ĐỀN HÙNG – LỊCH SỬ

     I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-MÔI TRƯỜNG ĐỀN HÙNG

     Khu di tích Đền Hùng ngày nay thuộc địa phận thôn Cổ  Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

     Vào khoảng 2 thiên niên kỷ cuối cùng trước Công nguyên, khu vực có Đền Hùng ngày nay nằm ở giữa miền trung tâm nước Văn Lang - thời đại Hùng Vương. Đây là một vùng đất bán sơn địa do những vận động tạo sơn từ nhiều triệu năm về trước, Ở phía Đông và phía Tây đều có những dãy núi lớn, kèm theo những miền đồi gò và mạch đất đồi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, làm thành những đường viền nổi cao, đồng thời chia cắt địa hình thành những điểm cao và khu trũng. Hướng chạy của núi đồi cũng là hướng chạy của dòng chảy, ba dòng sông lớn nhất miền Bắc: sông Hồng, sông Đà, sông Lô đều chảy qua miền này. Đây là những dòng chảy quan trọng, hợp lại với nhau ở ngã ba Bạch Hạc, tạo ra một "đáy túi” bằng đường viền sông nước cho cả vùng bán sơn địa có Khu di tích Đền Hùng ở giữa, đồng thời cũng là chỗ "hội thuỷ như hội nhân”, vừa chuyên chở tập trung về vùng ngã ba sông các loài thực, động vật của tự nhiên, vừa tạo ra những doi đất ven sông và hình thành những bãi bồi phù xa màu mỡ, cùng với nắng mưa và độ ẩm thích hợp. Chính những điều kiện tự nhiên đó đã tạo môi trường để con người thời Hùng Vương đến đây sinh cơ lập nghiệp, thi triển những hoạt động kinh tế nông nghiệp của họ.

     Giữa miền bán sơn địa đó, Khu di tích Đền Hùng là một vùng đồi gò đột khởi vài quả núi làm cao điểm, bị chia cắt bằng những ngòi, khe và ruộng lũng. Địa hình ở đây đa dạng, gập gềnh mà không hiểm trở, có thấp có cao, có nước có non mà vẫn hài hoà, cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội. Ở giữa và nổi bật trong vùng cảnh quan ấy là một ngọn núi nằm trong "bộ bao” cao điểm, có độ cao và thế núi vượt trội hơn cả, đó là núi Hùng (còn có tên gọi là Nghĩa Lĩnh, tên cổ xưa địa phương gọi là núi Cả) cao 175m so với mặt nước biển; núi Trọc (Bạch Đầu Sơn) cao 108 mnúi Vặn (ốc Sơn) cao 151,5 m.

     Trong con mắt của người xưa: “Núi Hùng trông xa giống như đầu của một con Rồng lớn hướng về phía Nam, mình Rồng uốn lượn thành những núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo”(1). Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất có Đền Hùng những ưu thắng tự nhiên hiếm nơi nào có được. Cho đến ngày hôm nay chúng ta vẫn thấy hấp dẫn bởi sự giàu có vầ đặc sắc của hệ thực động vật ở nơi đây, theo thống kê:

     “có tới 458 loài, 328 chi, 131 họ, 5 ngành thực vật, trong đó có 11 lpài quý hiếm có ên trong sách đỏ Việt Nam, như: Trầm hương, Vù hương, Lát hoa, Cẩu tích, Sưa, Cốt toái bổ, Tử tranh….Có tới 204 laòi cây làm thuốc. Có những cây  có tuổi  hàng trăm năm  như: Nụ, Đa, Vạn tuế…

     Thành phần động vật có xương sống bao gồm: 59 loài chim, 13 laòi thú, 14 loài bò sát…Có 7 loài quý hiếm có tên trong sách đỏ thuộc 3 lớp : lớp chim gồm 2 loài Bói cá lớn và Ác là; lớp thú có một loài là Tê Tê, lớp bò sát gồm 4 loài là Tắc kè, rắn Giáo, rắn Hổ mang, rắn Cạp nong”(2).

