Chạy một ít bài, của báo chí, về chủ đề này.
Tháng 9 năm 2016,
Giao Blog
---
"ĐH Bắc Kinh có tàu Thần Châu, ĐHQG Hà Nội có gì?"
21/09/2016 14:16 GMT+7
-"ĐH Bắc Kinh của Trung Quốc có tàu Thần Châu, vậy ĐHQG Hà Nội có cái gì không? Chúng ta phải so sánh như vậy mới dám nghĩ, dám làm. Chứ hiện tại chỉ loay hoay với mấy trăm bài báo ISI đã chết rồi còn làm gì được nữa".
GS Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội nêu vấn đề như vậy tại tọa đàm về chủ đề công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV do Trường ĐH KHXH&NV tổ chức hôm qua, 20/9.
Các ý kiến của các nhà khoa học thuộc cả lĩnh vực KHTN và KHXH&NV đều nhất trí rằng, thực tế, công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH ở Việt Nam dễ hơn trong lĩnh vực KHTN.
GS Đức cho rằng, Việt Nam có rất nhiều điểm đặc biệt để giới nghiên cứu KHXH nước ngoài quan tâm, chính vì thế, công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH thuận lợi hơn và dễ được trích dẫn cao hơn.
GS. TS Nguyễn Hữu Đức, Phó GĐ ĐHQG HN cho rằng, công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV có nhiều lợi thế hơn so với các lĩnh vực KHTN. Ảnh: Lê Văn. |
Ông Đức cho rằng, đây là lợi thế của các ngành nghiên cứu KHXH chứ "các ngành kỹ thuật thì rất khó". Vì thế, "nếu như thúc đẩy công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội thì chắc chắn các chỉ trích dẫn của các công bố này sẽ cao".
Chia sẻ quan điểm này, PGS. TS Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH&NV khẳng định "các lĩnh vực KHXH&NV dễ công bố quốc tế hơn" so với lĩnh vực KHTN.
Ông Minh nêu ra 4 khó khăn, rào cản của công bố quốc tế đối với lĩnh vực KHXH&NV tại Việt Nam như rào cản ngôn ngữ, phương pháp nghiên cứu, khả năng tiếp cận thông tin… nhưng đồng thời cũng khẳng định, có tới 5 điểm thuận lợi để các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH&NV công bố quốc tế.
Theo ông Minh, giới nghiên cứu nước ngoài không tới Việt Nam để tìm hiểu về toán, lý hay hóa mà tìm hiểu về lịch sử và văn hóa nhiều hơn. "Việt Nam giống như một bảo tàng sống, là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của các nhà khoa học quốc tế" - ông Minh nói.
Ông Minh cho rằng, sự quan tâm nhiều của giới học giả nước ngoài về các vấn đề của Việt Nam chính là một lợi thế để các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực KHXH&NV có thể công bố quốc tế nếu đầu tư nghiên cứu nghiêm túc theo đúng chuẩn mực của quốc tế.
Ông Đỗ Tiến Dũng, Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED) cũng chia sẻ rằng, công bố quốc tế thực ra không khó như mọi người vẫn nghĩ. Các con số thống kê cho thấy, số lượng công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV và KHTN của Việt Nam không chênh lệch nhau nhiều.
"Chẳng hạn, thống kê số lượng bài báo ISI năm 2012 Việt Nam lần đầu tiên vượt qua tỉ lệ 1/1000 số công bố có các tác giả là người Việt Nam tham gia trong năm đó thì tỉ trọng của các công bố quốc tế thuộc lĩnh vực KHXH&NV là 0,5/1.000, xấp xỉ một nửa" - ông Dũng thông tin.
"Tính về tốc độ tăng trưởng số lượng công bố quốc tế thì các ngành KHXH chỉ mất 5 năm để tăng gấp đôi trong khi các ngành KHTN phải mất tới 6-7 năm".
Tuy nhiên, ông Dũng cho rằng, có sự chênh lệch khá lớn giữa các chuyên ngành. "Chẳng hạn như năm 2016, năm đầu tiên chúng tôi phê duyệt các đề tài với yêu cầu bắt buộc là phải có công bố quốc tế thì có những lĩnh vực có rất nhiều hồ sơ, chiếm tới 2/3 tổng số hồ sơ, song cũng có những lĩnh vực không có hồ sơ".
