"Trong những tháng năm tuổi trẻ, nàng Loan “mắt mèo” xinh đẹp gặp gỡ và đem lòng yêu thương một chàng chiến sĩ công an con nhà danh giá, đẹp trai lịch lãm. Được sự vun vén của cả hai bên gia đình, đám cưới của họ thực sự là đám cưới trong mơ trong mắt bạn bè và bạn bè đồng nghiệp lúc bấy giờ. Kết quả của cuộc hôn nhân ấy là hai người con ra đời trong niềm hân hoan của cả đại gia đình. Cậu con trai cả chào đời năm 1982 và cô con gái út sinh năm 1988. Đấy là khoảng thời gian mà cuộc sống luôn diễn ra đúng với những gì cô mong đợi. Công việc của cô cũng thuận lợi và chồng cũng thăng tiến vượt bậc trong sự nghiệp."
Bổ sung để ở dưới như mọi khi.
---
Nguồn (cập nhật 03/8/2024, đường link cũ của năm 2018 hiện đã hỏng)
https://doisongphapluat.com.vn/nhung-giac-mo-ki-la-va-moi-luong-duyen-cua-thanh-cua-co-gai-mat-meo-ky-1-a219921.html
Vén màn bí mật số phận li kì các đồng cô, bóng cậu nổi danh đất Bắc
Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng, thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Phóng viên đã có cuộc thâm nhập thế giới các đồng cô, đồng cậu và những cung văn đệ nhất đất Bắc để tìm hiểu về cuộc đời và nghe họ sẻ chia về những câu chuyện đầy kì diệu.
|
..
(ĐS&PL) - Chưa đầy 30 tuổi nhưng “thương hiệu” Văn Chung hát văn đã nức tiếng gần xa trong giới thanh đồng.
Chưa đầy 30 tuổi nhưng “thương hiệu” Văn Chung hát văn đã nức tiếng gần xa trong giới thanh đồng.
Những giá đồng danh tiếng nhất, anh luôn là cái tên được các văn đàn, bản hội ưu ái hàng đầu. Nhưng phía sau hào quang lẫy lừng ấy, ít người biết Nguyễn Văn Chung đã từng trải qua những tháng năm “bảy nổi ba chìm” học nghệ gian nan như thế nào. Và cái giá phải trả khi trót theo hầu cửa Thánh ấy, như chính anh tâm sự, còn là cả lời nguyền vô hình, một căn nghiệp phải trả, khiến Chung suốt cả cuộc đời tình duyên lận đận.
Truân chuyên “tầm sư học đạo”
Chung là con thứ ba trong một gia đình có bốn anh em. Nhà Chung xưa nghèo lắm, chỉ có mẹ làm đồng áng nuôi bốn anh em ăn học. Nhà Chung ngay sát cửa đền Cô (đền Cô Bơ, Thanh Hóa), khi đó bị chiến tranh tàn phá nặng nề chỉ còn chút tường bao nham nhở, một đống gạch vụn, một ban thờ và hai cây bàng cổ thụ. Ngày nào Chung cũng tha thẩn sang đền chơi, tối sáng trăng ra đền đọc sách, làm bài tập. Mặc dù ngày đó, việc sinh hoạt thực hành tín ngưỡng Tứ Phủ còn bị cấm, theo dõi gắt gao nhưng thi thoảng các bản hội khắp nơi vẫn kéo về tổ chức hầu Thánh.
Mỗi buổi hầu ấy với Chung là cả một ngày hội. Cậu bé còn chưa lên mười chìm đắm trong làn điệu chầu văn ma mị, lúc tỉnh lúc mê đầy cám dỗ. Năm 12 tuổi, tranh thủ kì nghỉ hè, cậu lại theo chân một nghệ nhân có tiếng trong vùng ra Tam Điệp (Ninh Bình) học nghề. Khi đó, cả gia sản chỉ có 2 con lợn, cậu đã phải thuyết phục mẹ bán để làm chi phí cho lần đầu tiên xuất gia học đạo trong đời.