     Chính nhờ những điều kiện tự nhiên và môi trường thuận lợi như vậy, nên nơi đây trở thành vùng dân cư văn hóa không những đặc sắc, lâu đời, mà còn quan trọng ở thời đại Hùng Vương.

     II. LỊCH SỬ DÂN CƯ, VĂN HÓA

     Khu vực Đền Hùng ở hai thiên niên kỷ cuối cùng trước Công nguyên lúc nào cũng có đông người Việt cổ cư trú. Các địa điểm khảo cổ học với nhiều loại hình: cư trú, cong xưởng, mộ táng…được tìm thấy với mật độ phân bố dày đặc, có mặt và hội đủ các đặc trưng văn hóa khảo cổ học từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn. Đấy chính là chứng tích của một vùng dân cư quan trọng, sinh sống liên tục, tập trung và có vai trò lớn ở thời đại Hùng Vương.

     Trong vùng cư dân cổ đại này, về phía Đông Nam núi Hùng, kề mép nước gã ba Bạch Hạc-trong địa phận Thành phố Việt Trì , là các địa điểm khảo cổ học: đồi Giàm, Mã Lao, Làng Cả... Địa điểm làng Cả là một di chỉ cư trú xen lẫn mộ táng rộng lớn vào bậc nhất giai đoạn văn hoá Đông Sơn ở nước ta, được đánh giá như là một trong 3 "thủ đô tự nhiên" của người Việt là: "Việt Trì (Văn Lang), Cổ Loa (Âu Lạc), Thăng Long - Phố Hiến (Đại Việt)" (3).

     Kề cận Đền Hùng về phía Tây Nam là địa bàn huyện Lâm Thao, được giới khảo cổ học nhận xét là: "một trong những huyện trên miền Bắc phát hiện được nhiều di chỉ khảo cổ học nhất" (4). Nhiều địa điểm khảo cổ học nổi tiếng, mở đầu cho các giai đoạn văn hoá được phát hiện ở nơi đây như: địa điểm khảo cổ học Phùng nguyên (giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên), địa điểm khảo cổ học Gò Mun (giai đoạn văn hoá Gò Mun). Đặc biệt là khu mộ táng Gò De(văn hoá Đông Sơn), thuộc xã Thanh Đình huyện Lâm Thao (cách chân núi Hùng 2 km đường thẳng). Tại đây có làng Mai Đình, cách ngày nay không lâu vẫn có tên gọi là Gia Ninh. Địa danh “Gia Ninh" đã lừng được sách "Việt Sử Lược" xưa ghi chép như là đất phát tích của Các Vua Hùng: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (698 - 682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang" (5).

     Năm 1985, bộ Nha Chương đá được phát hiện tại Phùng Nguyên - Kinh Kệ - Lâm Thao. Cuối năm 1990, cách chân núi Hùng 500m đường thẳng về phía Tây Nam đã phát hiện thấy chiếc trống đồng Đền Hùng (thuộc trống loại I nhóm C, có đường kính mặt 93cm, cao 74cm), là trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất được tìm thấy ở Việt Nam.

     Nha Chương được coi như là vật biểu trưng cho quyền uy của các "Thủ lĩnh" bộ lạc; trống đồng ngoài tính chất và chức năng là "nhạc cụ bộ gõ" được sử dụng trong các lễ hội của người Việt cổ, còn được sử dụng trong các nghi lễ cầu trời, được coi như là cây “nguyền trượng" trong nhiều xã hội văn minh và thời kỳ lịch sử khác nhau.

