Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

30/11/2014

Phía bên kia cuộc cách mạng 1945 (Vũ Ngự Chiêu, 1984 và 2011)

Chép nguyên xi. Giữ đúng kiểu trình bày như nguyên gốc từ đó.

Năm 1984 là thời điểm đệ trình luận văn học vị của tác giả. Bài được trích ra từ đó. Và 2011 là thời điểm công bố bản tiếng Việt trên cơ sở có bổ sung.




Nguồn ở đây.

---

Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945 :
Ðế Quốc Việt Nam (3-8/1945)
[The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945)
ỉ 2011, Copyright by Chieu N. Vu & Van Hoa Publishing.
All Rights Reserved.

(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Ðoạn Kết của Một Thời Ðại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Ðại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử. Tác giả muốn bày tỏ sự tri ơn với Giảng sư Daniel F. Doeppers, Hội đồng học bổng Fulbright Bộ Ngoại Giao Mỹ, các nhân viên liên hệ tại Việt Nam, cùng sự trợ giúp của cơ quan đối tác Ðại Học Khoa Học Nhân Văn thành phố HCM, và nhiều học giả, nhân viên ba trung tâm lưu trữ quốc gia tại Hà Nội và Sài Gòn, cùng các thân hữu trong chuyến du khảo năm 2004-2005.
Cần nhấn mạnh, là người nghiên cứu sử chuyên nghiệp, những thông tin của tôi đều dựa trên những tư liệu khả tín sau 30 năm làm việc tại các văn khố nhiều nước. Chủ đích của tôi chỉ nhằm trả lại sự thực cho lịch sử. Ðiều này dĩ nhiên không làm hài lòng mọi phe phái chuyên nghề cung văn và đào mộ, mà thế giới gọi là “mọi rợ văn hoá.” Những nhận xét bâng quơ như tôi “đề cao” chính phủ Trần Trọng Kim hay “hạ giá trị” Hồ Chí Minh, cần chứng minh bằng tài liệu rằng những thông tin và diễn giải tôi đưa ra sai lầm, không có chỗ y cứ (như Trần Trọng Kim được đặc cách vào trường Thuộc Ðịa trong khi Nguyễn Sinh Côn bị từ chối, do tôi công bố lần đầu tiên trong thập niên 1980; hay thân phận nhược tiểu của Việt Nam trong thế giới luật kẻ mạnh). Nhận xét “không hề có cuộc cách mạng từ bên trên” tại Việt Nam từ ngày 9-10/3/1945 sai lầm, thiếu hiểu biết về lý thuyết cách mạng một cách trung dung, và có thể chỉ do ảnh hưởng của thuyết Marxist-Leninism Trung Cổ hiện đã bị đào thải ở “thành đồng Liên Sô” và Tây Âu. [Xem infra]
Những xuyên tạc lịch sử, theo tôi, là tội lỗi hàng đầu với hậu thế. Ðây phải là khuôn vàng thước ngọc của người trí thức. Những sử gia chân chính ít nữa phải giữ được sự trung thực của Vũ Quỳnh khi chép việc Trường Lạc Hoàng hậu dùng thuốc độc để bôi lên vết lở của Nho vương Lê Thánh Tông (1460-1497) cho vua mau chết. [“Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá, nên mắc bệnh nặng. Trường Lạc hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được vời đến hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới thêm nặng;”ÐVSKTT, BKTL, XIII:79, Hoàng Văn Lâu (2009), 2:649]. Hơn nữa, cũng cần nói đến khả năng đọc và hiểu–sinh ngữ tôi dùng viết luận án là Anh ngữ. Những hiểu lầm có thể xảy ra từ phía người đọc hoặc trích dẫn.
Nên nhớ rằng tư liệu văn khố không chỉ có những thông tin mà các học giả trích dẫn. Không được đọc nguyên bản, tốt nhất là chỉ dịch và im lặng. Ða tạ Giáo sư/Tiến sĩ Phạm Cao Dương và vợ chồng Vũ Thái Dũng đã giúp tôi tiếp cận “công trình lược dịch những nghiên cứu về chính phủ Trần Trọng Kim” qua Việt ngữ năm 2009 nói trên.

Giai đoạn ngắn ngủi từ ngày 9-10/3/1945, khi Nhật mở chiến dịch Meigo chấm dứt chính quyền Bảo hộ Pháp tại Ðông Dương, tới ngày 21/8/1945, khi guồng máy quân sự Nhật sụp đổ là một trong những thời kỳ quan trọng trong lịch sử cận đại. Trong khoảng năm [5] tháng này, trên bối cảnh nạn đói Ất Dậu, rồi nạn lụt khắp sáu tỉnh đồng bằng Bắc bộ, hai chính phủ “độc lập” ra đời, chấm dứt hơn tám mươi năm Pháp đô hộ, và kích động một cuộc cách mạng mà đặc điểm là hiện tượng Việt-Nam-Hóa các cấu trúc xã hội. (1)
Trong khối văn chương cổ điển—xuất hiện trước 1991—các tác giả chỉ chú trọng đến biến cố gọi là “cuộc đảo chánh Nhật ngày 9/3/1945,” hay Mặt Trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh [Việt Minh] đoạt chính quyền, với sự yểm trợ của Sở Hành Ðộng Chiến Lược (OSS) Mỹ, được xưng tụng như “cách mạng Tháng Tám 1945.” Không được tiếp cận các tư liệu gốc, chỉ sao chép cả lỗi lầm của người đi trước, và đôi khi không có một kiến thức cơ bản về xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, một số tác giả tảng lờ hay tìm cách hạ giá chế độ được phe thua trận Nhật bảo trợ, tức “tân” Ðế quốc Việt Nam (11/3-25/8/1945). Ðó là chưa kể quan điểm khẳng quyết [determinist] giáo điều, giành độc quyền cách mạng hay yêu nước một cách Trung Cổ cho một giai tầng nào đó, và qui luật cung văn-đào mộ của các cán bộ phụ trách tuyên truyền [agitprop] Stalinist-Maoist. Vài trường hợp ngoại lệ là bài của Ralph B. Smith (1978), Masaya Shiraishi (1982), và Kiyoko Kurusu Nitz (1983, 1984). (2) Sử dụng văn khố Nhật liên quan đến việc Nhật tước vũ khí quân Pháp trong tháng 3/1945 và tờ báo Pháp ngữL'Opinion-Impartial [Trung Lập] xuất bản tại Sài Gòn, Smith thuật lại cuộc tấn kích quân sự (với danh hiệu Chiến dịch MEIGO) để lật đổ chính quyền Pháp và thành lập chính phủ Trần Trọng Kim (17/4-25/8/1945) tại Thuận Hóa. Ðược tham khảo các tài liệu tương tự, cộng thêm tài liệu Nhật và Việt ngữ, cùng những cuộc phỏng vấn một số tác nhân Nhật, Shiraishi ghi lại chi tiết cuộc thanh trừng của Nhật và bí ẩn quanh việc Nhật lựa chọn các cộng sự viên Việt. Nitz cũng sử dụng nhiều tài liệu Nhật hiếm, quí. Tuy nhiên, số lượng tư liệu văn khố Pháp cùng những ấn phẩm định kỳ Nhật và Việt ngữ đương thời dồi dào chưa được khai thác kỹ lưỡng, bởi thế các tác giả chưa tái tạo được đầy đủ giai đoạn chuyển tiếp trên, một khúc quanh quan trọng của lịch sử Việt Nam.
Năm 1995, David G. Marr công bố một nghiên cứu xuất sắc về cuộc cách mạng 1945, dưới tựa Vietnam 1945: The Quest for Power [Việt Nam 1945: Ði Tìm Quyền Lực]. Tổng hợp nhiều nghiên cứu cổ điển với thông tin mới từ các văn khố nhiều nước, phỏng vấn nhiều tác nhân lịch sử Mỹ, Nhật, Việt và Pháp, nhưng Marr chưa sử dụng các thông tin hậu-chiến-tranh-lạnh từ các văn khố Nga, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam.( 3)
Bài viết này trình bày đầy đủ hơn về chính phủ Trần Trọng Kim. Trước hết, bài viết sẽ giới thiệu một cách tổng quát Việt Nam trong giai đoạn kể trên làm nền tảng cho những điều thảo luận, rồi đi sâu vào nội tình Việt Nam, đặc biệt là những việc làm và tầm quan trọng của chính phủ Kim. Tôi tin rằng chính phủ Kim–trong thời khoảng vỏn vẹn bốn [4] tháng và dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn—đã khởi xuất những bước quan trọng về hướng nền độc lập của Việt Nam, kể cả việc Việt-Nam-hóa phần nào guồng máy hành chính bảo hộ Pháp, và đã thương thảo việc thống nhất lãnh thổ trước khi “Việt Minh đoạt chính quyền” vào tháng 8/1945—theo kết luận của Trường Chinh, trong xã luận “Cách Mạng hay đảo chính,” trên báo Cờ Giải Phóng, “Cơ quan tuyên truyền, cổ động trung ương của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương” (số 16, 12/9/1945). Chính phủ Kim đã kích động sự tham gia chính trị của đám đông, cổ súy việc tách rời khỏi ảnh hưởng Pháp, rồi trao cho chế độ thù nghịch và kế vị, tức chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) của Hồ Chí Minh (1890-1969), bí danh của Nguyễn Sinh Côn (1892-1969), một thế hệ tuổi trẻ có tổ chức và chính-trị-hóa—nguồn nhân lực quí báu cho cuộc cách mạng 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp kế tiếp. Chính phủ Kim phát động cuộc cải cách giáo dục, kể cả việc chọn Việt ngữ dựa trên mẫu tự Latin làm quốc ngữ tại các công sở và trường học, củng cố sự độc lập văn hóa với cường quốc thực dân phía bắc. Nếu không khảo sát kỹ những việc làm của chính phủ bị lãng quên này, tôi tin rằng người ta sẽ chỉ trình diện cuộc cách mạng 1945 một cách phiến diện, và đồng thời đơn giản hóa những biến cố kế tiếp đã dẫn đến cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975).
Nguồn tư liệu của chúng tôi gồm hồ sơ Tòa Quân Sự Quốc Tế tại Viễn Ðông (Pritchard và Zaide 1981), những tập biên khảo do cựu sĩ quan Nhật thực hiện về hoạt động của Lộ quân Miền Nam (Detwiler và Burdick 1980), tài liệu văn khố Pháp, Mỹ, cùng các báo chí, ấn phẩm định kỳ xuất bản tại Ðông Dương và Nhật. (4)
Một số học giả Nhật cho rằng những chứng từ tại Toà án quốc tế Tokyo thiếu vô tư—một việc khó tránh, như trường hợp cuộc thảm sát Nanking vào tháng 12/1937—nhưng chúng là những tư liệu đương thời quí báu, có thể hữu ích nếu tỉ đối với các chứng từ khác. Những tài liệu mới sử dụng thêm cho bản hiệu đính này gồm Kho Quốc Hội VNDCCH (TTLTQG 3, Hà Nội) và Kho Phủ Tổng thống cùng Kho Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa [VNCH] (TTLTQG 2, TP/HCM), hồi ký hay nhật ký của một số Bộ trưởng đầu tiên của chính phủ VNDCCH, đặc biệt là Vũ Ðình Hoè, cùng những tư liệu khác thu thập được tại Việt Nam trong chuyến du khảo năm 2004-2005.( 5)

 
 Tân Ðông Dương Của Nhật
Sau gần 54 tháng sử dụng chính quyền Pháp thân Vichy ở Ðông Dương như một công cụ hành chính—hoặc cổ đông viên thứ hạng [junior partner], nếu muốn—để khai thác tối đa phần đóng góp của Ðông Dương vào cuộc chiến Ðại Dông Á, ngày 9-10/3/1945, người Nhật chấm dứt cuộc hợp tác lưỡng lợi này. (Vũ Ngự Chiêu,1984:chương 2, 5) Lúc 19G00 tối 9/3, Ðại sứ Matsumoto Shunichi trao cho Toàn quyền Jean Decoux (1940-1945) một tối hậu thư, đòi kiểm soát trực tiếp Ðông Dương, tước bỏ vũ khí của quân đội và cảnh sát Pháp, với thời hạn hai [2] giờ phải trả lời. Sau khi tối-hậu-thư vừa hết hạn, khước từ lời xin tiếp tục thương thuyết, các tư lệnh Nhật tấn công mọi công sở và doanh trại Pháp từ nam chí bắc. Chưa đầy 48 tiếng đồng hồ, người Nhật hoàn toàn làm chủ tình hình; Decoux, những cộng sự viên, và hầu hết các tướng Pháp—kể cả Eugène Mordant (bí danh Narcisse), Tổng đại biểu của chính phủ lâm thời Charles de Gaulle—bị bắt giữ. Một số nhỏ quân nhân ở Khu Quản đạo thứ 2 (Cao Bằng) và ít tàu thủy cùng thuyền buồm của Hải quân Bắc Kỳ thoát được qua Hoa Nam. Quan trọng nhất là khoảng 5,000 quân thuộc Sư đoàn Bắc Kỳ của Tướng Gabriel Sabattier và Lê-dương ở Sơn Tây của Marcel Alessandri, thoát khỏi cuộc tổng tấn công, rút lên rừng núi Lai Châu và Phong Saly gần biên giới Việt-Hoa. Nhưng ngày 2-6/5/1945, toàn bộ quân Pháp rút chạy qua Vân Nam, và Ðông Dương bước vào một kỷ nguyên mới do Nhật trù liệu. (6)
Nước Nhật nhắm hai [2] mục tiêu khi quyết định thanh trừng chính quyền Decoux: Thứ nhất, để trung lập hóa quân đội Pháp, cảnh sát võ trang, và các cán bộ theo phe de Gaulle mà sự hiện diện tại Ðông Dương sẽ tạo cho Nhật nhiều trở ngại nếu Ðồng Minh đổ bộ lục địa Ðông Á, một điều được tiên đoán rộng rãi sau khi Bộ Tư lệnh Lộ quân miền Nam di tản từ Manila về Ðà Lạt. Thứ hai, và quan trọng hơn, là tăng cường phòng thủ Ðông Dương (và Thái Lan) bằng cách trực tiếp kiểm soát toàn bán đảo, đồng thời kêu gọi dân Ðông Dương yểm trợ qua kế hoạch cho họ một nền độc lập có điều kiện. (SHAT (Vincennes),10Hxxx; IMTFE, Exhibit 661 (3:7,168).
Sự thay đổi quan trọng nhất là việc thay các viên chức cao cấp trong chính phủ liên bang tại Hà Nội và năm [5] chính quyền bản xứ tại Căm Bốt [Kampuchea], Lào, Bắc, Trung và Nam Kỳ. Ngày 16/3/1945, Tướng Tsuchihashi Yuitsui, Tư lệnh Quân đoàn 38, tức Quân đoàn đồn trú ở Ðông Dương, trở thành Toàn quyền Nhật thứ nhất, và duy nhất. Ít lâu sau, qua tháng 5/1945, Tsuchihashi dời Tổng hành dinh từ Sài Gòn ra Hà Nội. Ðại sứ Matsumoto trở thành Cố vấn chính trị của Toàn quyền; và sau đó Tsukamoto Takeshi lên thay, nhưng chỉ mang tước hiệu Tổng thư ký (thường được người Việt gọi tôn lên là Phó Toàn quyền). Các viên chức Nhật trực tiếp điều khiển mọi nha sở liên bang, đặc biệt là cảnh sát, tư pháp, tài chính, kinh tế, thanh niên và thể thao, và thông tin. Trong khi đó, Nam Kỳ có một Thống Ðốc, Minoda Fujio, cựu Tổng lãnh sự Sài Gòn. Bắc Kỳ được một Quyền Thống Sứ, Nishimura Kumao, cho tới thượng tuần tháng 5/1945, khi sát nhập vào “tân” Ðế quốc Việt Nam của Hoàng đế Bảo Ðại. An-Nam, Căm Bốt và Lào độc lập đều có một Cố vấn Tối cao hay Ðại sứ. (L'Action, 19/3 & 20/4/1945).
Ngoại trừ những cuộc hành quân tảo thanh—để truy lùng cảnh sát thân chế độ Vichy và gián điệp phe de Gaulle đã xâm nhập Lào và duyên hải Bắc Bộ dưới sự bảo trợ của cơ quan tình báo chiến lược Mỹ [OSS] hoặc Bri-tên—cộng đồng Pháp kiều được đối đãi khá tử tế. Các viên chức hạng thấp và chuyên viên Pháp được phép tiếp tục làm việc. Thường dân Pháp mất ưu quyền của giai tầng thống trị, chịu một số biện pháp chế tài trong thời chiến như tịch thu vũ khí, máy thu thanh, chụp hình và máy đánh chữ, kiểm soát việc di chuyển và hội họp, và chỉ định cư trú. Với phần đông Pháp kiều, đời sống trở lại bình thường. Ngày 15/3, Ngân Hàng Ðông Dương mở cửa trở lại. Báo tiếng Pháp tục bản ở Sài Gòn và Hà Nội, tức hai tờ L'Opinion-Impartial [Trung Lập] và L'Action [Hành Ðộng]. Dù luận điệu hai báo trên thân Nhật, sự có mặt của chúng giúp minh bạch hóa chính sách của Nhật trước hệ thống tuyên truyền của Ðồng Minh hay những lời đồn đãi vô căn—một đặc tính khó trộn lẫn của người Pháp cũng như Việt. Trường hợp bị dời chỗ ở, mỗi gia đình (hộ) được phép mang theo một người làm. Chính quyền Nhật cũng bảo đảm sự an toàn của thường dân Pháp.
Với dân Ðông Dương, Tsuchihashi quyết định cải hóa càng nhiều cựu cộng sự viên với Pháp càng tốt. Vua Bảo Ðại của An-Nam, Norodom Sihanouk của Căm Bốt, và Srisavang-vong của Lào đều được khuyến khích tuyên bố độc lập, và nhìn nhận Tuyên Cáo Chung của các nước Ðại Ðông Á. (L'Action, 19/3 & 15/4/1945). Thuộc hạ của họ, ngoại trừ những người mất lòng dân chúng và có lập trường thân Pháp, đều được giữ nguyên vị. Một số người được đưa lên những chức vụ cao hơn trước kia dành riêng cho Pháp kiều. (L’Action, 31/3/1945)
Tại Huế, theo người viết hồi ký cho Bảo Ðại, sau khi yêu cầu vợ chồng Bảo Ðại bỏ dở chuyến đi săn ở phía bắc Quảng Trị đêm 8/3 và hộ tống nhà vua trở lại Hoàng thành vì lý do an ninh, sáng 11/3 Cố Vấn Tối Cao Yokoyama Masayuki—cựu Giám đốc Văn Hóa, nói thạo tiếng Pháp—đến thăm Bảo Ðại và, trái với nỗi lo ngại của Nhật, thuyết phục được vua hợp tác. Mối lo sợ trên chẳng phải thiếu căn cứ. Sau này, Khâm sứ Vatican là Giám mục Antonin Drapier tiết lộ với Linh mục/Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu rằng thượng tuần tháng 3/1945 Bảo Ðại đã nhờ ông ta liên lạc với phe “Pháp tự do”. Drapier cũng tin rằng vợ chồng Bảo Ðại thân Pháp bậc nhất ở Việt Nam. (7) Chiều Chủ Nhật, 11/3/1945, Bảo Ðại họp nội các, và ai nấy đều ủng hộ tuyên cáo độc lập với Pháp.
Nhưng cựu Ngự tiền đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hoè nhớ lại rằng Yokoyama cùng Phạm Quỳnh (1892-1945), Cơ Mật Viện trưởng kiêm giữ bộ Lại, đã gặp Bảo Ðại trước đó một ngày, tức khoảng 10 giờ sáng ngày 10/3. Buổi chiều, Quỳnh gọi điện thoại triệu tập họp Cơ Mật vào sáng hôm sau, nhưng không thông báo với Hoè. 8 giờ sáng Chủ Nhật, 11/3, Bảo Ðại họp với sáu [6] thượng thư tại điện Kiến Trung. Quỳnh được lệnh thông báo về chuyến viếng thăm chiều Thứ Bảy của Cố vấn Tối cao Nhật, rồi tuyên bố mục đích của phiên họp Cơ Mật Viện nhằm tuyên bố độc lập với Pháp. Cả nội các đều tán thành. Bùi Bằng Ðoàn (bộ Hình) đề nghị phải tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước với Pháp. Quỳnh cho biết đã soạn sẵn dự thảo, và chuyển cho mọi người đọc. Vừa đọc dự thảo này, Hồ Ðắc Khải (Hộ) và Trương Như Ðính (Công) vừa tấm tắc khen hay. Ưng Úy (Lễ), Trần Thanh Ðạt (Học) không có ý kiến gì thêm. Bảo Ðại sai Hoè mang bản thảo Tuyên Ngôn Ðộc Lập ra ngoài hoàn tất thủ tục. Sau khi Bảo Ðại và các thượng thư ký xong, Ưng Úy (Lễ) đề nghị ngày 14/3 tiến hành lễ báo cáo độc lập với Liệt Thánh. (Phạm Khắc Hoè, 1987:14, 17-8)
Bản tuyên cáo độc lập ngày 11/3 có những điểm đáng chú ý đặc biệt. Trước hết, dù vô tình hay cố ý, nó chỉ nói đến An Nam—một thuật ngữ có thể diễn dịch như An Nam (Trung Kỳ, từ Thanh Hóa vào Bình Thuận), hay vương quốc Ðại Nam (gồm cả ba kỳ). Thứ hai, bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước 6/6/1884 về việc “bảo hộ” Trung và Bắc Kỳ, mà không đả động gì đến các hòa ước 5/6/1862 và 15/3/1874 xác định nhượng đứt Nam Kỳ, hay các qui ước 1887 và 1896 liên quan đến các nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng (Tourane). Thêm nữa, bản tuyên cáo độc lập với Pháp của Bảo Ðại kèm theo lời tuyên bố phụ thuộc vào Nhật, hứa hẹn “Hợp tác toàn diện với Ðế quốc Nhật trong niềm tin thành khẩn vào thiện ý của Nhật.”(8)
Như thế vai trò Bảo Ðại, trong kế hoạch sơ khởi của Nhật, cũng tương tự vai trò dưới thời Pháp thuộc—vua chỉ là vòng hoa vương giả không chút thực quyền ngoài “văn phòng phụ thuộc nhỏ” của Dinh Cố vấn Tối Cao. (9) Mãi tới giữa tháng 5/1945, sau khi tái lập chức Khâm sai Bắc Kỳ theo ý phe đảng Khôi-Diệm, Tsuchihashi mới ghé Huế thăm Bảo Ðại, mang theo tân Khâm sai Phan Kế Toại. (L’Action, 18/5/1945. Shiraishi ghi ngày 11/6/1945)
Hôm sau, ngày 12/3, Bảo Ðại sai Hoè thảo Dụ cử Quỳnh làm đại diện liên lạc với Nhật. Hoè tìm cách dèm xiểm Quỳnh là “người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ, trí thức khinh bỉ,” nhưng Bảo Ðại vẫn cho lệnh thi hành. Hoè bèn thảo một “Chỉ” [lệnh ở hàng thấp nhất, dưới Dụ và Sắc], rồi âm mưu cùng nhóm “Nghệ An đồng châu phổ” làm một cuộc đảo chính cung đình, loại Quỳnh. (Bao Dai, 1980:101; Phạm Khắc Hoè, 1987:14-9).
Ðể tạo một kích xúc tâm lý, ngày 17/3 Bảo Ðại ra tuyên cáo (Dụ số 1) là sẽ trực tiếp cầm quyền, trên nguyên tắc “Dân vi quí” —một lời dạy của Mạnh Kha. (10) Theo Hoè, có thể Phụ Ðạo Lê Nhữ Lâm hay Yokoyama đã mớm ý cho Bảo Ðại học thuyết “Dân Vi Quí, Xã tắc thứ chi, quân vi khinh” mà nhiều nho gia “tiến bộ” như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường yêu thích.
Hoè còn tự nhận công lao trong việc từ chức tập thể của nội các Phạm Quỳnh: Từ ngày 14/3, Hoè đã bàn việc loại Quỳnh với Tôn Quang Phiệt (1900-1973), người cùng “Nghệ Tĩnh đồng châu phổ.” Phiệt là hiệu trưởng tư thục Thuận Hóa, từng thành lập tổ chức Phục Việt khi còn là sinh viên trường Cao Ðẳng Sư Phạm Hà Nội, rồi năm 1928 trở thành Bí thư Tân Việt Cách Mệnh Ðảng [TVCMÐ] ở miền bắc (Trí kỳ), và bí mật gia nhập Ðảng Cộng Sản Ðông Dương [CSÐD] từ trước ngày TVCMÐ đổi tên thành Việt Nam Cộng Sản Liên Ðoàn hay Ðông Dương Cộng Sản Liên Ðoàn [CSLÐ] vào đầu năm 1930. Trong số các đảng viên Trung Kỳ [Nhân Kỳ], ngoài Tổng Thư Ký Ðào Duy Anh, và Trần Mộng Bạch, có Nguyễn Thị Vịnh tức Minh Khai, Ngô Ðức Trì, Hà Huy Tập, Ðặng Thái Mai, Nguyễn Quốc Túy, Trần Vĩ, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Hữu Diếu, Trần Hữu Duẩn, Nguyễn Khoa Văn, Võ Giáp, v.. v....( 11)
Ðược Phiệt cổ võ, tối 17/3, Hoè thành công trong việc thuyết phục các Thượng thư đồng loạt từ chức, để Bảo Ðại được tự do, với sự trợ giúp của Phiệt và Hoè, tìm “người tài đức” mới. 2 giờ chiều Thứ Hai, 19/3, trong khí thế cách mạng thay đổi nội các, Hoè nộp lên Bảo Ðại danh sách 14 “nhân sĩ” đã có sự bàn bạc của Bùi Bằng Ðoàn, Ưng Úy, Tạ Quang Bửu và Phiệt. Bảo Ðại chọn tám [8] người mời về Huế tham khảo: Trần Ðình Nam (Ðà Nẵng), Hồ Tá Khanh (Sài Gòn/Phan Thiết?), Lưu Văn Lang (Sài Gòn), Hoàng Trọng Phu (Hà Ðông), Trần Văn Thông, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền, hoặc Phan Anh (Hà Nội), tùy Hãn chọn. Sáu [6] người không được mời gồm Huỳnh Thúc Kháng (Huế), Tôn Quang Phiệt (Huế), Lê Ấm (Qui Nhơn), Vương Quang Nhường (Sài Gòn), Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn/Vĩnh Long), Trịnh Văn Bính (Hà Nội/Hải Phòng), (Phạm Khắc Hoè, 1987:25-6). Trước đó, Bảo Ðại từng sai Hoè mời Kháng—cựu Chủ tịch Viện Dân Biểu An Nam—vào bái kiến, nhưng Kháng từ chối. (Phạm Khắc Hoè, 1987:21) Hoè có vẻ hàm ý rằng Kháng chịu ảnh hưởng Ngô Ðình Khôi, thuộc phe Cường Ðể.
Riêng ba trí thức trẻ Hãn, Hiền, Anh có thể do Nhật đề nghị, hoặc do liên hệ gia đình với Hoè (Hãn), hay/và hảo ý trọng những tài năng trẻ của Bảo Ðại—đã từng du học Pháp 10 năm và quen dùng tiếng Pháp hơn tiếng Việt. Bảo Ðại thông minh hơn nhiều người cả đoan, và dưới sự giáo huấn nghiêm khắc của Jean Charles, trở thành một hình nhân giát vàng khuôn mẫu. Thuật ngữ “bù nhìn” [puppet] sính dùng thường khiến người ngoài, xa lạ với sân khấu quyền lực, khó tri nghiệm được khả năng của các vua chúa “bù nhìn.”
Tuyên cáo độc lập ngày 11/3 của Bảo Ðại, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ liên quan đến An Nam (Trung) và Bắc Kỳ. Mặc dù nó mang lại cảm hứng và hy vọng được độc lập và thống nhất lãnh thổ, ở thời điểm này nó chẳng có hiệu lực gì với tình trạng Nam Kỳ. Thống đốc Minoda nhiều hơn một lần nhắc nhở những chính khách Việt quá xúc động là định nghĩa “độc lập” của Nhật rất giới hạn, nhất là không nên gợi lại thù oán cũ. Ngày 29/3/1945—trước ngày Trần Trọng Kim được hồi hương để “tham khảo về lịch sử” —Minoda nhấn mạnh rằng không ai có thể hiểu lầm sự kiện rằng Nam Kỳ thuộc quyền “chỉ huy quân sự” của Nhật, hay nền độc lập của Việt Nam tùy thuộc vào kết quả của cuộc chiến Ðại Ðông Á. (L'Action, 31/3/1945; Kim, 1969, tr. 44).

