Tôi thì gọi là "quốc ngữ hóa" Truyện Kiều.
Ở bài trước, đã nói về mốc 1865 (năm ra đời của "Gia Định báo") và mốc 1869 (năm đầu tiên mà nhóm Tôn Thọ Tường và Trương Vĩnh Ký đã quốc ngữ hóa quốc sử Đại Việt trên mặt báo "Gia Định báo).
Bây giờ nhắc đến một cái mốc mới của Trương Vĩnh Ký với Truyện Kiều - bản do họ Trương quốc ngữ hóa.
Bài đầu tiên là của nhóm Vấn Vân Vận Kiều.
Tháng 6 năm 2025,
Giao Blog
---

Bài viết thuộc loạt bài “Những ngày đầu của Truyện Kiều với chữ Quốc ngữ” do Vấn Vân Vận Kiều thực hiện. Lưu ý: Vấn Vân Vận Kiều chỉ đăng tải thông tin khách quan, không đưa ra bất cứ lập trường chính trị nào.
Trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, người dân Nam Bộ tiếp cận kiệt tác Truyện Kiều chủ yếu qua các ấn bản chữ Nôm, bản chép tay, hoặc phiên bản truyền miệng dưới dạng văn vần trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Dù tác phẩm này được nhắc đến nhiều, mức độ thấu hiểu trọn vẹn nội dung vẫn là điều cần được chú ý, bởi phần lớn người dân khi ấy mù chữ hoặc ít học, khiến rào cản ngôn ngữ trở nên khó vượt qua.
Sự phổ cập của bản in Quốc ngữ sau này đã giúp Truyện Kiều đến gần hơn với công chúng, đồng thời chính tác phẩm này lại trở thành công cụ hữu ích để người dân làm quen và học loại chữ viết này. Và người dịch tác phẩm này từ chữ Nôm sang truyện Kiều không ai khác ngoài Trương Vĩnh Ký.
Năm 1866, Trương Vĩnh Ký viết cuốn Chuyện đời xưa “để cho con nít tập đọc chữ Quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen”, đây được xem là quyển sách chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Gần 10 năm sau, biết trí thức Nho học Nam Kỳ cực kỳ yêu thích Truyện Kiều, Trương Vĩnh Ký đã phiên âm, chú thích Truyện Kiều của Nguyễn Du từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ rồi cho xuất bản năm 1875, trở thành bản in Truyện Kiều bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất ở Việt Nam.
Đến với ấn bản bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, Trương Vĩnh Ký đã dùng tiếng Pháp để viết phần Lời tựa cho quyển sách này, với mục đích nói cho người Pháp biết rằng đây là một viên ngọc quý của nền văn học Việt Nam, đồng thời giới thiệu tác động to lớn của tác phẩm này đến đời sống tinh thần người dân Nam Bộ. Ông viết: “Thơ mà chúng tôi ấn hành ra Quốc ngữ đây là thơ mà tất cả mọi người An Nam đều thuộc lòng, đàn ông cũng như đàn bà, trai cũng như gái. Thơ này được yêu thích hơn cả, với người có học cũng như vô học, kể cả phụ nữ, vì thơ này mang một nền đạo đức được định nghĩa rất khéo léo, được diễn tả dưới mọi quan hệ, được thích ứng với mọi hoàn cảnh của đời người. Nếu buồn phiền, người ta thấy trong thơ những điều an ủi; nếu được may mắn, người ta thấy trong thơ hình tượng của hạnh phúc mình được mô tả bằng sắc màu rực rỡ… Khá nhiều những câu ca dao, ngạn ngữ, lời hay ý đẹp, những nguyên tắc phổ quát hay cá biệt trong cuộc sống xã hội được trình bày rất rõ ràng trong thơ. Người ta thấy trong thơ một bức họa tuyệt vời của cuộc đời chìm nổi, nỗi quanh co rắc rối của nhân sinh”.
Cuối Lời tựa tiếng Pháp, ông còn ghi chú mấy câu bằng chữ Quốc ngữ: “Sách nầy là sách ông Nguyễn du, hữu tham tri bộ lễ, làm ra; sách nầy đặt hay hơn hết các sách. (Hãy coi trong tựa tiếng langsa)”. Có thể nhận định rằng, việc Trương Vĩnh Ký chọn Truyện Kiều để phiên giải là một quyết định có chủ đích, xuất phát từ sự ngưỡng mộ sâu sắc của ông dành cho giá trị nhân văn sâu sắc và tầm vóc nghệ thuật kiệt xuất của tác phẩm.