     Những địa điểm khảo cổ học với giá trí của các hiện vật gốc, là chứng tích chân xác của lịch sử về những cư dân nơi đây, họ là những người đã để lại những dấu ấn văn hoá ban đầu ở khu vực Đền Hùng. Rất có thể ngọn núi cao nhất vùng, mà người xưa gọi là núi Cả (núi Hùng), đã được người Việt cổ lựa chọn làm nơi tiến hành những nghi lễ nông nghiệp cổ xưa của mình, với tục thờ thần tự nhiên: thờ trời, thờ núi; thờ phồn thực nông nghiệp, cầu mong sự sinh sôi... mà dấu vết của các nghi thức văn hoá tín ngưỡng đó còn để lại ở khu vực này cho tới tận hôm nay.

     Núi Hùng, núi Trọc và núi Vặn được người xưa coi là 'Tam Sơn cấm địa!', được thần thánh hoá thành các vị Thần Núi với các tên "Đột ngột cao sơn", "Ất sông, "Viễn sơn". Trong thần điện các ngôi đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, bài vị cỗ ngai giữa ghi "Đột ngột cao sơn cổ Vệt Hùng thị thập bát thế truyền thánh vương thánh vị", ngai bên phải ghi “Ất sơn thánh vương thánh vị", ngai bên trái ghi "Viễn sơn thánh vương thánh vị". Đó là những tên gọi ở thời gian về sau, nhưng là ảnh xạ danh lưu của việc thờ 3 ngọn núi thiêng, núi cấm từ thời cổ đại. Trong khi lớp tín ngưỡng thờ Thần Núi được giữ nguyên, thì cỗ ngai giữa được nối tiếp vào đấy là mười tám đời Hùng Vương "cổ Việt Hùng thị thập bát thế".

     Thần Núi và tục thờ Thán Núi ở lớp tín ngưỡng ban đầu tại núi Hùng, vốn là một trong nhiều phương diện sinh hoạt văn hoá tinh thần của loại hình tín ngưỡng ("tôn giáo") thờ thần tự nhiên. Trong loại hình tín ngưỡng này, cùng với các hiện tượng tự nhiên được thờ phụng cầu cúng, với "tế khí” phổ biến là trống đồng, và “lễ thức” thường dùng là đánh trống đồng, để cầu trời, thờ trời. Ngôi đền Thượng trên đỉnh núi Hùng đến nay vẫn có tên chữ là: "Kính Thiên Lĩnh Điện" (điện thờ trời trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh).

     Ngọn núi Trọc sau núi Hùng, hiện còn hòn đá có 2 lớp chồng khít lên nhau, địa phương gọi là "đá ông, đá bà!' hay "hòn đá cối xay". Tục xưa, cư dân địa phương vẫn lên cầu sự sinh nở của con người và mùa màng. Trong lễ hội "Rước chúa gái về nhà chồng" của 2 làng Vi, Trẹo thuộc xã Chu Hoá và Hy Cương vào tháng Giêng hàng năm, có trò "Bách nghệ khôi hài", trong trò có tục lấy "Chày đâm vào nong". Ngày 25 tháng 5, Hy Cương có lễ "hạ điền". Dạng hình tín ngưỡng phồn thực cổ sơ này, xưa kia đã từng được tiến hành - thực hiện ở núi Hùng. Nó tung hứng cùng lễ thức thờ trời, thờ núi, thờ lúa, để làm cho việc thờ cúng nguyên thuỷ thêm giàu ý nghĩa và tầm quan trọng, mở đầu cho truyền thống sử dụng nơi này, thành một điểm thực hành tín ngưỡng đặc sắc và thiêng liêng qua các thời.

     III. CÁC HÌNH THÁI KIẾN TRÚC VÀ TÍN NGƯỠNG TẠI ĐỀN HÙNG

     Khu di tích lịch sử Đền Hùng có hạt nhân là núi Hùng với các công trình kiến trúc cho đến nay còn thấy gồm: Cổng đền, đền Hạ, chùa và gác chuông chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng và Lăng, đền Giếng.

