Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

14/03/2018

Một kiến giải về Đức Thánh Trần với Tam Phủ - Tứ Phủ

Bài của trang Bách Việt Trùng CửuCó nhiều kiến giải thú vị. 

Lần này, tác giả đưa ra được một số suy luận khá sát thực, chứ không bát ngát như thường khi. Là bởi có tư liệu sát thực (dù vẫn còn là khá bát ngát với bạn đọc phổ thông).

Bây giờ đưa thêm một cái ảnh về ngôi đền mà tác giả Bách Việt Trùng Cửu có đề cập trong bài, để đánh dấu rằng: bản thân tôi cũng rất quan tâm đến ngôi đền ấy, sẽ viết về nó trong thời gian tới. Ảnh được chụp ở một góc độ khác (do người khác chụp, vào năm 2017):



Từ đây trở xuống là chép nguyên từ Bách Việt Trùng Cửu (cả ảnh và văn).










Sách của nhóm Bách Việt Trùng Cửu:







---





 on .

Hưng Đạo đại vương và Tam tứ phủ


Đền Trần Thương thờ Trần Hưng Đạo ở Lý Nhân, Hà Nam.
Trong tín ngưỡng thờ Trần triều thì người được thờ chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, vị tướng tài từng hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Nhưng điều khá lạ là ở các nơi thờ Hưng Đạo đại vương, hai ban thờ hai bên thường lại thờ các thần Nam Tào và Bắc Đẩu. Thậm chí như ở khu vực Vạn Kiếp của Hải Dương, đền thờ Nam Tào và Bắc Đẩu còn được xây dựng riêng hai bên đền thờ Trần Hưng Đạo ở giữa.

Ban thờ Nam Tào ở đền Trần Thương.
Nam Tào Bắc Đẩu là những vị thần quan nắm sổ sinh sổ tử ở dưới Địa ngục. Vị vua ở giữa mà 2 vị này theo hầu như thế phải là người cai quản Địa phủ, tức Diêm vương. Cách thực đặt Nam Tào và Bắc Đẩu ở hai bên Hưng Đạo đại vương cho thấy tín ngưỡng xưa cho rằng chính Hưng Đạo đại vương là người cai quản Địa phủ hay là Vua cha của Địa phủ.
Thông tin về Trần triều còn cho rằng: “Khi hóa Đức thánh đã về thiên đình nhận chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế, với sứ mệnh diệt trừ yêu ma ở cả 3 cõi thiên đình, trần gian, âm phủ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định ở trên, rằng Hưng Đạo đại vương là vị vua của Địa phủ. Cửu thiên không phải là 9 tầng trời như Cửu trùng. Cửu là số 9 chỉ hướng Tây, hướng của sự quy về, của cõi người đã khuất. Cửu Thiên tức là trời Tây hay Địa phủ.
Thậm chí có chỗ còn cho rằng: “Hưng Đạo đại vương được tôn là Ngọc Hoàng thượng đế, vị giáo chủ Đạo Giáo Việt Nam“. Rõ ràng Trần Hưng Đạo là một Đạo sĩ, thì mới có thể làm giáo chủ Đạo Giáo. Trần Quốc Tuấn được tôn thờ không phải chỉ do tài đánh giặc. Hưng Đạo nghĩa là chấn hưng Đạo Giáo. Trần Quốc Tuấn vốn là một đạo sĩ, có thể từ trước khi quản lý quân đội.
Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương là tác giả của tác phẩm Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書), còn gọi là Vạn Kiếp binh thư. Về cuốn này còn lưu được bài tựa của Trần Khánh Dư như sau:
“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì.
Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái đều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy
.”
Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư toàn nói tới các vua Trung Hoa từ thời cổ đại: Cao Dao, Chu Văn, Vũ, Thuấn, Hiên Viên… Vậy là “truyền thư này” được xây dựng trên nền tảng tri thức của Trung Hoa cổ đại và quan niệm thời Trần cho thấy Trung Hoa cổ đại là lịch sử cổ của người Việt.
Kỳ lạ nhất là câu: “Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh“. Nhà Trần Đại Việt sao lại Bắc giáp Hung Nô, Tây giáp Lâm Ấp? Hung Nô ở phía Bắc Đại Việt là nước nào? Lâm Ấp ở phía Tây Đại Việt là chỗ nào?
Trong bối cảnh của nước Đại Việt thời Trần thì rõ ràng Bắc Hung Nô ở đây là chỉ quân Mông Thát. Quân Nguyên được gọi là giặc Hung Nô. Còn Tây Lâm Ấp hẳn là chỉ khu vực đất Lào và Tây Bắc Việt. Đây vốn là đất thuộc Nam Chiếu. Vậy là Lâm Ấp không chỉ là miền Trung Việt, nơi mà thời Trần đã là nước Chiêm Thành. Lâm Ấp mãi tới thời Lý Trần vẫn dùng chỉ khu vực Tây Bắc và Lào.
Từ bài tựa của Trần Khánh Dư ta thấy Trần Hưng Đạo là người rất thông hiểu Dịch lý và đã vận dụng nó vào thực tế chiến tranh (binh thư) một cách thành công. Điều này minh chứng thêm khả năng ông là một Đạo sĩ, nghiên cứu Dịch học từ trước khi nắm giữ quân đội.
Trong quan niệm xưa, Ngọc Hoàng thượng đế là người đã qua vạn kiếp tu hành. Như thế tên “Vạn Kiếp” ở đây có thể nghĩa là chỉ Ngọc Hoàng. Mà như trên đã dẫn, dân gian coi Hưng Đạo đại vương là Ngọc Hoàng, có quan Nam Tào Bắc Đẩu theo hầu. Vạn Kiếp tông bí truyền thư như thế có thể hiểu là cuốn sách bí truyền của dòng họ Trần (Trần Hưng Đạo = Ngọc Hoàng = Vạn Kiếp).
Đôi câu đối chính điện đền Trần Thương ở Lý Nhân, Hà Nam:
陳迹補豐碑鴻貉江山鳴厘劎
蒼煙懷萃廟龍珠水月駐行旌
Trần tích bổ phong bi, Hồng Lạc giang sơn minh lý kiếmThương yên hoài tụy miếu, long châu thủy nguyệt trú hành tinh.Dịch:
Vết Trần cộng bia hoa, Hồng Lạc núi sông vang kiếm lệnhKhói Thương nhớ miếu rộng, giếng rồng trăng nước dựng cờ hành.

