Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

17/10/2013

Văn bản Lý Sơn - 2 (bài Nguyễn Đăng Vũ, tháng 7/2009)

Bài gồm hai kì trên báo Tiền PhongỞ đây gộp lại làm một.

Theo thông tin của bài này, văn bản Lý Sơn đã được nhiều người dịch, mà sớm nhất là từ năm 1999. Nguyên văn :"theo các bản dịch của các ông Dương Quỳnh – dịch tháng 3 năm 1999; Võ Hiển Đạt, Nguyễn Đức Tập, Lâm Dũ Xênh, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Tấn An dịch vào tháng 4 - 2009".

Như vậy, bản gốc của văn bản Lý Sơn đã được biết đến không phải mới đây, từ năm 1999 đã có bản dịch đầu tiên (tạm cho như vậy).


Trong tên những người dịch tháng 4/2009, có một bác Hoa kiều mà tôi quen biết, là Lâm Dũ Xênh. Lâm người gốc Hải Nam, là một nhà sưu tập đồ cổ có khả năng đọc và dịch văn bản chữ Hán tương đối (chữ Nôm thì hiện nay không rõ, còn ở thời điểm đó thì hầu như không đọc được). 

Sự xuất hiện của Lâm Dũ Xênh trong nhóm phát hiện và cùng dịch văn bản Lý Sơn cho tôi một cảm giác thú vị. Nguyễn Đăng Vũ đã ghi chép việc sát với thực tế, bởi vì, thực ra, anh không đọc được Hán văn (hoặc chỉ đọc được những chữ đơn giản), nên thường hay rủ người bạn Lâm Dũ Xênh đi cùng khi cần thiết.

Từ đây trở xuống là chép nguyên từ Tiền Phong.

---


Lệnh cơ mật 
Có một vài sai sót nhỏ (về nội dung) mà báo chí đã đưa tin ngay sau ngày chúng tôi tiếp cận văn bản, như về niên đại, một vài tờ báo, trang web ghi là năm Ất Mùi – 1835, mà đúng ra phải là năm Giáp Ngọ - 1834; hoặc về chủ thể văn bản, không phải là của vua Minh Mạng mà là của quan Bố -Án  (quan Bố chánh và Án sát), như có viết ở trang đầu văn bản, và vì thế cũng không thể gọi là sắc chỉ.
Gia tộc họ Đặng bàn giao tờ Lệnh Hoàng Sa
Dù không phải sắc chỉ của vua, hoặc lệnh của Bộ Binh, nhưng chúng ta cũng thấy rằng, việc đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa để đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia chủ quyền, trồng cây trên đảo là có sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là vào thời Minh Mạng.
Sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương về việc đi Hoàng Sa – Trường Sa thể hiện rõ trong các bộ chính sử của triều Nguyễn, như “Đại Nam thực lục”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”…, hoặc trong các châu bản triều Nguyễn. Nội dung của văn bản này cũng đã thể hiện rõ điều đó, vì ngay  chính ở dòng đầu của trang đầu tiên cũng đã ghi là (quan Bố - Án) “vâng lệnh của Bộ Binh”! Nhưng vì sao lại chỉ có quan Bố chánh và Án sát đồng đóng dấu triện trên văn bản cổ này? Sao không thấy sự hiện diện của quan Tuần phủ?
Tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo “Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong “Hải Nam tạp trứ” của Thái Đình Lan - một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này - lúc bấy giờ tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng, tiến sĩ Phan Thanh Giản là người kiêm chức Tuần phủ Nam - Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, chính sự, quân sự...tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi.
Bố chánh Quảng Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 là Nguyễn Đức Hội và 1835 là Đặng Kim Giám. Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi trên văn bản cổ này có đóng dấu của quan Án sát lẫn quan Bố chánh. Và cũng chính từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật.
Quân lệnh như sơn
Trong tờ Lệnh Hoàng Sa có nói rõ về thời gian ấn định để các phái viên, biền binh, thủy thủ đi Hoàng Sa, đó là: cứ vào hạ tuần tháng ba hàng năm. Lần giở các bộ chính sử như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu...và châu bản của triều Nguyễn, lẫn các tài liệu khác có nói về những chuyến hải trình đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, 1837, 1838…(tức các năm Minh Mạng thứ 15, 16,  17, 18, 19...,) sẽ thấy danh tính những cai đội, đội trưởng, chánh đội trưởng suất đội, như Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Biện, các hướng dẫn viên đường thủy như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, các viên giám thành vẽ họa đồ Hoàng Sa là Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoàng…
Đình làng An Vương


Tuy nhiên, hàng trăm binh phu, thủy thủ khác cùng đi trong những năm này đều là vô danh. Điều đó không có gì là lạ, bởi sử sách không thể nào ghi đầy đủ tên tuổi, bản quán của tất cả binh phu cùng đi với họ trong từng năm một. Hàng trăm ngôi mộ gió còn hiện diện trên đất đảo Lý Sơn cũng đã góp phần chứng minh điều đó.