Về mặt hình thức trình bày, trong lúc chữ Quốc ngữ khi đó đang định hình và chưa có những quy chuẩn chặt chẽ thì cách thể hiện của Trương Vĩnh Ký mang những ý niệm riêng của ông. Chẳng hạn tên riêng chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên như “Nguyễn – du”, “Kim trọng”, “Hoạn thơ”, “Thúc sanh”, “Mã giám sanh”… Hệ thống dấu câu như dấu phẩy, dấu chấm, chấm phẩy, gạch ngang cũng được sử dụng linh hoạt. Đáng chú ý là dường như ông đã sử dụng chữ “T” để diễn đạt âm đọc “Th” như trong tiếng Pháp khi viết “Túy – kiểu”, “Túy – vân”. Cách đọc này cũng chính là cách đọc của người dân Nam bộ dành cho tác phẩm (Thuý Kiều → Tuý Kiều, Thuý Vân → Tuý Vân).
Một điều đáng chú ý nữa là bản in này đã mang đậm dấu ấn phương ngữ Nam Bộ, có nhiều chỗ khác so với các bản Kiều ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Điều này xuất phát từ việc Trương Vĩnh Ký sinh trưởng tại miền Nam và am hiểu sâu sắc cách dùng từ đặc trưng của người bản địa. Việc ông chủ động phiên giải theo phương ngữ Nam Bộ cũng phù hợp với mục tiêu hướng đến đối tượng chính là cộng đồng dân cư nơi đây, nhằm hỗ trợ việc dạy chữ Quốc ngữ và phổ biến tác phẩm. Ngoài cách đọc trại tên các nhân vật từ “Thư” thành “Thơ”, “Sinh” thành “Sanh” như để cập phía trên, còn có các cách nói đậm đặc giọng điệu Nam Bộ như “chia phui”, “hiệp tan”, “én anh”, “chén mầng”, “quá chìu”, “nhu gia”, “chữ mạng”, “đờn bà”, “tánh trời”, “nhơn duyên”, “dưỡng sanh”, “vưng lời”… Cách phiên âm này dựa trên thói quen sử dụng ngôn ngữ hằng ngày của người miền Nam, hầu như không gây khó khăn gì cho việc đọc hiểu, thế nhưng đối với người miền Bắc và Trung Bộ không quen dùng phương ngữ Nam Bộ thì đây là một trở ngại lớn. Đây cũng là lý do bản in 3254 câu này chỉ lưu hành rộng rãi trên phạm vi miền Nam.
Khi so sánh bản Kiều của Trương Vĩnh Ký với Duy Minh Thị, học giả Nguyễn Tài Cẩn nhận định: “Duy Minh Thị và Trương Vĩnh Ký đều là người Nam Bộ nhưng giữa hai bản Kiều của hai ông có sự khác nhau rất xa. Đọc bản Kiều Duy Minh Thị (1872), người đọc ít khi thấy rõ dấu ấn của Nam Bộ, vì in Nôm; bản Kiều Trương Vĩnh Ký lại bộc lộ tiếng địa phương nhan nhản khắp nơi, vì in Quốc ngữ… Thành thử có thể nói bản Kiều Duy Minh Thị vẫn là bản Kiều của toàn quốc, còn bản Kiều Trương Vĩnh Ký là bản chỉ phục vụ riêng người đọc miền Nam mà thôi”.
Sau bản in năm 1875 tại Sài Gòn, bản Kim Vân Kiều truyện Quốc ngữ này còn được in lại lần hai vào năm 1898 với tên tiếng Pháp Poème Du Kim Vân Kiều truyện, trong đó có phần chú giải và một bài tóm lược cốt truyện bằng văn xuôi. Mãi 13 năm sau (năm 1911), bản này được in lần ba với tên gọi Kim Vân Kiều truyện. Trong bản năm 1911 này còn có phần phụ lục bao gồm một bài Kim Vân Kiều phú (khuyết danh), 36 bài thơ vịnh Kiều Thúy Kiều thi tập (khuyết danh), 22 bài Kim Vân Kiều tập án (Nguyễn Văn Thắng), và 44 tranh vẽ minh họa do Nguyễn Hữu Nhiêu vẽ.
Bản Kim Vân Kiều truyện ra đời mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Trước hết, văn bản này là cách Trương Vĩnh Ký muốn chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt theo quan điểm của riêng ông, như nhà nghiên cứu Ngô Văn Phát nhận xét: “Cụ Trương Vĩnh Ký nhơn xuất bổn truyện Túy Kiều mà đề nghị một phương pháp chánh tả thống nhất”. Sau mục đích góp phần phổ cập loại chữ viết mới đó, Trương Vĩnh Ký cũng muốn mượn câu chuyện hấp dẫn này răn dạy luân lý ở đời, xây dựng nền đạo đức phong hóa lễ nghĩa cho cư dân Nam Bộ.
https://goutrends.com/phien-ban-truyen-kieu-bang-chu-quoc-ngu-dau-tien/
---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.