Đền Tam phủ ở thành phố Bắc Ninh.
Bàn thêm về vấn đề hình thành Tam và Tứ phủ. Tam phủ được biết là có trước Tứ phủ, nhưng hiện không rõ Tam phủ ban đầu gồm những phủ nào và gồm những vị thần nào. Khi xuất hiện Tứ phủ thì quá trình thay đổi hệ thống thần điện diễn ra như thế nào?
Hiện tại ở tỉnh Bắc Ninh còn lưu được một số di tích đền Tam phủ như đền ở thành phố Bắc Ninh và ở bến Bình Than (xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Những đền này thờ 3 vị vua chí tôn là (theo thông tin của đền ở thành phố Bắc Ninh):
  • Thiên phủ Đại thiên Thiên đế
  • Địa phủ Diêm la Thập điện Minh vương
  • Thủy phủ Đại thiên Long chúa Bát hải Long vương.

Điện thờ quan Tam phủ.
Như vậy, Tam phủ ban đầu gồm Thiên phủ, Địa phủ và Thoải phủ. Đặc biệt hơn là các phủ này đứng đầu là các vị đế vương chứ chưa có các nữ thần mẫu trong các phủ.
So với hệ thống Tứ phủ hiện nay ta thấy từ Tam phủ sang Tứ phủ đã bổ sung thêm:
  • Mỗi phủ thêm 1 vị mẫu chủ cùng với vua cha của phủ đó.
  • Thêm Nhạc phủ với Mẫu thượng ngàn đứng đầu. Vua cha Nhạc phủ vốn không có mặt trong Tam phủ, trong tứ phủ cũng không hiện hữu một cách rõ ràng.
Có thể thấy Tứ phủ xuất hiện cùng với sự ra đời của thánh mẫu Liễu Hạnh và các phủ đều được bổ sung vai trò thần chủ của các mẫu, song song và thay cho các vị vua cha Tam phủ trước đó. Như thế có thể nói Tứ phủ được gọi là đạo Mẫu vì nó đề cao vai trò của các nữ thần. Trong khi  trước đó Tam phủ chỉ dừng lại ở quan niệm 3 cõi Thiên Địa Thủy do các nam thần đế vương cai quản.
Câu đối ở cổng đền Tam phủ tại thành phố Bắc Ninh:
耿耿鸞輿來法會
森森鶴駕降香筵
Cảnh cảnh loan dữ lai pháp hội
Sâm sâm hạc giá giáng hương diên.
Dịch:
Lấp lánh xe loan đến hội phápTrầm trầm giá hạc xuống chiếu hương.

