Mở đầu là một bài viết của tác giả ở Nghệ An.
Các bổ sung và cập nhật sẽ dán dần ở dưới như mọi khi.
Tháng 6 năm 2025,
Giao Blog
---
Vua thiệu trị (tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông), niên hiệu Thiệu Trị là vị vua trị vì thứ 3 của triều Nguyễn. không chỉ nổi tiếng là một vị vua khoan hòa với thần dân, cần mẫn trong chính sự, ông còn là một người rất giỏi văn học, từng đi nhiều nơi và sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Trong đó, phải kể tới hai bài thơ ngự chế khắc lên bia đá ca ngợi vẻ đẹp núi sông xứ Nghệ trong một lần tuần du ra Bắc…

Trần Tử Quang (Thư viện tỉnh Nghệ An)
https://baonghean.vn/2-bai-tho-ngu-che-ve-danh-thang-xu-nghe-cua-vua-thieu-tri-10051114.html
...
CẬP NHẬT
5.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Lễ hội đền Cuông, Nghệ AnĐền Cuông là ngôi đền thờ An Dương Vương Thục Phán được nhân dân xây dựng, tọa lạc tại núi Mộ Dạ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Đền Cuông được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào ngày 21-2-1975. Ngày nay, vào các ngày từ 12 đến 16-2 âm lịch hằng năm, nhân dân thường tổ chức lễ hội đền Cuông với nhiều hoạt động văn hóa đa dạng và phong phú, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và lễ bái.
1. Lịch sử và lễ hội đền Cuông
Lịch sử đền Cuông
Chưa rõ đền Cuông được xây dựng tự bao giờ, nhưng vào đầu TK XIX, Phạm Đình Hổ đã nhắc đến trong sách Vũ Trung tùy bút. Các đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Khải Định đều cho tu sửa lại đền (1).
Đền Cuông gắn liền với một huyền thoại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc - Thục Phán. Sau khi Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi, ông đã đoàn kết sức mạnh toàn quân đại phá quân Tần và lên ngôi vua lấy hiệu Thục An Dương Vương. Sau đó đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm (từ năm 257 đến 208 trước CN). Năm 208 trước CN, do mất cảnh giác, Triệu Đà đem quân tấn công, buộc An Dương Vương phải rút quân về phương Nam và tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ, nay thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, người dân Diễn Châu đã lập miếu thờ ông ở Cửa Hiền. Theo truyền thuyết kể lại, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, trên núi Mộ Dạ thường xuất hiện những đốm lửa lập lòe. Nhân dân cho rằng đó chính là linh hồn của vua Thục Phán muốn yên ngự trên núi, người dân sau đó đã lập đền thờ và rước linh hồn ngài về thờ phụng. Đền thờ An Dương Vương trên núi Mộ Dạ có từ ngày đó.
Ngôi đền được gọi là đền Cuông nhưng ngụ ý nói đền Công (tiếng Nghệ An). Tương truyền, khu vực núi Mộ Dạ xưa có nhiều chim công (chim hạc) sinh sống, thế núi Mộ Dạ nhìn xa tựa một con chim công khổng lồ đang múa, đầu chim chính là nơi đền tọa lạc.
Kiến trúc đền Cuông
Dù chưa có tài liệu lịch sử nào ghi lại chính xác thời điểm khởi dựng đền Cuông, tuy nhiên dưới thời nhà Nguyễn, đền đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt vào năm Giáp Tý 1864, vua Tự Đức đã ban sắc chỉ xây dựng lại đền với quy mô như ngày nay. Đền Cuông có sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên, tọa lạc ở lưng chừng núi Mộ Dạ, ngay sát quốc lộ 1A, cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía Bắc. Trên núi Mộ Dạ là một rừng thông bạt ngàn xanh mướt, phía sau núi là biển cả mênh mông, sát chân núi về phía Bắc là biển Cửa Hiền bằng phẳng, cát mịn, sóng vỗ nhẹ trắng xóa.