Có lẽ phần do nhà nghèo, phần do cái máu đồng cốt đã ngấm vào người, Chung chỉ học hết lớp 8 rồi rẽ ngang sang nghề hát văn. Thời gian đó, anh lang thang khắp các đền phủ, đi lưu diễn ở khắp các nơi như Lào Cai, Yên Bái, Bắc Lệ, Bảo Hà, Phố Lu, Trái Hút, Đồng Mỏ, Đồng Đăng, Lạng Sơn. Từ đền Ông Hoàng Bảy đến Ông Mười; Từ Phủ Giầy, đến đền Cây Thị, đền Tân La, đền Kiếp Bạc, đền Cửa Ông đến đền Lảnh Giang, đền Sòng Phố Cát…Những tháng ngày phiêu bạt ấy, Chung vừa hành nghề kiếm sống vừa học hỏi các ngón nghề của các cung văn tài danh, để giờ đây trở thành cung văn hiếm hoi có thể hát chính xác cả 13 lối văn cổ mà các bậc tiền nhân để lại.
Sau những năm tháng bôn ba với nhiều văn đàn tứ xứ, năm 18 tuổi, Chung chia tay các cung văn ở đền Ông Mười (Nghệ An) ra Hà Nội lập nghiệp. Công việc đầu tiên của anh là sưu tầm băng đĩa của các bậc tiền bối để nghe và tự mình học tập. Những cung văn lừng lẫy như cụ Kiêm, ông Kha, ông Cao, ông Đạt, ông Vĩnh “6 ngón”, ông Sinh “lớn”, ông Sinh “con”, ông Phán, ông Phụng… thấy anh ham học hỏi, có năng khiếu nên sau vài lần anh lui tới đã cung cấp băng thu những bài hay nhất của mình.
Có băng rồi, đêm nào anh cũng nghe và chìm vào giấc ngủ trong những giai điệu chầu văn ma mị, chập chờn. Có khi sực tỉnh, anh tập hát theo các cụ bất chấp là nửa đêm hay tờ mờ sáng. Nhưng khi đó dù giọng hát đã khá điêu luyện, anh vẫn chưa biết những “hèm” độc đáo của nghề. Anh cứ mê mẩn, không hiểu sao các cụ hát hay đến thế, một tiếng cầm khóe lảy, một cơn xá thăng hoa hay câu hãm mượt mà đủ toát lên thần thái của một nghệ nhân cả đời tu luyện.
Vừa hay lúc đó, anh gặp được cụ Kiêm, người được giới cung văn cả nước lúc ấy xem như “tổ nghề’’ trong giới văn đàn nhận làm học trò. Đó là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời anh. Lúc đó, cụ Kiêm đã ngoài 70, sức khỏe yếu nhưng cơ duyên cho anh được cụ ân cần chỉ bảo. Mặc dù tai không còn nghe được nhưng cụ Kiêm vẫn có biệt tài đặt lời văn đầy cuốn hút và nhất là tường tận mọi lối hát cổ như lòng bàn tay. Thật tiếc khi anh chỉ được học một thời gian thì ngắn thì cụ mất.
Sau đó, anh tiếp tục tìm đến nghệ nhân Lê Bá Cao để học nghề. Cụ Cao đặc biệt sưu tầm và thuộc hàng ngàn bài thơ Thánh độc nhất vô nhị như Xuất nhập Thiên Thai, Tì Bà cung Bắc… Cụ chính là người thầy mẫu mực , giúp anh học hỏi được muôn vàn điều bổ ích. Sau gần 10 năm vừa đi hát vừa tầm sư học đạo, anh trở thành một cung văn “có thương hiệu” và được các văn đàn, bản hội luôn ưu ái.
Đường tình duyên dang dở
Trở lại câu chuyện đời mình, anh tâm sự những ai đã bước chân vào cửa Thánh, như một cái nghiệp chẳng mấy ai suôn sẻ chuyện tình duyên. Chuyện yêu đương vợ chồng của các cung văn hay giới thanh đồng khắc nghiệt vô cùng. Như có một lời nguyền vô hình, hay một căn nghiệp phải trả, hàng trăm người đi theo thế giới đồng bóng may lắm chỉ có dăm người giữ gìn được mái ấm hạnh phúc.
Anh kể, cung văn với chân đồng khi diễn xướng có một mối giao thoa kì lạ, chuyện các cô gái bỏ nhà bỏ cửa đi theo các anh cung văn vốn chỉ là chuyện thường tình. Khi đã vào độ nhập đồng thì mối lương duyên ấy như Bá Nha – Tử Kỳ, tri âm tri kỉ của nhau, như thể có một sợi dây vô hình buộc chặt. Bản thân anh dù ý thức rất rõ điều đó nhưng cũng không thể nào thoát khỏi định mệnh của nghề.
Theo nghiệp hát văn, việc yêu đương nam nữ đến với anh khá sớm nhưng phải đến năm 28 tuổi, anh mới tìm thấy tình yêu thực sự. Lần ấy đi hát ở Điện Phúc Sơn phố Giảng Võ (Hà Nội), anh gặp một bà đồng đứng tuổi. Trong câu chuyện “trà dư tửu hậu”, anh chỉ bông đùa khi trêu: “Cô có con gái thì gả cho cháu”, thế mà thành duyên phận. Sau đó, anh gặp người vợ đầu tiên của mình, một cô gái trẻ trung, hiền dịu và xinh đẹp nhưng chẳng dính dáng gì đến chuyện hát văn hay Tứ phủ.
Qua lại với nhau chưa đầy một năm, anh và chị quyết định đi đến hôn nhân. Sau lễ cưới, anh phải tất bật chạy vạy ngược xuôi để vay tiền mua một căn hộ tập thể ở Thanh Nhàn. Thời gian đó, cuộc sống của anh thật êm đềm và với thương hiệu hát văn nổi tiếng của mình, chẳng mấy chốc anh đã kiếm đủ tiền trả nợ. Hai đứa con xinh đẹp như thiên thần lần lượt ra đời chỉ trong 2 năm. Nhưng số phận trớ trêu, con tạo bông đùa, Văn Chung lại nảy sinh tình cảm với một chân đồng khác mà sau này sẽ trở thành người vợ thứ hai của anh.
Lúc đó, dù vẫn thương vợ thương con, nhưng mối tình kia anh không thể nào cắt đứt được. “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, mọi chuyện vỡ lở, gia đình tan nát. Đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, anh và nữ chân đồng kia “góp gạo thổi cơm chung”. Điều đặc biệt là cả hai người vợ của anh đều tên là Thủy, vợ đầu kém anh 4 tuổi còn người vợ thứ 2 hơn anh 4 tuổi.
Văn Chung bảo, có lẽ cái nghiệp anh gắn với Thủy cung. Thế nên sau hơn hai chục năm trời lưu lạc, anh trở về làm thủ nhang đồng đền Cơ Bơ – Hàn Sơn, thuộc cung mẫu Thoải, cai quản sông nước ao hồ. Về với ngôi đền thiêng đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình, anh chỉ có tâm niệm cung phụng cửa Cô, giữ gìn linh khí. Nhưng có lẽ, đó chưa phải là điểm dừng chân cuối cùng trong cuộc đời phiêu bạt của cung văn Nguyễn Văn Chung…
Ra đồng vì giấc mơ cặp bạch xà truy đuổi Cung văn Văn Chung chính thức ra mở phủ ở đền Cây Quế (Nam Định) năm 28 tuổi. Anh tự nhận mình vừa là người có căn quả, vừa là kẻ mến mộ đạo Mẫu lập phủ trình đồng để cầu hoan hỉ an lạc, sức khỏe bình an. Từ đó, cung văn Văn Chung trở thành cậu Chung, phụng sự việc Thánh không dám chểnh mảng. Tâm sự về lý do quyết định ra mở phủ của mình, cậu Chung bảo cũng xuất phát từ những đêm trăn trở, nghĩ ngợi về một bến neo đậu cho cuộc đời. Khi thiếp đi rồi chìm vào những giấc mơ, anh thường thấy hai con bạch xà truy đuổi mình ráo riết trên sông. Với nhạy cảm của một người thường vào ra cửa Thánh, anh biết để mọi công việc trôi chảy và nhất là thoát ra khỏi cơn ác mộng kinh hoàng đó anh phải ra mở phủ tu đồng, cung nghinh việc Tứ phủ. |
Tập hợp anh em cung văn dưới một mái nhà Hơn 20 năm theo nghiệp cung văn, hơn 10 năm phụng sự việc Thánh, anh từng lo ngại tình trạng hỗn loạn, người người hát văn, nhà nhà hát văn chỉ vì tiền, có những kẻ thậm chí học vài điệu cơ bản, đi hát chỉ cốt sao kích thích bà đồng hưng phấn, “thướng” nhiều tiền đang hủy hoại hát Văn, một thể loại âm nhạc nghi lễ tín ngưỡng đặc sắc. Từ nỗi đau đó đó, anh (được sự ủng hộ của GS. Ngô Đức Thịnh – PV) đã đứng lên khởi xướng việc thành lập CLB Bảo tồn chầu văn Việt Nam do GS. Thịnh làm chủ nhiệm. Ra đời từ tháng 3/2012, CLB hiện thu hút 500 cung văn khắp đất nước tham gia với nhiều hoạt động thiết thực nhằm bảo tồn loại hình âm nhạc truyền thống đang bị mai một này. |
(ĐS&PL) - Với những người mê hầu đồng có lẽ đều biết rằng Cô Loan thường gắn những giá đồng nổi tiếng. Những giá đồng đó thường trở thành những “điển tích” mà các “con nhang” thườn
Với những người mê hầu đồng có lẽ đều biết rằng Cô Loan thường gắn những giá đồng nổi tiếng. Những giá đồng đó thường trở thành những “điển tích” mà các “con nhang” thường bàn tán với nhau những lúc trà dư tửu hậu. Những câu chuyện như vậy không hiếm những chi tiết hư hư thực thực. Và người có câu trả lời chính xác nhất tất nhiên phải là người chủ của những giá đồng danh tiếng đó.
Giấc mơ kì ảo và cơ duyên hiếm có
Năm nào cũng vậy, cứ vào mùng 4 tháng giêng, bản hội của cô lại du ngoạn chùa Hương, lễ tạ trời đất. Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như không có một sự kiện đặc biệt xảy ra, nó đã giúp cô có buổi hầu “để đời” ngay trước cửa đền Trình của khu danh lam thắng cảnh chùa Hương.
Cô Loan kể, thời gian đầu xây cáp treo chùa Hương (bắt đầu từ năm 1998 đến lúc khai trương năm 2006), tại khu vực thôn Yến Vĩ, xã Hương Sơn, có một số đối tượng thường xuyên kích động dân địa phương cản trở việc thi công. Những đối tượng này lấy lí do là: khi cáp treo đi vào hoạt động sẽ làm mất công ăn việc làm của dân địa phương, cụ thể là các hộ tham gia việc chèo đò, bán hàng quán dọc tuyến đò suối Yến và theo đường núi lên đến động Hương Sơn. Tìm hiểu thì được biết những đối tượng này cũng chính là những kẻ đã khởi xướng phong trào động giả - chùa giả - sư giả để lừa tiền công đức của du khách.
Cô Loan cho biết, trước ngày khai hội chùa Hương năm 2006 (thời điểm hoàn thành xây cáp treo), từ trong Tết Nguyên đán cô có một giấc mơ kì lạ về chùa Hương. Cô mơ thấy Bà Chúa Tam ngự thuyền rồng đi trên suối Yến cùng hai đồng nữ mặc yếm vàng. Khi đó cô đang vô tình bắt được một chú cá lạ trên suối và định đưa cho thủ nhang đền Trình. Từ trong lớp sương mù, Bà Chúa hiện ra và yêu cầu cô trả cá. Khi đó cô mới quan sát con cá trong tay mình thì cô thấy con cá đang khóc. Đôi mắt cá như van cô phải cứu nó. Bà Chúa nhận lại con cá và chấp nhận lời thỉnh cầu sẽ giúp cô khơi thông dòng nước, nối lại long mạch, quét sạch chuyện buôn thần bán thánh nơi cửa Trình. Cô chưa kịp vái tạ thì bóng Bà đã tan biến trong lớp sương mù. Khi đó cô cũng tỉnh giấc.
Cô Loan cho biết thêm: Sau đó vài hôm, nhằm đúng ngày mùng 2 Tết Nguyên đán năm đó, cô đang sắm sửa Lễ hầu Lục vấn thanh điện tại phủ thì một hiện tượng kì lạ xảy ra. Hai cành hoa đào cắm uy nghi bên điện bỗng đâu có đàn ong lạ bay về, cô vừa hầu thì ong cắn cánh hoa đào rơi lả tả khắp nền điện. Kinh hãi, cô không dám hầu tiếp. Lòng cô nóng như lửa đốt, thắc thỏm không yên vì linh tính mách bảo sắp có chuyện lớn xảy đến. Mùng 4 Tết, cô cùng các thanh đồng, văn đàn, tứ trụ trong bản hội hành hương chùa Hương để lễ tạ đất trời, cầu năm mới an lành thì mọi chuyện cứ diễn ra như trong mộng. “Khánh thập phương chen lấn khắp các con đường nhưng đoàn của cô đi đến đâu thì dòng người rẽ ra một cách kì lạ, như đi vào chỗ không người. Bước chân của cô như có ai nâng bước, đội lễ mà đi nhẹ như bay. Lúc đó cô lại thấy hình ảnh hai tiên đồng của Bà Chúa Ba hiện lên dẫn đường. Cô bỗng phát ngộ ra một bí mật, ngay con suối Yến và cửa đền Trình, cô nhìn thấy long mạch đang bị chia cắt sắp đứt lìa, và Bà Chúa Tam đã chọn cô là người có nhiệm vụ nối liền long mạch đang bị tổn thương ấy”, cô Loan kể.
Buổi lễ hầu lần đầu tiên diễn ra tại đền Trình, được Ban quản lí danh thắng Chùa Hương, chính quyền địa phương, các tăng ni phật tử và hàng vạn du khách thực chứng. Cô Loan cùng Bản hội Hồng đức Linh điện đã tiến hành buổi lễ khơi dòng long mạch trước cửa đền Trình (cũng là ga đầu tiên của tuyến cáp treo Chùa Hương). Sau khi toàn bộ buổi lễ hoàn thành thì tuyến cáp treo đi cũng chính thức đi vào hoạt động, phục vụ tốt khách thập phương, nhất là trẻ em và người có tuổi. Chùa Hương từ đó cũng bớt cảnh lộn xộn và trở thành một điểm du lịch tâm linh lý tưởng hàng năm của khách thập phương.
Những giá đồng có một không hai
Sau đàn lễ ở đền Trình ở chùa Hương, cơ duyên đã đưa cô và Bản hội đến với việc khởi xướng và công đức xây Lầu Địa Mẫu trên đền Thượng, Ba Vì, Hà Nội. Khi đến đây, “cũng giống như đàn lễ chùa Hương, toàn bộ quá trình xây dựng Lầu Địa Mẫu, từ lúc liên lạc với thủ nhang đền Thượng cho đến từng chi tiết của đàn lễ cô đều được báo mộng từ trước. Huyền diệu hơn nữa, cũng trong mộng, cô đã nhìn thấy Chúa Thánh Tiên ngự trong thân một khúc củi. Điều đặc biệt là khi đi thực địa ở Đền Thượng, cô đã tìm thấy khúc củi như vậy”. Hiện nay, du khách hành hương về Tản Viên sơn lễ tạ, có thể nhìn thấy khúc củi này đang được thờ tại Lầu Địa Mẫu, trên đỉnh cao nhất của núi Ba Vì, nơi linh thiêng nhất nằm sâu trong khu rừng nguyên sinh giữa Xứ Đoài.
Ngoài việc khởi xướng và công đức xây Lầu Địa Mẫu trên đỉnh Tản Viên, cô Loan còn nổi tiếng với một giá đồng ở địa danh nổi tiếng khác là đền thờ Thánh Gióng. Thánh Gióng (còn có tên khác là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương) một trong Tứ Bất Tử trong Thánh đạo nước Việt. Khu đền thờ Thánh Gióng ngày nay nằm trong khu du lịch văn hóa tâm linh Văn Lang, nằm tựa vào núi Sóc, một mặt nhìn xuống các khu hồ nối tiếp nhau, vốn dĩ là cảnh quan đặc thù của khu vực phía Tây của TP Hà Nội. Điểm nhấn tạo ấn tượng sâu sắc chính là pho tượng Phật A-di-đà bằng đá nguyên khối cao 18m nổi bật trên nền trời xanh, hai bên tả hữu có tượng Quốc phụ và Quốc mẫu bằng đồng nhìn thẳng xuống hồ nước rộng quanh năm rợp bóng cây.
Cô Loan kể: “Buổi lễ đêm đó có thể nói là sự giao thoa linh khí của đất trời cùng tụ hội về khu văn hóa tâm linh để cung nghinh thánh giá Quốc phụ và Quốc mẫu giáng đàn nhân dịp ngày giỗ quốc tổ Hùng Vương. Đàn lễ trang nghiêm đã được 100 nhà sư tiến hành tụng kinh từ buổi sáng cho đến chiều. Có một điều đặc biệt đã diễn ra, khi các sư cùng tăng ni phật tử kết thúc phần tụng niệm và chuẩn bị làm lễ mông sơ thí thực thì một trong các đệ tử của bản Hội đã dùng máy ảnh chụp được hình ảnh phật quang tỏa chiếu trong đám mây ngay phía trên đỉnh tượng Phật A-di-đà. Hình ảnh này chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, nhưng lại là sự minh chứng hùng hồn nhất cho khởi đầu thành công của đàn lễ ngày hôm đó”.
Cô Loan cho biết đó cũng là lần đầu tiên thực hiện một đàn lễ với các giá hầu Thiên Đình. “Quả thật, có tham gia mới hiểu, các vị Tiên Vương khi giáng đàn thể hiện qua thần thái uy linh và tôn nghiêm (không giận mà vẫn làm người khác phải run) của ghế hầu - hoàn toàn khác hẳn với các ngôi vị Thánh của cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ là thường tạo cho thanh đồng cảm giác vừa tôn kính vừa gần gũi (như cha như mẹ mình vậy). Sự uy linh của đàn lễ còn được bổ trợ bởi 4 vị đóng vai Thiên binh Thần tướng đứng trấn ở 4 phương của đàn, cùng dàn múa phụ họa của 12 nữ nghệ sĩ múa. Hàng trăm người tham dự buổi lễ hôm đó cũng không quên được có một điều đặc biệt xẩy ra”, cô Loan xúc động nhớ lại.
Hôm đó trời mưa phùn khá dày, cộng với sương muối vùng rừng núi khiến cho khu du lịch Văn Lang và vùng phụ cận tưởng như chìm trong một màn sương mỏng. Vậy nhưng ở khu vực đàn lễ, với diện tích chỉ khoảng 500m2 thì lại hoàn toàn khô ráo. Không ai có thể giải thích đầy đủ về hiện tượng trên nhưng nó đã giúp cho buổi lễ càng có thêm không khí linh thiêng và cũng khiến cho danh tiếng của Cô Loan ngày càng vang xa.
Quy tắc hầu đồng Ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần,... Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng. Thanh Đồng là nam giới được gọi là "cậu" Đồng, nữ giới được gọi là "cô” hoặc “bà” Đồng. "Cậu" thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng ) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt... Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều "giá". Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên Thanh Đồng một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một "giá" mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng... sao cho tương xứng với "giá" này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa. Điệu múa của Thanh Đồng cũng thay đổi theo đặc điểm của "giá". "Giá" quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không,múa cờ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân ... Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.