"Công bố hay là chết"
Xác định công bố quốc tế là nhiệm vụ trọng tâm, buộc phải làm của một trường ĐH, PGS. TS Phạm Quang Minh dẫn lời các học giả nước ngoài khẳng định, đã đến lúc phải xác định: "Công bố hay là chết".
"Một trường ĐH không có công bố không còn là 1 trường ĐH nữa chứ chưa nói tới là một trường ĐH nghiên cứu" - ông Minh nói thêm.
Từ đó, ông Minh cũng thẳng thắn cho rằng không có vùng cấm trong KH kể cả KHXH&NV. "Nhiều người nói rằng vấn đề này nhạy cảm lắm, không công bố được đâu. Tôi nói nhiều lần rồi, ai có bản thảo nhạy cảm thì đưa tôi xem có nhạy cảm thực không" - ông Minh nói. "Thực tế những thông tin số liệu chúng ta có các nhà khoa học đã có hết rồi. Có gì là nhạy cảm đâu?"
GS. TS Nguyễn Hữu Đức cũng khẳng định, đã là nhà khoa học thì phải nghiên cứu và phải công bố quốc tế. Người nào đứng ngoài không tham gia thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới bản thân người đó trước hết.
Tuy nhiên, ông Đức cũng cho rằng, công bố quốc tế như ISI chỉ mới là bắt đầu của nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu không bắt đầu từ công bố quốc tế như ISI thì chúng ta không có kỹ năng, trí tuệ, không có tri thức lõi mà mãi mãi lẽo đẽo theo sau.
"ĐH Bắc Kinh của Trung Quốc có tàu Thần Châu, vậy ĐHQG HN có cái gì không? Chúng ta phải so sánh như vậy mới dám nghĩ, dám làm. Chứ hiện tại chỉ loay hoay với mấy trăm bài báo ISI đã chết rồi còn làm gì được nữa" - ông Đức đặt vấn đề.
Nói về thực trang công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV của Việt Nam hiện tại, PGS. TS Nguyễn Văn Chính, Khoa Nhân học, Trường ĐH KHXH&NV cho rằng, nghiên cứu của Việt Nam vẫn là một tiếng nói "lạ" đối với thế giới.
Theo ông Chính, ngoài các vấn đề mang tính chất kỹ thuật, ngoại ngữ hay các chuẩn mực quốc tế trong trình bày nghiên cứu thì vấn đề tạo thành rào cản chính trong công bố quốc tế của lĩnh vực KHXH chính là nhận thức.
Ông Chính cho rằng, còn có quá nhiều vấn đề được cho là "nhạy cảm" và các nhà khoa học chưa tạo được một nếp nghĩ, thói quen trong việc công bố quốc tế các thành quả nghiên cứu của mình. "Cần có sự thay đổi trong nhận thức ở tầm vĩ mô hơn về khoa học xã hội" - ông Chính khẳng định.
Để thúc đẩy nghiên cứu quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV, GS. TS Nguyễn Hữu Đức đề xuất các trường, cũng như các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này nên thực hiện, gồm: Xây dựng một tạp chí chuẩn mực quốc tế và tổ chức một tổ biên tập tiếng Anh cho tạp chí này.
Bên cạnh đó, ông Đức cho rằng, để công bố quốc tế cần chọn lựa các tạp chí để gửi bài, đồng thời lựa chọn các chủ đề, đề tài dựa trên các ngân hàng dữ liệu mở hay ngân hàng dữ liệu mà Việt Nam đã bỏ tiền ra mua về.
Hiện nay, mỗi năm nhà nước chi 30 tỉ để mua quyền truy cập cơ sở dữ liệu của Science Direct cho 4 đơn vị truy cập trong đó có ĐHQG HN, vì vậy, ông Đức cho rằng, nếu các nhà nghiên cứu không truy cập khai thác dữ liệu này thì rất lãng phí.
Cuối cùng, ông Đức đề nghị ngành KHXH xây dựng ngân hàng các đầu bài thực hiện trong dài hạn cũng như tổ chức và khuyến khích các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu tiềm năng.
