàn cầu.
TS Đặng Hoàng Giang dịch
PGS.TS Christina Schwenkel hiệu đính
  • Christina Schwenkel là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang làm việc tại Khoa Nhân học, Đại học California, Hoa Kỳ. Bà là Giám đốc Trung tâm Đông Nam Á học, biên tập viên Tạp chí Việt Nam học của nhà trường. Đối với giới nghiên cứu Việt Nam học, Christina Schwenkel là một học giả nổi tiếng với nhiều công trình đã xuất bản sau hơn hai mươi năm nghiên cứu và gắn bó với Việt Nam. Bà quan tâm đến nhiều vấn đề như nghiên cứu bản địa học, nghiên cứu mối quan hệ giữa các nước XHCN trong thời kỳ chiến tranh lạnh, về nhân học hình ảnh, nhân học đô thị, và hậu quả của chiến tranh và tác động đến văn hóa và các hình thức của ký ức… Trong quá trình nghiên cứu tại Việt Nam, bà dành hơn một thập kỷ nghiên cứu ở Nghệ An, đặc biệt quan tâm nghiên cứu về thành phố Vinh. Bà thực hiện nhiều chuyến nghiên cứu thực địa dài ngày tại Vinh, trong đó có quãng thời gian 2010-2011 bà thuê một căn hộ tại khu tập thể Quang Trung để sống và nghiên cứu tại đây. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu của bà đều xuất bản ở nước ngoài nên ở Nghệ An không có nhiều người biết đến bà. Đây là một bài viết của bà do Tạp chí Văn hóa Nghệ An đề xuất.
..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.