     Từ thời Lý - Trần (thế kỷ XII - XIV), cư dân dưới chân núi Cả (núi Hùng) - làng Cả, đã cho xây dựng các hình thái kiến trúc đầu tiên trên núi. Các đợt khai quật khảo cổ học vào những năm 1997, 1999, 2002 đã tìm thấy phế tích của các hình thái kiến trúc buổi ban đầu, đó là các phế tích chùa tháp của tín ngưỡng thờ Phật có cả ở 3 khu vực tương đương với đền Hạ, đền Trung, đền Thượng ngày nay.

     Tại khu vực đền Thượng, còn tìm thấy phế tích của 4 đoạn cột đá (đoạn dài nhất đài 1.3m x rộng 0,35 m), có lỗ đục 2 mặt kề nhau để bắc các xà gỗ, là phế tích của một ngôi miếu đá cổ thờ thần: Thần Núi - Hùng Vương trên đỉnh núi. Rất có thể tín ngưỡng thờ Thần và Phật đã từng tồn tại ở đây trong các thế kỷ XII - XIV. Thời Lý - Trần, Phật giáo rất thịnh hành, nhưng vẫn sống chen chọn cùng với tín ngưỡng vốn là gốc bản địa, có lịch sử lâu đời và không thể đứt đoạn.

     Kết quả của công tác khai quật khảo cổ học còn cho thấy quá trình phát triển dân cư ở dưới chân núi Hùng ở các thế kỷ XV - XVIII, từ làng Cả thành làng Cổ Tích, rồi thêm làng Trẹo, làng Vi như ngày nay. Họ là những cư dân đã xây dựng lên đền Thượng và Lăng, đền Trung, đền Hạ, chùa và gác chuông chùa Thiết Quang, đền Giếng.

     Từ cổng lên tới Đền Thượng có 18 cấp với 499 bậc thềm. Từ đền Thượng xuống chân núi về phía Đông Nam qua 2 tuyến đường đều xuống được đền Giếng. Tuyến thứ nhất qua 409 bậc thềm, tuyến thứ 2 qua: 617 bậc.

     1. CỔNG ĐỀN:

      Được xây dựng vào thời Khải Định năm thứ 2 (1917), cổng xây kiểu vòm cuốn cao 8,5 m, hai tầng 8 mái. Tường trụ cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ tay cần giáo, rìu chiến. Giữa tầng 1 của cổng có đề bức đại tự: "Cao Sơn cảnh hành" (núi cao đường lớn).

     2. ĐỀN HẠ

     Đền Hạ được xây dựng vào thế kỷ XVII - XVIII, kiến trúc đơn giản, kiểu chữ Nhị (=) gồm 2 tòa: Tiền bái (3 gian) và Hậu cung(3 gian).

      Tương truyền ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ sau khi kết hôn đã về nơi đây sinh sống, bà Âu Cơ sinh ra bọc 100 trứng, sau nở thành 100 trai. Khi các con khôn lớn, 50 người con theo cha về xuôi để mở mang bờ cõi, 49 người con theo mẹ lên ngược để xây dựng cơ đồ. Một người con trưởng ở lại Phong Châu, dựng kinh đô, xưng vương truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa đồng bào (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.

     3. CHÙA THIÊN QUANG :

     Chùa được xây dựng vào thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), có tên gọi là "Viễn Sơn cổ tự”. Thế kỷ XV Chùa được xây dựng lại đổi tên là "Thiên Quang Thiền Tự". Đến thời Tự Đức năm thứ 3 (1850) làm lại chùa, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”(I), gồm các nhà: Tiền đường, Thiêu hương, Tam bảo ở phía trước, phía sau có nhà Hành lang, nhà Tổ; Năm 1917, một nhà Phương đình (Phương hội, có 2 tầng mái) được xây dựng phía sau Tam bảo, làm nơi hội họp của các nhà chức trách hàng năm bàn về việc Giỗ Tổ; Năm Khải Định thứ 9(1924) chùa được trùng tu (6) .