 I. TÌNH TRẠNG VIỆT NAM, 3-4/1945:

Việc Nhật thanh trừng Pháp và ban cho Bảo Ðại “độc lập có điều kiện” xảy ra trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn, khiến sự ủng hộ của quốc dân bị giảm sút.
Thứ nhất, thật rõ ràng Nhật đang thua trận. Sau này Hoàng Xuân Hãn và Phan Anh nhớ lại rằng ngày ấy Hãn, Anh cùng thân hữu nghĩ Nhật ít nữa cầm cự được khoảng một năm. Ðô đốc Louis Mountbatten, Tư lệnh Mặt Trận Ðông Nam Á [SEAC] của Bri-tên, dự định đổ bộ lên Malaya vào tháng 9, và chiếm Singapore vào cuối năm 1945. Chính Josef Stalin cũng không ngờ tại Hội nghị Potsdam Tổng thống Harry S. Truman và Thủ tướng Winston S. Churchill đã quyết định rút ngắn cuộc chiến bằng hai trái bom nguyên tử. Tuy vậy viễn ảnh bại trận của Nhật—nhất là sau cái chết của Adolf Hitler ngày 1/5/1945 và sự đầu hàng của Germany [Ðức] hôm sau—tạo nên thái độ bất hợp tác trong giai tầng có học, giai tầng cung cấp phần lớn cộng sự viên của Nhật. Trong khi đó, Charles de Gaulle tại Paris dồn mọi nỗ lực tái chiếm Ðông Dương. Song song với nỗ lực trên bình diện quốc tế để giành “quyền sở hữu tối thượng” Ðông Dương, Pháp gửi đặc công và gián điệp vào Việt Nam để thu lượm tin tức hay phá hoại. Cán bộ tuyên truyền Pháp rao giảng tuyên cáo ngày 24/3/1945, trong đó Pháp hứa hẹn sẽ cho năm [5] xứ Ðông Dương nhiều tự trị hơn và thực hiện một số cải cách để nâng cao mức sống dân, như thánh kinh Gaullist. (12)
Ðộc hiểm hơn, sau tuyên ngôn độc lập ngày 11/3 của Bảo Ðại phe Gaullist mở một loạt chiến dịch tuyên truyền gây nghi ngờ và chia rẽ giữa các tổ chức chính trị và giai tầng xã hội Việt. Một trong những chiến dịch này là đánh bóng tên tuổi cựu hoàng “làm loạn” Duy Tân (1907-1916), người đã bị truất phế và lưu đầy tới Réunion sau khi tham dự cuộc nổi dạy ngắn ngủi tháng 5/1916 mà theo cựu hoàng Thành Thái có lẽ là âm mưu của nhóm Nguyễn Hữu Bài nhằm đưa Bửu Ðảo, tức Khải Ðịnh (1916-1925) lên ngôi. Chiến dịch tuyên truyền này gia tăng cường độ trong mùa Hè 1945, khi Hoàng tử Vĩnh San được đưa từ Réunion qua Paris trong “kế hoạch bí mật” về Ðông Dương của de Gaulle. (13)
Trong khi đó, Việt Nam tiến gần hơn tình trạng vô chính phủ, nổi bật với ba hiện tượng là cơn sốt độc lập, nạn đói 1944-1945, và sự vượt thắng của Việt Minh dưới sự che chở của OSS Mỹ.

A. CƠN SỐT ÐỘC LẬP:
Một trong những biến chuyển quan trọng sau chiến dịch Meigo của Nhật ngày 9-10/3/1945 là sự bộc phát cơn sốt độc lập tại Việt Nam. Tiếng “độc lập” có một sức quyến rũ ảo thuật làm thay đổi nhiều người—dù ít người hiểu rõ ý nghĩa, hay những đặc tính của thuật ngữ này.
Tại Hà Nội, một ký giả ghi nhận,
Tiếng súng của quân đội Nhật Bản nổ đêm hôm 9/3/1945 ở dải đất này đã phá tan được đời nô lệ non một thế kỷ của chúng ta dưới cuộc đô hộ tàn bạo của Pháp. Từ đây, chúng ta mới thật được sống.” (14)

Ngay cả những người trước kia tự nhận chế độ Pháp liên hệ chặt chẽ đến “bát cơm” của họ cũng thay đổi thái độ. Việc Nhật tiếp tục sử dụng Bảo Ðại giúp lôi kéo được sự ủng hộ của giới thượng lưu và các gia đình giàu có, thế lực. Hoàng Trọng Phu, nhân vật thân Pháp uy quyền nhất miền Bắc, tới Huế ngày 27-28/3 để cố vấn Bảo Ðại về chính phủ độc lập tương lai của “An Nam.” Vi Văn Ðịnh, lãnh đạo hàng đầu của dân Nùng tại vùng Lạng Sơn, đến Hà Nội để cố vấn Nishimura Kumao.(L'Action, 7/4/1945) Hồ Ðắc Ðiềm, người được phe De Gaulle coi như một trong 17 đề cử viên có thể đưa ra khỏi nước để trở thành đại diện của Ðông Dương tại Quốc Hội Lập Hiến Pháp, được tiếp tục giữ chức Tổng đốc Hà Ðông, phía nam Hà Nội. (15)
Ngay đến Phạm Quỳnh, đương kim Cơ Mật Viện trưởng—nổi tiếng về chính sách Pháp-Việt đề huề hay “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Ðức tặc,” mục tiêu đả kích của cả Cộng Sản lẫn phe Ki-tô giáo Ngô Ðình Khôi-Ngô Ðình Thục, và Huỳnh Thúc Kháng từ thập niên 1930, từng được Ðại úy “Caille” [Paul Mus] dự định đưa sang India để “kháng chiến”—cũng có tin muốn hợp tác với Nhật. Ví thử Quỳnh có tâm ý chuyển buồm như Hoè tố cáo—suy diễn từ việc Quỳnh soạn sẵn tuyên ngôn độc lập ngày 11/3—chỉ là việc khó tránh của giới quan trường. Có lẽ Hoè không rõ cuộc tiếp xúc bí mật của Mus với Quỳnh nên việc đánh giá có phần vội vã. Hơn nữa, bản Tuyên Cáo độc lập với Pháp, so với Tấm Sự Vụ Lệnh cho Hoè rời Hỏa Lò Hà Nội vào Ðà Lạt gặp Nam Phương Hoàng hậu năm 1947, những cung văn Hồ Chí Minh như “Thánh Nam Ðàn,” hay việc trịnh trọng đặt trái cam Hồ ban cho lên bàn thờ để kính báo tổ tiên, cùng lời nhục mạ chủ cũ tự chúng phản ánh đặc tính của giới quan lại dưới thời Pháp thuộc nói chung, và cá nhân Hoè nói riêng. (Souverains, 1943:71-2; Phạm Khắc Hòe, “Con Rồng An-Nam phun ra bản chất phản bội và tội ác tày trời của Bảo Ðại;” Tạp Chí Cộng Sản, vol. XXVII, No.11 (Nov 1982), pp. 59-61)
Giới thanh niên, sinh viên và trí thức trên dưới ba mươi bị khích động mãnh liệt nhất. Phong trào “Cách Mạng quốc gia” của Decoux và các tổ chức Thanh Niên, thể dục và thể thao của Maurice Ducoroy—cùng phong trào Ðại Ðông Á, châu Á của người Á châu—tạo nên một bầu không khí sống khoẻ, sống hùng một cách lãng mạn trong giới trẻ và thị dân. Hầu hết lãnh tụ thanh niên, học sinh, sinh viên trong giai đoạn 1940-1945 đều trở thành nòng cốt trong cuộc chiến 30 năm sắp tới—phe này, hoặc phe kia.
Tại miền bắc, các đảng phái không Cộng Sản được khuyến khích thành lập một mặt trận liên hiệp để cai quản Hà Nội, Hải Phòng cùng các tỉnh lị, thị trấn. Ngày 22/2/1945, tại Hà Nội, các nhóm Ðại Việt bí mật thành lập Ðại Việt Quốc Gia Liên Minh. Gồm có nhóm Nguyễn Xuân Tiếu (Ðại Việt Quốc Xã), Nguyễn Tường Long (Ðại Việt Dân Chính), Trương Tử Anh (Ðại Việt Quốc Dân Ðảng), Ngô Thúc Ðịch, Bùi Như Uyên, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống (Việt Nam Quốc Dân Ðảng), Nguyễn Ðăng Ðệ, Nguyễn Xuân Dương tức Lạc Long. Ngày Chủ Nhật, 11/3, báo Tin Mới đăng “Tuyên Cáo” của Ðại Việt Quốc Gia Liên Minh. 5 giờ chiều, Ðại Việt Quốc Gia Cách Mệnh Ủy Viên Hội ra mắt tại Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Ðây là tên mới của ÐVQGLM. Tuyên bố đã thành lập Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời lúc 9 giờ sáng, sau đổi thành Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ. Nhưng ngày 19/3/1945, Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ, tức Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời, mới thành lập tám ngày trước, tự giải tán.
Nguyên văn “Tuyên Cáo Quốc Dân” trên như sau:
“Chúng tôi thuộc đảng Quốc Gia Liên Minh, nhân lúc giao thời đã ra đảm nhận mấy công việc cần cấp như trật tự, cứu tế, v.. v... Nay tình thế đã tạm yên, chúng tôi tự thấy nhiệm vụ đã hết, xin tuyên bố giải tán, để nhường các ngài có thực tài, thực đức ra cáng đáng những công việc quan hệ hơn.” (Tin Mới, 19/3/1945)

Các tổ chức thanh niên và võ thuật tại Hà Nội, Hà Ðông, Hải Phòng—như Thanh Niên Ái Quốc của Võ Văn Cầm, Thanh Niên Cách Mạng Quốc Gia của Lê Ngọc Vũ—được tổ chức thành những toán cảm tử chịu trách nhiệm bảo vệ trật tự khi cuộc đảo chính bắt đầu. Vài ba lính heiho này bị thương vong khi tấn công trại binh Pháp ở Hà Nội đêm mồng 9 rạng 10/3/1945.
Nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cũng tham gia sinh hoạt chính trị, qua việc gia nhập Ðại Việt Quốc Gia Liên Minh từ ngày 22/2/1945, tái bản báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới từ ngày 5/5/1945. Nguyễn Tường Long và Nguyễn Tường Bạch [hay Bách] cùng Khái Hưng còn tham gia đảng Tân Việt Nam Hội. Nhóm Thanh Nghị—qui tụ một số luật gia và trí thức cấp tiến như Vũ Văn Hiền, Vũ Ðình Hoè, Phan Anh, v.. v.. —tích cực trong việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên, dưới khẩu hiệu “Dân Vi Quí,” rồi được giao hai ghế trong chính phủ Kim, tái bản tạp chí Thanh Nghị từ ngày 5/5/1945 và vận động thành lập Tân Việt Nam Hội, để giữ gìn nền “độc lập từ trên giời rơi xuống.” (16)
Những thành phần nổi danh thân Pháp trong Hội đồng Tư Vấn Bắc Kỳ và Hội đồng Nghị viên thành phố cũng khăn áo tề chỉnh tham dự những buổi họp do Thống sứ Nhật triệu tập. Luật sư Trần Văn Chương—có vợ là nhân vật giao du rộng rãi với các viên chức Pháp và Nhật, cũng như trí thức Việt—được cử làm Chủ tịch Tòa Kháng Án Bắc Kỳ.
Tại miền nam, nơi đặt Bộ Tư lệnh Lộ Quân miền Nam, các lãnh tụ phe nhóm thân Nhật cũng ráo riết hoạt động. Hồ Nhựt Tân, đảng trưởng Việt Nam Ái Quốc (từ 1943) tuyên bố vào ngày 10/3:
Trong lãnh thổ rộng mông mênh của Ðại Ðông Á dưới sự lãnh đạo của Ðại Nhật Bản, dân tộc Việt Nam sẽ tận lực xây dựng một quốc gia mới dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự do. (17)

Cùng ngày 10/3, Hồ Văn Ngà (1905-1945) ra mắt Việt Nam Quốc Gia Ðảng, hậu thân Việt Nam Ðộc Lập Ðảng. Tám ngày sau lại đổi tên thành Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng, qui tụ đảng viên Phục Quốc từng hoạt động với Trần Văn Ân (1903-2002), và cựu đảng viên Việt Nam Nhơn Dân Thống Nhứt Cách Mạng Ðảng, có chiều hướng khuynh tả—Trốt-kít, theo Mật thám Pháp—cùng Việt Nam Quốc Gia Chánh Ðảng. (CAOM (Aix), 7F 27)
Các lãnh tụ tôn giáo cũng hoạt động mạnh. Cao Ðài có nhóm Trần Quang Vinh (Nghĩa Ðạo Thực Hành Ðoàn), Trình Minh Thế, Cao Hoài Sang. Giáo chủ [Ðức Thày] Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) qui tụ dưới trướng nhiều nhân vật chọc trời khuấy nước của Hòa Hảo như Lương Trọng Tường, Năm Lửa Trần Văn Soái, Nguyễn Giác Ngộ, Lâm Thành Nguyên, Ba Cụt Lê Quang Vinh. Nhóm Bình Xuyên của Lê Văn “Bảy” Viễn, Tô Ký cũng xuất hiện bên cạnh các tổ chức Nhựt-Việt Phòng Vệ Ðoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, Võ Sĩ Ðoàn của Ðỗ Dư Ánh, Thanh Niên Ái Quốc Ðoàn của Ðinh Khắc Thiệt, Hắc Long của Huỳnh Chi (cha vợ Trần Phước An) và Huỳnh Khai, v.. v.. (CAOM (Aix), HCFI, CP 191) Từ tháng 5/1945, Lãnh sự Iida còn bảo trợ tổ chức Thanh Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Thủ, Thái Văn Lung, Huỳnh Văn Tiểng, Thanh Nữ Tiền Phong của Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Thị Sương. Con số hơn 200,000 đoàn viên gia nhập TNTP sau ngày 1/7/1945 có lẽ đã được phóng đại, nhưng tinh thần dấn thân phục vụ đồng bào và cộng đồng là những đặc tính có thể chứng thực.
Các nhóm tự nhận là “Ðệ tứ QTCS” hay “Trốt Kít” cũng thành hình, đòi hỏi “dân cày có ruộng.” giới lao động làm chủ xí nghiệp ở Sài Gòn và các thị trấn. Vì chỉ là thiểu số—suýt soát vài trăm người, bị nhóm Ðệ Tam tìm đủ cách tận diệt trong dư luận cũng như thể xác—một số liên kết để khuynh đảo các lực lượng giáo phái, nhưng chỉ thành công rất giới hạn.
Tại Huế—sòng bạc quyền chức, danh lợi có nhiều thế kỷ tuổi đời—những mưu mẹo, tiểu xảo, phản trắc, lọc lừa lại thêm một lần mở chiếu bạc mới. Phạm Khắc Hoè—cựu Quản đạo Ðà Lạt lừng danh với nghề vào luồn ra cúi, rất được lòng Nam Phương Hoàng hậu và Từ Cung Hoàng Thái hậu—âm mưu cùng phe Nghệ-Tĩnh đồng châu phổ muốn lũng đoạn triều đình. Như đã lược thuật, Hoè mưu với Trần Ðình Nam và Tôn Quang Phiệt tìm cách loại Phạm Quỳnh—rồi vào tháng 7/1945, đề nghị Nam tống giam Quỳnh, nhưng Bảo Ðại không chấp thuận. Mặt khác, Nam và Hoè muốn lợi dụng thế lực Ki-tô giáo của họ Ngô, đưa Ngô Ðình Diệm ra làm con cờ thí ở thế cờ tàn Ðại Ðông Á. Nhưng người Nhật có sẵn một kế hoạch mà những “siêu trí tuệ” của Nghệ-Tĩnh đồng châu phổ khó thể thấu đáo. Và anh em Diệm-Khôi từng được Nguyễn Hữu Châu, anh rể Lệ Xuân, xếp hạng là loại người “được chim, bẻ ná.” Những nỗ lực của nhóm Phiệt, Nam hay Hoè chẳng thay đổi gì được đại thể.
Nói chung, sau khi loại bỏ khoảng 40,000 Pháp kiều trên đỉnh tháp xã hội, để đưa người Việt lên thay, người Nhật biến những thuật ngữ như Việt Nam, độc lập, bình quyền trở thành thực đơn hàng bữa của mọi giai tầng thị dân. Một số cựu tù nhân được phóng thích hay tự động phá ngục—thuộc đủ khuynh hướng ý thức hệ—cũng thắp hồng ngọn lửa bạo lực. Sự thay đổi giai tầng thống trị này tự nó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, lôi cuốn các “tân sĩ phu,” thị dân và địa chủ vào một chuỗi phản ứng giây chuyền [chain reaction] chạy đua quyền lực, xóa bỏ đi những khuôn thước trật tự, an ninh và thế giá xã hội cũ. Bởi thế, các con đường dẫn về Huế bỗng tấp nập những nhân vật quan trọng trong Âu phục hay quan phục, được người Nhật mời hay tự mời, để giúp Việt Nam trở thành một nước độc lập trong khối Thịnh Vượng Chung Ðại Ðông Á của Nhật.
Từ miền nam, Tạ Thu Thâu (1906-1945) thuộc nhóm La Lutte/Tranh Ðấu rời chỗ chỉ định cư trú ở Long Xuyên, ngược ra Huế và Bắc Bộ. Hồ Hữu Tường (1910-1982), tự nhận là Ðệ tứ Cộng Sản, cũng du thuyết từ trung ra bắc tìm đồng chí—phản ánh qua cuộc phiêu lưu của nhân vật “Phi Lạc sang Tàu” sau này. Có tin đồn Tường tiếp xúc cả với Chánh tổng Vũ Duy Ðạo—một lãnh tụ Ðại Việt nổi danh chống Cộng ở Bình Giang, Hải Dương, nhưng lại có cháu họ là cán bộ tỉnh ủy Ðảng CSÐD. Phái đoàn Nguyễn Thị Thập của Xứ Ủy Nam Bộ Ðảng CSÐD trên đường ra họp Hội nghị Tân Trào—nhưng bị trễ—vẫn được Y sĩ Phan Huy Ðán, chánh văn phòng Thủ tướng Kim, tiếp đãi.
Người duy nhất vắng bóng là Ngô Ðình Diệm—nổi tiếng là “người của Nhật,” thân cận với Cường Ðể, có “anh trai” làm Giám mục Vĩnh Long, thuộc một gia đình phong kiến, quan lại mới nổi. Tuy nhiên, cha con Ngô Ðình Khôi-Ngô Ðình Huân công khai ra mặt ủng hộ Nhật và Cường Ðể, duy trì liên hệ tốt đẹp với Kempeitai và gián điệp Nhật từ năm 1943. Một trong những lý do khiến Khôi bị ép phải về hưu không được chức thượng thư hàm là Khôi đã sử dụng tư dinh Tổng đốc Nam Ngãi để các em gặp gỡ những phần tử thân Nhật, đặc biệt là Trương Kế An và Phạm Ðình Cương—mới được cử làm cố vấn cho các cựu tù nhân chính trị ở Hà Nội. Khoảng 50 thuộc hạ của Diệm trong Ðại Việt Phục Hưng Hội bị bắt giữ từ mùa Hè 1944 cũng được phóng thích, tái bổ nhiệm vào ngạch quan lại, công chức hay quân đội. Tuần Vũ Trần Văn Lý được đặc cách lên kinh lược bốn tỉnh nam Trung Bộ, trị sở tại Ðà Lạt. Phe đảng Ki-tô “6/6/1884” này rất tự hào về liên hệ chính thống với Nhật, qua Cường Ðể, ráo riết chuẩn bị cho Ủy Ban Kiến Quốc của Diệm lên cầm quyền, và tố cáo vai trò bù nhìn, tạm thời của Bảo Ðại cùng những “tài đức” mới. Một trong những lý do khiến Yokoyama có mặt ở Huế trước 9/3/1945 là mối lo ngại Bảo Ðại có thể không chịu hợp tác. Hơn nữa, không thể không đề phòng phản ứng của họ Ngô sau khi Cường Ðể và Diệm bị loại bỏ. Theo tình báo Pháp, tháng 8/1945, Diệm cũng ra Huế theo lời mời của Bảo Ðại và Kim. Sau đó, có thể Diệm đã tị nạn trong một tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Canada [Gia Nã Ðại] ở Huế cho tới đầu năm 1947. (SHAT (Vincennes), 10H xxx)
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, mặc dù Khôi từng nhờ Nhu chuyển tới Paul Arnoux “lời thề trên thánh giá” là trung thành với Bảo hộ, anh em họ Ngô thực sự nương gió Nhật đổi buồm đã lâu, không nằm trong nhóm chưa chịu đổi buồm—như Nguyễn Văn Thinh, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Tâm, Jean Leroy, v.. v... Dù rút vào bóng tối, hay tham gia các công tác xã hội cứu đói, giúp đỡ các nạn nhân bị phi cơ Ðồng Minh oanh tạc, hoặc nghiền ngẫm niềm bất mãn và hận thù trong các nhà tù và trại tập trung của Nhật, những người “Pháp mũi tẹt” âm thầm mong đợi ngày Nhật bại trận. Ngoài ra còn những người tiếp tục bị giam cầm, hay tụ họp tại các mật khu trong rừng núi hay hải ngoại, quyết không đội trời chung với Nhật và/hay Pháp. Ðó là Ðảng CSÐD với cơ quan ngoại vi Mặt Trận Việt Minh, cùng một số lãnh tụ chống Cộng có khuynh hướng thân Hoa, hoạt động trong các toán tiền tiêu của các đơn vị “Hoa quân nhập Việt,” chuẩn bị cho ngày Ðồng Minh đổ bộ. Ðường ranh phân chia tim óc người Việt đã ươm mầm và nảy nở liên lũy trước khi cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-“Cộng Sản” khởi đầu. Cả hai phe đều tin ở sức mạnh của họng súng và thể chất—không ngừng gào thét đòi phanh thây, uống máu quân thù. Võ Giáp và các thành viên của Ðoàn vũ trang tuyên truyền thành lập ngày 22/12/1944, hay các nhóm “Việt Hùng,” “xung phong, ám sát đoàn” đều mang theo họ những ngọn lửa hận thù mất cha mẹ, vợ con, anh em. Ðáng lưu ý là hầu như đại đa số đều không phải là công nhân vô sản [proletariat]—mà chỉ những nông hay thị dân nghèo khổ, ăn bữa sáng, lo bữa tối—tự biến mình thành những âm binh chịu phù phép. Trong ống tay áo các tay phù thủy ngoại cường và tập đoàn cai thầu bản xứ. Thiếu tá Allison K. Thomas, cấp chỉ huy OSS từng sống với Hồ hai tháng ở TânTrào, báo cáo rằng đa số bộ đội Việt Minh chưa nghe đến hay hiểu biết Cộng Sản là gì. Những người chống Cộng như tín đồ Ki-tô và Hòa Hảo, họ chống bất cứ thứ gì liên hệ với Cộng Sản chỉ vì lệnh trên. Có người tốt nghiệp Ðại học Mỹ còn không hiểu nổi ý nghĩa và biên độ “chỉnh cán, chỉnh quân” của Mao Trạch Ðông hay quyết tâm độc quyền yêu nước và cai trị của tín đồ Marxist-Leninism trong đầu thập niên 1950—kiến thức sử không quá số vốn lớp đồng ấu hay tiểu học.