Đền Cuông được xây dựng theo kiến trúc chữ “Tam” gồm tam quan, ba tòa: thượng, trung và hạ điện. Nhìn từ cổng chính vào, gần hai chục cột nanh đầu nghê chĩa lên tua tủa như đại pháo dựng. Cổng tam quan gồm ba cổng ra vào đồ sộ, cổ kính rêu phong. Cổng giữa ba lầu có những cành si bám vào theo thời gian làm cảnh quan thêm u tịch. Hai cổng bên có hai tầng, đều được thiết kế theo kiểu vòm cuốn. Tòa thượng điện là nơi đặt ban thờ của vua An Dương Vương có kiến trúc kiểu chồng diêm bốn mái. Tòa hạ điện cũng có kiến trúc tương tự tòa thượng điện. Tòa trung điện là nơi đặt ban thờ Cao Lỗ - vị tướng đã giúp vua Thục chế tác nỏ thần, nơi đây được thiết kế theo kiến trúc kiểu chồng diêm 8 mái. Hiện nay, trong đền Cuông còn có nhiều di vật quý như trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí. Ngoài ra, trong đền còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu như có ý nhắc nhở con cháu đời sau luôn ghi tạc ân đức vua An Dương Vương. Xung quanh khu vực đền Cuông có rất nhiều ngọn núi, tảng đá gắn liền với truyền thuyết và huyền thoại về ngài. Tảng đá bàn cờ được cho là nơi An Dương Vương ngồi đánh cờ với thần Kim Quy. Dưới chân núi Mộ Dạ có tảng đá gạo, tương truyền là nơi Thục Phán phát gạo cho dân và quân sĩ về nhà làm ăn sinh sống. Núi Cờ, núi Kiếm, núi Gươm, núi Đầu Cân là tên gọi của mỗi một vật được mang trên mình của Thục Phán khi còn sống (2).
Truyền thuyết đan xen lịch sử đã tạo nên một đền Cuông huyền thoại, là điểm di tích tâm linh thu hút nhiều du khách xa gần ghé thăm mỗi dịp xuân về.
Lễ hội đền Cuông
Xưa kia, triều đình quy định lễ hội đền Cuông là quốc lễ, quốc tế. Trên mặt chính của lầu từ cổng tam quan đền Cuông hiện vẫn còn lưu được dòng chữ Hán đắp nổi rất lớn “Quốc tế thượng từ” (Đền nhà nước tế). Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội do tổng Cao Xá gồm 4 thôn: Cao Ái, Cao Quan, Tập Phúc, Yên Phụ đảm nhận trực tiếp, bao gồm các việc chính như: cử ban lễ nghi, mổ trâu, bò, lợn, gà, soạn mâm cỗ hiến tế… Trước đây, đền Cuông chỉ có lễ tế thần, mỗi năm có một kỳ đại tế vào ngày rằm tháng 2 âm lịch. Tham gia tế lễ đều là quan chức (đã nghỉ hưu hoặc đương chức) mặc triều phục, người nào cũng có áo mũ cân đai. Trong các kỳ tế lễ, ban đêm đều có hát tuồng, chèo, đốt đèn bông, đèn hoa sáng đẹp. Ban lễ nghi của đền gồm có 35 người, chia thành 4 ban: Ban tế: gồm 1 chủ tế và 2 bồi tế; Ban chấp sự: 24 người luân phiên lo hương khói; Ban tri đồ: 4 người bảo vệ nội điện; Ban tri diện: 4 người bảo vệ vòng ngoài.
Lễ hội đền Cuông chính thức được tổ chức từ năm 1993, trước đó chỉ tồn tại dưới hình thức là lễ tế thần. Đến nay, lễ hội được tổ chức thường niên từ ngày 12 đến 16-2 âm lịch. Đây là một trong những lễ hội lớn, quan trọng trong năm của tỉnh Nghệ An nói chung và huyện Diễn Châu nói riêng. Lễ hội đền Cuông không chỉ là một lễ hội nhằm tri ân, tưởng nhớ công đức của Thục Phán An Dương Vương trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, mà còn thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân. Lễ hội có các phần nghi lễ chính như: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ rước, lễ đại tế và lễ tạ. Trong đó, không thể không nhắc tới phần lễ rước linh vị Thục An Dương Vương, công chúa và các chư thần từ đình Xuân Ái về đền Cuông, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà sum vầy, nhân dân no ấm hạnh phúc.