http://asakicorp.com/bachviet18/?p=2946



---
BỔ SUNG







Trên là nhận thức ở đầu năm 2018 của bác Bách Việt Trùng Cửu.
Còn trước đây, hồi năm 2012 thì là như sau (rất bát ngát mây ngàn):


"








Tam phủ công đồng


Tam phủ công đồng là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Điện thờ Tam tòa thánh mẫu có thể gặp ở bất cứ đâu, trong các phủ, các đền, các đình, các chùa… Cùng với tín ngưỡng này là những tục lên đồng, hát chầu văn, đã thành những di sản văn hóa đặc sắc của người Việt. Có thể nói Tam phủ công đồng là Đạo thứ tư của người Việt, sánh cùng Tam giáo Nho Lão Phật. Một tín ngưỡng quan trọng như vậy nhưng tới nay vẫn không rõ nguồn gốc, mọi thứ vẫn còn nằm trong màn sương thần tích thần phả. Các nhà nghiên cứu cho rằng từ tục tôn thờ nữ thần hay từ “nguyên lý mẹ” người Việt đã nâng tín ngưỡng này lên thành Đạo Mẫu. Nhưng Tam phủ và nhất là Công đồng đâu phải chỉ có các nữ thần thánh mẫu. Nay xin xem xét từng “phủ” trong Tam phủ để tìm về cái gốc của tín ngưỡng này.
Trước hết rõ ràng nhất là Thoải phủ hay Thủy phủ. Người đứng đầu Thủy phủ không ai khác là vua cha Bát Hải Động Đình. Trong bài “Rồng bay biển Bát” đã xác định vua cha Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng là Lạc Long Quân ở đất Đào Động – Đào Hoa Trang bên bờ biển Đông.
Vị Mẫu cai quản Thoải phủ là Mẫu Thoải mà theo các thần tích là con vua Động Đình, lấy Kinh Dương Vương hay Kinh Xuyên. Mẫu Thoải là con gái Thần Long Động Đình, trong truyền thuyết Họ Hồng Bàng, tức là mẹ của đức Lạc Long Quân.
Đền Dầm thờ Mẫu Thoải ở thôn Xâm Dương – Ninh Sở (Thường Tín – Hà Nội) chép Mẫu Thoải là “nàng Tiên thứ ba đến chầu Thượng Đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc. Thiên triều nghị tội, giáng nàng xuống Thủy cung làm con gái Long Vương. Nàng được gả cho tướng quân Kinh Xuyên…”.
Xâm Dương đổi lại là Dương Xâm, phiên thiết là Dầm. Như vậy tên Xâm Dương chỉ là tên chữ của làng Dầm mà thôi.

Đền Dầm ở Xâm Dương
Đình làng Xâm Dương thờ một vị thần có mỹ hiệu Kiến Quốc Hùng Cơ vào thời Hùng Vương, có công giúp Sơn Tinh đánh Thục. Thần có 4 người con, đều sinh ra từ một bọc trứng. Người con đầu có tên Nhất Vĩnh Đông Hải, người con cuối là Tứ Vĩnh Ninh Giang…
Có thể thấy thần tích đình Xâm Dương cũng giống như thần tích của đền Đồng Bằng hay đền Lảnh Giang, đền Ninh Giang về sự xuất hiện của anh em Vĩnh Công từ một trứng đã giúp vua Hùng đánh Thục. Nhất Vĩnh Đông Hải là Vĩnh Công Bát Hải Động Đình. Tứ Vĩnh Ninh Giang, Ninh Giang là tên sông Tranh, nơi có đền thờ Quan đệ ngũ tuần Tranh…
Người mẹ của Vĩnh Công trong truyền thuyết đền Đồng Bằng hay đền Lảnh là nàng Quý. Thực ra nàng Quý nghĩa là nàng Ba (trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý). “Nàng tiên thứ Ba” chính là Mẫu Thoải, người cai quản phủ Tam (Thủy phủ) như thần tích đền Dầm đã chép. Thôn Xâm Dương có cả đền thờ Mẫu Thoải và thần tích về Vĩnh Công xuất thế, có thể chính là nơi Mẫu Thoải đã sinh ra Lạc Long Quân, vị vua của Động Đình sau này.
Câu đối ở đền Lảnh Giang (Duy Tiên – Hà Nội) nơi thờ Quan lớn đệ Tam:
Tam phủ hiển anh linh do truyền Hồng lĩnh Bắc
Tứ dân triêm huệ trạch viễn chấn Phượng thành Đông.