B. NẠN ÐÓI ẤT DẬU:
Sự bùng nổ chính trị nói trên trùng hợp với nạn đói Ất Dậu (1945), một biến cố bi thảm tại Bắc và Bắc Trung Kỳ. Nạn đói đã khởi đầu từ năm 1944; đó là sự oà vỡ cuối cùng của sự căng thẳng kinh tế liên lũy gia tăng dưới thời Pháp thuộc; và, dân chúng ngày thêm nghèo khổ, quẫn bức dưới thời Nhật chiếm đóng. Thông thường, nông dân Bắc và Trung Kỳ chỉ sản xuất vừa đủ số gạo cần dùng. Trường hợp có thiên tai, họ cần được tiếp tế bằng gạo miền Nam. Tuy nhiên, từ vụ mùa năm 1943 (khoảng tháng 11-12), chính quyền Decoux cho lệnh nông dân Bắc và Trung Kỳ phải bán số “thóc thặng dư” cho nhà nước. Ðiều này có nghĩa mỗi dân làng phải bán cho nhà nước một số lượng thóc nhất định, bất kể thu gặt được bao nhiêu. Ngoài ra, giá thu mua của nhà nước thấp hơn giá thị trường. Cùng với sự lộng quyền và âm mưu trục lợi của những đại lý thu mua thóc, chính sách trên vét sạch các vựa thóc dành dụm của nông dân, và khiến rất nhiều trung nông bị sạt nghiệp. Ðại đa số có từ 1 sào tới 5 mẫu bị thiệt hại nhất. Số vốn bỏ ra cầy cấy 1 sào là 42 đồng, tiền thuế 12$20. Nhưng 1 sào chỉ thu được 6 thúng thóc (120 kg), tính ra tiền khoảng 30 đồng. Nếu phải vay ăn để cầy cấy, tiền lãi trong 4 tháng bằng 50% vốn. Pháp còn cho lệnh thu thóc cả công điền, thần từ và Phật tự. (Vũ Như Trác, “Ðể cứu đói cho dân: Chính phủ mới cần biết những hà chính của Pháp còn để lại;” Tin Mới, 1/6/1945)
Trong khi đó các cuộc oanh tạc và phong tỏa hải lộ của Liên Bang Mỹ và Bri-tên cắt đứt hầu hết việc chuyển vận lúa gạo từ Nam ra Trung hay Bắc. Trong những công điện cuối cùng từ Ðà Lạt gửi về Vichy ngày 5/8/1944, Decoux báo cáo tình hình kinh tế Ðông Dương như sau: Thăng bằng kinh tế còn duy trì được cho tới cuối năm 1943. Từ đầu năm 1944, mất quân bình vì sự gia tăng oanh tạc và phá hoại của tầu ngầm Ðồng Minh. Các tàu vận tải của Ðông Dương hầu như tê liệt. 7 trên 13 tàu chạy ven biển (caboteurs) bị đắm. Tàu đáng lẽ cặp bến Hải Phòng phải lùi dần xuống phía Nam; Tourane, rồi Qui Nhơn; và, vào cuối tháng 8/1944, phải đổ hàng ở Nha Trang (Cable 11,270). Từ đầu năm 1944, bắt đầu dùng thêm thuyền buồm. Từ ngày 1/1 tới ngày 1/7/1944, chở ra được miền Bắc 3,672 tấn gạo ăn; và 4,506 tấn gạo để chế cồn (Cable 11,272). Vận tải bằng đường bộ, đang từ 4,000 tấn vào tháng 1/1944, xuống còn 660 tấn vào tháng 2/1944, và 230 tấn trong tháng 3/1944. Từ Bắc chở vào Nam chỉ được 660 tấn trong tháng 4/1944 (Cable 11,273). Trù tính chở 2,500 tấn trong tháng 8/1944, nhưng cơn bão trong hai ngày 10-11/7/1944 phá hủy mất 600 tấn muối. Kho muối ở Bắc chỉ còn 18,000 tấn, cần 17,000 tấn dùng cho tới cuối năm, và 40,000 tấn để dùng cho tới mùa muối vào tháng 4/1945 (Cable 11,273; Tels 11,268-11,278, 5/8/44, Dalat gửi Colonies Vichy; CAOM (Aix), FOM, c. 272, d. 451). Một trong những lý do là quốc lộ nối liền nam-bắc bị cắt đứt; tới 17 chỗ khác nhau vào đầu tháng 3/1945, có chỗ dài vài cây số. Theo Georges Gautier, Tổng thư ký Ðông Dương từ tháng 11/1944, người phụ trách việc tiếp tế cho miền bắc, người ta phải tập trung sử dụng nhân công và các phương tiện lạc hậu như tam bản, xe bò, xe hơi và cả sức người. (Gautier, 1978, tr. 13) Số lượng thóc gạo thỉnh thoảng chở được ra Bắc—25,884 tấn năm 1940, 118,752 tấn năm 1941, 110,000 tấn năm 1942, 99,099 tấn năm 1943, 68,841 tấn năm 1944, 15,222 tấn từ tháng 1 tới tháng 3/1945, và 7,586 tấn từ tháng 4 tới tháng 8/1945—bị tồn kho để sử dụng tại các thành phố hay chế biến nhiên liệu cần thiết cho quân sự. (Cable 11,273; Tels 11,268-11,278, 5/8/44, Dalat gửi Colonies Vichy; CAOM (Aix), FOM, c. 272, d. 451; Tân Dân, 31/10/1946).
Từ vụ mùa năm 1943, nông dân miền Bắc và miền Trung phải trông cậy vào số thóc thu gặt mỗi mùa hoặc các loại hoa màu phụ mà họ có thể gieo trồng. (Liệu, Bích và Ðạm 1957: tập II: 87-8). Một loạt những cuộc thiên tai trong mùa Hè 1944 phá hủy gần hết vụ mùa tại vài tỉnh, đặc biệt là Thái Bình ở miền Bắc, nơi vấn đề nhân mãn và thiếu dinh dưỡng là những vấn nạn trường kỳ. Tệ hại hơn nữa, thời tiết lạnh khắc nghiệt của mùa Ðông 1944-1945 làm hư gần hết hoa màu phụ. Nạn đói lan tràn khắp đồng bằng sông Hồng, rồi sông Mã. Tháng 1/1945, đói tràn vào tàn phá vùng Nghệ Tĩnh. Trung bình hàng ngày có hàng chục người chết. Những làng duyên hải có nơi chết hàng trăm. Tại cửa thành Hà Tĩnh, có những bà mẹ mang con rao bán với giá 20 đồng. Trẻ em, rồi người lớn, và cuối cùng toàn gia đình lâm vào cảnh chết đói. Ðối diện tử thần, dân quê tại những vùng bị nạn đói hoành hành lên đường đi kiếm thực phẩm. Họ tràn vào các chợ lân cận, rồi kéo về các thị trấn và thị xã, ở đó theo lời đồn có rất nhiều kho thóc đầy ắp. Sự giúp đỡ nhỏ nhoi của các hội từ thiện tư nhân khó thể giải quyết cơn khủng hoảng quá trầm trọng. Những nông dân lang thang xin ăn âm thầm gục đổ xuống các mặt phố, hay không thể thức giấc sau một đêm ngủ đỗ trên lề đường của các thị trấn và thành phố. Xác người chết đói rải rác trên quan lộ. Tin đồn người ăn thịt người lan truyền, nhưng khó kiểm chứng. Chỉ biết thực tế tại nhiều làng ở Hải Dương, phải ăn cháo cám thay cơm. (18)
Trong khi đó, tại miền nam, nhiều công xưởng phải dùng thóc đốt thay cho than đá từ miền bắc. Ngày 28/9/1945, kiểm kê tổng số gạo Decoux tồn trữ được 230,000 tấn, tương đương với 391,000 tấn thóc. (CAOM (Aix), INF, c. 158, d.1362). Ðầu năm 1946, R. H. Smyth, trong Hội đồng Thực Phẩm [Combined Food Board = CFB], báo cáo dân sự Pháp có 12,000 tấn gạo, và quân đội Nhật, 45,000 tấn. Linh mục/Cao ủy Georges Thierry d’Argenlieu đồng ý gửi ra Bắc 5,000 tấn để chứng tỏ thiện chí, trao đổi với việc quốc quân Trung Hoa mau rút khỏi miền Bắc vĩ tuyến 16. (Tel No. 1016 (27/5/1946), Haussaire Indo Saigon gửi Comité Indochine; CAOM (Aix), Service économique [SE], c. 14).

C. VIỆT MINH & ÐƯỜNG GIÂY OSS:
Chính phủ “quân sự chỉ huy” của Nhật, và lá bài vương giả bản xứ “độc lập” gặp sức chống đối mãnh liệt của ÐảngCSÐD, dưới chiêu bài Mặt Trận Việt Minh. Khối sử văn cổ điển cho rằng Việt Minh xuất xứ từ tên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, do Nguyễn Sinh Côn thành lập ngày 19/5/1941, tại Hội nghị trung ương thứ 8 nhóm họp ở biên giới Cao Bằng và Quảng Tây. Sự thực, đây là một tổ chức “hồn Trương Ba, da hàng thịt,” do Côn tái sinh năm 1941 tại Hoa Nam. Tổ chức này đã do nhóm Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần đăng ký tại Nam Kinh năm 1936, nhưng chỉ hoạt động được ít lâu rồi chìm vào quên lãng. Sau khi trực tiếp nắm Ban Chỉ Huy Ở Ngoài của Ðảng CSÐD ở Côn Minh, Côn giao cho Phạm Văn Ðồng (1908-2000) làm Phó Chủ tịch Việt Minh với hy vọng xâm nhập tổ chức Hoa quân nhập Việt của quan tướng Trung Hoa. Bị lộ mặt Cộng Sản, Ðồng và Giáp phải trốn chạy về vùng biên giới Cao Bằng. Tháng 5/1941, giữa lúc Ðảng CSÐD tại nội địa thêm một lần bị Pháp tắm máu trong chiến dịch “khủng bố trắng” 1939-1941 mà Côn trực hay gián tiếp trách nhiệm—khi mở đường giây liên lạc với Ban Chấp Ủy Trung Ương ở Sài Gòn, sau ngày rời Mat-scơ-va về Trung Hoa—Côn và thuộc hạ chính thức cướp đoạt danh hiệu Việt Minh như cơ quan ngoại vi, hay mặt trận thống nhất [united front] theo chỉ thị của QTCS. Có tác giả như Huỳnh Kim Khánh cho rằng ngày 19/5 kết thúc hội nghị 8 này sau được Hồ nhận làm sinh nhật. Suy diễn trên có lẽ không đúng. Nếu muốn cho “Ngày sinh nhật 19/5” một kỷ niệm nhớ đời, ngày 19/5/1910 đáng ghi nhớ hơn nhiều—ngày này 35 năm trước, sau khi bị cách chức tri huyện Bình Khê, chờ tra cứu, Phó bảng Nguyễn Sanh Huy bị giáng 4 cấp, phạt 100 trượng, đầy 3,000 lí vì tội “say sưa và tàn ác với dân chúng” (tra tấn một nông dân trong cơn say, khiến nạn nhân bị ốm chết), đưa đến cảnh anh em Côn phải bỏ học, rời Huế ra đi. (19)
Gần sự thực hơn nữa là việc đón lễ sinh nhật 19/5/1946 của Hồ đi kèm lời kêu gọi dân Hà Nội và khắp miền bắc vĩ tuyến 16 treo cờ đỏ, sao vàng trong thời gian d’Argenlieu ra thăm Hà Nội từ 18 tới 21/5/1946 (Cứu Quốc (Hanoi), 17/5/1946)—một danh dự lớn cho Linh mục/Cao Ủy Pháp, để đáp lại chuyến mời Hồ và Nguyễn Tường Tam ra Vịnh Hạ Long gặp mặt thân hữu. Ðồng thời để biểu dương sức mạnh chính trị của Hồ.
Dưới bảng hiệu mới là “đấu tranh chống Phát-xít Nhật và Ðế quốc Pháp,” Mặt Trận Việt Minh nín thở qua sông trong giai đoạn cai trị gián tiếp của Nhật (12/1941-3/1945). Việt Minh thành lập được hai đội du kích ở Cao Bằng và Lạng Sơn, nhưng những nỗ lực tái lập Ðảng tại đồng bằng miền Bắc và miền Trung rất hạn chế, trong khi mọi nỗ lực đánh thông liên lạc với Nam Kỳ trước Meigo đều thất bại.
Trong kế hoạch thanh niên vận và trí vận, từ mùa Hè 1944, Ðảng CSÐD thành lập Ðảng Dân Chủ, với Dương Ðức Hiền làm Tổng Thư Ký, Hoàng Minh Chính Bí thư Ðảng đoàn, để gia nhập Việt Minh [30/6/1944]. (Vũ Ðình Hoè, 2004:821) Những người gốc nam quen biết Hiền cũng qui tụ quanh nhóm Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, sau này hóa thân thành Ðảng Tân Dân Chủ, dưới ảnh hưởng và sự chỉ huy của Xứ Ủy Nam Kỳ gồm Trần Văn Giàu, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn “Bảy” Trấn, v.. v.. Qua năm 1944, nhóm này hoạt động trí vận dưới bảng hiệu truyền bá chữ quốc ngữ tại Sài Gòn/Chợ Lớn và các thị trấn. Tuy nhiên, Ban Thường Vụ Trung ương Ðảng CSÐD bị cắt đứt liên lạc với Huế và miền nam. Tới tháng 1/1945, Tố Hữu, Tôn Quang Phiệt, Hoàng Anh, v.. v.. mới nhận được tài liệu cơ bản về Việt Minh. Nam Kỳ chia thành hai Xứ ủy, hai Việt Minh, mãi tới tháng 4/1945 mới liên lạc được với Trường Chinh.
Chiến dịch Meigo giúp Ðảng CSÐD được tăng gia nhân sự từ các nhà giam và trại cải tạo, kể cả một số tù Côn Ðảo, xâm nhập các tổ chức do Nhật tài trợ, như Thanh Niên Tiền Tuyến ở Huế, Thanh Niên Tiền Phong hay Bình Xuyên, Hòa Hảo ở Sài Gòn. Y sĩ Phạm Ngọc Thạch—công dân Pháp và vợ Pháp—trở thành một cán bộ CSÐD, đưa đảng viên xâm nhập TNTP, và cải hóa thành phần lãnh đạo như Kỹ sư Kha Vạng Cân, Nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, Luật sư Thái Văn Lung, tráng trưởng Huỳnh Văn Tiểng v.. v.. Nạn nhân của nhóm Stalinist sau này là Luật sư Huỳnh Văn Phương, Phó Giám đốc Cảnh Sát Sài Gòn, từng phóng thích một số cán bộ cốt cán như Bùi Văn Dự, “Thắng” tức Trần Văn Trà, cung cấp vũ khí cho nhóm Stalinist và tuyển dụng một số cán bộ CS trong TNTP vào ngành Cảnh Sát. (20)
Sau một thời gian hoạt động với Kempeitai Nhật, Trần Văn Soái, Lê Văn “Bảy” Viễn, cùng Tô Ký, Dương Văn Hà của tổ chức tội phạm Bình Xuyên trở thành lãnh tụ chống Pháp. Tháng 10/1945, Bảy Viễn được phong làm Chỉ huy trưởng Mặt Trận Sài Gòn/Chợ Lớn. (CAOM (Aix), HCFI, CP 161)
Chiến dịch Meigo của Nhật, tưởng nên nhấn mạnh, còn mở cửa dư luận thế giới cho Việt Minh. Mặc dù từ năm 1942, các cơ quan tình báo Trung Hoa và Liên Bang Mỹ bắt đầu chú ý đến Hồ và tổ chức Việt Minh—qua Ban Chỉ Huy Ở Ngoài Ðảng CSÐD, và nhóm Hội Giải Phóng chống Nhật của Nguyễn Văn Cơ, tức Lê Tùng Sơn hay Anh tại Côn Minh—nhưng chỉ âm thầm theo dõi. Sau đó, đồng ý cho Trương Phát Khuê, lãnh chúa Quảng Tây, thuê Việt Minh thu thập tin về Nhật, qua hệ thống Hoa quân nhập Việt. Lê Tùng Sơn và một số cán bộ CS được cử vào Ban Chỉ Ðạo của tổ chức Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội tại Liễu Châu. Nhưng tình báo Mỹ không dấu sự nghi ngờ về Hồ—“một cán bộ QTCS thứ thực,” theo nhận định của Ðại úy OSS Archimedes L. A. Patti tại Hoa Nam. Cuối tháng 2/1945—sau khi Việt Minh đã cứu thoát Trung úy William Shaw, một phi công Mỹ bị bắn rơi ở Cao Bằng—Tướng Claire L. Chennault, Tư lệnh Không đoàn Cọp Bay, vẫn chưa đồng ý tiếp “ông Hoàng,” mới cùng hai thuộc hạ “đi bộ mười một ngày” từ Pác Bó sang Vân Nam đề nghị hợp tác.
Chiến dịch Meigo khiến viên chức Mỹ bỗng thay đổi hẳn thái độ. Sự thay đổi này do nhu cầu tình báo về quân lực Nhật tại Ðông Dương. Cuộc tổng tấn kích 9-10/3/1945 cắt đứt hầu hết hệ thống tình báo mà trước đó người Pháp và Hoa tại nội địa cung cấp cho Bri-tên, Trung Hoa và Mỹ. Từ năm 1943, lực lượng “kháng chiến Pháp” trong nội địa Ðông Dương cũng âm thầm cung cấp nhiều dịch vụ cho Ðồng Minh như tình hình quân sự, các vị trí đóng quân hay lộ trình di chuyển của Nhật. Tháng 2/1945, Trung tá Miles ở Côn Minh từng muốn khen thưởng những người Pháp góp công vào cuộc oanh tạc Sài Gòn và Cam Ranh ngày 12/1/1945, đánh đắm 50 tàu đủ loại, và phá hoại tới 150 thủy phi cơ Nhật tại Cam Ranh và duyên hải miền Trung. Pháp kiều cũng che chở, giúp đỡ hàng chục phi công của Không Ðoàn 14 Cọp Bay, hay Hạm đội số 3 Mỹ. Quân nhân Mỹ đầu tiên tử trận ở Việt Nam là Trung úy phi công E. A. Shirley, gốc Texas, thi hài được chôn trong nghĩa địa Pháp ở Sài Gòn vào tháng 1/1945. Kháng chiến Pháp còn giúp giải thoát một số tù binh Ðồng Minh trong trại tù Sài Gòn, trại tù binh quan trọng nhất ở Ðông Dương. Nhân viên OSS biệt phái cho Bộ Tư lệnh của Tướng Sabattier tại Ðiện Biên Phủ cũng bắt buộc phải theo Sabattier cùng tàn quân Pháp rút khỏi qua Trung Hoa—mặc dù de Gaulle đã gửi cả Tổng thư ký Comindo là Francois de Langlade và Paul Mus tới Ðiện Biên, chuyển lệnh phải ở lại nội địa Ðông Dương bằng mọi giá. (21)
Ngày 17/3, Charles Fenn, một nhân viên OSS tại Ðội Yểm Trợ Không Lực Dưới Ðất (AGAS), được lệnh tiếp xúc Hồ, và đặt cho Hồ bí danh “Lucius,” trước khi nhờ Hồ đưa hai nhân viên AGAS vào nội địa, thiết lập đài truyền tin. (Fenn 1973:76-80). Sau đó, Patti bay sang Liễu Châu gặp Hồ. Vì nể trọng sự lương thiện của Hồ và thái độ dửng dưng với ngân quĩ của OSS, Patti đã tảng lờ liên hệ giữa Hồ với Quốc Tế Cộng Sản, sử dụng Hồ đồng loạt với các nhân viên Pháp. (Patti 1980:83-7, 104-5) Quyết định của Patti cực kỳ quan trọng. Những ngày sau đó, nhờ vũ khí Mỹ, thuốc men, trang cụ và đặc biệt là bề ngoài được Mỹ công nhận, Ðảng CSÐD—dưới chiêu bài Việt Minh—sớm hồi phục khỏi tình trạng bị vỡ nát dưới tay Pháp trong giai đoạn 1939-1944. (Liệu 1964; CAOM (Aix), CP, hộp 161 và 192; 7F 27). Nhờ Patti và tình báo Mỹ, Việt Minh ra sức tự đánh bóng như một tổ chức duy nhất đang hợp tác với phe chiến thắng Ðồng Minh, giành độc quyền kháng Nhật, và gay gắt tố cáo tuyên ngôn độc lập của Bảo Ðại là thứ “độc lập bánh vẽ” (Liệu 1945). Cán bộ Việt Minh còn tích cực lợi dụng nạn đói để khích động đám đông hầu tạo cơ hội thuận tiện cho một cuộc nổi dậy, dự trù khi quân Ðồng Minh đổ bộ ở Trung Hoa và Ðông Dương trong khoảng mùa Thu 1945 và mùa Xuân 1946. Thực ra, so về công lao chống Nhật các tổ chức Pháp tự do vượt xa vài trăm du kích Việt Minh rải rác tại vùng thượng và trung du Bắc Việt.
Các toán vũ trang tuyên truyền và ám sát đoàndưới sự chỉ huy của cán bộ từng được tình báo Bri-tên huấn luyện (có thể liên hệ đến Ðoàn Ðông Dương Pháp, FCIS) như Lê Giản (Giám đốc Công An Trung Ương), Hoàng Ðình Rong, Dương Công Hoạt (Bí thư Cao Bằng), Pallat Nguyễn Văn Minh (cựu Bí thư Bắc Kỳ), Nguyễn Văn Ngọc (Giám đốc Công An Trung Bộ), Vũ Văn Ðịch (Cục trưởng tình báo quân đội), Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), v.. v... —hoạt động hầu như công khai ở Hà Nội và các vùng ven thị trấn. Chu Văn Tấn và “đồng chí Văn”tức Võ Giápthành lập an toàn khu ở vùng Tuyên Quang-Bắc Kạn, trải tới Cao Bằng. Tháng 5/1945, sau khi nhận lời hợp tác với tình báo Mỹ, Hồ di chuyển từ Pác Bó xuống Kim Lộng [Luông], huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Toán Con Nai [Deer Team] của Thiếu tá Allison K. Thomas từng nhảy dù xuống Kim Lộng, giúp huấn luyện khoảng 100 “bộ đội Việt-Mỹ” và cứu Hồ thoát khỏi cơn bệnh mười chết một sống. Thomas còn hành xử như Ban Ngoại Giao của Hồ, chuyển ra ngoài lập trường kháng Nhật và tranh đấu cho độc lập của Việt Minh. Thiếu tá Laurence Gordon và toán GBTdo hiềm khích với tình báo Phápcũng giúp đánh bóng danh tiếng Việt Minh. Việc Mỹ và Trung Hoa chấp thuận sử dụng Việt Minh để thu thập tin tình báo về Nhật còn tạo cho Việt Minh sức mạnh tinh thần và vũ khí tuyên truyền sắc bén. Ngày 7/8/1945, Bảo Ðại từng ra Dụ mời Việt Minh tham gia chính quyền, nhưng cả hai thượng thư khâm sai ra Hà Nội và vào Quảng Ngãi đều bị bắt giữ. (22)
Năm 1944-1945, cán bộ tuyên truyền [agitprop] của Ðảng CSÐD xâm nhập, tổ chức các nhóm thanh niên, sinh viên, trí thức. Từ tháng 8/1945, Pehznef Trần Ðình Long (1904-1946)—từ Nga về năm 1931, được Văn phòng Ðông Dương của Ban Phương Ðông Quốc Tế Cộng Sản dự trù sẽ thay Lê Hồng Phong nếu có chuyện bất trắc; cuối thập niên 1930, tham gia mặt trận báo chí ở miền Bắc—thực sự nắm Ðảng Dân Chủ, cố vấn cho Ủy Ban Khởi Nghĩa Hà Nội. Nhân vật tích cực khác là Lê Trọng Nghĩa (Ðoàn Xuân Tín), cán bộ tình báo, tham dự những cuộc thảo luận với Khâm sai Toại và Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Chủ tịch Ủy Ban Chính Trị Bắc Bộ. Do đề cử của những người này, Dương Ðức Hiền rồi Vũ Ðình Hoèlinh hồn nhómThanh Nghịđược đại diện Ðảng Dân Chủ trong chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945. (23)
Các nhóm thân Nhật tại Việt Nam chẳng coi trọng gì Bảo Ðại. Thực ra, quyết định duy trì Bảo Ðại của Nhật khiến mọi người đều ngạc nhiên, kể cả chính Bảo Ðại. (Bao Dai 1980: 101; Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism, p. 295 n8). Nước Nhật đã từng cho Hoàng Thân Cường Ðể (1882-1951), bác họ của Bảo Ðại và thuộc dòng trưởng của vua Gia Long (1802-1820), tị nạn nhiều thập niên. Năm 1939, Nhật khuyến khích Cường Ðể thành lập Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội,thường gọi tắt là Phục Quốc. Tổng Hành Dinh Lộ Quân Miền Nam của Nhật tại Quảng Châu (Canton, hay Guangzhou) cũng từng tổ chức Việt Kiều tị nạn ở Trung Hoa thành một lực lượng võ trang, với khoảng 2,000 Việt Nam Kiến Quốc Quân, được trang bị từ 300 tới 400 vũ khí. (CAOM (Aix), INF, hộp 133, hồ sơ 1120), và giao cho Trần Phước An (bí danh Shibata) cùng Trần Trung Lập, hai cộng sự viên thân cận của Cường Ðể, chỉ huy. Tháng 9/1940, Kiến Quốc Quân đã theo Sư đoàn 5 Ngự Lâm Quân Nhật tấn chiếm Lạng Sơn, một tỉnh sát ranh giới Hoa-Việt. Tháng 10/1940, sau khi Decoux chấp thuận cho quân Nhật đồn trú phía bắc Bắc Kỳ, Sư đoàn 5 Ngự Lâm Quân triệt thoái khỏi Lạng Sơn. Trần Trung Lập định duy trì vùng giải phóng được, nhưng bị quân Pháp đả bại. Lập bị bắt và xử tử vào tháng 12/1940.
Dẫu vậy, việc Nhật bỏ rơi Kiến Quốc Quân hay hợp tác với chính quyền Pháp trong thế chiến thứ II không đủ ngăn cản một số người Việt tham gia tổ chức Phục Quốc của Cường Ðể: Không đủ khả năng rời nước, bị Cảnh sát Pháp truy lùng, và do áp lực kinh tế, số người Việt trên xin hợp tác với Nhật để đổi lấy sự an toàn và miếng ăn. Sau 1943, Nhật bắt đầu đánh bóng Cường Ðể trở lại và tăng cường sức mạnh của Phục Quốc tại nội địa. Tháng 2/1943, Vũ Ðình Dy được Hiến Binh [Kempeitai] Nhật đưa qua Ðông Kinh để tổ chức Ủy ban Kiến Quốc, một loại chính phủ phôi thai dưới trướng Cường Ðể. (Cuong De 1957:138; Thông Tin, 10/6/1945; Nguyễn Xuân Chữ 1996:242-48) Ðồng thời, tại nội địa Việt Nam, người Nhật khuyến khích các đoàn thể tham gia tổ chức của Cường Ðể. Trong số này có các nhóm Ðại Việt ở miền Bắc, nhóm Ðại Việt Phục Hưng (Ki-tô giáo) do Ngô Ðình Diệm và anh em cầm đầu ở miền Trung, cùng các giáo phái và những nhóm tự nhận là Ðệ tứ Cộng sản (Trốt-kít) miền Nam. (24)
Tháng 7/1943, một nhân vật Nhật Bản có uy tín là Tướng Matsui Iwane tuyên bố tại Sài Gòn rằng ông ta là bạn Cường Ðể và, “Tốt nhất là người Pháp nên rời Ðông Dương một cách êm ả; bằng không, họ sẽ thấy người Nhật hành động.” Ảnh hưởng cá nhân Matsui tại Nhật ra sao đi nữa, vào tháng 1/1945 người Nhật đã qui tụ khá nhiều người Việt để điều hành một nước Việt Nam độc lập dưới quyền Cường Ðể, với Diệm làm Thủ Tướng. (25)
Nhưng Tướng Tsuchihashi không muốn đưa Cường Ðể lên ngôi, có lẽ hy vọng lợi dụng tối đa hệ thống hành chính hiện hữu. Khi bị Tokyo áp lực nhận Cường Ðể hồi hương, Tsuchihashi nóng giận tuyên bố với các thuộc hạ: “Cứ đưa hắn về đây. Ta sẽ lập tức tống cổ hắn ra Côn Ðảo.” (“Let them send him here. I'll at once put him in Poulo Condore”) (26)
Quyết định này—cùng với những yếu tố khác, như kế hoạch hậu chiến của các đại cường, sự phân hóa giữa các đảng phái và phe nhóm, và bầu không khí hỗn loạn—tạo nên một cuộc khủng hoảng chính phủ ở Huế. Trong tháng 3/1945, như đã lược nhắc, Bảo Ðại hai lần gửi điện mời Diệm lập chính phủ, nhưng không thấy hồi âm. Mãi sau này Yokoyama mới cho Bảo Ðại biết rằng người Nhật không muốn chọn Diệm. (27)
Từ phía họ Ngô, mùa Thu 1945, Giám mục Thục khai với mật thám Pháp là Thục khuyên Diệm không nhận lời mời của Bảo Ðại vì thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Ðại có những thành phần tả phái và franc-macon [Tam điểm] như Trần Trọng Kim và Trịnh Ðình Thảo. (CAOM (Aix), HCFI, CP 125) Lời chứng này khó tin. Bức công điện thứ nhất từ Huế gửi đi trước ngày Kim về nước. Công điện thứ hai gửi đi lúc Kim vừa âm thầm trở lại Sài Gòn, không được đón tiếp linh đình như báo chí Pháp hay trưởng phòng tuyên truyền Paul Mus của Leclerc truyền tụng. Có thể Thục không biết hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi. Ngoài ra, mục đích của Thục trong cuộc thẩm vấn là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Khôi và Diệm, một hình tội chiến tranh ở thời điểm đó, và cơ quan tuyên truyền Pháp tung tin có tai mắt khắp nơi, sẽ thẳng tay trừng trị những phần tử hợp tác với Nhật. Phần Diệm, dù gặp Kim ở trụ sở Dainan Koosi trước ngày Kim ra Huế, cũng không đề cập đến việc được Bảo Ðại mời lập chính phủ. Năm 1954, an ninh quân đội Pháp còn ghi rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Robert Shaplen cũng suy đoán theo chiều hướng này: Diệm từ chối không vì chống Nhật mà vì cảm thấy khó thiết lập một chính phủ tự do—trong số những yếu tố quan trọng có việc Nam Kỳ bị tách biệt với Huế. (Shaplen. 1966:110; SHAT (Vincennes), 10H xxx;)
Tuy nhiên, tất cả chỉ là suy diễn nhằm tô hồng, chuốt lục cho Diệm. Yếu tố tận dụng sức mạnh người bản xứ đang có mặt trong nước của quan tướng Nhật cho trận đánh cuối cùng mới là yếu tố chủ động. Lá bài Cường Ðể, cũng như Diệm và Chữ, đã bị loại bỏ trước khi phát động chiến dịch Meigo. Riêng Chữ được đích thân Kim và quan chức Nhật mời tham gia chính quyền, từ trung tuần tháng 8/1945 chấp thuận hợp tác. Ðiều Kim, Chữ và ngay cả quan tướng Nhật khó ngờ là việc Truman sử dụng bom nguyên tử để rút ngắn cuộc chiến. (Nguyễn Xuân Chữ, Hồi Ký, pp. 244-49).
Thay vào đó, Nhật chọn Trần Trọng Kim (1883-1952), một học giả nổi danh và cũng nhà giáo, lúc ấy đã lưu vong [sang Thái Lan] từ năm 1944, dưới sự che chở của Nhật.