Sau phần lễ chính là phần hội, diễn ra từ 15 đến tối 16-2 âm lịch với các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ thẻ, cờ người, vật, đu dây; các môn thể thao: bóng chuyền, bóng bàn, kéo co, leo núi; các hoạt động văn hoá, văn nghệ: biểu diễn nghệ thuật, hát chầu văn, thi nét đẹp đền Cuông, chiếu phim video, trưng bầy triển lãm lưu động các chuyên đề về di tích danh thắng - lễ hội của Nghệ An (3). Trong những năm gần đây, Ban tổ chức lễ hội còn đưa vào phần hội những hoạt động sôi nổi như hội trại thanh niên, hội thi Thanh niên thanh lịch lần thứ 3 (năm 2019) thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong vùng.
Lễ hội đền Cuông hiện nay đã trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân địa phương. Lễ hội được tổ chức hằng năm như một sự tri ân của thế hệ hôm nay đối với những người có công với đất nước, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc mà thế hệ trẻ ngày nay cần học hỏi và phát huy.
2. Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc của lễ hội đền Cuông trong phát triển du lịch tâm linh ở Nghệ An
Hiện nay, du lịch văn hóa tâm linh là xu hướng đang được khách du lịch nội địa ưa chuộng. Phát biểu tại Hội nghị quốc tế về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững, TS Dương Văn Sáu đã phát biểu: “Tâm linh là niềm tin, ước vọng của con người đối với đối tượng siêu hình mà người ta hướng tới đồng thời là những tác động từ các yếu tố siêu hình tới đời sống tinh thần của một số cá nhân trong những không gian và thời gian nhất định mà không phải khi nào chúng ta cũng giải thích được” (4).
Các cơ sở tâm linh như đền, chùa, miếu là một trong những nơi con người muốn tìm đến để chiêm bái và thõa mãn nhu cầu tâm linh của họ. Và đền Cuông là một trong những địa chỉ quen thuộc mà người dân vùng biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu nói riêng và người dân Nghệ An nói chung thường lui tới để cầu mong những điều tốt đẹp. Ông Trần Thế Nam, du khách tham dự lễ hội đền Cuông cho biết: “Hằng năm, mỗi lần tổ chức lễ hội là gia đình tôi đều có mặt tại đền Cuông với những sản vật của biển để dâng lên An Dương Vương, bày tỏ lòng biết ơn, cầu mong năm mới may mắn, an lành, mong những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cá bạc đầy khoang”.
Tuy lễ hội mới được phục hồi từ năm 1993, nhưng hằng năm, lượng khách về tham quan chiêm bái và tham gia lễ hội đền Cuông đã tăng lên đáng kể. Nơi đây được du khách biết đến như một điểm du lịch tâm linh đầu năm, trở thành nếp sống sinh hoạt không thể thiếu của người dân xứ Nghệ. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển được giá trị văn hóa của lễ hội đền Cuông.
Thứ nhất, chính quyền địa phương cùng phối hợp với tỉnh để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ lễ hội được tốt hơn nhằm bảo tồn không gian tâm linh linh thiêng của lễ hội đền Cuông. Năm 2017, đền Cuông được đầu tư nâng cấp một số hạng mục như lát sân đền, hệ thống đường điện. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng cho lễ hội hằng năm, các cấp chính quyền sở tại và tỉnh Nghệ An nên quan tâm đầu tư xây dựng thêm một số hạng mục cơ bản như: khu để xe cho khách tham quan, mở rộng sân bãi hay xây khu đón tiếp để đón tiếp khách du lịch nội địa và khách quốc tế khi đến du lịch Nghệ An. Cải tạo xây dựng một số khu vực lân cận để đáp ứng nhu cầu hành lễ của du khách.