Họ là những ai trong văn bản cổ này? Người đầu tiên phải nhắc tới, đó chính là Võ Văn Hùng. Văn bản cổ của dòng họ Đặng cho biết, Võ Văn Hùng giỏi việc đi thuyền, rành rẽ hải phận, là người đã được cử đi từ năm trước (1833), nên lần này (1834) lại  được quan Án sát và Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục giao nhiệm vụ tuyển chọn thêm những binh phu am hiểu hải trình, đưa các phái viên ở kinh thành, biền binh, thủy quân thẳng tiến ra đảo Hoàng Sa.
Vào năm thứ Minh Mạng thứ 16 (Ất mùi - 1835), chuyến đi Hoàng Sa về chậm trễ, đo vẽ bản đồ chưa chu toàn, cai đội Phạm Văn Nguyên và các viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoàng bị phạt mỗi người 80 trượng. Riêng Võ Văn Hùng và Phạm Văn Sanh là những người có công trong việc hướng dẫn binh thuyền, tận tâm đo đạc hải trình nên được thưởng mỗi người 1 quan Phi Long ngân tiền. Các dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định cùng đi mỗi người cũng được thưởng 1 quan tiền.
Đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) cũng chính Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh cùng Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện, người chỉ huy chuyến đi Hoàng Sa lần này, do khởi hành chậm trễ nên đều bị phạt (nhưng binh lính thì vẫn được thưởng 2 quan tiền!).
Thật là quân lệnh nghiêm minh, thưởng phạt rõ ràng, và có lẽ việc thưởng phạt nghiêm minh ấy còn chứng tỏ rằng, thời ấy sứ mệnh đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa là một nhiệm vụ cực kỳ “quan yếu”, như đã có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải.
Từ những suy luận về ông Võ Văn Hùng nêu trên, ta có thể thấy, những người được nêu tên trong văn bản cổ này, như Đặng Văn Siểm, Dương Văn Định.. chắc hẳn cũng đã liên tiếp đi Hoàng Sa và Bắc Hải (cả Trường Sa) trong nhiều năm sau đó, trừ những người xấu số, phải chịu bó xác người bằng một đôi chiếu, 7 sợi dây mây, 7 chiếc đòn tre…để đồng đội thả trôi trên mặt biển bao la với chút hy vọng mỏng manh là xác người có thể được trôi về bản quán.
Họ cùng với các vị chỉ huy: Cai đội Trương Phúc Sĩ (vào năm 1833, 1834), cai đội Phạm Văn Nguyên (vào năm 1835), Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật (năm 1836), Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện (năm 1837) đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ các hòn đảo, cắm cột mốc chủ quyền, dựng miếu…với vô vàn thử thách.
Bản quán Đội Hoàng Sa
Những gì còn lưu lại tại gia tộc họ Võ làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, cho phép ta khẳng định: Ông Võ Văn Hùng là người thuộc gia tộc họ Võ (Văn) tại làng An Vĩnh, một dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ. Cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú là một ví dụ điển hình. Bên cạnh ông Võ Văn Hùng, trong văn bản cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ (khác): đó là Đặng Văn Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định, và các thủy thủy cùng đi, gồm: Phạm Quang Thanh (hay Tình, vì hai chữ này viết gần giống nhau, văn bản hơi mờ), Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài.
Mộ ông Phạm Hữu Nhật
Trong đó có 4 người ở đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai phường là An Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Hai người không ghi quê quán là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, nhưng theo chúng tôi, có lẽ họ cũng là người của Lý Sơn. Ông Võ Văn Công có thể là người dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh. Ông Trương Văn Tài có thể thuộc dòng họ Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền của làng này. Sở dĩ ta có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này đều do chính ông Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11 người có tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện đảo Lý Sơn.
Ngoài ra, văn bản cổ này còn ghi những người thuộc các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn (có thể tương đương với xã Bình Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Theo Đồng Khánh địa dư chí, địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888).
Ông Trần Văn Lê được ghi là ở Bàn An ấp, thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (bao gồm huyện Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay). Bàn An là tên một thôn thuộc xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ ngày nay). Ông Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là ở thôn Thạch Than, xã An Thạch. Đối chiếu với các sử liệu cũ, thôn Thạch Than, xã An Thạch cũng thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch Than chỉ dùng để chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh cùng ở thôn Thạch Than, xã An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa.
Về hai ông Dương Văn Định và Đặng Văn Siểm, họ là những người được quan Bố chánh và Án sát trực tiếp chỉ định “cứ thử”, tức phải vâng mệnh thi hành. Như đã nói ở trên, ông Đặng Văn Siểm được xác định rõ là người phường An Vĩnh (Lý Sơn). Riêng ông Dương Văn Định, hiện vẫn chưa xác định được ở làng quê nào hiện nay. Văn bản cổ chỉ ghi là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (không ghi rõ xã, tổng, huyện).
Nhưng thôn Hoa Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Hiện nay, các thôn trong tỉnh Quảng Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối), gồm: Tân Diêm (thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm (thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn)…Vì húy kỵ tên mẹ vua Thiệu Trị nên vào năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên người lẫn địa danh có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành Thanh Hóa, Đông Hoa thành Đông Ba, Mộ Hoa thành Mộ Đức…
Hoa Diêm chắc chắn cũng phải đổi, nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm như nói ở trên thì thôn nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm, thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện nay, tức là nơi có bến cảng Dung Quất bay giờ. Vì rằng, thời ấy Lý Sơn thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn.
Các dân binh được tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là người thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa, những người còn lại đều thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm đều thuộc các tổng khác (riêng Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không hợp lý).
---