     Ngày nay, hiện chỉ còn lại có một phần kiến trúc của chùa ở phía trước thi kiểu chữ "Công" ( I ), còn toàn bộ các kiến trúc phía sau đã bị chiến tranh tàn phá. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa, trong chùa có 30 pho tượng là những công trình  điêu khắc tinh xảo của các thời kỳ trước đây.

     - Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ, 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá ghi khắc về các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.

     - Tam quan (gác chuông): được xây dựng và thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái. Trên gác chuông có treo quả chuông, được đúc vào thời Lê.

     4. ĐỀN TRUNG (HÙNG VƯƠNG TỔ MIẾU):

     Thế kỷ XIII - XIV, đã có hình thái kiến trúc chùa, tháp thờ Phật tại khu vực đền Trung. Thế kỷ XVII - XVIII, đền Trung được xây dựng lại, kiến trúc đơn giản, kiểu chữ nhất (--).

     Tương truyền là nơi Vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây Vua Hùng thứ 6 đã mở cuộc thi tìm người tài đức kế vị. Lang Liêu, người con út hiếu thảo đã sáng tạo ra “bánh chưng” (tượng trưng cho trái đất), “bánh dày” (tượng trưng cho mặt trời), dâng cha. Vua Hùng thứ sáu khen bánh ngon, ý hay nên nhường ngôi cho Lang Liêu, phong tục gói bánh chưng bánh dày của người Việt từ đó mà có.

     5. ĐỀN THƯỢNG VÀ LĂNG:

     Vào thế kỷ XIII - XIV, tại đỉnh núi Hùng đã xuất hiện những hình thái kiến trúc: tháp thờ Phật và miếu (đền) thờ Thần.

     Thế kỷ XV, đền Thượng được xây dựng có tên chữ là "Kính Thiên Lĩnh Điện" (điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Tương truyền Các Vua Hùng thường lên đinh núi để thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, muôn dân no ấm; vào thời Vua Hùng thứ 6, sau cuộc kháng chiến chống giặc Ân thắng lợi, cảm kích vị anh hùng có công đánh giặc cứu nước, đã cho lập miếu thờ Thánh Gióng trên đỉnh núi.

     Thời Nguyễn, qua các đời vua từ Minh Mệnh, Tự Đức, Duy Tân, Khai Định thường cấp tiền và cử quan về giám sát, tu sửa, mở rộng đền Thượng, đến nay vẫn giữ nguyên kiểu dáng.

     Đền được xây dựng kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, không có trạm trổ, gồm có: nhà Chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Thượng cung.

     Phía trước ở chính giữa cửa đền Thượng có bức đại tự đề: "Nam Việt Triệu Tổ", hai bên cửa phụ có hai vuông thư, cửa bên trái đề: " Nguyệt Minh" cửa bên phải đề "Nhật Ánh”.

     Lăng Hùng Vương có từ bao giờ không ai nhớ rõ, trước là mộ gạch có mái che , đến thời nhà Nguyễn được tôn tạo kiểu dáng như ngày nay. Tương  truyền là phần mộ của Vua Hùng thứ sáu ( Hùng Huy Vương).

     6. ĐỀN GIẾNG(Tên chữ là Ngọc Tỉnh)

     - Đền Giếng: được xây dựng vào thế kỷ XVIII, dưới chân núi Hùng về phía Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công ( I ), gồm có nhà Tiền tế (3 gian), Hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ và 2 nhà oản (4 gian). Năm Khai Định thứ 7 (1922) được trùng tu lại.

     Tương truyền là nơi hai bà công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con gái của Vua Hùng thứ 18 thường soi gương chải tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai Bà có công dạy dân trồng lúa và trị thuỷ, nên về sau nhân dân lập đền thờ.