Thứ hai, xây dựng nếp sống văn hóa lễ hội. Giải pháp này không những bảo tồn được nét đẹp văn hóa vốn có của lễ hội, mà còn phát huy được giá trị đối với sự phát triển du lịch của địa phương. Cần phát huy và nâng cao vai trò lãnh đạo của chính quyền địa phương trong công tác tổ chức, hướng dẫn và điều hành các hoạt động tại lễ hội đền. Lãnh đạo địa phương cần xác định, đây là một hoạt động lễ hội nghiêm túc, linh thiêng, có giá trị về mặt tâm linh đối với cư dân địa phương và khách du lịch. Vì vậy, cần xác định đúng vai trò chủ đạo trong công tác tham mưu của Ban Tổ chức lễ hội, Ban quản lý di tích. Công tác thanh tra, kiểm tra phải tổ chức thường xuyên, giải quyết những vấn đề phát sinh diễn ra trong lễ hội một cách nhanh nhất, tránh xảy ra những vấn đề đáng tiếc ảnh hưởng đến giá trị tâm linh của lễ hội. Cần xử lý nghiêm minh những sai phạm tại lễ hội như biến tướng cờ bạc, lừa bịp du khách hay các hiện tượng mê tín dị đoan để những trò chơi dân gian tổ chức ở lễ hội diễn ra lành mạnh, mang lại sự thoải mái cho du khách.
Tăng cường tuyên truyền nét đẹp văn hóa lễ hội đền Cuông cho du khách thập phương thông qua các trò chơi truyền thống như đánh cờ người, kéo co, đốt lửa trại, đu dây. Tăng cường tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội để nâng cao ý thức của người dân và du khách khi tham gia lễ hội trong việc dâng hương đúng nơi quy định, bảo vệ và gìn giữ môi trường, cảnh quan xanh, sạch, đẹp. Thành lập các đội thanh niên tình nguyện để hướng dẫn, giúp đỡ du khách trong những ngày diễn ra lễ hội. Tuyên truyền để khách hạn chế sử dụng túi nilon trong quá trình tham gia lễ hội mà thay bằng túi vải, túi cói để đựng lễ vật dâng hương. Thu gom rác thải đúng nơi quy định sau khi lễ bái.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tổ chức phục vụ lễ hội đền Cuông. Hiện nay, lễ hội mới chỉ được khách trong tỉnh biết đến và tham gia với quy mô chưa rộng. Vì vậy, đội ngũ phục vụ du khách tham gia lễ hội còn hạn chế và chưa thật sự chuyên nghiệp. Nhưng trong thời gian tới, với sự phát triển của du lịch, số lượng du khách từ các vùng miền sẽ tăng lên, rất cần một nguồn nhân lực có tính chuyên nghiệp để đảm bảo chất lượng phục vụ cho lễ hội. Vì vậy, các nhà quản lý cũng nên có những chính sách đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân lực phục vụ tại đền. Đặc biệt là đội ngũ thuyết minh viên những kiến thức về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng liên quan đến di tích. Bên cạnh đội ngũ cán bộ quản lý, thuyết minh viên tại điểm, Ban Quản lý Khu di tích đền Cuông nên mời các chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng dân cư đưa ra những góp ý để tổ chức lễ hội ngày càng có tính chuyên nghiệp hơn. Chính quyền huyện Diễn Châu nên kết hợp với Sở Du lịch Nghệ An để thường xuyên tổ chức những hội thảo liên quan đến việc tu bổ, giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử của đền Cuông, nhằm thu thập những ý kiến của các nhà khoa học để tìm ra những giải pháp hữu hiệu trong việc khai thác và bảo tồn giá trị của nó trước những tác động tiêu cực.
Thứ tư, giải pháp về phát triển kinh tế du lịch. Nghệ An là một tỉnh có thế mạnh về di tích lịch sử và các lễ hội truyền thống. Đây cũng là điều kiện giúp Nghệ An có thể phát triển mạnh loại hình du lịch tâm linh. Để góp phần giới thiệu về nét đẹp của kiến trúc và lễ hội đền Cuông, chính quyền địa phương nên kết hợp với các công ty du lịch để xây dựng các chương trình du lịch tâm linh trong đó đền Cuông là một điểm đến. Chính sự phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch như vậy sẽ là điều kiện để du lịch Nghệ An sớm trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.