Phụ Chú:
1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861, bị soi mòn dần từ năm 1940-1941, rồi bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khácnhư chính sách Việt nam hóa cuộc chiến 1964-1973 của Liên bang Mỹchúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism]. Ðây là một chu trình liên lũy từ thời hoang sơ của Bách Việt, tới thời Hai Bà Trưng (40-43)-bà Triệu (248), Ngô Quyền (938-944), rồi Ðinh Tiên Hoàng (968-979), Lê Hoàn (980-1005), qua nhà Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), Hậu Lê (1428-1528, 1593-1789), Tây Sơn (1778-1802), Nguyễn (1802-1945). Nó bao gồm những cuộc thay đổi triều đại và ý thức hệ mà nhiều người cho là “cách mạng,” và sự phá hủy, sửa đổi để hình thành những cơ cấu xã hội, kinh tế, văn hóa (phong tục) mới dài theo chu trình toàn cầu hoá của nhân loại.
2. Masaya Shiraishi, “La présence Japonaise en Indochine (1940-1945), in Paul Isoart (Ed), L’Indochine francaise (1940-1945)(Paris: Plon, 1982), pp. 215-41; và Ralph B. Smith, “The Japanese Period in Indochina and the Coup of 9 March 1945;” Journal of Southeast Asian Studies [JSEAS] (Sept 1978), IX, 2: 208-301. Luận án năm 1981 của Murakami Sachiko, “Japan's Thrust into French Indochina, 1940-1945.” Ph.D. Dissertation, tại New York University cũng cung cấp nhiều thông tin bổ ích. [Sẽ dẫn Murakami, 1981]. Sau khi bản thảo “The Other Side” được tạp chí JAS nhận in, chúng tôi tham khảo thêm Kiyoko Kurusu Nitz, “Japanese Military Policy Toward French Indochina During the Second World War: The Road to the Meigo Sakusen (9 March 1945). JSEAS (Sept 1983), XIV: 328-53; & Idem, “Independence Without Nationlists? The Japanese and Vietnamese Nationalism during the Japanese Period, 1940-1945;” Ibid.,(Mar 1984), XV: 108-33.
3. David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley, CA: Berkeley Univ Press, 1995). Marr là tác giả nhiều nghiên cứu về Việt Nam, từ 1885 tới cận đại. Hai điểm tôi không đồng ý với Marr là trường hợp “Nguyễn Văn Xuân” trong chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945 và Chỉ thị nổi dạy chống Pháp của Hội nghị 7 tại Ðình Bảng, Bắc Ninh. Vũ Trọng Khánh nhắc đến tên Nguyễn Văn Xuân ở Hải Phòng, trong kế hoạch trục xuất tàu Pháp. Báo Ðộc lập ngày 4/9/1945 ghi Nguyễn Văn Xuân là Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Nhưng trong danh mục đại biểu Quốc Hội khoá I tại TTLTQG 3 (Hà Nội) chỉ có Nguyễn Ngọc Xuân. Trong hình chụp sau phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời cũng không có Nguyễn Văn Xuân. Nói cách khác, Nguyễn Văn Xuân có thể đầy tưởng tượng như Ðảng Quốc Gia của Hồ Chí Minh, Văn Hóa Cứu Quốc của Võ Giáp, v.. v.. Về chỉ thị nổi dạy ngày 20/11/1940, báo cáo của quan lại Việt là một chứng cớ. Nên lưu ý đến thói quen sửa lại tài liệu của Ðảng CSÐD để biện minh cho các mục tiêu giai đoạn, như trong Brisons nos fer năm 1949, guồng máy tuyên truyền Việt Minh liệt kê Trần Trung Lập như một cán bộ.
4. The Tokyo War Crimes Trial: The Complete Transcripts of the Proceedings of the International Military Tribunal for the Far East; Annotated, compiled and edited by R. John Pritchard and Sonia Magbanua Zaide, 22 vols (New York: Garland, 1981), và Donald S. Detwiler, Charles B. Burdick (Eds), War in Asia and the Pacific, 1937-1949, 15 vols ( New York: Garland, 1980). Sẽ dẫn IMTFE và JM. Tài liệu văn khố chúng tôi sử dụng gồm tư liệu văn khố trung ương Pháp và Bộ Ngoại Giao tại Paris, Bộ Pháp quốc Hải ngoại tại Aix en-Provence, tư liệu văn khố Bộ binh và Hải quân Pháp tại Vincennes, tư liệu văn khố Mỹ, đặc biệt là Thư viện Lyndon B. Johnson, và Richard M. Nixon, văn khố Việt Nam tại Sài Gòn và Hà Nội, cùng tư liệu QTCS tại Nga do thân hữu gửi tặng. Theo qui luật của Văn khố Bộ binh Pháp, chúng tôi không thể nêu danh số các tư liệu, chỉ ghi 10H xxx. Những tựa báo chính chúng tôi tham khảo gần 30 năm trước gồm Cờ Giải Phóng, Cứu Quốc, Ðộc Lập, La République, L’ Entente, Dân Mới, Hải Phòng, Ngày Nay, Thanh Nghị, Bình Minh, Trẻ Em, Tin Mới, Lục Tỉnh Tân Văn, Dân Báo, Sài Gòn, Tin Ðiễn, Văn Lang, Tiếng Dân, Hưng Việt, Tiếng Súng Kháng Ðịch, L’Action, L’Opinion Impartial, L’Humanité, L’Indochine, v.. v.. Hầu hết lưu trữ tại Versailles đều đã chụp microfilm, hiện chuyển về Thư viện Quốc Gia, quận XIII (Paris).
5. Trong những tư liệu mới có Kho Kinh tế [Service économique] Ðông Dương, Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký (Houston: Văn Hoá, 1996), Vũ Ðình Hoè, Hồi ký Vũ Ðình Hoè (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004), tr. 176 [Dụ số 1 của Bảo Ðại; và phê bình của Luật sư Bùi Tường Chiểu]; Lê Văn Hiến, Nhật Ký một Bộ trưởng, 2 tập (Ðà Nẵng: 2004), và Văn Kiện Ðảng Toàn Tập, do Bà Trần Thị Nga gửi tặng. Ða tạ Giáo sư Hoè đã dành cho chúng tôi những cuộc phỏng vấn bổ ích trong niên khoá 2004-2005 tại Thủ Ðức (Q. 9, TP/HCM). [Xem Thư Mục Chọn Lọc]
6. SHAT [Vincennes], Indochine, 10H xxx; báo cáo của Pereyra trong CAOM (Aix), Indochine Noveaux Fonds [INF], c. 133, d. 1107; báo cáo của Sabattier trong Ibid., Papiers d’Agent [PA] 14, c. 1; IMTFE: Exhibits 661-63; Nghiên cứu Nhật [JM], Tập số 25, Detwiler và Burdick 1980: tập 6, tr. 16; L'Action, 18, 19 & 21/3/1945; Tin Mới, 11-19/3/1945; Jean Decoux, A la barre de l’Indochine(Paris: 1949), pp. 305-6; Nitz 1983. Xem thêm Claude de Boisanger, On pouvait éviter la guerre d'Indochine: Souvenirs 1941-1945(Paris: Maisonneuve, 1977), và Georges Gautier, 9 mars 1945. Hanoi au soleil de sang. La fin de l'Indochine francaise (Paris: Société de production littéraire, 1978). Nên lưu ý, tôi viết tên tác nhân Nhật và Việt theo trật tư văn phạm của hai quốc gia này, họ trước, tên sau, khác với Tây phương, tên trước, họ sau.
7. Nippon Times (Tokyo), 14 March 1945; CAOM (Aix), HCFI, Conseiller Politique [CP], Carton 125; Bao Dai, Le Dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980), tr. 101-5; Kurakami, “Japan's Thrust,” p. 517;
8. Phạm Khắc Hòe, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc (Hanoi: 1983, Huế: 1987), tr. 14-9; Idem, “Con Rồng An-Nam phun ra bản chất phản bội và tội ác tày trời của Bảo Ðại,” Tap Chi Cong San, vol. XXVII, No.11 (Nov 1982), pp. 59-61. Theo tư liệu Nhật, tác giả tuyên cáo này là Yokoyama; Nitz “Meigo Sakusen,” p 311-15. Ðiều này có lý vì các phóng viên chiến tranh Nhật gửi điện tín báo cáo vào ngày 11/3/1945. Nhưng theo Phạm Khắc Hoè, Quỳnh tự nhận đã thảo Tuyên ngôn này.
9. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 3 tập (Houston: Văn Hoá, 1999-2002)
10. Ngày Nay (Hà Nội), 5/5/1945; Thanh Nghị (Hà Nội), 5/5/1945; trích dẫn Dụ số 1 ngày 17/3/1945 của Bảo Ðại; và phê bình của Luật sư Bùi Tường Chiểu, trong Vũ Ðình Hoè, Hồi ký, 2004, tr. 176-77. Tác giả thực sự của hồi ký Bảo Ðại bằng Pháp ngữ có lẽ nhầm lẫn khi ghi Bảo Ðại thông báo cho Quỳnh biết quyết định của mình sáng ngày 19/3; Bao Dai, 1980:106. Triều đình cũ xin từ chức ngày 19/3/1945; Phạm Khắc Hoè, 1987:22; La Cloche Fêlée (Sài Gòn), 26/12/1925.
11. Phạm Khắc Hoè, 1987:20; Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, 1996:142; CAOM (Aix), SLOTFOM, III, c. 48; TTLTQG 3 (Hà Nội), Kho Quốc Hội [QH], Hồ sơ [HS] 5865; Ðào Duy Anh, Nhớ Nghĩ Chiều Hôm (Hà Nội: NXB Trẻ, 1989), tr. 44; Marr, Vietnamese Tradition On Trial, 1925-1940 (Berkeley: Univ of California Press, 1981), tr. 41, 270n50; Chính Ðạo, “Võ Nguyên Giáp (1912 [1911]-?): Nhìn Lại Lý Lịch Tự Khai;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 111, tháng 8-9/2010, tr. 111 [108-133]. Theo Ðào Duy Anh, các lãnh tụ TVCMÐ đã ngầm bàn bạc để ngụy tạo chứng từ trong tài liệu về Tân Việt của Louis Marty năm 1933. Ngày 1/1/1930, TVCMÐ đổi tên thành Ðông Dương Cộng Sản Liên Ðoàn [CSLÐ]. Trong Hồ Chí Minh, tập II, 1993, tr. 89, chúng tôi ghi theo an ninh Pháp là Lý Thụy gửi Hà Huy Tập (Năm Nhỏ), Tổng thư ký Ðảng CSÐD từ 1936 tới 1938, sang Nga. Văn khố Nga tiết lộ Tập cùng Trần Ngọc Dân [Ranh] tự động tiếp xúc lãnh sự quán Nga ở Dairen [Quảng Châu]; Anatoli Sokolov, Quốc Tế Cộng Sản và Việt Nam, bản dịch Việt ngữ Ðào Tuấn (Hà Nội:1999), tr: 275-77. Việc này, theo Tập, do quyết định của TVCMÐ, sau khi tách rời khỏi VNTNCMÐCH vào tháng 7/1928; Hà Huy Tập, “Một số tài liệu liên quan đến Tân Việt Cách Mệnh Ðảng” (báo cáo của ngày 4/10/1929, tại Mat-scơ-va); VKÐTT, I:1924-1930 (Hà Nội: 2002), tr. 439-40 [433-59]. Có lẽ vì kinh nghiệm 4 lần hợp nhất thất bại với Thanh Niên, Cinitchkin Tập ra mặt chống đối và phê bình Nguyễn Ái Quấc là “cải lương” và “quốc gia,” rồi năm 1934-1935 tiết lộ Cô Vải hay Fan Lan Nguyễn Thị Vịnh là vợ Quấc [Lin].)
12. Journal Officiel de la Federation Indochinoise [JOFI], 15/11/1945: 2-3; (SHAT [Vincennes], Indochine, 10 H xxx).
13. Charles de Gaulle, Memoires de guerre, 3 vols. (Paris: Plon, 1956-1959), vol 3, pp. 230-31; Alain de Boissieu, Pour combattre avec de Gaulle, 1940-1946 (Paris: Plon, 1981), pp. 308-11, 333-36; L’ Institut Charles de Gaulle, Le general de Gaulle et l'Indochine, 1940-1946 (Paris: Plon, 1982), pp. 174-80, 199-201; Vũ Ngự Chiêu, Lá bài bí mật của de Gaulle: Hoàng tử Vĩnh Sang (Houston: Văn Hóa, 1992); Idem., Vua Cuối Nhà Nguyễn 2002, tập III:ch. 12.
14. Tiểu Thuyết Thứ Bảy [TTTB] (Hà Nội), 5/5/1945.
15. CAOM (Aix), AP, hộp 3448. Hà Ðông do Pháp đặt ra năm 1888; hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đổi làm huyện Hoàn Long. tỉnh lị đặt tại Cầu Ðơ. Năm 1890, tách phủ Lí Nhân ra thành tỉnh Hà Nam. Năm 1909, tách châu Lục Thủy của Hoà Bình, đặt vào Hà Nam.Ðại Nam Nhất Thống Chí [ÐNNTC], q. XIII, “Hà Nội,” bản dịch Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, 5 tập (Thuận Hóa: 1997), 3:162n1. Hiện nay, lãnh thổ Hà Ðông chia vào Hà Nội và Hà Tây.
16. “Những điều kiện để xây dựng nền độc lập;” Thanh Nghị (Hà Nội), 5/5/1945; Vũ Ðình Hoè, Hồi ký, 2004, tr. 173-76.
17. Tân Á, số 53; Ðoàn Thêm, Hai Mươi Năm Qua, tr. 4.
18. Dân Mới, 6/6/1945; TTTB, 12/5-23/6/1945; France, DGER, BR, 10 Sept 1945, p. 12; CAOM (Aix), INF, c. 121, d. 1102; Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 2002-2004), I:58-63.
19. Về nguồn gốc tên Mặt trận Việt Minh, xem Hoàng Văn Hoan, “Một bước ngoặt lịch sư quan trọng;” trong Nguyễn Lương Bằng, et al. Ðầu Nguồn: Hồi ký về Bác Hồ (Hanoi: Van Hoc, 1977), tr. 97, 109-10; Nguyễn Lương Bằng, Ibid., 1977:34; VKÐTT, 6, 2000:484-506. Về Nguyễn Sanh Huy, xem “Biographie de Ho Chi Minh (1949);” CAOM (Aix), GGI, 19 PA, c. 4, d. 62; Trần Văn Giàu & Trần Bạch Ðằng, Vàng Trong Lửa (TP/HCM: Ban KHXH Thành Uy, 1990), tr. I-30. Các tác giả đã lầm lẫn cho Nguyễn Sinh Côn (mà họ ghi là Cung) vào trường Quốc Học trước khi xảy ra cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế (9-15/4/1908), Ibid. I-29. Côn được nhận vào trường Quốc Học Huế ngày 7/8/1908. CAOM (Aix), Annam, R-1 ; Hợp Lưu (Fountain Valley, CA, No. 109, Tháng 8-9/2005, tr. 193; Chính Ðạo, “Chuyến Cầu Viện Bí Mật 1950 của Hồ Chí Minh;” Ibid., No. 109, Tháng 3-4/2010, tr. [5-25]; Idem., Hồ Chí Minh, 3 tập (1993-1997) tập I; Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Change;” 1984, ch. 9; William Duiker, Ho Chi Minh (NY: 2000); “Notice... 2/1940;” CAOM [Aix], 7F 27.
20. Huỳnh Văn Tiểng, “Cổ vũ nhân dân và binh địch vận;” Huỳnh Văn Tiểng et al., Làm đẹp cuộc đời: Huỳnh Tấn Phát: con người và sự nghiệp (Hà Nội: XBCTQG, 1995), tr. 113-14 [111-14].
21. Commandant Supérieur des Forces Francaises en Extrême-Orient [FFEO], 2è Bureau, No. 2849/2, “Rapport sur les activités de la résistance francaise en Indochine, au profit de la cause Alliée; SHAT (Vincennes), 10H xxx [78, c. 1] (13 pages) [80] Patti 1980: 75-80; Spector 1983: 39-40; Hong Thuy & H. N., “L’Ancien Hué: Dès origines à 1945; Etudes vietnamiennes (Ha Noi): Huê, Passé et Présent,No. 37, 1973, pp. 57-8 [25-62]. Mission Militaire en Chine [MMC], BR No. 1055/50/R, ngày 1/2/1945; CAOM (Aix), AP 3448, d. 4.
22. Báo cáo ngày 22/8/1945, William J. Donovan gửi Byrnes; Bộ Quốc Phòng, US-Vietnam Relations, 1947-1967 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk I, C 58-9, 67; The Pentagon Papers (Gravel), vol. I, pp. 17, 20, 50, 51; Charles Fenn, Ho Chi Minh: A Biographical Introduction (New York: 1973), 71-5, 76-7, 78, 81; Robert Shaplen, The Lost Revolution (NY: Harper & Row, 1965), tr. 30; US Congress, Senate. Causes, Origins, and Lessons of the Vietnam War, Hearings before the Committee on Foreign Relations, 92nd Congress, 2nd Session, May 1972 (Washington: GPO, 1973), tr. 249; Archimedes L. A. Patti, Why Viet-Nam? Prelude to America's Albatros (Berkeley,Cal.: Univ of California Press, 1980), tr. 29-30, 31, 46, 50, 51; Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: 1993, II :356; Marr, Vietnam 1945, 1995: 209n189, 227-29, 241, 282-85, 288-91, 304n33, 476-79, 482-90, 498-501, 538-39; Lê Tùng Sơn, 1978:110-12 [Mỹ thả 2 đợt, gần 80,000 truyền đơn của Việt Minh xuống Hà Nội, Huế và Việt Bắc]; Ðàm Quang Trung [Ðàm Ngọc Lựu, 1921-1985], “Từng có một đội quân hỗn hợp Việt-Mỹ tiến vào Hà Nội;” Tuổi Trẻ (Saigon), vol. 11, no. 34-93 (514), 29/8/1993, tr. 5; Phùng Thế Tài, Bác Hồ những kỷ niệm không quên (Hà Nội: QÐND, 2002), tr. 57-63, 82-7; Lê Giản, “The Story of An Exile;” Vietnam Courrier, 1980:17-20;
23. Ðộc Lập (Hà Nội), 4/9/1945; Vũ Ðình Hoè, 2004:718, 795, 797-98. Ðầu năm 1946, Long bị Việt Cách giết; Lê Tùng Sơn, 1978:186; Sokolov, Quốc Tế Cộng Sản, 1999:269-70. Xem thêm “Báo cáo của LHP tại Ðại Hội VII QTCS (15/1/1935);” Lê Hồng Phong(Hà Nội: 2002), tr. 685 [685-697], & “Thư ngày 7/2/1932, Vera I. Vasilyeva gửi Litvinov [LHP];” LHP, 2002:742-43.
24. SHAT [Vincennes], Indochine, 10H xxx; CAOM (Aix), INF, hộp 133, hồ sơ 1120; GOUGAL, 7F 27 (báo cáo tháng 1/1940, và HCFI, CP, hộp 125, 161. Nhóm La Lutte (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường và Trần Văn Thạch (thực ra chỉ tả khuynh), cùng vài nhóm thợ thuyền “Trốt-kít” xuất hiện cuối năm 1939, đầu 1940, thời gian này đã bị Pháp dùng tòa án để bắt giữ, cô lập, hay tập trung cải tạo. Ðầu năm 1941, do sự tố cáo của các nhóm Stalinist, Pháp bắt giữ một nhóm Trốt-kít mới thuộc Việt Nam Nhơn Dân Cách mạng Ðảng, qui tụ nhiều trí thức miền nam như Võ Oanh, Phan Khắc Sửu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Nhã, Trần Văn Ân, Trần Quốc Bửu, v.. v.. Sau khi được phóng thích vào tháng 7/1941, một số tìm sự che chở của Nhật. Xem CAOM (Aix), 7F 27, và CP 161. Ða tạ Y sĩ/Giáo sư Trần Nguơn Phiêu đã tặng tác phẩm về Phan Văn Hùm, và hồi ký/ biên khảo của Ngô Văn về các nhóm Trốt kít. Theo Ngô Văn, ông ta từng gặp Trần Văn Giàu năm 1936 tại Khám Lớn Sài Gòn. Nhưng theo tài liệu Mật thám Pháp, Giàu bi kết án đầy Côn Ðảo từ năm 1935, và năm 1940, sau khi mãn hạn tù, bị đưa thẳng vào trại Tà Lài (Biên Hòa). Tháng 3/1941, Giàu cùng môt số cán bộ “trốn thoát” khỏi Tà Lài, tái tổ chức Xứ ủy Nam Kỳ.
25. CAOM (Aix), INF, hộp 133, hồ sơ 1210; AP, 366; GOUGAL, 7F 29 và 63, và HCFI, CP, hộp 125, 161.
26. CAOM (Aix), INF, hộp 133, hồ sơ 1199; Murakami, “Japan's Thrust,” p. 511. Cựu Cố vấn Tối cao Yokoyama tiết lộ Bảo Ðại được chọn vì “ông ta đang ở đó;” [he is there]; Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism, p. 295 n8.
27. CAOM (Aix), PA 14, hộp I; Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, (Houston: Văn Hoá, 1996), tr 243-49; Shiraishi 1982: 226-27.