Trùng khớp chính sử…
Tờ lệnh đi Hoàng Sa có nội dung chính: Theo lệnh của Bộ Binh, quan Bố chánh và Án tỉnh Quảng Ngãi làm bằng cấp chiếu theo tháng trước. Vâng sắc của triều đình Bộ đã chuẩn bị 3 chiếc thuyền tu bổ kiên cố tại kinh, phái viên và thủy quân biện binh cùng hiệp đồng cho thuyền đến Quảng Ngãi để đi nhanh đến đảo Hoàng Sa.
Tuân theo lệnh này, tỉnh (cũng) chuẩn bị (thêm) 3 chiếc thuyền nhẹ (lê thuyền) để chờ phái viên, thủy quân ở kinh thành đến và đã phái Võ Văn Hùng, là người đã thuần thục đường biển, đi từ năm trước, tuyển thêm binh phu giỏi nghề đi biển, cốt sao mỗi thuyền có được 8 người, 3 thuyền là 24 người, lại chọn được ông Đặng Văm Siểm là người có kinh nghiệm làm đà công, để đến cứ hạ tuần tháng 3 hàng năm cùng với phái viên, biền binh ở kinh thành thẳng tiến đến đảo Hoàng Sa để đo đạc thủy trình (theo các bản dịch của các ông Dương Quỳnh – dịch tháng 3 năm 1999; Võ Hiển Đạt, Nguyễn Đức Tập, Lâm Dũ Xênh, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Tấn An dịch vào tháng 4 - 2009).
Lần theo chính sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ này.
Sách “Đại Nam thực lục”, chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 4, tr.120).
Ở một số trang khác, sách này cũng cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi dựng miếu và lập bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm được, nên vào tháng 6 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên đem thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, dựng bia đá đảo Hoàng Sa (tr. 673).
Sách này còn cho biết thêm, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một  nơi… Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay (1834) trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.
Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho rõ, đem về dâng trình” (tr.867).
Chuẩn theo lời tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ).  Đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của triều Nguyễn, như “Đại Nam thực lục”, “Quốc triều chính biên toát yếu”… đều  có ghi chép.
Ngoài những trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách “Đại Nam thực lục”, đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên Hoàng Sa là Suất đội Thủy sư Phạm Văn Biện cùng thủy quân, binh phu đi Hoàng Sa bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839) mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa lần này cho biết, họ đã nhờ thủy thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm cảm tạ thủy thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh và dân phu đi theo (Tập 5, tr. 532).
Chỉ căn cứ theo các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử. Nội dung trùng khớp thứ nhất, đó là về thời gian: Hằng năm cứ vào hạ tuần tháng giêng là các phái viên, biền binh xuất quân ở kinh  thành, để đến thượng tuần tháng 2 là đến Quảng Ngãi và đến hạ tuần tháng 3 là đi Hoàng Sa.
Thứ hai, là về số lượng binh thuyền, sách “Đại Nam thực lục” ghi: Ngoài số binh thuyền ở kinh thành phái vào, ở Quảng Ngãi (lẫn Bình Định) còn chuẩn bị thêm 3- 4 chiếc thuyền nhẹ của dân địa phương (mà ở đây văn bản cổ họ Đặng cho biết tỉnh Quảng Ngãi năm 1834 đã chuẩn bị 4 thuyền, trong đó có 1 thuyền dành riêng cho ông Võ Văn Hùng đi với 8 thủy thủ ở tỉnh Quảng Ngãi như chúng tôi đã nêu tên ở bài trước). Do vậy, có thể suy ra, chuyến công vụ Hoàng Sa theo văn bản cổ của dòng họ Đặng có tất cả 7 thuyền, chứ không phải chỉ có 3 thuyền như trước đây một vài người đã suy đoán.
…và châu bản
Nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài liệu, thư tịch bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều vua khác nhau, đặc biệt là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá kỹ lưỡng về hoạt động của đội Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này. 
Trước hết đó là những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, những ghi chép của Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” và “Hoàng Việt địa dư chí”, những ghi chép của Nguyễn Thông trong “Việt sử cương giám khảo lược”… Sở dĩ ta xem văn bản cổ của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội dung so với các tài liệu này, bởi nhiều trang ghi chép trong “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, hay các sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử triều Nguyễn như “Đại Nam thực lục”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, “Đại Nam nhất thống chí” mà chúng tôi đã có dịp đề cập.