5 năm 23 công bố quốc tế ISI
Theo thống kế từ dữ liệu của Thomson Reuter Web of Science thì trong vòng 5 năm từ 2011-2015, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội có 23 công bố quốc tế.
Trước đây đã có nhiều tranh cãi về việc số lượng công bố quốc tế của Viện Hàn lâm KHXH như vậy là quá ít so với tổng số tiền mà đầu tư cho viện này hàng năm.
|
Lê Văn
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/328887/dh-bac-kinh-co-tau-than-chau-dhqg-ha-noi-co-gi.html
Công bố quốc tế của Việt Nam: Lượng tăng nhưng chất giảm
13/06/2016 01:00 GMT+7
Số lượng các công bố quốc tế ISI của Việt Nam đang tăng lên trong 5 năm qua. Năm 2015, lần đầu tiên số lượng công bố ISI đã vượt mốc 3.000 bài. Tuy nhiên, tỉ lệ các công bố chất lượng cao của chúng ta lại đang có xu hướng giảm đi.
Theo thống kê của Dự án Trắc lượng khoa học Việt Nam (Scientometrics for Vietnam - S4VN), cập nhật từ cơ sở dữ liệu Web of Science của ISI (Viện thông tin khoa học Mỹ) thì trong năm 2015, lần đầu tiên số lượng công bố khoa học trên các tạp chí ISI của Việt Nam đã vượt ngưỡng 3.000 bài/năm.
Công bố quốc tế ISI của Việt Nam lần đầu vượt ngưỡng 3.000 bài trong năm 2015 theo số liệu từ Web of Sicence do S4VN cập nhật 2/6/2016. |
Cụ thể, số lượng công bố quốc tế trong hệ thống ISI của Việt Nam trong năm 2015 cập nhật tới 2/6/2016 là 3.060 bài báo (dữ liệu được cập nhật chỉ bao gồm 3 danh mục là SCIE, SSCI và A&HCI), tăng 11,5% so với năm 2014 là 2.744 bài báo và tăng gấp 2 lần so với năm 2011 (1508 bài)
Tính chung cả giai đoạn 2011-2015, tổng số công bố quốc tế của Việt Nam trên các tạp chí ISI đạt mức 11.791 bài. Tỉ lệ tăng trưởng công bố ISI của Việt Nam theo từng năm đạt từ 10 đến trên 20%. Có năm như năm 2013 đạt tỉ lệ tăng trưởng là 28%.
Nếu so sánh với các nước trong khu vực ASEAN, với số lượng công bố quốc tế ISI là 11.791 bài trong 5 năm qua, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 4 trong khu vực, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Trong một trao đổi trước đó, ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ KH&CN cho biết, việc số lượng công bố quốc tế ISI của Việt Nam tăng trưởng nhanh một phần là nhờ sự thành lập của Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) vào năm 2008.
Với kinh phí khoảng 300 tỉ mỗi năm, Quỹ NAFOSTED tài trợ cho hơn 300 nhiệm vụ khoa học mỗi năm, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Với mỗi đề tài được tài trợ, yêu cầu bắt buộc đối với chủ nhiệm đề tài là phải có 2 bài báo công bố ISI mới được nghiệm thu.
Tuy nhiên, số liệu thống kê của S4VN cũng cho thấy, mặc dù ở vị trí tốp đầu, Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các nước đứng đầu. Chẳng hạn, trong 5 năm qua, Singapore đã có 68.516 công bố quốc tế, cao gấp gần 6 lần Việt Nam.
Thái Lan, nước xếp ở vị trí thứ 3 trong khu vực cũng có 38.953 công bố quốc tế ISI từ 2011-2015, cao gấp 3 lần so với Việt Nam.
Nếu so sánh với một số quốc gia khác ngoài khu vực ASEAN, số lượng các công bố quốc tế ISI của Việt Nam còn khá lẹt đẹt. Chẳng hạn như trong 5 năm (2011-2015), Hàn Quốc có tới 298.986 công bố quốc tế, cao gấp 25 lần so với Việt Nam.
Tỉ lệ công bố chất lượng cao đang giảm?