     Cổng đền Giếng: gần giống cổng chính về kiểu dáng nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây kiểu 2 tầng 8 mái. Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên có đắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: Trung sơn tiểu thất (ngôi miếu nhỏ trong núi)

     IV. TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI ĐỀN HÙNG:

     Cổ xưa, Xuân, Thu nhị kỳ, địa phương vẫn có các tiệc cầu, dần dần các nghi thức cúng lễ tập trung chủ yếu vào mùa xuân. Thời Lê (thế kỷ XV - XVII), lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra trong 3 ngày. Diễn trường của lễ hội bao gồm từ đình làng Cổ Tích lên đến núi Hùng. Truyền thuyết kể rằng: ngày giỗ Tổ là ngày kỵ của Vua Hùng thứ sáu - Hùng Huy Vương - ngôi mộ được táng trên đỉnh núi Hùng. Cổ lệ, ngày giỗ là ngày 11 tháng 3 âm lịch hàng năm. Từ ngày mùng 9 tháng 3 âm lịch, dân làng mở cửa đình, rước kiệu từ đình lên đền Thượng làm lễ mở cửa đền, rồi rước sắc từ đền về đình cáo tế. Ngày 10 tháng 3 âm lịch, làm lễ chính ở đình làng, lễ vật là tam sinh. Ngày 11 tháng 3 âm lịch, lễ tạ ở đình làng xong rồi rước sắc lên đền thượng làm lễ đóng cửa đền.

     Thế kỷ XVII - XVIII, do sự phát triển của cư dân địa phương, các làng mới lập là làng Vi và làng Trẹo, vốn gốc từ cư dân Cổ Tích, theo truyền thống văn hoá tín ngưỡng, cùng làm lễ mở cửa đền vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, lễ hội mở rộng sang cả một vùng rộng lớn, với nhiều làng xã tham gia. Lễ hội Đền Hùng lúc đầu mang tính địa phương, chỉ một làng, vài làng, rồi một vùng, về sau lan rộng trong toàn quốc (cả nước có tới 1042 làng, xã có đình, đền, miếu thờ vua, vợ con và tướng lĩnh của Các Vua vùng) (7).

     Nhân dân và nhà nước Việt Nam từ các đời Lê - Nguyễn không chỉ quan tâm tới việc cúng lễ mà còn luôn quan tâm gìn giữ, tôn tạo Đền Hùng. Ngày 28 tháng 2 năm 1785 (niên hiệu Cảnh Hưng), Nguyên soái tổng quốc chính Đoan Nam Vương (Trịnh Khải), ban lệnh cho phép xã Hy Cương được miễn trừ thuế khoá để chuyên lo đèn nhang tại Đền Hùng. Ngày 6 tháng 2 năm 1789 (Quang Trung năm thứ 2), triều đình ký đạo sắc phong cho dân Hy Cương làm "trưởng tạo lệ", miễn trừ thuế khoá để chuyên lo đèn nhang thờ phụng Các Vua Hùng. Thời Nguyễn, triều đình cấp tiền về tu sửa, tôn tạo, mở mang đền Thượng, các đền Hạ, đền Trung, đền Giếng, chùa và gác chuông chùa Thiên Quang giao cho dân sở tại tu sửa. Các vua nhà Nguyễn theo lệ, cứ 5 năm (vào những năm chẵn 5, chẵn 10), nhà nước đứng ra tổ chức lễ hội giỗ Tổ (quốc lễ) tại Đền Hùng, những năm lẻ địa phương đăng cai tổ chức. Diễn trường của lễ hội là những vùng xung quanh núi Hùng, thời gian là 3 ngày.