Riêng về hoạt động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép của các sử gia Việt Nam viết về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có những chỗ gần như nguyên văn một số sự kiện mà nhà bác học Lê Quý Đôn mô tả trong bộ sách “Phủ biên tạp lục” nổi tiếng, vốn được biên soạn vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh vào làm Hiệp trấn Thuận Hóa.
Cùng với những trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều Nguyễn trong “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, đó là các tờ phúc tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như Bộ Công, Bộ Hộ, các quan đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực đỏ, gọi chung là châu bản (châu = mực đỏ), đặc biệt là châu bản dưới thời vua Minh Mạng.
Châu bản tập Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người Hoàng Sa vào năm này (trong đó có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên giám thành 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công hướng dẫn hải trình như đã nêu ở bài trước).
Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu Nhật đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11 tháng 7 cũng năm Bính Thân (1836) cho xin thanh toán lương thực cho dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho biết việc sai các giám thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.
Trong năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình.
Thứ nhất, đó là Tờ tấu của Bộ công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc hoãn thi hành công vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng 3 vì mưa gió kéo dài.
Thứ hai, cũng là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838) cho biết: hướng dẫn viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và đã tuyển chọn  đà công Đặng Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần đảo Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ đi được 3 nơi, còn một nơi không đi được vì gió đang mạnh nên xin để cho năm sau đi tiếp.
Hướng dẫn viên Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất cả 25 hòn, nhưng trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ được 3 bản đồ riêng, 1 bản đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được. Đây là tờ tấu trình hết sức đặc biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng mà còn ghi chép khá cụ thể về việc số lượng các hòn đảo trong 4 nơi thuộc quần đảo Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này.
Tờ tấu trình thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 19 tháng 7, tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi tấu trình về việc cho miễn thuế cho 2 chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh lính đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần tháng 6.
Nội dung văn bản của dòng họ Đặng còn trùng khớp với những tài liệu cổ khác hiện còn trên đất đảo Lý Sơn mà các dòng họ còn lưu giữ, dù có tài liệu không như nguyên vẹn. Những ngôi mộ chiêu hồn, những di tích liên quan đến đội Hoàng Sa, những câu chuyện kể, những câu ca dân gian được lưu truyền…mà ở đây chưa có dịp đề cập cũng là những bằng chứng khác hết sức sống động về quá trình hoạt động của đội Hoàng Sa, về sự hy sinh đầy cao cả của những hùng binh Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ.
Nhờ thêm một lần đi tìm cội nguồn của những người đi Hoàng Sa trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, xác lập thông tin mà văn bản này có ghi chép so với chính sử, châu bản mà giờ đây chúng tôi còn biết thêm nhiều điều khác. Ngoài những điều đã nói ở trên, chúng tôi còn hiểu thêm về việc phường An Vĩnh và phường An Hải được tách ra khỏi xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền vào lúc nào, về việc bán đoạn đất đai để có điều kiện thi hành công vụ ở quần đảo Hoàng Sa vào năm thứ mấy…
Cùng với sự hiểu biết đó chúng tôi còn phát hiện thêm tên tuổi những Cai đội khác, như Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Thụ ở phường An Vĩnh, Lý Sơn, Chánh đội trưởng Thủy quân Nguyễn Văn Nhiễu ở An Mô châu, phủ Tư Nghĩa, Phó vệ úy Thủy quân Nguyễn Văn Lân ở tổng Bình Châu, huyện Bình Sơn…là những người đã từng gánh vác sứ mệnh thiêng liêng ở vùng biển Đông của Tổ quốc từ thời nhà Nguyễn. 
TS Nguyễn Đăng Vũ
---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.