Phần II

 II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945)

Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2011 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền. Ðể có thể hiểu rõ tình trạng phức tạp tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 3 tới tháng 8 năm 1945, ta cần khảo sát lai lịch các thành viên chính phủ Kim, các kế hoạch lớn và sự hiện thực chúng của chính phủ này—và đồng thời, tầm mức quan trọng của chúng ở thời điểm nghiên cứu.

A. Những Người Tài Ðức:

Trần Trọng Kim (1883-1953)
(chân dung trong Việt Nam Sử Lược)
Trần Trọng Kim sinh năm 1883 tại Hà Tĩnh (An Nam). (28) Sau một thời gian ngắn làm thông ngôn ở Ninh Bình (Bắc), năm 1905 Kim theo chủ qua Pháp làm việc cho một hãng tư. Ba năm sau, Kim được học bổng của Trường Thuộc Ðịa để theo học trường Sư Phạm Melun (Seine-et-Marne). Hồi hương vào tháng 9/1911, Kim khởi đầu nghề giáo tại An Nam và leo dần nấc thang công chức. Năm 1942, Kim đã là một thanh tra tiểu học miền Bắc.
Trái ngược với sự thăng tiến chậm chạp trong ngành Sư Phạm, Kim nổi danh toàn quốc như một học giả qua một số sách giáo khoa tiểu học bằng quốc ngữ và, đặc biệt, những biên khảo về Nho Giáo, Phật Giáo, và lịch sử phổ thông Việt Nam. Nhờ danh tiếng trong làng văn, Kim trở thành một nhân sĩ, trong các hội Phật Giáo và Khổng Giáo, và năm 1939, được bổ nhiệm làm Dân biểu miền Bắc. Sau khi Nhật ép Ðông Dương gia nhập Khối Thịnh Vượng Chung Ðại Ðông Á trong hai năm 1940-1941, vài ba học giả Nhật tiếp xúc với Kim. Những cuộc tiếp xúc này, cùng việc gia nhập một tổ chức “tiến bộ” ở Hà Nội, khiến Kim bị chính phủ Decoux nghi ngờ. Khi Decoux khởi đầu cuộc thanh trừng những người Việt thân Nhật trong mùa Thu 1943, Kim có tên danh sách sở Liêm Phóng (Mật Thám). Ngày 28/10/1943, để đề phòng bất trắc, người Nhật đưa Kim tới Sở Hiến Binh Hà Nội để bảo vệ an ninh. Tại đây, Kim gặp Dương Bá Trạc, một đồng tác giả cuốn tự điển đang hoàn tất. Theo Kim, Trạc thuyết phục Kim ký một thỉnh nguyện thư xin được qua Chiêu Nam Ðảo (Singapore) tị nạn. Ðầu tháng 11/1943, người Nhật đưa Kim vào Sài Gòn. Sau một thời gian ngắn tạm trú trong sở Hiến Binh, Kim và Trạc trở thành khách quí của Ðại Nam Công Ty [Dainan Koosi], một hãng buôn Nhật, mà chủ nhân là Matsushita Mitsuhiro [Tùng Hạ], nổi danh với những hoạt động tình báo từ thập niên 1930.
Ngày 1/1/1944, Kim và Trạc xuống tàu Nhật qua Chiêu Nam Ðảo. Sau hơn một năm sống tại đảo cảng này và sau khi Trạc chết vì ung thư phổi vào tháng 12/1944, Kim được đưa lên Bangkok. Ba tháng sau, ngày 30/3/1945, người Nhật đột ngột mời Kim về Sài Gòn tham khảo “lịch sử.” Người phụ trách hộ tống Kim cũng là viên Trung úy Kempeitai từng đưa Diệm rời Huế ngày 12/7/1944. Kim được yết kiến Tướng Kawamura (Saburo?), Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 38 Nhật, và Trung tá Hayashi Hidezumi, Trưởng phòng Chính trị vụ. Kawamura cho biết Kim có tên trong danh sách nhân sĩ được Bảo Ðại mời ra Huế tham khảo về việc thành lập chính phủ. (29)
Theo Kim, danh sách Nhật đưa ra có Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Hoành, Trịnh Bá Bích, Cao Xuân Cẩm và Hoàng Xuân Hãn. Kim nhận lời vì danh sách có Hãn, một bạn trẻ đồng hương, đồng nghiệp và đồng tác giả cuốn tự điển Khoa học. (Kim, 1969:42-3, 48)
Ngày 2/4/1945, Kim rời Sài Gòn, và tới Huế ba ngày sau. Ngày 7/4, Bảo Ðại tiếp kiến Kim và, trong sự ngạc nhiên của Kim, Bảo Ðại “có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.” Bảo Ðại cũng tiết lộ đã mời cả Diệm. (Kim 1969:49-50) Yokoyama còn chu đáo đón vợ con Kim vào Huế cho gia đình đoàn tụ. Bởi thế, Kim quyết định ở lại Huế lâu hơn, và cuối cùng ngày 16/4 đồng ý lập chính phủ. Hôm sau, Kim đệ trình Bảo Ðại một danh sách 10 Thượng thư (Bộ trưởng) mà theo ông là những người tài đức. (30)

Danh sách chính phủ Trần Trọng Kim (17/4/1945)
Trần Trọng Kim (1883), Trung; Sư phạm, Pháp. Giáo chức (Tổng lý);
Trần Văn Chương (1898), Nam, Pháp. Luật sư; (Ngoại Giao/Phó Tlý);
Trần Ðình Nam (1896), Trung, Hà Nội. Y sĩ; (Nội vụ)
Trịnh Ðình Thảo (1901), Bắc, Pháp. Luật sư. (Tư pháp);
Vũ Văn Hiền (1910), Bắc, Pháp. Luật sư, (Tài chính);
Hoàng Xuân Hãn (1908), Trung, Pháp. Giáo sư, (Giáo dục & Mỹ thuật);
Vũ Ngọc Ánh (1901), Bắc, Pháp. Y sĩ, (Y tế & Cứu tế);
Hồ Tá Khanh (1908), Trung, Pháp. Y sĩ, (Kinh tế);
Phan Anh (1912), Trung, Hà NộiLuật sư (Thanh Niên);
Nguyễn Hữu Thí (1899) Trung, Y sĩ Ðông Dương. Thương gia. (Tiếp tế);
Lưu Văn Lang (1880), Nam, Kỹ sư; (Giao thông-Công chánh) (không nhận) (L'Action, 19/4 & 2/5/1945).

Ngoại trừ Lưu Văn Lang, quốc tịch Pháp, từ chối chức Bộ trưởng, những người còn lại tới Huế trong tháng 4 và tháng 5/1945. Một tuần sau ngày lập chính phủ, Kim chọn Trần Văn Chương, Chánh thẩm Tòa Kháng án Hà Nội, làm Phó Thủ tướng. (31)
Kim cũng lập nên Phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Ngày 27/4/1945, Phan Kế Toại, một cựu học sinh Trường Thuộc Ðịa và đương kim Tổng đốc Thái Bình, được đưa lên chức vụ Khâm sai đại thần Bắc bộ mới tái lập này. (32) Trừ trường hợp Bộ trưởng bộ Nghi Lễ, Tôn Thất Toại, con Tôn Thất Hân, được cử lên hai tháng sau (33), nhóm “người mới” này gồm toàn những chuyên gia tân học—hai giáo viên trung học, bốn luật sư, và bốn y sĩ. Hầu hết đã là ký giả hay văn sĩ. Ða số—ngoại trừ Anh, Nam và Thí—đều tốt nghiệp ở Pháp; và, tất cả còn tương đối trẻ, từ 33 tới 49 tuổi, ngoại trừ Kim, năm ấy đã 62. Tất cả đều đã tiếp xúc với Nhật, cách này hay cách khác. Anh và Hãn còn được coi như tín cẩn của Tướng Mordant, đại biểu de Gaulle tại Ðông Dương. Tất cả đều thiếu kinh nghiệm chính trị, dù có đôi chút uy tín qua liên hệ huyết thống và giáo dục.
Ba người có khuynh hướng làm chính trị là Chương, Nam và Khanh. Vì liên hệ gia đình, Chương đã chuẩn bị bước vào phe hợp tác với Pháp trước ngày Nhật chiếm Ðông Dương, nhưng dần đần trở thành thân Nhật trong thập niên 1940. (34) Nam thuộc nhóm Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ở Huế—tàn dư phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh thập niên 1900 vàTân Việt Cách Mạng Ðảng trong thập niên 1920. (35) Khanh—con một chủ hãng nước mắm ở Phan Thiết mà theo truyền thuyết đã chăm sóc Phó bảng Trinh năm 1906 khi Trinh ghé tỉnh này, rồi cho Nguyễn Sinh Côn (Tất Thành) một chỗ dạy tại Dục Thanh “nghĩa thục” từ “tháng 1 tới tháng 9 hay 10” năm 1911 [sic] (36) —thường tự nhận là “vô chính phủ.” Trong thập niên 1920, khi đang du học Pháp, Khanh (số nhập cảnh Marseille 2124) có những hành vi nghiêng về Ðệ Tam QTCS. Tháng 3/1930, từng hai lần xuất hiện bên Nguyễn Khánh Toàn, một giảng viên Viện Thợ Thuyền Phương Ðông [KUTV], và đề nghị Công đoàn thủy thủ gốc Việt ở Hâvre và Marseille sửa đổi điều lệ để đón nhận các sinh viên thành một hội duy nhất, dưới sự che chở của Ðảng Cộng Sản Pháp, theo ý muốn của “Nguyễn Ái Quốc” (nhập cảnh số Marseille 2330) “đang ở Nga” [điều này không đúng. Côn đang ở Xiêm và Singapore]. (37) Về nước, Khanh thuộc nhóm báo Văn Lang, gồm một số thanh niên trí thức ở Sài Gòn như Nguyễn Văn Nhã, Kha Vạng Cân và Phạm Ngọc Thạch (một cán bộ Ðệ tam).38) Trong thời Nhật chiếm đóng, tình báo Pháp ghi nhận nhóm Văn Lang có liên hệ với tổ chức thân Nhật Việt Nam Tân Chính Ðảng, một điều sau này Khanh phủ nhận. (CAOM (Aix), PA 14, hộp 2; phỏng vấn Hồ Tá Khanh, Ðông 1982-1983) Tuy nhiên, liên hệ giữa Khanh với các nhóm thân Nhật là điều khó phủ nhận. Mùa Xuân 1943, Khanh tham dự ít nhất hai buổi họp của Phục Quốc tại Sài Gòn. (CAOM (Aix), CP, hộp 161). Sau khi Nhật thanh trừng Pháp, Khanh lập nên Hiệp Hội Công Chức và Kỹ Thuật, đòi hỏi thay thế ngay các viên chức Pháp bằng người Việt. Một trong những người ủng hộ Khanh là Ðỗ Dư Ánh, anh vợ Khanh. Khanh cũng được Trần Văn Giàu móc nối, khuyến khích nên tham gia chính phủ Kim “để có người mình tại đó.” (Phỏng vấn, Ðông 1982-1983)
Chính phủ Kim, tưởng cần ghi nhận, có đủ đại diện ba miền. Phó Thủ tướng Chương gốc miền Nam; hai Bộ trưởng Khanh và Thảo, sinh tại Trung và Bắc, nhưng sống tại Sài Gòn khi được mời tham gia chính phủ. (39) Khuynh hướng ý thức hệ của họ không đồng nhất, phân trải từ danh lợi cá nhân của Chương tới vô chính phủ của Khanh. Nhưng ai nấy đều muốn lãnh đạo.
Tại miền nam, các giáo phái và phe nhóm chính trị—từ đệ tam tới đệ tứ CS, quân phiệt tới giáo phiệt—đều xuất hiện trên sân khấu hội trường và đường phố. Hoạt động mạnh nhất là nhóm Phục Quốc. (CAOM (aix), GOUGAL, 7F 29 (1) Hội đoàn lan mọc như nấm. Năm ba, vài chục người cũng có thể lập nên một đảng hay mặt trận. Bảng hiệu quốc cấm “hội kín,” “cách mạng,” hay “làm chính trị” trở thành một thứ thời trang. Trong khi đó, Xứ ủy CSÐD chia hai. Giàu, Bùi Công Trừng, Hoành, Lý Chính Thắng các công đoàn, hiệp hội nông dân, Thanh Niên Tiền Phong, và các nhóm thân Nhật xung danh Ðông Dương Cộng Sản Ðảng, cờ vàng sao đỏ, có báo Tiền Phong. Từ tháng 4-5/1945, nhóm Phạm Văn Vi [Di], (mới ở Bà Rá trốn về), Nguyễn Thị Thập lập nên một xứ ủy CSÐD và mặt trận Việt Minh với kỳ hiệu Cờ Ðỏ Sao Vàng, có báo Giải Phóng chống lại Giàu. (40)

B. Các Kế Hoạch Của Trần Trọng Kim
Tài liệu chính thức của Cộng sản Việt Nam và các học giả thường hạ thấp giá trị những kế hoạch của chính phủ Kim như “cải cách giấy,” hay độ lượng hơn, chỉ thuần là những tuyên cáo về ý định của chính phủ. Từ thời điểm này của lịch sử nhìn lại, trong bốn [4] tháng cầm quyền, chính phủ Kim chỉ có thì giờ ban hành hết dụ này qua sắc luật khác, và những cuộc cải cách ấy có rất ít ảnh hưởng đến đám đông. Tuy nhiên, các kế hoạch của Kim xứng đáng được nghiên cứu đầy đủ hơn những nhận định sơ sài trên. Các kế hoạch của chính phủ Kim phản ảnh quan điểm tổng quát của giới thượng lưu và trí thức Việt về một nước Việt Nam không-ảnh-hưởng Pháp, ở cao điểm của chủ thuyết Ðại Á và tinh thần quốc gia Việt Nam. Hơn nữa, trái ngược với niềm tin phổ quát, Kim và các cộng sự viên phần nào thực hiện những chương trình trên. Bởi thế các kế hoạch của Kim xứng đáng được nghiên cứu vào sâu chi tiết, và trên vị thế lịch sử của chúng.

1. Vấn Ðề Hiến Chương:
Kim và các Bộ trưởng dành khá nhiều thì giờ cho vấn đề Hiến Chương khi hội đồng chính phủ họp lần đầu tiên ngày 4/5/1945. Một trong những quyết định là đổi quốc hiệu thành Việt Nam. Vào thời điểm này, đây là một vấn đề quan trọng và, khẩn cấp. Nó hàm ý sự thống nhất lãnh thổ; “Việt Nam” là quốc hiệu do Jaqing [Gia Khánh] nhà Thanh đặt ra từ năm 1804, sau khi Gia Long (1802-1820) thống nhất ba miền vào năm 1802 và xin cầu phong. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên lãnh đạo ba miền đồng ý chọn quốc hiệu này. Trong tháng 3/1945, chẳng hạn, giới lãnh đạo miền Bắc chỉ sử dụng “Ðại Việt,” trong khi ở miền Nam sính dụng tiếng “Việt Nam,” và tại miền Trung thì “An Nam” hay “Ðại Nam.” Tưởng nên ghi nhớ là từ năm 1925, Nguyễn Sinh Côn mới được Việt-Nam-hóa, đặt tên cho hội Thanh Niên của mình là Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội. Trước đó, trong thỉnh nguyện thư 8 điều năm 1919, và tên gọi của đảng chính trị đầu tiên do Côn đặt ra, An Nam Quốc Dân Hội, chỉ dùng tên An Nam. Năm 1930, Côn bị thất sủng với Ban Phương Ðông QTCS vì tự động thống nhất các chi phái Thanh Niên thành Việt Nam Cộng Sản Ðảng! Mat-scơ-va phải gửi Trần Phú về triệu tập Hội nghị Trung Ương thứ nhất ở Ma Cao để cải danh thành Ðông Dương Cộng Sản Ðảng.
Kim cũng cải danh ba miền trong nước—miền Bắc (tức Bắc Kỳ) trở thành Bắc Bộ, miền Trung (Trung Kỳ hay An Nam) thành Trung Bộ, và miền Nam (Nam Kỳ) thành Nam Bộ—dù lúc này Kim mới chỉ có thẩm quyền tại miền Trung và Bắc. Thuận Hoá, tên cũ của Huế, được dùng lại. Các cộng sự viên của Kim cũng thay từ Annamite, dùng để chỉ người Việt và đặc tính người Việt trong văn chương và giấy tờ, công văn thời Pháp, bằng Vietnamien. Những từ mới này, ngoại trừ tên Thuận Hoá, từ đó được cả thế giới công nhận. Nếu lưu ý đến việc người Pháp đã cố tình phân biệt ba xứ “Tonkin,” “Annam” “Cochinchine”—với hàm ý là thiếu nền văn hóa và chính trị quốc dân—những việc làm đầu tiên của Kim không chỉ có tính cách biểu trưng mà là hậu quả đương nhiên của nhiều thập niên dài khủng hoảng của giới trí thức và cách mạng.
Ngày 2/6/1945, Kim còn chọn quốc kỳ mới—nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ ly [một gạch đứt quãng nằm giữa hai gạch liền] trong Zhou I hay I Ching [Kinh Dịch]—và tạm lấy bài Ðăng Ðàn Cung làm quốc thiều. (L'Action, 30/6/1945). Quyết định của Kim chấm dứt cuộc tranh luận kéo dài 3 tháng về vấn đề cờ. (L’Action (Hanoi), 7/5 & 30/6/1945; Kim, 1969:60-1)

2. Ðoàn Kết:
Mặc dù đoàn kết quốc gia là một hiện tượng ngoại lệ hơn thông thường của một xã hội, người Việt thường lên án Pháp cố tình chia rẽ đất nước và dân chúng để dễ cai trị—một lời cáo buộc hợp lý. Nước Việt Nam mới, độc lập, như thế cần chất xi-măng “đoàn kết quốc gia,” trên cả hai lãnh vực “tinh thần và chính trị” (L'Action, 21/7/1945), để nối kết các đảng phái và giai tầng xã hội. Cay đắng là sự kêu gọi đoàn kết mang lại nhiều nguy hại hơn lợi ích cho chính phủ Kim.
Thời gian này, xã hội Việt Nam đang ở vào tình trạng tiền-cách-mạng. Việc loại bỏ người Pháp khỏi đỉnh tháp xã hội—sau một thời gian dài, từ 1940 tới 1945, mà uy tín và quyền lực người Pháp bị suy giảm—tạo nên khuynh hướng vượt tiến của giới thượng lưu và trí thức Việt. Chiến tranh và nạn đói khiến tình trạng hỗn loạn ngày một gia tăng và tạo nên sự sụp đổ thế quân bình biểu kiến mà người Pháp khôn khéo duy trì được nhờ sức mạnh quân sự và hành chính. Bởi thế, Việt Nam cần nhiều hơn những chuyên viên để chuyển hướng những lực cách mạng đó. Ðất nước cần sự lãnh đạo nhiệt thành, thuyết lý chính trị tốt và sức mạnh quân sự cũng như hành chính mà chính phủ Kim không có.
Sự thiếu lãnh đạo là điều quá hiển lộ. Bảo Ðại đã được huấn luyện thành một ông vua ở ngôi mà không cai trị, không thể lôi cuốn sự ủng hộ của đám đông. Kim là một nhà giáo dục được quí trọng, từng huấn luyện nhiều trí thức Việt cũng như có ảnh hưởng đạo đức với nhiều thị dân, nhưng không thích nghi với tình trạng chính trị lúc đó. Thực ra, như trong một tai nạn, Kim chỉ bị đẩy vào sinh hoạt chính trị từ cuối năm 1943; trước đó Kim đứng ngoài chính trị. Ông đã được giao chức Thủ Tướng vì là một người được nể trọng, nhưng không có đảng phái hay người ủng hộ. Trong số những người dưới quyền Kim, có những người trẻ tài năng như Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh và Vũ Ngọc Ánh; tuy nhiên, họ chỉ là các chuyên gia hơn những nhà chính trị hay tổ chức; chính sách của Pháp đã ngăn chặn không cho những cá nhân này thu thập được kinh nghiệm hành chính.
Lớn khôn lên trong quĩ đạo văn hóa Pháp, và đã thu học kiến thức chính trị từ những tác phẩm đặc thù Pháp cùng những ý niệm bình dân về các anh hùng kháng Pháp, Kim và cộng sự viên không đủ khả năng sơ thảo một lý thuyết thực dụng. Mặc dù họ thấy chủ nghĩa Mác-Lênin quá thiên tả, và độc tài, tàn nhẫn, quan điểm chính trị của họ chỉ là sản phẩm của kinh nghiệm riêng giai tầng xã hội họ, chẳng đủ để cai trị một xã hội hỗn loạn. Họ quan niệm một mẫu quốc dân lý tưởng là người tổng hợp đầu óc “khoa học” với đức hạnh “cổ truyền”—một thí dụ của cuộc tổng hợp văn hóa Ðông-Tây. (L'Action, 4/7/1945). Thật bất hạnh là sự tổng hợp văn hóa ấy chỉ đơn thuần là ước muốn, quá mơ hồ trong tình huống lúc đó. Ðồng thời, và vượt trên khả năng họ, Nhật đã quyết định trước loại học thuyết chính trị nào mà “Tân” Ðế quốc Việt Nam phải theo—tức “hỗ tương” hay độc lập “vệ tinh.”
Cả người Nhật lẫn Kim đều không muốn thấy sự thay đổi quá nhanh trong guồng máy hành chính, nên cơ cấu thư lại do Pháp dựng lên được duy trì gần như trọn vẹn. Tuy nhiên, trong những ngày đầu sau cuộc thanh trừng của Nhật, một tình trạng hoang mang hiện hữu. Vài quan lại và công chức bỏ nhiệm sở, tị nạn tại các thị trấn hay thành phố lớn. (L'Action, 27/6/1945).Trong hoàn cảnh này, cần nhiều tháng mới có thể trở lại bình thường. Nhưng thời gian không ở về phía Kim. 4 tháng sau ngày ông ta lên cầm quyền, Nhật sụp đổ, mang theo chính phủ Kim.
Trong những khu vực mà Kim có thể kiểm soát—tức các thành phố và thị trấn tại miền Bắc và miền Trung cùng các trục lộ nối liền chúng với nhau—Kim thực hiện được một số cải cách nhỏ. Vài quan viên bị mang tiếng bị cách chức, và vài người bị truy tố. (L'Action, 2/5/1945; Chữ 1996:264-65). Cuộc thanh lọc này không thỏa mãn những người quá khích, vì họ đòi hỏi phải đổi thay toàn bộ và nhanh chóng trên mọi lãnh vực.
Tuy nhiên, cho dù Kim muốn thực hiện điều này, cũng không đủ nhân sự có khả năng. Như thế, chính cái lý do khiến Kim được giao chức Thủ Tướng—một người không đảng phái—đã tạo khó khăn cho ông ta.
Kim chỉ còn biết hy vọng cải thiện hệ thống quan lại hiện hữu bằng cách kêu gọi tinh thần đạo đức và yêu nước trong giới này. Ông tổ chức quan lại thành Công chức Tổng Hội, hy vọng biến họ thành một sức mạnh chính trị. (L'Action, 25/5/1945).Thoạt tiên, giới công chức nhiệt thành đáp ứng. Nhưng niềm khích động vì mới thu hồi độc lập không đủ cải thiện thực trạng kinh tế. Trong khi đó phe Ðồng Minh, cán bộ của De Gaulle và đặc biệt là Mặt Trận Việt Minh do OSS bảo trợ tiếp tục thách đố tính cách hợp pháp và uy quyền của chính phủ. (Marr, 1995:145-48) Sự tổng hợp các yếu tố trên khiến nhiệt tình giới công chức suy giảm dần. Họ hững hờ đến độ vào tháng 7/1945, Bộ trưởng Thanh Niên Phan Anh công khai chỉ trích thái độ bình chân như vại, và quyết định tập hợp các công chức trẻ thành một nhóm “thanh niên công chức.” (Tinh Tiến, 7/8/1945).
Sức mạnh quân sự–một yếu tố có thể giúp Kim ngăn chặn được sự thách thức của các phe nhóm khác thì hoàn toàn vượt ngoài sự kiểm soát của Kim. Chính phủ Kim không có Bộ trưởng Quốc Phòng. Một số lính khố đỏ, thời Pháp thuộc được tổ chức thành Việt Nam Nghĩa Dõng Quân, nhưng trực thuộc người Nhật. Cảnh sát được tái tổ chức, và cũng do người Nhật chỉ huy. Phải tới tháng 6, tháng 7, khi người Nhật đồng ý trên nguyên tắc trả lại Nam Bộ cho chính phủ Kim, Kim mới được quyền tổ chức một lực lượng Bảo An [khố xanh], nhưng lúc này tình thế đã bất khả phục hồi. (IMTFE, Exhibit 663; Hải Phòng,16/7/1945; L'Action, 3 & 9/8/1945). Như thế, quân đội Nhật là sức mạnh quân sự duy nhất của Kim. Chính phủ Kim chỉ có thể hiện hữu khi quân Nhật còn hiện diện ở Việt Nam.
Tất cả những yếu tố trên hợp lại khiến chính sách đoàn kết quốc gia của Kim chỉ là con cọp không móng. Kim và các cộng sự viên không đủ phương tiện mang lại sự đoàn kết quốc gia hữu hiệu. Ðã hẳn, để yểm trợ chính phủ Kim, Nhật bảo trợ việc thành lập Tân Việt Nam Hội—qui tụ nhiều nhân vật trí thức tên tuổi, được dự trù là chính đảng duy nhất của Việt Nam. Linh hồn của tổ chức này, theo tư liệu Pháp, là Luật sư Vũ Văn Hiền. Sau ngày được cử vào nội các, Hiền triệu tập một buổi họp nhóm Thanh Nghị và yêu cầu yểm trợ chính phủ với điều kiện “độc lập thực sự,” “dân chủ thực sự.” (Vũ Ðình Hoè, 2004:166-67) Vũ Ðình Hoè và mọi người đồng ý vận động cho Tân Việt Nam Hội. Ngày 5/5/1945, báo Thanh Nghị tái bản sau hai tháng đóng cửa. Ngay trong số báo này công bố thành lập Tân Việt Nam Hội, trụ sở 24 phố Hàng Da, Hà Nội. 19 trong số UVTƯ Lâm thời thuộc nhóm Thanh Nghị. (Vũ Ðình Hoè, 2004:168-72) Ðồng thời báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới của Nguyễn Tường Bách, Tiểu Thuyết Thứ Bảy của Phùng Bảo Thạch, (Hoè, 2004:169n2) và Hải Phòng Nhật Báo của Nguyễn Thế Nghiệp cũng tái bản và có đại diện tham gia Tân Việt Nam Hội. (Vũ Ðình Hoè, 2004:192n2)
Ngày 16/5, Tân Việt Nam Hội chính thức ra mắt. Trần Trọng Kim tuyên bố Tân Việt Nam sẽ là đảng chính trị duy nhất của nước Việt Nam, và đã cho lệnh thành lập tại mỗi tỉnh một chi bộ để đoàn kết dân tộc và củng cố nền độc lập của Tổ quốc. Nhiều trí thức ba miền đều tham gia. Ngày 2/6, chi bộ thứ nhất là chi bộ Thuận Hóa được thành lập, với Tôn Quang Phiệt làm Tổng thư ký. Phiệt hùng dũng tuyên bố “Phục hưng tổ quốc, Ủng hộ chính phủ.”(41) (L'Action, 9/6/1945; Tin Mới, 9/6/1945; Sài Gòn, 12/6/1945).
Tuy nhiên vừa tròn một tháng sau ngày thành lập, Tân Việt Nam bắt đầu bị phân hoá. Dương Ðức Hiền thuyết phục Vũ Ðình Hoè gia nhập Dân Chủ Ðảng do Việt Minh bảo trợ. Ngày 6/7/1945, Hoè vào Huế gặp Phan Anh và Vũ Văn Hiền để chuyển chỉ thị VM cho Anh và Hiền từ chức. (Vũ Ðình Hoè, 2004:188-89). Anh và Hiền hẹn sẽ ra Hà Nội hôm sau. Hoè được gặp Tôn Quang Phiệt và Phạm Khắc Hoè, nói rõ mục đích chuyến đi của mình. Ít ngày sau, Vũ Ðình Hoè cùng Nghiêm Xuân Yêm, Ðỗ Dức Dục gặp Anh và Hiền ở Hà Nội. Vũ Văn Hiền cương quyết không đồng ý. (Vũ Ðình Hoè, 2004:189-92) Ngày 22/7/1945, Tân Việt Nam Hội tuyên bố tự giải tán. (Tin Mới, 30/7/1945; Hải Phòng, 31/7/1945; L’Opinion-Impartial, 1/8/1945). Cuối tháng 7/1945, Hoè bí mật đi chiến khu, nhưng chỉ gặp Phạm Văn Ðồng. Ðồng hứa sẽ thêm tên Hoè vào chính phủ lâm thời.(Vũ Ðình Hoè, 2004:198-206) Ngày 11/8/1945, Thanh Nghị đình bản. (Vũ Ðình Hoè, 2004:206)
Dĩ nhiên, không phải tất cả những nhóm thân Nhật đều đứng sau lưng Kim. Thù nghịch nhất có nhóm Ki-tô giáo ở Thuận Hóa, do Khôi và Diệm cầm đầu. (42) Phe Diệm giải truyền đơn và phao tin đồn Cường Ðể và Diệm sẽ nắm quyền khi Nhật chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam. (Kim 1969:64-5). Cuộc chiến tranh tin đồn và bôi bác này khó thể kiểm soát hay phản ứng vì con cả Khôi được Cố Vấn Yokoyama dùng làm bí thư.
Thông điệp đề ngày 11/1/1945 của Cường Ðể được đăng trên ruần báo Nước Nam ở Hà Nội ngày 28/4 đến 12/5/1945 (số 264, 266-268). Ðại diện VN tham dự Hội Thảo Ðại Ðông Á tại Kudan (Nhật) vào tháng 5/1945, do Nha Phát Triển Á Châu của Hội Trợ Giúp Hoàng triều của Tướng Matsui bảo trợ.
Ngày 21/5, Kỹ sư Vũ Văn An, người ủng hộ Cường Ðể, từ Tokyo trở lai Sài Gòn. Tuyên bố sẽ có thay đổi lớn trong tương lai gần. (Hải Phòng, 1/6/1945). Ít ngày sau, báo Thông Tin ở Hà Nội đăng hình năm [5] thành viên Ủy Ban Kiến Quốc (Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Ðình Dy và Lê Toàn). (Thông Tin, 10/6/1945) Ngày 28/5, Trần Văn Ân, lãnh tụ Phục Quốc miền Nam, rời Singapore về Sài Gòn. Ngày 20/7/1945, Matsui tuyên bố Cường Ðể sẽ về nước giúp Bảo Ðại, coi Cơ Mật Viện. Ngày 25/7/1945, Cường Ðể cảm tạ những người bạn Nhật. Hứa là khi về nước sẽ hợp tác trung thành với Nhật. Ngày 30/7/1945, làm tiệc chia tay. (Nippon Times, 30/7/1945). Tuy nhiên, không có phi cơ, và rồi Nhật đầu hàng.
Ðáng sợ hơn cả là Việt Minh. Vào mùa Hè 1945, cơ quan OSS đã hết sức ủng hộ Việt Minh. Một toán OSS do Thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy, nhảy dù xuống mật khu tại Tuyên Quang, Bắc Bộ; đoàn OSS này giúp huấn luyện 100 du kích Việt Minh và trang bị cho họ các vũ khí hiện đại. Nhân viên OSS, và đặc biệt là những tin tức về tình hình chính trị mà họ cung cấp chẳng những gia tăng thế lực và uy tín của Việt Minh mà còn giúp Hồ kịp thời khai thác sự đầu hàng của Nhật. Thomas thủ diễn vai đặc sứ của Hồ, gửi ra ngoài tất cả những tin tức về Việt Minh, nhất là mục đích đòi độc lập, tự do trong vòng từ 5 tới 15 năm. (Vũ Ngự Chiêu, 1984: chương 9; US Congress, Senate. Causes, Origins, and Lessons of the Vietnam War. Hearings before the Committee on Foreign Relations, 92nd Congress, 2nd Session, May 1972 (Washington: GPO, 1973), tr. 243, 249, 266-67, 270-80; Fenn, 1973:80-2, Shaplen, 1965:18-29; Patti 1980:129; Marr, 1995:284).
Kế hoạch đoàn kết quốc gia của Kim còn mở rộng cửa nhiều văn phòng chính phủ cho cán bộ Cộng sản nằm vùng hay cảm tình viên của Việt Minh. Nguyễn Mạnh Hà, người sẽ trở thành Bộ trưởng Kinh Tế đầu tiên của Hồ Chí Minh, từng là trưởng phòng Kinh Tế Hải Phòng và sau đó là Trưởng Nha Kinh Tế Bắc Bộ. (L'Action, 9/6/1945; CAOM (Aix), 7F 29-1). Vũ Trọng Khánh, đốc lý Hải Phòng, bàn giao cho Ðệ Tứ Quân Khu Việt Minh, về Hà Nội gặp Võ Giáp để nhận chức Bộ trưởng Tư Pháp, rồi gán ghép cho đảng viên Ðại Việt những tội thường phạm như trộm cắp, hiếp dâm. Hoàng Minh Giám, Ngoại Trưởng tương lai, huấn luyện tại chỗ với chức Trưởng ban Liên Lạc Nhật-Việt Bắc Bộ. (Tin Mới, 3/8/1945).
Tôn Quang Phiệt, chủ tịch tương lai của Ủy ban Khởi nghĩa thành phố Nguyễn Tri Phương (Huế), là cố vấn của Hội Ðồng Thanh Niên Quốc Gia, Tổng Thư ký Tân Việt Nam, và đồng thời trở thành cố vấn của nhiều viên chức cao cấp, kể cả Tổng lý Ngự tiền của Bảo Ðại, và Bộ trưởng Kinh Tế Hồ Tá Khanh (Études Vietnamienes 1973: 58 & 60; Phạm Khắc Hoè 1982: 60-3; phỏng vấn Hồ Tá Khanh, Ðông 1982-1983). Tại Nam Bộ Phạm Ngọc Thạch tiếp tục dấu kỹ đảng tịch Cộng Sản, liên hệ với Nhật để cầm đầu Thanh Niên Tiền Phong. (43) Phạm Văn Bạch, chủ tịch tương lai của Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, đi xin ý kiến của “tổ chức” (Ðảng CSÐD) trước khi nhận chức Chánh án Bến Tre (Bạch 1982).
Sự xâm nhập của các cán bộ CS nằm vùng và cảm tình viên của Việt Minh này, cùng với thủ thuật chiến tranh tâm lý, là những yếu tố quan trọng đưa đến sự sụp đổ đột ngột của chính phủ Kim trong hạ tuần tháng 8/1945.
Tệ hại hơn, nền kinh tế và ngân quĩ đều trống rỗng. Kiểm soát Ngân Hàng Ðông Dương, Nhật tự do phát hành giấy bạc theo nhu cầu. Từ tháng 3 tới tháng 8/1945, người Nhật lấy ra 787 triệu yen (khoảng 800 triệu đồng) nhiều hơn tổng số tiền mà Pháp đã giao cho Nhật để trả quân phí từ 1940 tới 1945 (720 triệu đồng) hay hơn 1/3 tổng số tiền lưu hành. (CAOM (Aix), SE, hộp 182 và 289; Decoux 1949:446 n1; JOFI, 22/11/1945:14-5). Trong khi đó, giá sinh hoạt các thành phố tăng ngoài sức chịu đựng của mọi người. Vào tháng 5/1945, người ta phải trả 800 đồng 1 tạ gạo, 20 đồng 1 ký mỡ, hay 1 đồng 1 quả trứng, đắt gấp 40 lần năm 1942 (Thông Tin, 10/6/1945; CAOM (Aix), RST 70-77)( 44) Nạn đói tiếp tục hoành hành ở Bắc và Bắc Trung Bộ. Tại nhiều nơi, trật tự xã hội bị đổ vỡ, và tình trạng an ninh suy giảm tại hầu hết các thành phố. Nhiều làng trống không. Trộm cướp—dù chuyên nghiệp hay do cách mạng lãnh đạo—gia tăng hoạt động. Tình trạng hỗn loạn lan tràn từ nông thôn về các thị trấn và thành phố. Kế hoạch “đoàn kết quốc gia” của Kim thiếu hấp dẫn hơn tư lợi và tinh thần cầu an.
3. Chống Ðói:
Mặc dù phạm vi hoạt động rất hạn hẹp, chính phủ Kim dồn nhiều nỗ lực chống lại nạn đói. Một mặt, Kim yêu cầu và được Nhật cho phép bỏ lệ bắt buộc bán thóc ở Trung bộ, và tại Bắc bộ, miễn cho bất cứ ai sở hữu dưới ba mẫu ruộng (L'Action,19/5/1945; Hải Phòng, 16/7/1945). Bộ trưởng Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí vào Sài Gòn dàn xếp việc chuyên chở gạo từ Nam ra Trung và Bắc. Ðể tránh bị phi cơ Mỹ oanh tạc, các hải cảng xa Sài Gòn được dùng làm điểm khởi hành cho các đoàn thuyền buồm. Tư nhân được phép tự do chuyên chở và mua bán gạo. Tuy nhiên, để ngăn chặn các tệ nạn, Kim ra lệnh kiểm soát gắt gao giá cả và việc tồn kho lúa gạo. Người vi phạm có thể bị tử hình hay tịch biên tài sản (Tin Mới, 17/7/1945). Tại Bắc bộ, Kim thành lập Ty Liêm Phóng Kinh Tế, giao cho Nguyễn Duy Quế điều khiển, để ngăn chặn việc buôn lậu (Tin Mới, 10/7 và 3/8/1945). Một số chủ cửa hàng gạo bị bắt giữ hoặc phạt nặng. Mặt khác, Kim tập trung những người sống sót sau nạn đói cùng những người vô gia cư vào các trại đặc biệt. Một chiến dịch báo chí giúp rộ nở phong trào thành lập nạn cứu đói trên toàn quốc. Vào cuối tháng 3, tất cả các hội cứu tế miền Bắc tập hợp lại thành Tổng Hội Cứu Tế Nạn Ðói do Nguyễn Văn Tố cầm đầu, và đẩy mạnh hơn các nỗ lực lạc quyên cũng như chẩn tế. Từ tháng 3 tới tháng 5/1945, tổ chức của Tố quyên được 783,403 đồng (L'Action, 21/3, 27/4 và 30/5/1945). Tại Nam bộ, chỉ nội tháng 5 hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng một tháng các tổ chức trên quyên được 1,677,886 đồng, kể cả 481,570 đồng để mua và chuyên chở 1,592 tạ gạo cho nạn nhân vụ đói (L'Action, 24/5 và 22/6/1945; Hải Phòng, 23/6/1945). Vì tất cả thuyền buồm trên 30 tấn đều bị Nhật trưng dụng, và hải cảng Hải Phòng bị Mỹ đặt mìn phong tỏa, việc chở gạo từ Nam ra Bắc bị chậm trễ. Dẫu vậy, các chương trình chống đói của Kim chẳng những giảm thiểu sự khổ sở của dân chúng mà còn tạo cơ hội cho đám đông, đặc biệt là giới trẻ, tham gia các sinh hoạt xã hội.
Những nỗ lực của Kim không hoàn toàn tiến triển tốt đẹp: Ngoài việc bị Việt Minh cản trở (như xúi dục dân chúng đánh phá các vựa lúa công cộng, hay lăng nhục các viên chức trách nhiệm và người cầm đầu các hội chẩn tế), tin tức tình báo do Việt Minh cung cấp khiến các phi vụ oanh tạc của Mỹ phá hoại thêm nữa các trục giao thông (CAOM [Aix], SE, hộp 578). Sự giao thông khó khăn đến độ Kim phải dùng xe đạp để chuyển công văn (Tin Mới, 15/6/1945). Ngày 23/7, một Bộ trưởng của Kim là Vũ Ngọc Ánh [Anh?] tử thương trong một cuộc oanh kích ở Bắc bộ. Dẫu vậy, nhờ trúng mùa Chiêm vào tháng 5 và 6/1945, và nhờ nhu cầu tiêu thụ giảm hẳn xuống sau khi hơn 1 triệu người chết đói, cuộc khủng hoảng thực phẩm giảm dần. Qua tháng 6/1945, nạn đói hầu như đã qua. Tại Hà Nội và các tỉnh, giá gạo giảm từ 850 đồng một tạ (100 kg) xuống khoảng 300 đồng (Thông Tin, 10/6/1945). Tại vài tỉnh, vấn nạn trở thành thiếu hụt số người gặt lúa (Dân Mới, 6/6/1945). Khi những tàu chở gạo từ Nam cặp bến miền Bắc, nạn đói cuối cùng cũng qua.
4. Cải Cách Thuế:
Giống như đối thủ là Cộng Sản, chính phủ Kim muốn giải quyết vấn đề thuế, đặc biệt là thuế thân, một loại thuế gây nhiều ta thán. Dưới thời Pháp, có 13 loại thuế, từ 750 đồng một năm (hạng 1) tới 3 đồng rưỡi (hạng thứ 13). Ngoài ra, mỗi xuất đinh phải trả thêm khoảng 60% số tiền trên như thuế chính phủ xứ (kỳ), và từ 45% tới 60% cho ngân quĩ tỉnh; điều này có nghĩa khoảng 2,300,000 xuất đinh thuộc hạng 13 phải trả tổng cộng 7.70 đồng thuế thân hàng năm. Kim thuyết phục được người Nhật giảm thuế đáng kể cho hạng thứ 13 này. Ngoài ra, họ còn được chia thành 2 hạng thuế khác nhau. Khoảng 1.8 triệu người qui định thuộc hạng 13 mới chỉ phải trả tổng số 3 đồng mỗi năm, và 500,000 người còn lại chỉ phải trả 1 đồng. Tất cả những khoản phụ thu cho xứ và tỉnh được miễn. Thực tế, việc cải cách thuế chỉ thực hiện tại miền Bắc. Tại Trung bộ, Kim miễn thuế thân cho tất cả các bạch đinh hoặc những người có lợi tức thấp. Riêng tại Nam Bộ, Nhật tiếp tục áp dụng luật thuế năm 1944 của Pháp. (Nước Nam, 3/3/1945; L'Action, 19 và 30/5/1945).
5. Cải Cách Giáo Dục:
Chính phủ Kim đặt nặng vấn đề cải cách giáo dục, với trọng tâm là việc phát triển giáo dục kỹ thuật và sử dụng chữ Việt mới (quốc ngữ) làm ngôn ngữ giảng dạy (Tinh Tiến, 5/7/1945; L'Action, 4 và 13/7/1945). Lên cầm quyền chưa đầy hai tháng, Kim tổ chức khoá thi tiểu học đầu tiên bằng chữ Việt mới và dự định dùng Việt ngữ trong các kỳ thi cao hơn (Tin Mới,13,14,23, 25/6, và 18/7/1945). Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn cũng hết sức làm việc để Việt-nam-hoá nền giáo dục trung học công cộng. Những kế hoạch này hẳn cần một thời gian dài hơn 4 tháng mới thấy rõ kết quả; nhưng chúng đủ mở đường cho Bộ trưởng Giáo Dục Vũ Ðình Hoè của Việt Minh phát động chiến dịch bình dân giáo dục trong tương lai gần. Vào tháng 7/1945, khi Nhật quyết định trao trả độc lập và thống nhất lãnh thổ, chính phủ Kim đang chuẩn bị thực hiện một cuộc cải cách rộng lớn hơn, khởi đầu bằng việc thành lập một Ủy Ban quốc gia chịu trách nhiệm thành lập một nền quốc học. (45)
6. Cải Cách Tư Pháp:
Với phương vị Bộ trưởng Tư pháp, Trịnh Dình Thảo cũng khởi đầu chiến dịch cải cách hệ thống tư pháp. Tháng 5/1945, thành lập tại Huế một Ủy Ban Cải Cách và Thống Nhất Tư Pháp, do Thảo cầm đầu (L'Action, 2/6/1945). Ngoài ra, chính Thảo xét lại các vụ án chính trị, trả tự do nhiều người hoạt động chống Pháp và phục hồi quyền công dân cho những người khác. Nhân dịp này, một số cán bộ Cộng sản trở lại với tổ chức cũ, và tích cực làm việc để phá hủy quyền lực của Kim. (L'Action,4/7/1945)
7. Ðám Ðông Tham Gia Chính Trị:
Sự đóng góp không thể từ chối được của chính phủ Kim là sự tham gia sinh hoạt chính trị của đám đông. Trong những buổi lễ, Kim vinh danh mọi anh hùng quốc dân, từ những quốc tổ huyền thoại, tức vua Hùng (2879-258 TTL), tới những anh hùng kháng Pháp như Nguyễn Thái Học, lãnh tụ VNQDÐ đã bị xử chém cùng 12 đồng chí năm 1930. Một Ủy Ban được thành lập để lựa chọn danh sách các anh hùng sẽ được đưa vào Nghĩa Liệt Từ (L'Action, 26/6/1945). Tên đường phố được đặt lại. Tại Thuận Hoá (Huế), Lê Thái Tổ (1428-1433) vị vua đã giành lại độc lập từ tay nhà Minh năm 1427, thay thế Jules Ferry trên bảng tên đại lộ chính của thành phố. Tướng Trần Hưng Ðạo, người hai lần chặn đứng sự xâm lăng của Mông Cổ năm 1278 và 1288, thay cho Paul Bert. Ngày 1/8, tân Ðốc lý Hà Nội Trần Văn Lai còn đi xa hơn nữa khi cho lệnh phá bỏ những tượng đài do Pháp dựng lên tại các công viên trong chiến dịch xoá bỏ những tàn tích ô nhục (Tin Mới, 2/8/1945). Trong khi đó, báo chí Việt tự do xuất bản những bài viết về các phong trào chống Pháp và những lời đả kích các cộng sự viên của Pháp. Những lời chỉ trích còn hướng vào cả “ông ngoại” của Bảo Ðại, tức Nguyễn Hữu Ðộ—người đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc chinh phục của Pháp trong thập niên 1880 và bán rẻ cho Giám mục Paul Puginier chùa Báo Thiên và huyện Thọ Xương với giá tiền 100 quan, tức khu nhà Chung tại Hà Nội hiện nay. (Dân Mới, 5-7/1945; Hải Phòng, 28/7/1945).
Kế hoạch đáng kể nhất là việc đoàn ngũ hoá tuổi trẻ. Bộ trưởng Thanh niên Anh cố gắng tập trung và kiểm soát chặt chẽ các tổ chức tuổi trẻ đã bùng nở từ sau ngày 9/3/1945. Ngày 25/5, một Dụ ra đời đặt xuống cơ cấu tổ chức các hội thanh niên. Trên thượng tầng là một Hội Ðồng Quốc Gia Thanh Niên, một tổ chức tư vấn, để cố vấn Bộ trưởng Thanh niên. Những cơ cấu tương tự được thành lập xuống tới cấp huyện (L'Action, 16/6/1945). Trong khi đó, thanh niên được mời tham gia các tổ, đoàn địa phương từ tỉnh tới xã. Mỗi tỉnh lị có một trung tâm huấn luyện, ở đó họ có thể tham dự những khoá huấn luyện kéo dài một tháng (Tinh Tiến, 30/6 và 7/7/1945; Ðàn Bà, 26/7-7/8/1945; L'Action, 26/6/1945). Chính phủ cũng thành lập một trung tâm quốc gia cho Thanh Niên Tiền Tuyến tại Thuận Hoá. Khai giảng ngày 2/6, trung tâm này dự trù là tiền thân trường huấn luyện sĩ quan trong tương lai (Kim 1969:92). Vào cuối tháng 7, các trung tâm cấp bộ cho thanh niên xã hội được thành lập tại Hà Nội, Thuận Hoá và Sài Gòn. Trong khi đó, tại Hà Nội, Tổng Hội Sinh Viên và Thanh Niên bị cơn sốt độc lập chi phối. “Sinh viên”—có lẽ với sự trợ giúp của chính phủ—tự xuất bản tuần báo Tự Trị (Tự Trị, 21/4-26/6/1945). Cư xá Sinh viên Hà Nội trở thành một trung tâm hoạt động chính trị. Vào tháng 5, tháng 6, có dấu hiệu cán bộ Cộng sản, dưới danh nghĩa Việt Minh, đã xâm nhập sâu vào Cư xá Sinh viên, và các hiệp hội thanh niên cùng cứu đói. Ðối diện sự bành trướng của Mặt Trận Việt Minh, Nhật nỗ lực tiếp xúc các lãnh tụ của tổ chức này, nhưng các sứ giả của Nhật đều bị giết. Hiến Binh Nhật bèn phản công, bắt giữ hàng trăm thanh niên Việt tại miền Bắc vào hạ tuần tháng 6 (Kim 1969:82-3).
8. Thống Nhất Lãnh Thổ:
Thành quả đáng kể nhất của chính phủ Kim là việc thương thuyết thống nhất lãnh thổ. Ngay sau khi chấm dứt chế độ Pháp, người Nhật chẳng sốt sắng gì với việc thống nhất lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi chính phủ Kim thành lập, Nhật đồng ý trao trả Bắc Bộ, dù còn giữ quyền kiểm soát các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, và Ðà Nẵng. Trong khi đó, Nam bộ hoàn toàn đặt dưới sự cai trị trực tiếp của Nhật, chẳng khác gì thời Pháp thuộc.
Bắt đầu từ tháng 5/1945, Ngoại trưởng Chương thương thuyết với Nhật tại Hà Nội, xin hoàn trả ba thị xã Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng, nhưng Nhật thoái thác vì Hà Nội và Hải Phòng là hai điểm then chốt của kế hoạch phòng thủ Ðông Dương. Mãi tới tháng 6 và tháng 7/1945, Nhật mới đồng ý thực hiện những bước sơ khởi hướng về sự thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Ngày 16/6, Bảo Ðại công bố Việt Nam sẽ được thống nhất trong tương lai (L'Action, 27/6/1945). Ngày 29/6, Tướng Tsuchihashi ký một loạt nghị định bàn giao một phần những trách nhiệm của chính phủ Liên bang Ðông Dương—kể cả quan thuế, thông tin, và thanh niên, thể thao—cho ba chính phủ Việt, Cam Bot và Lào (L'Action, 12/7/1945). Tiếp đó, Bảo Ðại ban hành 4 đạo Dụ: thành lập Hội Ðồng Tư Vấn Quốc Gia; một ủy ban soạn thảo Hiến pháp gồm 15 người; một Ủy Ban 15 người khác nghiên cứu việc cải cách hành chính, pháp luật, và tài chính; và một Ủy Ban Cải cách Giáo dục, gồm hai [2] phụ nữ trong tổng số 18 ủy viên (L'Action, 13, và 17/7/1945; Tinh Tiến, 3/7/1945). Lần đầu tiên, các lãnh tụ miền Nam (như Trần Văn Ân và Hồ Văn Ngà) được mời tham gia các ủy ban trên.
Trong khi đó, những biến chuyển khác tại Nam bộ từ đầu tháng 7/1945 có thể coi như những bước chuẩn bị cho Việt Nam thống nhất lãnh thổ. Thượng tuần tháng 7, khi Nam bộ bừng bừng khí thế độc lập và đám đông tham gia hoạt động chính trị qua việc thành lập các tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Sài Gòn cùng nhiều tỉnh lị, Thống đốc Minoda tuyên bố sẽ thành lập Hội Nghị Nam Bộ để giúp đỡ người Nhật cai trị. Hội nghị này có nhiệm vụ tư vấn về những vấn đề do Nhật đệ xét và thanh tra các tỉnh. Mục đích chính của Hội nghị, Minoda nhấn mạnh, nhằm giúp người Việt hiểu được rằng họ cần phải hợp tác chặt chẽ với Nhật, vì “nếu Nhật bại trận, nền độc lập của Ðông Dương sẽ lỡ dở.” (L'Action, 16 & 23/7/1945) Sự hiện diện của Trần Văn Ân cùng những nhân vật theo phò Cường Ðể trong Hội nghị này phản ảnh sự thay đổi quan trọng trong thái độ của Minoda đối với vấn đề độc lập của Việt Nam, vì cho tới thời điểm này, viên Thống đốc Nhật nắm trọn mọi việc ở Nam Bộ trong tay. Tại buổi khai mạc Hội nghị Nam bộ ngày 21/7, Minoda gián tiếp nói đến sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam (L'Action,24/7/1945). Sau đó, Trần Văn Ân được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội nghị, và Kha Vạng Cân, một lãnh tụ Thanh Niên Tiền Phong, Phó Chủ tịch.
Ngày 13/7, Trần Trọng Kim đến Hà Nội để thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi. Tsuchihashi đồng ý trao trả ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng cho chính phủ Kim, hiệu lực từ ngày 20/7. Kim bèn cử Y sĩ Trần Văn Lai làm đốc lý Hà Nội, Luật sư Vũ Trọng Khánh, đốc lý Hải Phòng, và Nguyễn Khoa Phong đốc lý Ðà Nẵng. Sau những cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên còn đồng ý hoàn trả Nam bộ cho Việt Nam, và Kim sẽ lên đường vào Sài Gòn dự lễ thống nhất ngày 8/8. (46)
Sự thành đạt lịch sử của Kim lập tức bị che phủ bởi áp lực bên ngoài và sự chia rẽ nội bộ. Ngày 26/7, từ Potsdam gần một Berlin điêu tàn, đổ nát, lãnh đạo các nước Mỹ, Trung Hoa và Bri-tên ra tuyên cáo đòi Nhật đầu hàng không điều kiện. Stalin không ký tên vì Nga Sô chưa tham chiến vói Nhật. Nhật thì lúc này chẳng còn mong chiến thắng, mà chỉ muốn đạt được ngưng bắn trong danh dự. Tệ hại hơn, viễn ảnh bị Ðồng Minh trừng trị vì hợp tác với Nhật khiến nhiều người có thể hợp tác với Kim giữ thái độ xa cách. Các Bộ trưởng và những cộng sự viên phân tán dần. Khâm sai Bắc bộ là Phan Kế Toại—vây quanh bởi chính con trai và những người có cảm tình với Việt Minh hay cán bộ Cộng sản nằm vùng hoặc khuynh tả như Nguyễn Mạnh Hà và Hoàng Minh Giám—nạp đơn xin từ chức. Nguyễn Xuân Chữ, một lãnh tụ Việt Nam Ái Quốc Ðảng và một trong năm thành viên của Ủy Ban Kiến Quốc, không đồng ý thay thế Toại (Thông Tin, 10/6/1945; Kim 1969:84, 91; Chữ 1996:280). Trở lại Thuận Hoá, Kim cũng đối diện sự chống đối ngày một gia tăng giữa các Bộ trưởng. Trần Văn Chương (người đã khởi đầu thương thuyết với Nhật từ tháng 5) muốn được hưởng công về việc thâu hồi ba thành phố và Nam bộ, và có thể cả chức Thủ tướng (Kim 1969:88-9).
Phiên họp Hội đồng Bộ trưởng trong hai ngày 5 và 6/8 được đánh dấu bằng những cuộc cãi vã cá nhân và việc ba Bộ trưởng Nội vụ, Kinh tế và Tiếp tế từ chức. Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, còn đòi toàn chính phủ từ chức, nhường cho Việt Minh lên cầm quyền vì có thực lực (Kim 1969:166). Ngày 7/8, chính phủ Kim từ chức. Bảo Ðại yêu cầu Kim lập chính phủ mới, nhưng việc thế chiến đột ngột chấm dứt xen vào.
Ngày 8/8/1945, Liên Sô xua quân vào Manchuria (Mãn Châu) và tuyên chiến với Nhật. Hôm sau, trái bom nguyên tử thứ hai trút xuống Nagasaki, và Nhật không thể tiếp tục cuộc chiến. Thương thuyết được tiến hành, và Nhật quyết định cho Kim cùng những người Việt yêu nước những gì họ trông chờ bao năm dài—độc lập quốc gia và thống nhất lãnh thổ. Kim nhiều lần được thúc dục vào Sài Gòn chủ tọa lễ thâu hồi miền Nam (Kim 1969:90). Nhưng nhiều yếu tố ngăn cản Kim rời kinh đô. Từ ngày 8/8, Phạm Khắc Hoè được Tôn Quang Phiệt cho lệnh xúi dục Bảo Ðại thoái vị. Ðể thực hiện sứ mệnh này, Hoè tìm cách hạ uy tín Kim, đặc biệt là dèm pha việc Kim không thể mời những nhân vật nổi danh tham gia chính phủ mới ở Thuận Hoá (Phạm Khắc Hoè 1982:62-3). Trong khi đó Bộ trưởng Nội vụ Nam, nêu lý do những cuộc nổi dạy ở Thanh Hoá và Quảng Ngãi tại Trung bộ để ngăn cản Kim lên đường vào Sài Gòn (Phạm Khắc Hoè 1982:62-3; Kim 1969:89). Việc đón nhận chủ quyền ở Nam Bộ bởi thế phải ủy cho Hội Nghị Nam Bộ. Rồi, ngày 14/8, Bảo Ðại bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm, cựu Chủ tịch Hội Ái Hữu Ký Giả Nam Kỳ, làm Khâm sai Nam Bộ (L'Action, 17/8/1945). Sâm lập tức rời Thuận Hoá vào Sài Gòn. Trong khi đó, Việt Minh đã lợi dụng thời cơ, tổng nổi dạy.

