Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

13/05/2014

Người phản luận về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là Ngô Viễn Phú (cựu lưu học sinh Đại học Quốc gia Hà Nội) đi đâu mất rồi ?

Lời dẫn: Năm 2012, trên blog Yahoo, tôi đã đề cập đến một bài viết của ông Ngô Viễn Phú - học giả Trung Quốc, chuyên về luật Việt Nam, từng là du học sinh ở Việt Nam. Bây giờ, blog ấy, như nhiều người đã biết, đã bị bay mất do hệ thống blog Yahoo bị đóng cửa.

May tìm lại được bài cũ của tôi lưu trên blog Những viên phấn màu. Xin chép lại về blog tôi.

Tuy nhiên, kiểm tra lại các đường link cũ của Ngô Viễn Phú thì đã không còn. Tựa như Ngô Viễn Phú đã tự xóa bỏ, hay sao đó tôi không rõ.


Từ đây trở xuống là nguyên bài.

Tháng 5 năm 2014,
Giao Blog

---


Lấy lại từ: 

http://nhungvienphanmau.violet.vn/entry/show?entry_id=7880861&cm_id=2536149#2536149

và từ:

http://dzjao.wordpress.com/2012/04/18/ngo-vien-phu-trung-quoc-be-gay-cac-luan-diem-dua-ra-cua-phia-viet-nam/



NGÔ VIỄN PHÚ (TRUNG QUỐC) BẺ GÃY CÁC LUẬN ĐIỂM ĐƯA RA CỦA PHÍA VIỆT NAM !



Viết dần từ ngày 18/4/2012



Công hàm Phạm Văn Đồng (14/9/1958), sớm đúng 1 tuần so với bài báo trên Nhân Dân 



Tác giả Ngô Viễn Phú - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam (Đại học Dân tộc Quảng Tây), từng là du học sinh của Đại học Quốc gia Việt Nam





Báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng 9 năm 1958, đưa tin về việc Chính phủ Việt Nam công nhận Quyết định về Hải phận của Trung Quốc (tư liệu có thấy trong bài của Ngô Viễn Phú, hoặc ở mạng tiếng Việt sau)





Trên trang web của mình, tức trang Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam, Ngô Viễn Phú 吴远富cho biết ông từng theo học chương trình tiến sĩ luật học tại Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, từ năm 2001 đến năm 2006. Có thể thấy tóm tắt luận văn học vị của Ngô ở đây (bằng tiếng Việt). Thời đại học, ông theo học ở khoa Tiếng Việt thuộc Đại học Bắc Kinh.



I. Vừa rồi, Ngô Viễn Phú đưa lên web của mình bài Không thể phủ định hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng (范文同公函的效力无法否定).



Trong bài, Ngô Viễn Phú có nhắc đến các học giả Việt Nam bàn luận vấn đề Biển Đông và Trường Sa - Hoàng Sa, nhắc trực tiếp đến bác Trương Nhân Tuấn.



Ngô Viễn Phú tổng kết rằng, cho đến thời điểm hiện tại, phía học giả Việt Nam đưa ra 6 luận điểm để phủ định tính hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng (1958). Và Ngô Viễn Phú dùng luật để bẻ gãy cả 6 luận điểm đó, rồi đi đến kết luận: Không thể phủ định hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng !

Tức là, theo Ngô thì, bút sa rồi thì gà phải chết !

II. Dưới đây là bản tạm dịch phần Ngô Viễn Phú bẽ gãy 6 luận điểm của phía Việt Nam (tôi dịch từ từ, bác nào sử dụng lại thì đề nghị ghi rõ nguồn).

Trước khi đọc bản dịch, có thể xem lại trả lời phỏng vấn của Ngô cho đài truyền hình Phượng Hoàng, để thấy rằng: Ngô có ý ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam trong trường kì lịch sử. (bản tạm dịch bài phỏng vấn ở đây).

Thật ra, trong nguyên bản, Ngô dùng chữ "luận điệu" có vẻ khiêu khích ! Tôi sửa lại thành "luận điểm" để quan phương và bình tĩnh hơn !

1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về cơ bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.

Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong "Tuyên bố lãnh hải", mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng "ghi nhận và tán thành" với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.

Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương "quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc"

2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mĩ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt - Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.

Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt - Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt - Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lí do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói "ý nguyện" là thế này thế kia, để mà lật lại câu "ghi nhận và tán thành" rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu !  

3Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc.

Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng.

Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.

Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài.

Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

4.  Ở thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lí của nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là "bù nhìn", là "chính quyền ngụy" phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà "qua cầu rút ván", bội tín phản nghĩa ? !

Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là "bên thứ ba ở ngoài không liên quan", như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là "bù nhìn" hay "chính quyền ngụy" chỉ là cách gọi càn, và việc "giải phóng miền Nam" của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược.  Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền "kế thừa" lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

5Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng "thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc". Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là "chính thống", qua đó cho mình trở thành chính quyền "mang tính vĩnh cửu" mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.

Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.

6Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.

Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich pháp luật, sự thực lịch sử.

Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam.  Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã "ghi nhận và tán thành" chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã thừa nhận "quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc", về cơ bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình.

Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc  đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.

Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lí được, đưa tới sự ra đời của "quốc hội soạn thảo hiến pháp" mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố.  Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của "quốc hội soạn thảo hiến pháp" đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có "Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp". Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.

Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của "quốc hội soạn thảo hiến pháp" mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.



Bản dịch đến đây là hết.

5 nhận xét:

  1. Bài mới, hạ "công hàm" xuống "công thư" rồi bác.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Mình đã biết, sẽ có ý kiến ở entry tới Khoằm à.

      Xóa
  2. Điểm 1 : Đặt trường hợp bản thân văn bản này có giá trị pháp lý, thì các nội dung phải rõ ràng và không thể tranh cãi trong phán xét lãnh thổ. Đằng này Ngô đã suy diễn bừa. Sự thật thực tế là văn bản này không bảo rằng VN sẽ giao HS cho TQ. Nếu 'tán thành' một văn bản trước đó của TQ mà có giá trị thì phải nêu rõ. Nói chung chung sẽ không có giá trị hợp pháp về các nội dung cụ thể. Ở đây Ngô đã ngụy biện và suy diễn bừa điểm quan trọng nhất này. Rất tiếc các trí thức thế giới và tòa án quốc tế đã / đang / sẽ không suy diễn như Ngô. Văn bản của Thủ Tướng Phạm văn Đồng cho biết CP VNDCCH sẽ chỉ thị cho quân đội tôn trọng 12 hải lý lãnh hải TQ. Câu nguyên văn là '12 hải lý lãnh hải TQ' (tức vùng giữa đường cơ sở và vùng tiếp giáp, cách xa QĐ HS). Không phải là '12 hải lý mà TQ đã tuyên bố'.

    Điểm 2 và 3 : Chẽ ra không cần thiết. Ngô nói lòng vòng quanh co nhưng vẫn không phủ nhận được là hiện thực chiến tranh với Mỹ lúc đó cho thấy là ý muốn của VNDCCH không phải coi HS là của TQ. Trừ khi có tuyên bố chính thức từ Nhà Nước VNDCCH, Ngô không thể coi một vài sách báo in sai là quan điểm chính thức của Nhà Nước VNDCCH. Ngay thời buổi internet thông tin chia sẽ rộng rãi ngày nay ta vẫn thấy truyền thông báo chí sai trái đầy ra đấy, sách in sai đầy ra đấy. Dựa vào 1 vài quyển sách hay bản đồ thời VNDCCH mà bảo rằng VNDCCH công nhận HS của TQ là bố láo, nói láo không căn.

    Điểm 4 : Điểm này Ngô nói đúng. 1 số người cố gắng giải thích việc này bằng việc nâng tầm vai trò CPLT CHMNVN lên thành 1 'quốc gia'. Nhưng sự thật là CHMNVN chưa bao giờ tự xưng là quốc gia. VNDCCH cũng chưa bao giờ công nhận CHMNVN hay VNCH là quốc gia. Tuy nhiên, văn bản của cụ Phạm văn Đồng không có nội dung công nhận HS là của TQ. Nên vấn đề này cũng không liên quan gì. Có VNCH hay không, có được ranh giới quân sự tạm thời hay không thì nội dung văn bản của cụ Phạm văn Đồng vẫn là như thế thôi.

    Điểm 5 và 6 : Lại chẽ điểm không cần thiết. 2 điểm này Ngô nói đúng vấn đề VNDCCH chưa bao giờ coi mình là chính phủ lâm thời kể từ năm 1946. Nước Việt Nam độc lập chưa bao giờ coi mình là 'lâm thời', mà coi là chính thức của Việt nam, đại diện cho dân tộc Việt nam. Nhưng 2 điểm này VN không dùng và cũng không liên quan gì cả. Văn bản của Thủ Tướng Phạm văn Đồng không liên quan gì đến Hoàng Sa.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Nhìn chung thì Ngô đã dùng các thủ đoạn ngụy biện khá cao minh và deceptive để tung hỏa mù, gây nhiễu lý luận và lừa gạt những người không rành luật. Đây là thủ đoạn chung của đám bồi bút TQ khi tuyên truyền về đường lưỡi bò, chủ quyền HS-TS, ở biển Đông và Hoa Đông và trong các tranh chấp biên giới.

      Đặc điểm là : Làm phức tạp hóa. Những điểm giống nhau bị chẽ ra làm ra vẻ 'khoa học', 'lôgíc'. Phản luận cả những luận điểm mà VN không dùng. Bịa ra ý người khác rồi chống lại cái đã bịa ra. Chu Bá Thông tay phải đánh với tay trái. Tuy hơi khó cãi nhưng không thuyết phục, không có tác dụng lừa gạt người khác, làm người khác thay đổi ý kiến. Đây cũng là kết quả chung của các loại ngụy biện cấp cao, ngụy biện thông minh. Dùng cảm tính và thường lý suy diễn nhiều hơn pháp lý quốc tế thật sự và các tiền lệ phân xử vụ án tranh chấp chủ quyền. Một loại 'giả khoa học' làm ra vẻ 'khoa học'.

      Xóa
    2. Bác tham khảo thêm phản luận của Dương Danh Huy, tôi vừa đưa lên:
      http://giaovn.blogspot.com/2014/06/van-ve-cong-ham-pham-van-ong-1958-duong.html

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.