Tổng số lượng các công bố quốc tế của Việt Nam (2010-2015) và tỉ lệ các công bố quốc tế thuộc tạp chí hạng Q1 qua từng năm. (Nguồn: S4VN)
|
Mặc dù tổng số các công bố quốc tế ISI của Việt Nam có tăng trong những năm gần đây, song thống kê cũng cho thấy, tỉ lệ các công bố quốc tế chất lượng cao lại đang có xu hướng giảm đi.
Theo một thống kê của nhóm Trắc lượng khoa học Việt Nam (S4VN) thì tỉ lệ các công bố quốc tế của Việt Nam thuộc hạng Q1 (các tạp chí hàng đầu) của hệ thống ISI đã giảm từ 41% năm 2010 xuống 38% năm 2015.
Điều này không có nghĩa là số lượng công bố quốc tế thuộc hạng Q1 của Việt Nam giảm xuống mà gia tốc tăng của các công bố thuộc loại "chất lượng cao" đang đi theo chiều giảm xuống. Nói cách khác, mặc dù số lượng các công bố quốc tế ISI của Việt Nam tăng, song tỉ lệ lớn là thuộc loại các công bố "hạng 2".
Nếu so sánh với Indonesia, quốc gia có số lượng công bố quốc tế ít hơn Việt Nam, tỉ lệ công bố quốc tế trên các tạp chí hạng Q1 của quốc gia này đã tăng từ 38% (2010) lên 43% (2015). Tính chung cả giai đoạn (2010-2015), tỉ lệ các công bố quốc tế của Indonesia thuộc các tạp chí hạng Q1 là 40%, cao hơn so với Việt Nam.
Điều này có nghĩa, mặc dù có số lượng công bố quốc tế ít hơn Việt Nam trong 6 năm qua, song gia tốc tăng các công bố quốc tế chất lượng cao của Indonesia cao hơn Việt Nam.
Bên cạnh đó, nếu so sánh với Thái Lan, quốc gia đứng trên Việt Nam về tổng số công bố quốc tế, chúng ta thấy rằng, tỉ lệ công bố quốc tế trên các tạp chí hạng Q1 của quốc gia này đã tăng từ 38% (2010) lên 41% (2015).
Với số lượng công bố quốc tế nhiều gấp 4 lần Việt Nam (45.535 so với 13.184) thì với gia tốc tăng các bài báo thuộc hạng Q1 nhanh hơn, Thái Lan sẽ ngày càng vượt xa Việt Nam cả về số lượng lẫn chất lượng các công bố quốc tế.
Thực tế tổng số công bố quốc tế ISI của Việt Nam đang tăng lên, song tỉ lệ các bài báo thuộc hạng Q1 của Việt Nam đang có xu hướng giảm là kết quả của chính sách theo đuổi số lượng công bố quốc tế của Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, đây là lúc để nhìn nhận lại về vấn đề chất lượng các công bố sau khoảng thời gian tăng trưởng "nóng".
Bởi lẽ, nếu như số lượng công bố quốc tế tăng lên, song tỉ lệ lớn là các công bố thuộc hạng Q2, Q3, Q4 của hệ thống ISI thì rõ ràng cần phải đặt lại vấn đề về chất lượng của các công bố.
Trong động thái liên quan, mới đây, Quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã có quyết định phê duyệt Danh mục tạp chí ISI có uy tín, một trong những điều kiện để xét duyệt cũng như nghiệm thu đề tài được quỹ này tại trợ, trong đó có xác định rõ, các tạp chí ISI uy tín là các tạp chí thuộc hạng Q1 trong hệ thống này.
Đây được cho là bước đi cần thiết để hướng các nhà khoa học Việt Nam công bố các kết quả nghiên cứu có chất lượng cao hơn là chỉ cần các công bố quốc tế đơn thuần.
Infographic so sánh tỉ lệ công bố quốc tế hạng Q1 của Việt Nam so với một số nước châu Á:
S4VN là một dự án nhằm cung cấp thông tin về kết quả nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học tạiViệt Nam. Hiện tại, dữ liệu của dự án được khai thác chủ yếu từ nguồn dữ liệu thuộc Web of Science do Viện Thông tin khoa học (Institute of Scientific Information – ISI), Mỹ, cung cấp.
|
Lê Văn
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/308651/cong-bo-quoc-te-cua-viet-nam-luong-tang-nhung-chat-giam.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.