Dịch:
Tam phủ rõ linh thiêng, còn truyền đất Hồng Bắc
Tứ dân ngấm ân đức, xa vang thành Phượng Đông.

Tam phủ ở đây là Thoải phủ của Quan lớn đệ tam và Mẫu Thoải. Tam hay số Ba (nàng Ba hay nàng Quý) là con số chỉ phương Đông của Hà Thư. Thoải phủ ở phương Đông vì Lạc Long Quân và Mẫu Thoải đều gắn với thủy phủ Bát Hải Động Đình, tức biển Đông.
Hồng Lĩnh Bắc” rõ ràng không phải vùng đất phía Bắc núi Hồng Lĩnh của Nghệ An. Hồng Lĩnh Bắc là đất Đào – Hoa Hạ của Lạc Long Quân mà thôi.
Phượng thành Đông” ở đây chỉ thành Thăng Long. Rất có thể “Phượng thành Đông” là chỉ Đông Đô của dòng tiên phượng Âu Cơ.
Lần tìm tiếp theo thì Nhạc phủ chắc chắn là do Sơn Tinh hay Tản Viên quốc chúa cai quản. Mẫu Thượng Ngàn cũng có liên quan trực tiếp tới Tản Viên. Nếu theo truyền thuyết vùng xứ Đoài thì bà Ma Thị Cao Sơn, mẹ nuôi của ba anh em Nguyễn Tuấn, là Bà chúa thượng ngàn. Ngay cái tên Ma Thị Cao Sơn đã có nghĩa là “Mẹ núi cao”. Bà mẹ nuôi của Tam vị thánh Tản này cũng được thờ là Mẫu Thượng Ngàn ở đền Đợi, nằm gần quần thể đền Đồng Bằng ở Thái Bình.
Theo một số truyền thuyết khác như ở đền Bắc Lệ thì Mẫu Thượng Ngàn là công chúa La Bình, con của Tản Viên Sơn Thánh. Dù là truyền thuyết nào thì rõ ràng Nhạc phủ do dòng Tản Viên Sơn Thánh cai quản.
Nhạc phủ có thể ở phía Nam (xưa) vì núi là quẻ Cấn, chỉ hướng Nam xưa. Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, người đã làm vua phương Nam trong truyền thuyết họ Hồng Bàng. Truyền thuyết đền Đồng Bằng cũng bắt đầu với địa danh “trấn Sơn Nam”, thật là đủ cả núi và nom.
Dòng phương Nam của Kinh Dương Vương đã kết hợp với dòng Thần Long Động Đình (Mẫu Thoải) ở phía Đông sinh ra Lạc Long Quân. Rất có thể chuyện Kinh Xuyên bị Thảo Mai dèm pha đuổi Mẫu Thoải ra khỏi nhà ám chỉ một cuộc phân ly nào đó giữa 2 dòng Nam và Đông này của người Việt thủa xưa.
Các vị thần của Thiên phủ khó xác định hơn vì Trời thì ở xa. Xa về thời gian. Thần chủ của Trời thì không ai ngoài Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế thì như đã biết là Hoàng Đế Hiên Viên của Hoa sử. Ngọc Hoàng không phải là vị thần của Đạo Lão đã chen chân vào tín ngưỡng Tam phủ, mà Ngọc Hoàng là vốn đã là thần chủ chính của Tam phủ.
Ở thôn Bằng Sở (Ninh Sở – Thường Tín – Hà Nội) có là đền thờ đức vua cha, tức Ngọc Hoàng thượng đế.
 Hoành phi Ngọc Hoàng đại điện ở Bằng Sở.
Còn vị Mẫu của Thiên phủ là Mẫu Cửu Trùng. Đền thờ Mẫu Cửu Trùng ở ngay cạnh đền Ngọc Hoàng ở Bằng Sở.
Câu đối ở đền Bằng Sở thờ Mẫu Cửu trùng:
Tứ phủ linh thanh, hộ quốc bảo dân thiên hạ mẫu
Cửu trùng trắc giáng, đằng vân giá vũ địa trung tiên.