 III.  ÐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG
Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Ðồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Ðông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Ðồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ. Một số viên chức Nhật ngả về phía Việt Minh, thả một số tù nhân Cộng Sản, cung cấp vũ khí cho Việt Minh, và một số còn phục vụ các lực lượng Việt Minh địa phương (Lieu et al 1960:I:43-4). Những người khác, kể các Tư lệnh quân đội, muốn dùng vũ lực yểm trợ chính phủ Kim và đánh dẹp Việt Minh (Etsumei) (Kim 1969:93; Dân Chủ, 12/9/1945; Chữ 1996:277-78, 288-89). Cả đất nước chìm vào cảnh hỗn loạn, mở đường cho các phe nhóm chính trị Việt chạy đua quyền lực.
Buổi tối trước ngày Nhật chính thức đầu hàng, Kim và các cộng sự viên muốn nắm lấy thời cơ để kiểm soát tình thế. Ngày 12/8, chính phủ đã từ chức của Kim được cải danh thành chính phủ lâm thời. Kim yêu cầu Bảo Ðại ra một Dụ vào ngày 14/8 để hủy bỏ hòa ước 5/6/1862, và 15/3/1874, và như thế vô hiệu hoá mọi đòi hỏi chủ quyền của Pháp tại Việt Nam (Bao Dai 1980:114-15). Kim còn gửi đại diện ra Bắc, vào Nam để thống nhất các phe nhóm dưới quyền chính phủ trung ương ở Thuận Hoá, nhưng tất cả đều bị Việt Minh bắt giữ dọc đường—Hồ Tá Khanh tại Quảng Nam và Phan Anh tại Hà Tĩnh. (Kim 1969:91).
Trong khi đó, các lãnh tụ không Cộng sản tại Bắc bộ và Nam bộ cũng cố chống lại Việt Minh. Tại Bắc bộ, Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ yêu cầu thành lập một Ủy ban Cứu quốc; Kim chấp thuận và ngày 16/8 bổ nhiệm Chữ làm Chủ tịch Ủy Ban Giám Ðốc Chính trị Miền Bắc. Ủy Ban này gồm 5 người—Chữ, Toại, Thị trưởng Lai, Ðặng Thái Mai, và Nguyễn Tường Long—nhưng thực tế chỉ có mình Chữ ở vào vị thế không uy quyền: Từ ngày 30/7/1945, Bảo An Binh của Ðai úy Vũ Văn Thu, Giám đốc, và Thiếu úy Nguyễn Văn Yên, Phó Giám đốc, đã ngả theo Việt Minh do sự vận động của Y sĩ Trương Ðình Tri. (Hưng Việt, 2/8/1945). Chánh văn phòng Khâm Sai cưỡng lại lệnh triệt hạ cờ Việt Minh mới xuất hiện ở nhà Thờ lớn [nhà Chung]. (47)
Thị trưởng Lai đồng ý cho biểu tình ngày 17/8—mà trên thực tế là cuộc tổng diễn tập cho cuộc đoạt chính quyền hai ngày sau của Việt Minh, dưới sự chỉ đạo của Pezneff Long, thành ủy Ðảng CSÐD, và Ðảng Dân Chủ, một giả túc mới của Việt Minh nhằm qui nạp những trí thức ngoài đảng, tức “thành phần trung gian.”
Tại Nam bộ, ngày 17/8, có thông báo tất cả những phe nhóm và đảng, kể cả các nhóm Trốt-kít và giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo, tập họp thành Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt (Sài Gòn, 15/8/1945). Trần Quang Vinh, một lãnh tụ Cao Ðài, và Huỳnh Phú Sổ, người khai đạo Hòa Hảo, cũng ra một tuyên cáo chung thành lập liên minh để đối phó kịp thời với tình thế.( 48)
Ngày 19/8, tại Sài Gòn, Thanh Niên Tiền Phong tổ chức buổi tuyên thệ thứ hai, thề sẽ bảo vệ nền độc lập của Việt Nam bằng mọi giá. Hôm sau, Hồ Văn Ngà trở thành Quyền Khâm Sai Nam bộ, và cử Kha Vạng Cân, một lãnh tụ TNTP, làm Ðô trưởng Sài Gòn/Chợ Lớn. Việc Khâm sai Nguyễn Văn Sâm về đến Sài Gòn ngày 22/8 mang lại cho Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt một kích thích, đó là bản tuyên cáo độc lập và thống nhất lãnh thổ.
Tuy nhiên, Việt Minh vẫn chiến thắng. Tại Hà Nội, ngày 17/8, cán bộ Việt Minh thành công trong việc nắm quyền chủ động cuộc biểu tình cổ võ độc lập và thống nhất lãnh thổ, ủng hộ chính phủ Kim, của Tổng hội Công chức. Hai ngày sau, Nguyễn Xuân Chữ phải trao quyền cho Việt Minh. Chiến thắng rúng động này, cộng với việc quân Nhật chính thức buông súng ngày 21/8, khiến các cộng sự viên của Kim thêm hoảng hốt. Chính phủ Kim tự tan vỡ. Chiều 23/8, Việt Minh thực sự nắm quyền Huế. Hai ngày sau, Bảo Ðại ra tuyên cáo thoái vị, và Nguyễn Văn Sâm trao chính quyền cho Việt Minh tại Sài Gòn. Ðế Quốc Việt Nam tàn lụn theo Khối Thịnh Vượng Chung Ðông Á của Nhật.