     Tới năm Khải Định thứ 2 (1917) : " Quan tuần phủ Lê Trung Ngọc xin bộ lễ ấn định ngày quốc lễ vào mùng 10 tháng 3 âm lịch (tức trước ngày huý của Vua Hùng một ngày), ngày 11 để dân sở tạ làm lễ" (8). Thời gian tổ chức lễ hội Giỗ Tổ thường bắt đầu từ ngày mùng 8 đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Tiết trời tháng 3 thường rất đẹp, trước hội có những trận mưa cuối Xuân, đầu Hạ làm cho không khí của khu vực Đền Hùng vốn đã xanh bốn mùa bội rừng cây nhiệt đới, lại càng thêm phần mát mẻ dễ chịu. Thường thì hàng năm, cứ đến chiều ngày 10 tháng 3 bao giờ cũng có mưa, đó là mưa rửa đền. Các thủ tục dâng lễ tấu sớ được tuân thủ theo các qui định lễ giáo phong kiến một cách chặt chẽ. Phần lễ được diễn ra trang nghiêm trong các ngôi đền, chùa trên núi Hùng. Phần hội được diễn ra xung quanh khu vực đền và dưới chân núi. Vào ngày Giỗ Tổ, nhiều địa phương trong tỉnh tham ra rước kiệu lễ về dự Giỗ Tổ, thường thì các năm chấm giải: kiệu nào thật đẹp, cỗ hậu mới được rước lên núi, còn thì chỉ rước tới chân núi. Trong hội có nhiều trò diễn dân gian như: đu quay, đấu vật, trọi gà, cờ tướng, kẻo lửa nấu cơm thi .

     Ngày nay, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc Vào những năm tròn (năm 0) Nhà nước đứng ra tổ chức, năm lẻ (năm 5) Bộ Văn hoá tổ chức, các năm khác địa phương tổ chức. Lễ hội Giỗ Tổ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể và qui củ hơn các thời trước. Trong phần lễ: nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, các tỉnh... được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Phần hội vẫn diễn ra tưng bừng náo nhiệt quanh chân núi Hùng. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được tổ chức đan xen nhau: các trò chơi văn hoá dân gian vẫn được duy trì, hàng năm có tổ chức đánh trống đồng, đâm đuống do các nghệ nhân Mường biểu diễn. Tiếng trống đồng âm vang xưa kia trên đỉnh núi để gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân no đủ, vẫn được cháu con duy trì. Hội ngày nay chính là nơi thi triển giao lưu văn hoá giữa các vùng.

     Tín ngưỡng thờ Hùng Vương và lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành lễ hội văn hoá - tâm linh lớn nhất trong toàn quốc. Hàng năm ý nghĩa tâm linh của cuộc chảy hội về Đền Hùng, đã trở thành nếp nghĩ và sinh hoạt văn hoá truyền thống không thể thiếu được trong cuộc sống tinh thần của người Việt Nam. Tất cả mọi người Việt Nam không phân biệt tuổi tác, không phân biệt tôn giáo... đều có quyền về viếng Đền Hùng và dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.

      Chú thích

     (1): Phạm Khiêm - Tuyết Hạnh, Đền Hùng và Bảo tàng Hùng Vương; Sở Văn hoá TT - TT Phú Thọ, Xb năm 2000.

     (2): Phạm Khiêm, Đền Hùng - Di tích và cảnh quan, Sở Văn hoá TT - TT Phú Thọ, Xb năm 2002.

     (3): Trần Quốc Vượng, "Vị thế địa văn hoá vùng Đất Tổ” Kinh đô Văn Lang, Sở Văn hoá TT - TT Vĩnh Phú, XB năm 1996.

     (4): Hà Văn Phùng, “Báo cáo thăm dò điều tra các địa điểm khảo cổ học ở huyện Lâm Thao năm 1972 " .

     (5): “Đại Việt sử lược", bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn sử địa, năm 196

     ( 6): Hùng Vương từ khảo, Bia đền Thượng

     (7): Dự án nghiên cứu "Hồ sơ khoa học Đền Hùng và các di tích thời đại Hùng Vương vùng phụ cận", Quyển 3. Ban quản lý Đền Hùng, 2001 - 2003.

     (8): Hùng miếu kỷ niệm bi, Bia đền Thượng.

TS.Nguyễn Thị Tuyết Hạnh                 
Phó trưởng Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng