Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

30/08/2014

Viết lại lịch sử Trung Hoa (sách mới của Hà Văn Thùy, giới thiệu của Nguyễn Đức Hiệp)

"Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thuy trên thực tế, đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của thế giới" (Nguyễn Đức Hiệp).

Sách đang rao bán trên amazon, với giá hơn 20 đô.

Hôm trước, đã đưa về đây bài về cây thanh hao của Nguyễn Đức Hiệp năm 2006 (bà con ở Vĩnh Phúc mùa này gặp họa với cái cây này). Hôm nay, là bài giới thiệu của cùng tác giả cho cuốn sách vừa ra lò của bác Hà Văn Thùy.

Từ ngày trao đổi về những đại phát kiến vĩ đại của ông Trần Đại Sỹ, tức là từ sau năm 2002, thì ông Bàn Tân Định (chuyên môn về di truyền học) không còn thấy xuất hiện nữa. Nếu bây giờ, ông trở lại thì hữu ích biết bao.

Từ đây trở xuống là lời giới thiệu của Nguyễn Đức Hiệp

---




của Nguyễn Đức Hiệp

Anh Hà Văn Thùy là người bạn mà tôi quen biết từ hơn 10 năm nay qua những bài viết trước kia của anh và của riêng tôi về lịch sử và nguồn gốc con người ở Đông Nam Á và Đông Á, dựa trên những khám phá khoa học mới về di truyền học vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng tôi đã liên lạc qua điện thư và tiếp xúc trao đổi vài lần khi tôi có dịp về Việt Nam qua đó tôi được biết anh không những là nhà văn, nhà báo mà trước đó anh đã là nhà sinh học, tốt nghiệp cử nhân sinh học từ trường đại học (Hanoi University, 1963-1967)… Điều này cho tôi câu trả lời một phần về sự đam mê hăng say của anh trong các công trình nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt và các cư dân Đông Nam Á và Đông Á qua các chứng cứ về di truyền học.
Ở Australia trong các năm 2003-2006, tôi, anh Nguyễn Văn Tuấn và anh Cung Đình Thanh có cộng tác viết các bài về đề tài này để đăng trên tập san Tư Tưởng do anh Cung Đình Thanh sáng lập. Chúng tôi có liên lạc, trao đổi thông tin và chia sẻ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu với anh Thùy. Sau này khi anh Thanh mất, và cũng do bản thân tôi chuyển qua các lãnh vực và đề tài nghiên cứu khác nên không còn liên lạc nhiều với anh Thùy.
Gởi email cho tôi, anh Thùy tâm sự: “Trong đêm trường dạ ngược thời gian tìm về nguồn cội, tôi vui mừng khôn xiết khi gặp nơi nhóm Tư tưởng đốm sáng dẫn đường. Tôi đã noi theo các anh với bao hy vọng. Nhưng rồi anh Thanh mất, anh và anh Tuấn “theo nghề bỏ cuộc chơi”, tôi trở nên bơ vơ…”
Có thể là bơ vơ một lúc nào đó nhưng do có hướng rồi nên anh Thùy không bỏ cuộc. Vốn là nhà sinh học tự phấn đấu thành nhà văn có hiểu biết nhất định về tiến trình lịch sử dân tộc, lại may mắn được tiếp cận tư tưởng Việt Nho của triết gia Kim Định nên khi bắt gặp những phát hiện của di truyền học, những hạt giống được gieo từ nhiều nguồn, đã bùng phát nảy nở. Chỉ trong vòng năm năm từ 2007 tới 1011, anh cho in ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011). Ba cuốn sách cùng một đề tài, nhưng với mỗi cuốn là một sự phát hiện, là sự chín dần của tri thức và tư tưởng. Ở lời tựa cuốn thứ ba, tác giả viết: “Trong khi hào hứng phục dựng lâu đài văn hóa nguy nga, kỳ vĩ của tộc Việt, người viết chưa kịp đắp những bậc cấp khiến người chiêm ngưỡng chưa có đường lên, ngờ rằng đó là “lâu đài cất bằng hơi nước!” Vì vậy, người viết thấy cần làm cuốn sách khác, một tuyển tập những công trình nghiên cứu tiên phong và đáng tin cậy về lĩnh vực đang quan tâm, những khảo cứu của người viết và những bài mà các tác giả có nhã ý trao đổi, để rộng đường ngôn luận.” Và anh đã làm được công việc mình đặt ra. Những công trình có giá trị đặt nền tảng cho khoa học mới, nghiên cứu nguồn gốc và sự di cư của loài người đến Việt Nam của nhóm J.Y. Chu, của Stephen Oppenheimer, của Wilhelm Solheim II … trước đó chỉ được dẫn qua thư mục tiếng Anh, nay được dịch sang tiếng Việt. Không chỉ bằng lòng với việc chuyển ngữ, tác giả, trong khả năng của mình, sau mỗi bản dịch đã đưa ra bình luận riêng về những tài liệu trên, góp phần hướng dẫn người đọc. Đúng như tác giả nói: “Với tính chất như vậy, cuốn sách này có thể là tài liệu nhập môn giúp độc giả tiếp cận phương pháp khoa học mới trong nghiên cứu thời tiền sử người Việt.”
Sau cuốn sách thứ ba, tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ muốn giã từ thời tiền sử để trở lại hiện tại với cuốn tiểu thuyết đang viết… Nhưng rồi trong lúc nào đó, anh ngộ ra, tất cả những phát hiện về cội nguồn cùng văn hóa Việt chẳng đã mở ra bí mật của thế giới Trung Hoa sao? Vì vậy, vào mùa Xuân năm 2012 cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoađược khởi thảo. Tác giả tâm sự, khi bắt tay vào viết, anh cho rằng những tư liệu mình có đã đủ cho cuốn sách. Nhưng khi những chương sách hiện ra, anh nhận thấy mình còn thiếu quá nhiều. Vì vậy, anh dừng lại và nhờ internet, mò tay tới tận cùng trí tuệ nhân loại để lôi ra những tri thức về Trung Hoa, từ Chu Khẩu Điếm, Ngưỡng Thiều, Long Sơn… tới những khám phá mới nhất nơi Động Người Tiên bên bờ sông Dương Tử đầu năm 2012, thực hành một cuộc đại kiểm kê trí tuệ nhân loại về nền văn minh lớn nhất hành tinh! Và bằng tâm trí mẫn tiệp đặc biệt, anh đã kết nối rồi giải mã, biến những tri thức đã biết của từng khoa học riêng lẻ, thăng hoa thành những nhận định mới mẻ tới ngỡ ngàng…
Một bản Viết lại lịch sử Trung Hoa của anh Thùy đang nằm trên bàn tôi với đề nghị viết lời giới thiệu. Đây là vinh dự và cũng là công việc khó khăn, nặng nề vì với cuốn sách này, không thể viết như bài điểm sách thông thường. Muốn có bài viết tương xứng, cần không it thời gian và tâm huyết.
*
*     *
Muốn tiếp cận cuốn sách này trước hết cần phải hiểu lịch sử hình thành của khoa học nhân văn Việt Nam. Theo một nghĩa nào đó, thì khoa học nhân văn Việt Nam mơ hồ đã xuất hiện những ý tưởng sơ khai từ xa xưa, khi con người ngưỡng vọng tổ tiên thời còn ăn lông ở lỗ, với câu chuyện quả bẩu của người Dao: “Trời sinh ra quả bầu. Sau nạn đại hồng thủy, quả bầu vỡ. Mỗi hạt bầu là một tộc người túa ra sinh sống trên mặt đất.” Tiếp đó, từ huyền thoại Trung Hoa, dân ta tìm được ông tổ Toại Nhân làm ra lửa, bà Nữ Oa đội đá vá trời, ông Phục Hy làm ra Dịch và ông Thần Nông “giáo dân nghệ ngũ cốc.” Gần hơn là Cha Rồng Lạc Long Quân cùng Mẹ Tiên Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng… Người Việt truyền ngôn: Việt Hoa đồng chủng đồng văn nên dòng đầu tiên của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thuở Hoàng Đế dựng muôn nước…” Những ý tưởng mang tính khoa học nhân văn sơ khai vốn bàng bạc từ xa xưa nhưng khoa học nhân văn thực sự của Việt Nam chỉ ra đời khi nhà nước bảo hộ Pháp thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội vào năm 1898.
Ở thời điểm đó, tri thức về Viễn Đông của học giả Pháp còn nghèo nàn nên nhân vật chính yếu của Viện là những nhà Hán học như L. Aurousseau, H. Maspéro… Là học giả phương Tây, mặc nhiên các vị này mang quan niệm Âu trung – Châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Vũ khí trí tuệ siêu việt của những người đi “khai hóa” là hai định đề khoa học vững chắc: văn minh nhân loại từ Lưỡng Hà truyền qua Hy-La sang châu Âu rồi từ đó qua Trung Á vào Trung Quốc, sau cùng xuống Đông Nam Á. Còn con người, từ cao nguyên Tạng chuyển dịch về phía đông nam, qua Trung Hoa tới Việt Nam. Là nhà nho, họ đương nhiên cũng là đệ tử của quan niệm Hoa tâm – Trung Quốc là trung tâm của văn minh phương Đông. Dưới mắt họ, Việt Nam cùng Đông Nam Á chỉ là vũng nước đọng của lịch sử! Vì vậy, để hiểu về xứ Annam mông muội, học giả Pháp bắt đầu từ cổ thư Trung Hoa.
Năm 1904, trong cuốn Le Cambodge xuất bản tại Paris, viện sĩ E. Aymonier đề xuất giả thuyết: “Tổ tiên những người ngôn ngữ Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi phía nam Tây Tạng rồi di chuyển về phương nam theo hai hướng, hướng tây nam sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông Dương.”
Từ thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ trước, học giả L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng:“Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Chiết Giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…”
”Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”(1)
Áp dụng hai thuyết trên vào lĩnh vực ngôn ngữ học, nhà ngữ học hàng đầu của Viễn Đông Bác Cổ L. Maspéro cho rằng: “Tiếng Việt vay mượn khoảng 70% từ tiếng Hán.”
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950. Qua những văn bia chữ Phạn thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam, ông cho rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc.
Từ thập niên 1920, Viện Viễn Đông Bác Cổ tiến hành nhiều khai quật khảo cổ học, phát hiện văn hóa đá mới Hòa Bình. Tới thập niên 1930 tìm thấy trống đồng Đông Sơn được đúc một cách tinh xảo. Nhìn nhận việc này, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern cho rằng Đông Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều “làn sóng văn hóa”, và những cuộc di cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những cái rìu mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Trống đồng Đông Sơn là thành quả của một làn sóng văn hóa khác, xuất phát từ người Đông Âu, những người di cư về phía Nam vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau đó.
Trong khi học giả hàng đầu của Đông phương học Pháp tự khuôn mình trong định kiến hẹp như vậy thì bức tranh toàn cảnh của khoa học nhân văn thế giới đa dạng hơn.
Thời đó đã tồn tại hai giả thuyết về nguồn gốc con người. Giả thuyết Phi châu (Out of Africa hypothesis.) phát biểu rằng con người hiện đại chỉ xuất hiện từ Phi châu khoảng 100.000 đến 200.000 năm trước. Trái ngược với nó là Giả thuyết Nhiều vùng (Multiregional hypothesis) lý giải rằng con người hiện đại tiến hóa trong nhiều địa bàn trên thế giới từ Homo erectus khoảng 1 đến 2 triệu năm trước.
Tư tưởng của Thuyết Nhiều vùng kết hợp với cổ thư Trung Hoa đã chi phối các học giả Viễn Đông Bác Cổ, khiến họ có cái nhìn định kiến về Viễn Đông.
Tháng Giêng năm 1932, Hội nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác nhận: “Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm.” (Encyclopédia d’Archeologie). Tuy nhiên phát hiện này không được trường phái Viễn Đông Bác Cổ ủng hộ.
Sự bảo thủ như vậy không chỉ về khảo cổ mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là ngôn ngữ học. Cho tới năm 1905, Đại tá người Pháp Frey, H, (1847-1932) từng làm việc tại Tây Phi và Đông Dương đã công bố ba cuốn sách liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là: 1. L’Annamite, mère des langues; communauté d’origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et de l’Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương); 2. Annamites et extréme occidentaux, recherche sur l’origine des langues, Paris Hachette, 1894, 272 p. (An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ) và 3. Les Egyptiens préhistoriques identifiés avec les Annamites, d’aprés les inscriptions hiéroglyphiques Paris, Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ khắc tượng hình). Một vài tác giả khác cũng có cái nhìn gần gũi với Frey: tiếng Việt là mẹ các ngôn ngữ phương Đông. Tuy nhiên các học giả chủ chốt của Viễn Đông Bác Cổ phản bác đề xuất này. Đặc biệt, từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Przilusky với viện sĩ Maspéro về nguồn gốc của ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Przilusky đồng ý với Frey là tiếng Việt sinh ra các ngôn ngữ phương Đông thì Maspéro cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Ở đây, kẻ chiến thắng không phải chân lý khoa học mà là vai vế của người tranh luận. Quan điểm của Przilusky bị bác bỏ. Các học giả tiên phong người Việt từ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố tới Đào Duy Anh học theo rồi truyền bá thành kiến thức chính thống trong cộng đồng người Việt.
Trong khi các yếu nhân của Viễn Đông Bác Cổ cứ theo định kiến của minh thì trên thực địa khoa học ngày càng xuất hiện nhiều tiếng nói trái chiều.
Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội nghị về Tiền sử Viễn Đông 20 năm trước, học giả Hoa Kỳ C. Sauer viết trong cuốn Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán (Agricultural Origins and Dispersals): “Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ.” “Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật.”
Năm 1965, để cứu một di chỉ sắp chìm trong hồ thủy điện, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Solheim II được phái đến Thái Lan. Qua hiện vật tìm được ở Động Linh hồn (Spirit Cave), Chester Gorman và các cộng sự ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, ông phát hiện một cây rìu và dao có niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở Trung Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế do Trung Quốc “xuất cảng” sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước Công nguyên).
Năm 1972 Chester Gorman trở lại Thái Lan. Ông tìm thấy hai động khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định cư của con người tại đây khoảng 10.000 năm trước Công nguyên đến 1.000 năm sau Công nguyên. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước đó). Năm 1966, một học trò khác của Solheim II là Donn Bayard tiến hành khai quật một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm được chôn cất cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích, Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 đến 2.000 năm trước Công nguyên (thời gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài ra, Bayard còn khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu hiệu thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ khuôn. Những phát hiện tại Động Linh Hồn và nghĩa trang Non Nok Tha là một thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết từng được lưu hành và chấp nhận trước đây.
Từ những khám phá trên, vào năm 1967, Giáo sư W.G. Solheim II đã viết:
   “Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN…”
“Rằng Văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc Sơn.”
“Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát minh…” “Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN.” (2)
Người phương Tây có ngạn ngữ “Khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng.” Tiếng nói trong cô đơn của nhà khoa học bị át đi không chỉ bởi bom đạn. Điều lạ lùng là chúng không hề gây tiếng vang nào trong giới khoa học Việt Nam.
Cũng thời gian này, dưới đạn bom, giới khảo cổ miền Bắc Việt Nam hồ hởi phát hiện thêm về nền văn hóa Đông Sơn với mục tiêu chính trị, chứng minh cho thời Hùng vương trong sử Việt.
Phát huy tư tưởng Maspéro của Viễn Đông Bác Cổ, dưới ánh đèn dầu trong lán trại sơ tán tại Đại Từ Thái Nguyên, vị giáo sư hàng đầu của ngôn ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn khởi thảo công trình ngữ học lớn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt! Một học giả khác, Cao Xuân Hạo, đơn thương độc mã tìm lại bản thể của ngữ pháp Việt mà theo ông đã bị các nhà Tây học xuyên tạc!
Trong bộ môn nhân chủng học, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa hàng ngày rị mọ đo lại chỉ số của hơn 70 chiếc sọ trong sưu tập sọ cổ Việt Nam, thai nghén công trình Nhân chủng học Đông Nam Á.
Vào thập niên 1980, những công trình hoài thai trong khói lửa đã ra đời.
Áp dụng quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, khoa học lịch sử Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội Triệu Đà xâm lược và trục xuất thời đại nhà Triệu khỏi chính sử. Từ phát hiện về văn hóa Đông Sơn, các sử gia Việt Nam chối bỏ truyền thuyết nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN để khẳng định, lịch sử Việt bắt đầu cách nay 2700 năm.
Cuốn sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt ra đời. Vựợt qua người thầy Tây của mình, Giáo sư Nguyễn khám phá ra trong tiếng Việt có lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa, mặc nhiên thừa nhận, tiếng Việt còn vay mượn nhiều hơn 70% từ ngôn ngữ Mẹ Hán! Được giới học thuật trong nước và quốc tế đánh giá cao, tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trong khi đó, bằng nhiều nghiên cứu, Cao Xuân Hạo từng bước tìm lại ngữ pháp nguyên thủy của tiếng Việt đã nhiều năm bị cải biến theo văn phạm Gôloa! Và cố nhiên, ông trở thành con người khó chịu, không được ưa chuộng!
Trong công trình Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa kết luận:
“Thoạt kỳ thủy, trên lãnh thổ Việt Nam và Đông Nam Á xuất hiện hai đại chủng Mongoloid và Australoid, họ hỗn hòa với nhau cho ra bốn chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, thuộc nhóm loại hình Australoid. Vào thời Ðá Mới, cư dân Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanésien là hai thành phần chủ yếu. Sang thời Ðồng-Sắt, trên toàn Ðông Nam Á diễn ra việc chuyển hóa mạnh từ loại hình Indonesien sang loại hình Nam Á (Mongoloid phương Nam). Thành phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực, không hiểu là do di dân hay đồng hóa.”
Từ hôm nay nhìn lại, qua lăng kính di truyền học, ta thấy rằng, đó là phát hiện cực kỳ chính xác, có thể nói, là thành tựu cao nhất mà nền nhân chủng học “đo sọ” có được. Tuy nhiên, do hạn chế của khoa học lúc đó, khám phá của vị giáo sư cũng như câu hỏi do ông đặt ra vẫn treo đó!
Và cho tới năm 2003, Giáo sư Trần Quốc Vượng, ở ngôi “tứ trụ” của sử học Việt Nam vẫn tuyên bố trên Đài BBC tiếng Việt: “Việt Nam ủng hộ thuyết Nhiều vùng của tổ tiên loài người.”
Có thể nói, cho tới cuối thế kỷ trước, khoa học nhân văn Việt Nam, dù có những phát hiện thêm di chỉ khảo cổ học nhưng về mặt tư tưởng, chưa vượt qua những gì được hình thành từ thời Viễn Đông Bác Cổ, thậm chí còn có những thụt lùi.
*
*     *
Dấu hiệu về sự khủng hoảng của một ngành khoa học xuất hiện khi nó bất lực không trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Sự khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam là có thật nhưng nói cho cùng, nó cũng nằm trong khủng hoảng chung của khoa học nhân loại do chưa có sự bứt phá mới, giải quyết dứt điểm vấn đề cơ bản nhất là nguồn gốc người hiện đại và quá trình hình thành các tộc người trên Trái đất.
Và việc phải tới đã tới.
Đó là ngày 29 tháng 9 năm 1998, khi nhóm nghiên cứu do Giáo sư J.Y Chu đứng đầu công bố công trình nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc với nội dung sau:
1. Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ Đông Phi khoảng 160.000 đến 200.000 năm trước.
2. Người tiền sử từ châu Phi băng qua Hồng Hải, men theo bờ biển Ấn Độ dương tới Việt Nam 60.000 đến 70.000 năm trước.
3. Tại Việt Nam, họ hòa huyết, tăng số lượng rồi 50.000 năm trước di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, tới Ấn Độ. 40.000 năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên Trung Quốc và khoảng 30.000 năm trước vượt qua eo Bering sang chinh phục châu Mỹ.

Thông tìn trên gây chấn động giới khoa học Mỹ vì nó có ý nghĩa lật đổ với thuyết Nhiều vùng và mở ra viễn cảnh to lớn cho khoa học nhân văn thế giới.
Ở Australia, chúng tôi đón nhận thông tin này như niềm vui lớn và do chuyên môn của mình, bắt tay vào cuộc nghiên cứu. Từ năm 2001 chúng tôi đã có những bài viết đầu tiên về khám phá này và trong các năm 2003 – 2006 đăng trên tạp chí Tư tưởng.
Anh Hà Văn Thùy tiếp cận công trình của nhóm J.Y. Chu vào cuối năm 2004 và từ đó có trao đổi học thuật cùng chúng tôi. Ba cuốn sách anh Thùy có được, phần quyết định là nhờ tư tưởng của những phát hiện mới mẻ này.
*
*   *
Với khoảng hơn 400 trang in, Viết lại lịch sử Trung Hoa có thể giữ kỷ lục về số chữ ít mà hàm chứa lượng thông tin lớn:
  1. Cho đến nay, dù tự hào có 24 cuốn quốc sử (nhị thập tứ sử), người Trung Hoa vẫn chưa xác định được tổ tiên mình là ai. Những học giả hàng đầu của Trung Quốc đang tranh nhau hai quan điểm: phái cổ điển cho rằng, tổ tiên họ từ người Erectus Nguyên Mưu, Chu Khẩu Điếm. Phái cách tân lại nhận tổ tiên họ là người Arian từ phương Tây tới. Trong Viết lại lịch sử Trung Hoa, nhất quán với công bố từ trước, và với chứng cứ vững chắc hơn, tác giả khẳng định, người Trung Quốc là những người từ Việt Nam đi lên, trong quá trình lịch sử có hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc, cũng từ Việt Nam tới.
  2. Một vấn đề nhạy cảm trong lịch sử Trung Hoa là nguồn gốc của nhóm Hoa Hạ. Tác giả khám phá rằng: người Hoa Hạ xuất hiện khoảng 2700 năm TCN, sau cuộc xâm lược của người Mongoloid phương Bắc vào địa bàn của người Việt chủng Mongoloid phương Nam ở nam Hoàng Hà. Tại đây, lớp con lai Mông-Việt ra đời. Nhờ được kết hợp hai dòng máu và hai văn hóa, người Hoa Hạ trở thành lớp người ưu tú, nắm giữ vai trò lãnh đạo khối dân Việt đông đảo, làm nên thời kỳ rực rỡ của Trung Hoa từ Nghiêu, Thuấn tới thời Chu. Do vinh quang của tộc Hoa Hạ nên sau này, khi giành được quyền bính, những thủ lĩnh người Việt như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang cùng bộ phận lớn người Việt cũng nhận là Hoa Hạ.
  3. Trái ngược với niềm tin vững chãi trong giới ngữ học quốc tế theo giả thuyết của nhà ngữ học Thụy Điển Bernhard Karlgren cho rằng tiếng Trung Hoa thuộc ngữ hệ Hán Tạng, rằng tiếng Việt vay mượn 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa; với nhiều bằng chứng khó phản bác, tác giả chứng minh, tiếng Trung Hoa là tiếng Việt cổ được nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) và không hề có cái gọi là ngôn ngữ nguyên Hán Tạng (Proto Sino-Tibetan)
  4. Cho đến nay, ngoài huyền thoại Hoàng Đế sai Thương Hiệt chế chữ thì người Trung Hoa chưa chứng minh được ai sáng tạo chữ vuông tượng hình. Trong tác phẩm của mình, với nhiều bằng chứng khó tranh cãi, tác giả cho thấy, người Việt cổ ở phía nam Dương Tử sáng chế ra chữ tượng hình, từ những nét sơ khai tại bãi đá Sapa tới chữ Giả Hồ, Cảm Tang và cao nhất là Giáp cốt văn tại An Dương Hà Nam. Khi xâm lăng Hà Nam, nhà Ân đã học chữ của người Việt rồi phát triển lên.
  5. Phát hiện thứ năm của tác giả là xác định hai nền văn hóa trên đất Trung Hoa. Trong thời gian dài sinh sống trên đất Trung Hoa, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Với cuộc xâm lăng của Hiên Viên và sự xuất hiện nhóm Hoa Hạ, văn hóa trên đất Trung Hoa chuyển sang giai đoạn rực rỡ tới cuối đời Tây Chu. Sau đó, do nhiều biến động lịch sử, những tộc người du mục xâm nhập, đồng thời bản năng du mục trong khối Hoa Hạ trỗi dậy, đẩy Trung Hoa vào thời Chiến Quốc tàn bạo. Các đế chế Trung Hoa hình thành, ngày thêm khuếch trương bản năng du mục, tạo ra khuôn mặt của văn hóa Trung Hoa hiện đại.
  6. Trong một bài viết, tác giả yêu cầu “Trả lại công bằng cho lịch sử.” Với những trước tác của mình, tác giả không những đã trả lại công bằng cho lịch sử mà hơn nữa, tìm ra bài học quý giá từ lịch sử.
Chúng ta đều biết, khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng hà cuối cùng chấm dứt, người phương Tây thuần hóa con cừu con dê đầu tiên, bước vào phương thức sống du mục. Nhưng từ 50-60000 năm trước đó, tại địa đàng phương Đông, người Việt đã có cuộc sống xã hội rồi sớm bước vào nông nghiệp. Chính nông nghiệp làm nên văn hóa rực rỡ của phương Đông. 400 năm trước, chủ nghĩa tư bản của văn minh du mục với thép, vi trùng và súng tiến vào hủy diệt văn hóa phương Đông và đến nay đang đe dọa hủy diệt nhân loại. Trí tuệ nhân loại đang bị khủng hoảng, chưa tìm ra lối thoát. Những bộ óc hàng đầu của phương Tây cho rằng vấn nạn của nhân loại ngày nay là do nữ quyền bị chén ép. Một sai lầm chết người! Không phải là nữ quyền mà vấn đề lớn hơn mang tầm vũ trụ: sự phá vỡ cân bằng Âm Dương của thế giới! Là con đẻ của văn minh du mục, chủ nghĩa tư bản đã đẩy thế giới vận hành theo chiều Dương cực thịnh, Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Làm sao đây cứu nguy nhân loại? Minh triết phương Đông chỉ ra: phải hướng thế giới trở lại vận hành hài hòa theo chiều tham thiên lưỡng địa của văn hóa nông nghiệp Việt tộc, tức dành cho Cha, cho Dương 3 phần, thì cũng dành 2 phần cho Âm, cho Mẹ!

*

*     *

Ở trên, tôi có nói tới cuộc khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam. Không có gì bất thường vì nó là một bộ phận của cuộc khủng hoảng chung của khoa học nhân văn thế giới, khi bằng tận lực của mọi công nghệ cùng phương pháp luận cũ, con người vẫn bất lực trong việc giải quyết vấn đề căn cơ nhất là nguồn gốc của nhân loại và sự hinh thành các dân tộc trên hành tinh. Mọi hành vi lịch sử, văn hóa đều là sản phẩm hoạt động xã hội của con người vì vậy chỉ có thể hiểu thấu đáo lịch sử văn hóa khi hiểu thấu đáo chính con người!
Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, một công nghệ mới cùng với phương pháp luận mới đã mở ra cơ hội lớn của khoa học nhân văn. Con người tìm lại chính xác tổ tiên cội nguồn không còn qua hiện vật khảo cổ hay những mẩu xương hóa thạch mà là tìm ngay trong chính dòng máu linh thiêng của mình.
Là may mắn, nhưng có lẽ đúng hơn là do duyên nghiệp, nên tuy không phải bỏ ra đồng xèng nào cho những công trình di truyền học, người Việt Nam thụ đắc khối lượng lớn kết quả nghiên cứu của nhân loại. Kỳ diệu sao, tất cả những khám phá lẫy lừng thập niên đầu thế kỷ đều chứng minh rằng, con người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam rồi lan ra toàn châu Á; rằng, người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á… Một khi Việt Nam đã là cái nôi của các dân tộc châu Á, mặc nhiên cũng là nôi của văn minh châu Á!
Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thuy trên thực tế, đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của thế giới.
Nhận thấy đây là công trình có giá trị, mặc dầu có vài lý giải có thể còn chưa được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay ở trong và ngoài nước, tôi trân trọng giới thiệu công trình nghiên cứu công phu này của anh Hà Văn Thùy đến bạn đọc.

Sydney, ngày 15/06/2013
Ph.D. Nguyễn Đức Hiệp
Chuyên gia Khoa học khí quyển Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Australia

Tài liệu tham khảo:
1. L. Aurousseau. Khảo về cỗi rễ dân An Nam. Bản dịch của Hồng Nhân Phạm Quỳnh. Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480
  1. W.G. Solheime II. New light on Forgotten Past. National Geographic, Vol. 139, No. 3, tháng 3 năm 1971.)
  2. J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768)
 http://khoahocnet.com/2014/08/15/gioi-thieu-sach-moi-viet-lai-lich-su-trung-hoa-cua-ha-van-thuy/

8 nhận xét:

  1. Ông ĐKC đã hỏi từ trước đó:
    BẰNG CHỨNG ĐÂU, THƯA ÔNG HÀ VĂN THÙY?
    http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/dien-dan38/bang-chung-dau,-thua-ong-ha-van-thuy

    Ông Hà Văn Thùy từng nổi tiếng với giả thuyết người Việt Nam lên khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. Trong cuộc tranh luận trên trang viet-studies của Trần Hữu Dũng (viet-studies.info) năm 2008, ông Hà Văn Thùy còn nợ tôi câu hỏi về bằng chứng của giả thuyết khá kỳ lạ đó. Trong bài viết “Không có chuyện người Việt khai phá Trung Hoa 40.000 năm trước”, tôi đã bác bỏ giả thuyết đó, thậm chí còn phê phán Hà Văn Thùy tư duy theo kiểu “suy bụng ta… ra bằng chứng”. Không thấy ông Hà Văn Thùy trả lời, những tưởng ông đã từ bỏ giả thuyết nặng tính tư biện đó, nhưng mới đây tôi mới té ngửa ra rằng, không những không từ bỏ, mà ông còn mở rộng sự tư biện lên một cấp độ mới, khi cho rằng người Việt thiên di tới tận Trung Đông để góp phần tạo nên người châu Âu!
    Khá quen thuộc với phong cách bay bổng trong tư duy của một nhà văn, nên tôi chỉ xin được hỏi một câu rất đơn giản: Đâu là bằng chứng di truyền của giả thuyết người Việt khai phá Trung Hoa 40.000 năm trước, thưa ông Hà Văn Thùy? Xin ông vui lòng dẫn tài liệu gốc thật rõ ràng để mọi người có thể tham khảo. Nếu là cuốn sách riêng, xin ông vui lòng chỉ rõ tên tác giả, tựa sách, nội dung trích dẫn. Và nếu ông vui lòng chụp đoạn trích để mọi người cùng biết thì tôi rất cảm ơn.
    Có lẽ do được đào tạo chính quy về sinh học nên rất say mê các bằng chứng di truyền học, nhưng dường như ông Hà Văn Thùy vẫn chưa nắm bắt kịp nhưng thông tin không còn mới nữa, chẳng hạn kết quả của Dự án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ thời gian 2005 - 2010 hoặc khám phá của Tổ chức bộ gien người HUGO năm 2009. Ngay một tài liệu khá xưa trên tạp chí Di truyền học (Mỹ) năm 1992 vẫn được ông trích dẫn để khẳng định người Việt có sự đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân châu Á (khám phá của nhóm Ballinger mà ông Hà Văn Thùy từng đề nghị ông Tạ Đức đọc), dường như ông cũng chưa khai thác hết thông tin mà nó có thể mang lại. Nếu nắm đủ các thông tin đó, có lẽ ông Hà Văn Thùy sẽ không băn khoăn về nguồn gốc của đại chủng Á (người Mongoloid), như vẫn thể hiện trong các bài viết của ông.
    Thưa ông Hà Văn Thùy, đâu là bằng chứng di truyền của giả thuyết người Việt thiên di tới Trung Hoa 40.000 năm trước; thậm chí tới cả Trung Đông để góp phần tạo nên người châu Âu?
    TP Hồ Chí Minh ngày 21-07-2014

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. MỘT LẦN NỮA XIN ĐƯỢC HỎI NHÀ VĂN HÀ VĂN THÙY
      http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/dien-dan38/mot-lan-nua-xin-duoc-hoi-nha-van-ha-van-thuy
      Trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 có đăng bài viết Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu? của nhà văn Hà Văn Thùy, với những luận điểm đã khá quen tai về nguồn gốc người Việt. Theo Hà Văn Thùy, người hiện đại đã tới Việt Nam từ 70.000 năm trước và người Việt đã khai phá Trung Hoa từ 40.000 năm trước. Tôi từng bác bỏ giả thuyết đó từ năm 2008 (xin lưu ý bạn đọc rằng, Hà Văn Thùy hoàn toàn im lặng trước sự bác bỏ đó); và mới đây lại yêu cầu Hà Văn Thùy đưa ra bằng chứng trong bài Bằng chứng đâu, thưa ông Hà Văn Thùy? (Văn hóa Nghệ An online, 21-7-2014). Vậy nay thì ông Hà Văn Thùy trả lời như thế nào?
      1. Người Việt khai phá Trung Hoa 40.000 năm trước?
      Trong bài vừa dẫn, Hà Văn Thùy viết: “không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá - hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó”. Bạn đọc có thể không biết rằng, Hà Văn Thùy đang chơi bài lập lờ đánh lận con đen, khi không dám tuyên bố rằng, ông đang trích dẫn xuyên tạc công trình Quan hệ di truyền của cư dân Trung Quốc của các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc do giáo sư Chu đứng đầu, được đăng tải trên tạp chí Thông báo của Viện hàn lâm khoa học Mỹ PNAS ngày 29-9-1998. Bạn đọc có thể không ngờ được rằng, trong công trình của Chu, không có một chữ nào nói về địa danh Việt Nam, người Việt hay thời điểm 40.000 năm cả! Nói cách khác, Hà Văn Thùy đã lập thuyết dựa trên sự ngụy tạo tài liệu! Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về sự ngụy tạo đó bằng cách truy cập bài báo gốc của nhóm nghiên cứu do Chu đứng đầu trên PNAS tại địa chỉ www.pnas.org/content/95/20/11763.full.pdf+html. Nếu không đồng ý với nhận định của tôi, xin ông Hà Văn Thùy vui lòng dẫn ra tài liệu gốc để bạn đọc phán xét.
      Vậy người hiện đại tới Trung Hoa khi nào? Trong cuốn sách Human origins: What bones and genomes tell us about ourselves, do Đại học Texas xuất bản năm 2008, tại trang 152, các nhà khoa học Rob DeSalle, đồng giám đốc Phòng thí nghiệm các hệ thống phân tử, trưởng ban Động vật có xương sống, và Ian Tattersall, trưởng ban Nhân học tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Mỹđã viết:“phân tích 20.000 nhiễm sắc thể Y từ 58 dân tộc sống tại Trung Hoa, các nhà khoa họcTrung Quốcthấy rằng Homo sapiens tới Trung Quốc từ 30.000 năm trước, và Vân Nam và Quảng Tây là nơi đầu tiên nhìn thấy sự lan tỏa của họ”. Điều đó chứng tỏ giả thuyết của Hà Văn Thùy hoàn toàn sai sự thật; và bài viết mới trên Văn hóa Nghệ An online ngày 6-8-2014 chỉ là sự lặp lại các luận điểm đã bị bác bỏ mà thôi.
      2. Bốn mươi ngàn năm trước đã có người Việt hay chưa?
      Để không mất thời gian của bạn đọc, tôi xin khẳng định rằng, 40.000 năm trước, trên toàn bộ Trái Đất chỉ có người da đen mà thôi. Các đại chủng Âu (Caucasoid) hoặc Á (Mongoloid) chỉ xuất hiện hoàn chỉnh khoảng 12.000 - 10.000 năm trước, trong kỷ Toàn Tân (Klein RG, The Human Career: Human Biological and Cultural Origins, Second Edition, University of Chicago Press, 1999, p 502). Và do vậy các tộc người như chúng ta thấy ngày nay (người Việt, người Hán, người Thái, người Khmer…) chắc chắn phải xuất hiện muộn hơn nhiều, khi hình thành các quốc gia sơ khai.

      Xóa
    2. (hết)
      3. Sáu ngàn năm trước, người Việt chiếm 60% nhân số thế giới?
      Hà Văn Thùy viết: “Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử”. Có rất nhiều điều đáng bàn trong những nhận định tưởng như đơn giản đó.
      Với tư cách một nhà khoa học thực chứng, tôi lại xin hỏi nhà văn Hà Văn Thùy mấy câu hỏi như sau: 1) Đâu là bằng chứng cho nhận định khoảng 6000 năm trước, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới? Xin ông vui lòng dẫn ra tài liệu gốc thật rõ ràng để mọi người cùng xem xét. 2) Trị thủy Hoàng Hà là công việc của người Hán, sao ông lại vơ vào cho người Việt như vậy? Ngay cả trị thủy sông Dương Tử cũng là công việc của các tộc Việt khác trong Bách Việt Hoa Nam (theo cách gọi phiếm chỉ của người Hán), chứ liên quan gì tới người Việt Nam ta?
      4.Tại Trung Quốc, người Việt hòa huyết với người Mogoloid phương Bắc sinh ra người Mongoloid phương Nam?
      Hà Văn Thùy cũng viết: “khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân”. Viết như vậy chứng tỏ Hà Văn Thùy không biết các thông tin mới của Dự án bản đồ gien Hội địa lý quốc gia Mỹ 2005 - 2010 và khám phá cách mạng của Tổ chức bộ gien người HUGO năm 2009. Theo đó thì Đông Nam Á là nguồn gốc chủ yếu của người Đông Á, sau kỷ băng hà cực đại (khoảng 15.000 - 10.000 năm trước). Và mặc dù thường xuyên nhắc tới công trình của nhóm Ballinger từ 1992 (người Việt Nam có sự đa dạng di truyền cao nhất trong số các sắc dân được nghiên cứu), nhưng ông Hà Văn Thùy không nhận thấy rằng, công trình đó giả định người châu Á có nguồn gốc Mongoloid phương Nam! (Nguyên văn nhận định quan trọng đó trong phần tóm tắt công trình như sau: “The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians”; và nó có thể dịch thành: “Sự đa dạng ADN ty thể lớn nhất và tần suất cao nhất của các ADN ty thể với gien HpaI/HincII morph 1 ở người Việt Nam dẫn tới giả định về nguồn gốc Mongoloid phương Nam của người châu Á”).
      Nói cách khác, các bằng chứng nhân chủng học phân tử cho thấy, khác với tiền niệm về nguồn gốc phương Bắc, chính Đông Nam Á mới là nơi phát tích đại chủng Á (Mongoloid). Tất cả những thông tin đó đã được tôi trình bày trong bài viết Một giả thuyết về nguồn gốc người Việt dựa trên bằng chứng nhân chủng học phân tử, đã được in kỳ đầu trên Văn hóa Nghệ An số 273 ngày 25-7-2014 (kỳ cuối sẽ được in trong số kế tiếp).
      5.Hà Văn Thùy đồng thuận với Tạ Đức?
      Mặc dù Hà Văn Thùy phản bác quan điểm thiên di của người Bách Việt Hoa Nam của Tạ Đức, xem đó là một kiến giải sai về nguồn gốc dân tộc, nhưng về thực chất quan điểm của ông cũng là một kiểu thiên di từ phương Bắc. Sự khác biệt giữa hai ông chỉ là ở chỗ, có (ông Hà Văn Thùy) hay không (ông Tạ Đức) xem xét nguồn gốc người Bách Việt Hoa Nam mà thôi.
      6. Kết luận:
      Bên cạnh việc ghi nhận nhiệt huyết với bài toán nguồn gốc dân tộc, chúng ta không thể đồng tình với các thao tác phi khoa học, thậm chí mang tính lừa gạt, trong cách lập luận của Hà Văn Thùy. Một lần nữa xin được hỏi nhà văn Hà Văn Thùy rằng, đâu là bằng chứng không thể bác bỏ cho các giả thuyết động trời của ông, theo đúng tiêu chí Carl Sagan trong khoa học (tuyên bố khác thường đòi hỏi chứng cứ khác thường)?
      TP Hồ Chí Minh ngày 8-8-2014

      Xóa
  2. Các nghiên cứu của ông Hà Văn Thùy chịu ảnh hưởng của Stephen Oppenheimer và Kim Định. Muốn biết giá trị Việt Nho của Kim Định thì có thể tham khảo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường. Còn "Thiên đường ở phương Đông" cũng mới chỉ là giả thuyết thôi.

    Đọc mấy cái bài viết của ông Hà Văn Thùy đăng trên vanchuongviet.org với lời giới thiệu của ông tiến sĩ ở Úc này thì tôi có cảm giác về một dạng thuyết chủng tộc phát xít, các vị này cố chứng minh sự ưu việt của chủng tộc bất chấp lịch sử, bất chấp các quan hệ kinh tế.


    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cu Nỡm cũng chịu khó quan sát đấy chứ !

      Mình thì cách nay khoảng 20 năm, mê Kim Định (lúc đó phải đi tìm sách rải rác khắp nơi để đọc, bây giờ, ở giá sách vẫn còn nguyên cả bộ). Nhưng cũng chỉ mê được một thời gian ngắn, Rồi đã tắt ngấm từ lâu.

      Sau rồi, ở Việt Nam, ban đầu là Trần Ngọc Thêm, thêm một ít nữa, và bây giờ là nhóm Hà Văn Thùy.

      Nhưng để khách quan, không thiên kiến, ta cứ phải xem đủ các bên đã. Khoa học là thế mà. Trong những ý tưởng cao vút trời xanh, vẫn có những thứ tìm được ra ý nghĩa hay. Mà những phản luận, dù sau, vẫn là từ những giả thiết, phản lại một giả thiết khác.

      Mình vốn không quan tâm LOÀI NGƯỜI từ đâu tới. Do chuyên môn, chỉ quan tâm LOÀI NGƯỜI sống kiểu loài người như thế nào. Nhưng cũng không vì thế mà không quan tâm đến cái nguồn gốc, hiện được xem là kết hợp của LỢN và ĐƯỜI ƯƠI.

      Cu Nỡm mà rảnh tay một chút, là mình nhờ phần tiếng Anh một số tư liệu đấy. Nhận lời không ? Mình sẽ chỉ cụ thể từng cái.

      Riêng về lúa thì đang làm với hehe. Một cách từ từ. Như là giải lao bên những trang viết, mà cũng là học.

      Xóa
    2. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

      Xóa
    3. Đợt này tôi phải cày cuốc nhiều, xin khất bác dịp khác nhé. Tôi chỉ chuyên về kinh tế và kinh doanh, không có kiến thức chuyên môn về các ngành khoa học khác nên cũng không dám đi sâu vào khoa học.

      Xóa
    4. ok, cảm ơn Cu Nỡm. Như vậy thì thoải mái hơn. Khi nào Nỡm rảnh, đỡ cày cuốc đi, lên bờ làm bát nước chè tươi, thì mình nhờ nhé !

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.