Kết Luận
Chính phủ Trần Trọng Kim hoặc đã bị đánh giá thấp hay lãng quên. Khuynh hướng phù thịnh và sự thiếu tài liệu chính xác phần nào gây nên hậu quả này. Ngoài ra, các guồng máy tuyên truyền của các thế lực tảng lờ sự thực lịch sử, bẻ cong dữ kiện theo mục tiêu chính trị giai đoạn. Tuy nhiên, xúc động đã qua và các tài liệu văn khố cùng tư liệu nguyên bản khác đã được mở, chúng ta có thể đánh giá tầm quan trọng lịch sử của chính phủ Kim.
Dài theo sự hiện hữu ngắn ngủi, và trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, chính phủ Kim đã tham gia vào việc phát động một cuộc cách mạng từ trên xuống, khởi phát từ cuộc thanh trừng chính quyền Decoux. Hai trong những khía cạnh quan trọng cần nhấn mạnh: Ðó là sự kích thích đám đông tham gia sinh hoạt chính trị, và, hiện tượng Việt-Nam-hoá hầu hết các cơ cấu xã hội.
Sự đóng góp không thể chối cãi được của chính phủ Kim vào cuộc Cách Mạng 1945 của Việt Nam là sự bảo trợ tham gia sinh hoạt chính trị của đám đông. Dưới thời Pháp thuộc, tất cả những cuộc tụ họp đông đảo ngoài các buổi tụ họp gia đình, lễ nghi xã hội, hay thể thao đều bị cấm đoán và trừng phạt nặng nề. Qua thời Kim, việc tụ họp được khích lệ—kể cả những cuộc biểu tình ngoài đường phố, và diễn hành biểu lộ tinh thần độc lập về văn hoá cũng như chính trị. Ðảng CSÐD, giống như các phe nhóm và đảng phái khác, đã lợi dụng cơ hội này để bành trướng tổ chức và tuyển mộ cán bộ. Hơn nữa, giới thanh niên 1945 không hoàn toàn thân Nhật hay liên hệ với Cộng Sản. Thực ra, giống như các tổ chức pemuda (thanh niên) tại Indonesia, cả một thế hệ thanh niên Việt đã được động viên dưới sự bảo trợ của Kim cũng như quan Tướng Nhật. Mặc dù không phải tất cả các tổ chức thanh niên sau này đều ngả theo Việt Minh, kế hoạch tổ chức thanh niên của Kim đã cung hiến cho mặt trận Việt Minh hàng chục ngàn người trẻ chỉ phục vụ dưới cờ Ðảng CSÐD vì độc lập và thống nhất quốc gia mà không phải chủ thuyết Marxist-Leninist không chỉ họ xa lạ, mà ngay những cán bộ được huấn luyện từ Nga về cũng chỉ được huấn luyện đại cương về ly thuyết—giống như sách giảng tám ngày cho thày kẻ giảng Ki-tô. Tại miền Nam, chẳng hạn, thanh niên được tổ chức thành 4 sư đoàn dân quân để chống Pháp ngay sau khi Pháp, dưới bảng hiệu lực lượng chiếm đóng của Ðồng Minh, tái chiếm Nam bộ trong tháng 9-10/1945. Trong khi đó, lực lượng “danh dự” của Việt Minh tập trung nỗ lực vào việc thanh trừng những người họ lên án là Việt Gian—đặc biệt là phần tử Trốt-kít và lãnh tụ tôn giáo miền Nam, cùng các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðại Việt ở miền Bắc và miền Trung. Dẫu vậy, sự liên kết ở thượng tầng giữa Hồ và các phe không Cộng sản chỉ bắt đầu soi mòn từ mùa Xuân 1946, sau khi Hồ đã ký với Pháp một Hiệp ước để hợp pháp hoá chế độ. Bản “Hiệp ước sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946” đầy thị phi này, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ cho Hồ tình trạng một “bang tự do” [Etat libre] trong Liên bang Ðông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp—kém cả tình trạng một nước tự trị và, quan trọng hơn, chỉ là một lời hứa cho qua của Pháp để có thể đặt chân xuống miền Bắc một cách yên ổn (Vũ Ngự Chiêu, 1984:chương 12, 13, 14). Cuối cùng, sau khi cuộc chiến Pháp-Việt Minh bùng nổ trên toàn quốc, hiện tượng đám đông tham gia chính trị một cách tự do được lèo lái thành sự tham gia chính trị dưới sự kiểm soát của Cộng Sản. Tôi nghĩ rằng kiểu độc quyền yêu nước này dẫn đến sự tàn lụn của tinh thần cách mạng 1945 và, đưa đến hậu quả là cuộc Tam Thập Niên Chiến (1945-1975).
Diễn tiến Việt-Nam-hoá—nguồn động lực phía sau sự sinh tồn của dân Việt như quốc dân một nước độc lập trong bầu không khí bạo tàn của nền chính trị quốc tế—trở nên phức tạp hơn vì các vấn nạn độc lập và thống nhất lãnh thổ. Thoạt tiên, khi chuẩn bị cuộc hành quân Meigo, Nhật Bản không chủ trương trao trả độc lập hoàn toàn và tức khắc cho Việt Nam. Bởi thế, chẳng những Nhật không công nhận hay ký một hiệp ước nào với chính phủ Kim, ngay tên Kim cũng chẳng được nhắc nhở trên tờ Nippon Times [Nhật Bản Thời Báo]. Kim được hưởng khá nhiều tự trị ở miền Trung và Bắc, nhưng chỉ với điều kiện không ngăn cản mục tiêu chiến lược của Nhật. Ðây là những điều kiện tổng quát đã ban cho chế độ Decoux trong giai đoạn cai trị gián tiếp của Nhật, hay quân Trung Hoa ban cho Hồ Chí Minh khi chiếm đóng Bắc Ðông Dương thời hậu chiến.
So sánh nền độc lập có điều kiện của Kim dưới sự bảo trợ của Nhật, và sự độc lập “trên thực tế” [de facto] của Hồ dưới chế độ quân quản Trung Hoa từ tháng 9/1945 tới tháng 6/1946, hay một “bang tự do” trong kế hoạch tái xâm lăng của Pháp, nền độc lập của Kim có vẻ ít “bánh vẽ” hơn chúng ta thường được nghe.
Thật vậy, vấn đề độc lập của những nước nhỏ thường phức tạp hơn ai đó có thể cả đoan: hiệp ước và thỏa ước về vấn đề “độc lập” thường tùy thuộc vào những điều kiện ưu thắng của chính trị quốc tế—đó là, “luật pháp” luôn trong tay kẻ mạnh nhất. Người ta cần lưu tâm rằng sự thực hiện những thỏa ước trên phản ảnh sức mạnh tỉ đối giữa các nước hơn là thuần công pháp. Ngày 20/1/1946—ở những giờ phút cuối cùng trên ghế Thủ tướng Ðệ tứ Cộng Hòa Pháp, chẳng những từ chối không cho Linh mục/Cao Ủy d’Argenlieu sử dụng hai tiếng “độc lập” trong khi thương thuyết—de Gaulle còn đứng thẳng người dậy, nói với Thiếu tá Paul Mus, đặc sứ của d’Argenlieu: “Chúng ta trở lại Ðông Dương vì chúng ta là những kẻ mạnh hơn” [Nous rentrons en Indochine parce que nous sommes les plus forts]. (L’Institut Charles de Gaulle [ICG], Le Général de Gaulle et l’Indochine, 1940-1946 (Paris: Plon, 1982), tr. 73; D’Argenlieu, Chronique, 1985:131-33. Chính Ðạo, VNNB, I-A: 1939-1946, 1996:301.; SHAT (Vincennes), Indochine, 10 H xxx).
Viên chức sử nhà nước tại Hà Nội, và những người khác, thường lập đi lập lại rằng Việt Minh đã thống nhất đất nước dưới lá cờ cách mạng của nó. Tài liệu chứng minh rằng Kim đã thu hồi quyền thống nhất lãnh thổ trước ngày Nhật đầu hàng, và quan trọng hơn, nhiều bước chuẩn bị đã thực hiện ở Thuận Hoá và Nam Bộ để thực thi sự thống nhất ấy. Dụng tâm của người Nhật ra sao đi nữa khi thỏa mãn đòi hỏi thống nhất lãnh thổ của Kim, đây vẫn là một sự thực. Một sự thực khác là Kim từ chối đề nghị của các Tướng Nhật để dùng quân Nhật đàn áp Việt Minh. Nếu Kim không giữ trung lập, Hồ và các cộng sự viên hẳn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đoạt chính quyền. Hơn nữa, nếu không có sự hoàn trả miền Nam từ 14/8 tới cuối tháng 9/1945, đòi hỏi thống nhất lãnh thổ của Hồ tại các bàn hội nghị hẳn thiếu cả tính cách pháp lý cùng sự đáp ứng nồng nhiệt của người miền Nam. Những nguời làm công tác sử Cộng Sản Việt Nam—hoặc vì thiếu tư liệu, hoặc vì có chỉ thị—thường lướt qua quan điểm chính phủ Hồ bị coi như một “chính phủ sinh ra trong hỗn loạn” của cả Bri-tên lẫn Trung Hoa trước tháng 3/1946. Mountbatten còn lạnh lùng bịa đặt ra ngày tuyên bố độc lập “17/9/1945” để biện minh cho chủ trương dùng tù binh Nhật giúp Bri-tên và Pháp tái chiếm phía nam vĩ tuyến 16 từ cuối tuần 22-23/9/1945—công khai vi phạm các qui ước về tù binh trong công pháp quốc tế đương thời. (49)
Mặc dù Việt Nam chỉ được độc lập có điều kiện dưới chế độ Nhật, và dù đất nước chỉ được thống nhất gần cuối cuộc chiến, diễn tiến Việt-Nam-hoá của Kim rất hệ trọng. Kim đã loại bỏ ảnh hưởng của người Pháp—từ việc chọn chữ viết theo mẫu tự La-tinh làm quốc ngữ tới sự đổi tên các đường phố, thị xã và miền; từ việc tự do lập đảng tới việc thay công chức Pháp bằng công chức Việt. Trên các báo địa phương, các danh từ “Annam,” “Tonkin,” “Cochin-chine,”  “Annamite” dần dần được thay thế bằng những từ mới có hàm ý tốt đẹp hơn. Việc đám đông chấp nhận sự thay đổi này có thể thấy trong sự duy trì những từ trên của chính phủ Hồ. Nếu xét đến sự sâu xa của việc người Pháp làm chủ người Việt—về văn hoá cũng như tinh thần—sự thay đổi của Kim rất quan trọng. Khảo sát những kế hoạch của Hồ từ sau ngày 2/9/1945, người ta thấy—ngoại trừ chế độ Cộng Sản và chủ trương độc quyền yêu nước của Hồ—hầu hết những điểm chính phủ VNDCCH đưa ra vào cuối năm 1945 và đầu năm 1946 đều giống với các chương trình mà chính phủ tiền nhiệm đề ra: chữ Việt với mẫu tự La-tinh được dùng trong các lớp học và văn phòng; cải danh thị xã và đường phố; hủy bỏ việc ép bán thóc dư và thuế thân. Ngay trong buổi chiều ngày 2/9/1945, Hồ dấu kín đòi hỏi một bang tự trị trong Liên bang Ðông Dương do Pháp kiểm soát, tuyên bố đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật, yêu cầu thị dân Hà Nội tuyên hứa 4 điều không làm: “thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, và không đưa đường cho Pháp,” nếu quân Pháp tái xâm lăng Việt Nam (Cứu Quốc, 5/9/1945; Giáp 1974:32).
Hẳn nhiên, sự giống nhau trên chỉ biểu kiến hơn thực chất. Sự khác biệt, nếu không phải đối nghịch, giữa Hồ và Kim ăn rễ sâu trong thân thế và ý thức hệ.
Kim là một học giả thành công và một thị dân yêu nước trung dung. Hồ thiếu may mắn trên đường học vấn, năm 1911 không thành công trong việc xin vào trường Thuộc Ðịa mà Kim vừa tốt nghiệp; Hồ sống trọn tuổi thanh xuân trên các hải cảng xa lạ như một phụ bếp hay lao công; và, cuối cùng tìm thấy con đường cách mạng nhờ những bài viết của Lenin và sự yểm trợ của Liên Sô (Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, 1983). Cuộc phiêu lưu chính trị của Kim chỉ đột xuất vào tháng 10/1943; trong khi Hồ trải qua hơn hai thập niên tại quê người, nhà tù, rừng rậm và trường huấn luyện của Liên Sô—với đầy đủ ngọt, bùi, chua, cay của hoạt cảnh chính trị mà có lẽ chính Hồ cũng cảm nhận được rằng tiểu đồng Quốc Tế Cộng Sản khó vượt qua những đại dị như quyền lợi và an ninh quốc gia, và ngay cả tinh thần kỳ thị chủng tộc. Hồ từng thoát một âm mưu ám sát của Pháp tại Quảng Châu năm 1927, bị triều Huế qua tòa án Vinh lên án tử hình năm 1929, và trên đại thể có kinh nghiệm về sự tàn bạo của nền chính trị quốc tế. (50) Thật khó hiểu nếu sống thọ thêm 25 tuổi, Hồ sẽ nghĩ gì về “bài học Ðặng Tiểu Bình” năm 1979 và tham vọng bành trướng đất đai và lãnh hải của Trung Nam Hải.
Kim là một thày giáo có nhân sinh quan Khổng giáo; với quan niệm phổ chúng về sự tham gia xã hội—đó là, nhập hay xuất thế đúng thời cơ, và làm hết sức mình. Ngược lại, Hồ—trẻ hơn Kim khoảng 10 tuổi—là một cán bộ cách mạng “Cộng sản” chuyên nghiệp [apparatchiki] có sự tháo vát của những người thông minh dưới phố. Hồ giành đoạt uy quyền bằng một quyết tâm, và bằng mọi giá. Ðề nghị cho Mỹ khai thác Cam Ranh năm 1946, hay lá thư Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai năm 1958 chỉ là vài thí dụ về bản chất Nguyễn Sinh Côn.
Về ý thức hệ, Kim tin ở sự tiến hoá của xã hội: Sự thay đổi, bởi thế, cần tuần tự và dưới sự dìu giắt của những người tài đức hầu tránh sự sụp đổ đột ngột của trật tự xã hội và đạo lý. Ngược lại, bị xã hội hiện hữu chối bỏ, Hồ chủ trương lật đổ toàn vẹn các biểu tượng và tàn dư của phong kiến và thực dân hầu xây dựng một xã hội và nhà nước “xã hội chủ nghĩa.” Ngoài đặc tính có khả năng thu phục lòng người, niềm tin vững mạnh vào chủ thuyết Marxist-Leninist đã được đơn giản hóa thành tinh thần Lương Sơn Bạc (giống như Mao Nhuận Chi tức Trạch Ðông thuở thanh niên), một đảng tổ chức chặt chẽ và kỷ luật thép, một quân đội riêng, thân thế Hồ và những liên hệ với hai đại siêu cường ở thời điểm chấm dứt Thế chiến thứ hai đã cho Hồ thế ưu thắng trong cuộc chạy đua quyền lực vào tháng 8/1945. Tuy nhiên, trong hai năm 1945-1946, giống như người tiền nhiệm, Hồ đã bị ngoại cảnh chi phối sâu xa. Quyết định giải tán Ðảng CSÐD (ngày 11/11/1945) cùng chính sách mềm dẻo với Trung Hoa và Pháp phản ảnh rõ ràng ảnh hưởng sâu đậm của chính trị thế giới trên Việt Nam ở giờ phút đất nước sắp bị quốc-tế-hoá. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi năm 1946 Hồ đành tạm lùi một bước trên tiến trình Việt-Nam-hoá. Chẳng những bí mật thương thuyết với Pháp, Hồ còn ký với Sainteny Hiệp ước Sơ bộ 6/3/1946—với những điều kiện mà ví thử người Pháp tôn trọng chúng, quân Pháp vẫn tiếp tục trú đóng tại “Việt Nam tự do” và chuyên gia Pháp vẫn nắm giữ các chức vụ tại xứ này, trong khi vấn đề thống nhất lãnh thổ và độc lập chỉ được mơ hồ giải quyết bằng điều khoản “trưng cầu dân ý.” (51)
Vai trò lịch sử của chính phủ Kim quả quan trọng hơn người ta thường đánh giá. Sự thực, có thể giống như Võ Giáp viết, là trong tháng 8/1945, Việt Minh đã nhổ những lá cờ quẻ ly vàng úa, một sản phẩm của thời kỳ Nhật thuộc ngắn ngủi, như bứt đi những chiếc lá sâu. (Giáp, KTNQ, 1974:22, 2001:19).
 Guồng máy chế độ Kim tự vữa nát, biến dạng, từ Hà Nội tới Huế và Sài Gòn. Vỏn vẹn trong vòng mười ngày ngắn ngủi, cả một giải giang sơn đổi chủ. Dẫu vậy, những thành quả của Kim chẳng phải “chìm nhanh vào sự lãng quên không để lại một dấu vết” (Ibid.) Ở phân tích cuối cùng, ít nữa cho tới chuyến đi Bắc Kinh và Mat-scơ-va năm 1950 bí mật cầu viện khối tân QTCS, Hồ là người thụ hưởng chính, trong số những việc khác, sự thành tựu của Kim trong “giai đoạn cách mạng dân tộc tư sản”—bước đầu tiên của cuộc phiêu lưu vô định từ một hành tinh nửa phong kiến, nửa thực dân đã chết, tới một xã hội công hữu nguyên thủy chưa ai được tri nghiệm, và có thể chẳng bao giờ có khả năng chào đời.
Madison, Wisconsin, 6/10/1984
Houston, Texas, 9/3/2011

Phụ Chú Phần II:
28. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi (Sài Gòn: Vinh Sơn, 1969), tr. 7. Tư liệu văn khố ghi Kim sinh năm 1887. Những chi tiết dưới đây rút từ hồi ký dẫn trên và tài liệu trường Thuộc Ðịa Pháp; CAOM (Aix), ECOLE COLONIALE, Registres 5 và 41, c. 27 và 30; AMIRAUX, d. 2578.
29. Kim không được tiếp đón với thảm đỏ như một số tác giả hoang tưởng. Không được bay qua Singapore vào mùa Thu 1943, hay được Tướng Kawamura thông báo tại phi trường Sài Gòn là được cử làm Thủ tướng. Xem tiểu sử Hãn trong GGI, Souverains, p. 28. Giáo sư Hãn đã dành cho tôi một số cuộc phỏng vấn trong thập niên 1980. Tuy nhiên, tôi không đồng ý lời yêu cầu của ông là đừng công bố tài liệu Nguyễn Tất Thành (Sinh Côn) xin nhập học trường Thuộc Ðịa.
30. Dụ số 5 (17/4/1945); L’Action, 19/4/1945, 2 & 3/5/1945.
31. Dụ số 16, 24/4/1945; L’Action (Hanoi), 27/4/1945, 28/5/1945. Xem tiểu sử Chương trong GGI, Souverains, p. 14. Xem thêmChính Trị tuần báo (Hanoi), No.2 (30/3/1939);
32. Dụ số 11; L'Action, 3/5 & 5/5/1945.
33. Ibid, 19/6/1945. Ít lâu sau, Bảo Ðại đưa Nguyễn Duy Quang, Tuần vũ Khánh Hoà, về làm phụ tá cho Phạm Khắc Hoè; Tôn Thất Toại, con Tôn Thất Hân, làm Bộ trưởng Nghi Lễ; Ibid, 19/6/1945; GGI, Souverains, p. 93.
34. Báo cáo của Tướng Georges Aymé ngày 4/19/1945; SHAT (Vincennes), 10H xxx.
35. Trần Ðình Phiên, thương gia ở Phan Thiết, anh Nam, quản trị Tieng Dan.
36. Xem Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh, Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: Văn Hoá, 1983), tr. 32-3.
37. “L’Association unique de tous les Indochinois en France;” CAOM (Aix), SLOTFOM, Séries III, carton 1; trích dịch trong Nguyên Vũ, Paris, Xuân 96 (Houston: Văn Hoá, 1997), tr. 108-10; Ibid., HCFI, CP, Carton 161; PA 14, Carton 2 and GOUGAL 7F 29;
38. Van Lang (Saigon), No.2 (5/8/1939), pp. 4-5.
39. Trịnh Ðình Thảo (1901-1986), sinh ngày 20/7/1901 tại Hà Nội. 1929: Tiến sĩ Luật; Luật sư tại Marseille. Về nước trong năm này. Hành nghề tại Sài Gòn; Chung Một Bóng Cờ [CMBC], (Hà Nội:1993), tr. 928. Ngày 22/2/1937, tham gia Ðảng Dân Chủ của Nguyễn Văn Thinh; nhưng sau bị áp lực phải rút ra. Tháng 9/1938, từ chối tham gia nhóm “hợp pháp” của Ðảng CSÐD (CP 191). Sau tháng 8/1945, về Sài Gòn, không hoạt động gì. Tháng 2/1947, khi Kim từ Hong Kong về Sài Gòn, ở lại nhà Thảo, trước khi tới nhà anh vợ là Bùi Khải. 1954: Tham gia Phong Trào Bảo Vệ Hoà Bình tại Sài Gòn. 1966-1967: Ngả theo Bắc Việt. Thứ Bảy, 20/4/1968, Chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Miền Nam Việt Nam, tức Mặt Trận II [cho tới ngày 21/4/1968]. 6/1969: Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn CPLT/CHMNVN (Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch).
40. Cuối tháng 3 Ất Dậu [tháng 5/1945], sau khi Lý Chính Thắng ra bắc, gặp Trương Chinh trở về, họp thống nhất hành động (266-67); Nguyễn Thị Thập, Từ đất Tiền Giang (Sài Gòn: Văn Nghệ, 1986), tr. 260-67.
41. Thanh Nghị, số 107, 5/5/1945; L'Action, 9/6/1945; Sài Gòn, 12/6/1945; Lieu, Bich and Dam (eds), Xa hoi, vol II. pp.174-75; Vũ Ðình Hoè, Hồi ký, 2004, tr. 171.
42. Chính Ðạo, “Jean-Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời Kỳ chưa nắm quyền;” Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hoá: 2004), tr. 11-70; Kim, 1969:64-5.
43. Trước ngày 19/8/1945, Kha Vạng Cân là Chủ tịch. Xem Sài Gòn, 25, 26/5/1945; Hưng Việt (Sài Gòn), 17, 20 và 22/8/1945; CAOM (Aix), HCIF, CP 161.
44. Theo số liệu thống kê của Ðông Dương, từ 1942 tới 1945, ngân quĩ cho thực phẩm tăng 900% trong một gia đình trung lưu, và 1920% trong một gia đình lao động; ASI, 1943-1946, pp. 204-6.
45. Tinh Tien (Hanoi),14, 5/7/1945; L'Action (Hanoi), 4 & 13/7/ 1945 [declaration of 8 June 1945 & Dụ số 71 (11/7/ 1945)]
46. Kim 1969:81-8; L'Action, 30/7/1945; AOM INF G4; dẫn trong Marr, 1995:133n251, và 133n253. Xem thêm Vũ Trọng Khánh, “Tôi làm thị trưởng Hải Phòng (1994);” Phụ lục 9; (Vũ Ðình Hoè,  2004:460-67.
47. L'Action, 18/8/1945; Hưng Việt, 2/8/1945; Kim 1969:91. Theo Y sĩ Chữ, chức vụ này do Hãn đề nghị; Hồi ký, 1996:279-80.
48. Sài Gòn, 15/8/1945; L'Action, 18/8/1945.
49. Tài liệu số 1, “Extract from the Report to the Combined Chiefs of Staff by the Supreme Allied Commander, South-East Asia, 30 June, 1947;” Great Britain, Parliamentary Debates, 1945-1946; Miscellanous No. 25 (1965), Documents relating to British Involvement in the Indochinese Conflict, 1945-1965 (London: HMSO, 1965), Cmnd 2834, pp. 48-9; Jordan J. Paust, et al., International Criminal Law: Cases and Materials (Durham, N. Carolina: Carolina Academic Press, 1996), pp. 967-68, &. List of War Crimes prepared by the Responsibilities of the Paris Conference in 1919 (USA, British Empire, France, Italy, Japan, Belgium, Greece, Poland, Roumania, Serbia); Ibid., pp. 24-5, 1017-20.
50. Xem những thư từ và khiếu nại của Hồ gửi tứ cường trong US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 1, tr. C 66-100. Xem thêm báo cáo của Abbot Low Moffat, trong Leon B. Blum, The United States and Vietnam, 1944-1947, (Washington: GPO, 1972).
51. Vũ Ngự Chiêu, “Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 88, 4-5/2006, tr. 95-148.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.