Dịch:
Tứ phủ linh thiêng, giúp nước cứu dân mẫu nghi thiên hạ
Cửu trùng lên xuống, đi mây về gió vị tiên thế gian.

Mẫu Cửu Trùng (gọi tắt là Mẫu Cửu) cũng là Cửu Thiên Huyền Nữ trong truyền thuyết Trung Hoa, tức là người đã giúp đỡ Hiên Viên Hoàng Đế trong cuộc chiến với Xuy Vưu.
Cửu Thiên cũng giống như Bát Hải, không phải là chín trời tám biển. Cửu là số 9 chỉ hướng Tây trong Hà Thư. Cửu thiên nghĩa  là trời Tây. Cửu Thiên Huyền Nữ là bà Tây Vương Mẫu, vị chúa cai quản các tiên trên trời, vợ của Ngọc Hoàng thượng đế. Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Tây Vương Mẫu là tiên chủ vườn Đào ở Diêu Trì. Nay có thể hiểu Tây Vương Mẫu hay Mẫu Cửu là bà Vụ Tiên ở đất Đào tại Giao Trì (Giao Chỉ?).
Bà Vụ Tiên theo Thiên Nam ngữ lục còn có tên là Khương Tiên:
Xưng danh là ả Khương Tiên
Có tinh Cửu vĩ là em ngoan ngùy.
Khương là tính chất của phương Tây trong Dịch lý. Khương Tiên – Tây Vương Mẫu – Cửu Thiên Huyền Nữ – Mẫu Cửu Trùng rõ ràng là một. Thiên phủ như vậy ở hướng Tây.

Đền Mẫu Cửu ở Bằng Sở
Còn “công đồng” nghĩa là gì? Công đồng không phải là cùng chung. “Công” ở đây nghĩa là quan, là công. “Công đồng” nghĩa là “tập thể” các quan của Tam phủ. Ban công đồng trong các đền được thờ như một triều đình có vua quan thực sự. Công đồng đọc tắt là “đồng”, trong các từ “lên đồng” hay “chầu đồng”. “Chầu đồng” nghĩa là triều phục các quan chứ không phải là “chầu nhi đồng” (?!) như vẫn giải thích.
Trên nền tảng Dịch học đã cho phép khớp nối các thần chủ trong hệ thống Tam phủ với các nhân vật của thần thoại Trung Hoa và truyền thuyết Việt. Điều này cũng chứng tỏ thêm cội nguồn của Trung Hoa chính là ở Việt Nam. Lịch sử người Hoa Việt thời quốc sơ chính là nguồn gốc làm nên tín ngưỡng Tam phủ dân gian ngày nay.
Truyền thuyết Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái:
Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Long Nữ là con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.
Nay viết lại dưới ngôn ngữ của Tam phủ:
Đế Minh, tức Ngọc Hoàng thượng đế, cháu ba đời Thái Viêm Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên, tức Mẫu Cửu Trùng, rồi trở về, sinh ra Lộc Tục, tức Tản Viên Sơn Thánh. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Ngọc Hoàng thượng đế rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Tản Viên làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy Mẫu Thoải là con gái Long Vương ở biển Đông, sinh ra Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước, tức vua cha Bát Hải Động Đình, …

Đoạn sử khởi đầu của dân tộc thật đã chép đầy đủ các thần chủ của Tam phủ. Nguồn gốc Tam phủ công đồng nay đã rõ ràng. Lịch sử dân tộc từ xa xưa vẫn còn đang sống trong đức tin của người Việt.
http://asakicorp.com/bachviet18/?p=129
"

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.