Có thể nói, việc duy trì, tổ chức tốt lễ hội đền Cuông không chỉ nhằm tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về một điểm di tích tâm linh của huyện Diễn Châu nói riêng, của Nghệ An nói chung mà còn giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa, những nét đẹp của phong tục tập quán nơi đây cho du khách thập phương. Đồng thời còn tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp giao lưu hợp tác đầu tư, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di sản của dân tộc Việt Nam.
____________________________
1. Đền Cuông, vi.wikipedia.org, truy cập ngày 22-9-2021.
2. Anh Tuấn, Đền Cuông: Truyền thuyết và lễ hội, vanhoanghean.com.vn, 29-3-2012.
3. Nguồn: Sở Du lịch Nghệ An.
4. Dương Văn Sáu, Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2017.
PHAN THỊ BÍCH THẢO
Nguồn: Tạp chí VHNT số 476, tháng 10-2021
4.
NGUYỄN HUY KHUYẾN
1. Dẫn luận
Ngự chế Bắc tuần thi tập, kí hiệu H77/1- 6, hiện đang lưu trữ, bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt, gồm 5 quyển, tổng cộng 190 tờ ghi chép rất nhiều bài thơ vua Thiệu Trị đã làm về những địa phương đã đi qua như: Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,… Bộ sách này được in năm 1844 và được ghi chép trong Đại Nam thực lục: “Tập thơ Ngự chế Bắc tuần khắc xong, ban cấp cho hoàng tử, hoàng thân, các quan văn võ và các quan ở các tỉnh về chầu, cùng phủ Thừa Thiên, trường Quốc Tử Giám, học chính các tỉnh đều 1 tập”. [64, tr. 608]
Tại nhiều địa phương, các bài thơ do vua Thiệu Trị làm được ghi lại và sau đó được khắc vào văn bia dựng tại nơi được vua ngự chế thơ để làm kỉ niệm. Nhiều bài thơ sau này bị mất, do bia bị mất hoặc nhiều nguyên nhân do lịch sử để lại mà bị mờ, bị mất chữ,…
Tại tỉnh thành Nghệ An, vua Thiệu Trị đã dừng chân ở các hành cung dọc đường thiên lí và có làm một số bài thơ. Hai trong số đó đã được tìm thấy trong văn bia tại núi Hồng Lĩnh và văn bia ở con Kênh Sắt. Hai tấm bia này chính là bia khắc hai bài ngự chế do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác để ca ngợi cảnh đẹp hùng vĩ của núi Hồng và sự kì lạ của dòng kênh Sắt.
Có nhiều bản dịch về hai tấm bia này cũng như những bình luận của các nhà Hán học, song cũng có những nhầm lẫn do văn bia mờ hoặc do đánh máy sai chữ. Để cung cấp thêm những bài thơ do vua Thiệu Trị viết về Nghệ An cũng như cung cấp lại nguyên văn hai bài thơ Hồng Lĩnh và Thiết cảng, chúng tôi mạo muội gửi tới độc giả nguyên văn các bài thơ này gồm cả phần chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa.
2. Nguyên văn các bài thơ ngự chế của vua Thiệu Trị
Các bài thơ ngự chế này được in trong sách Ngự chế Bắc tuần thi tập, quyển 2, từ tờ số 11 đến tờ số 16. Bộ sách này hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt.
Tình trạng văn bản của những bài thơ này hiện còn khá tốt, chữ được khắc trên mộc bản, phần bài thơ khắc chữ lớn, phần chú thích khắc chữ nhỏ.
Sự việc vua Thiệu Trị Bắc tuần khi đi qua các tỉnh có làm thơ ngự chế và hai địa danh Hồng Lĩnh và Thiết cảng đã được vua sai quan sở tại khắc vào bia đá dựng ở bên đường: “Khắc các bài thơ ngự chế khi Bắc tuần ở các địa phương. Quan Nội các dâng sớ nói: “Trộm nghĩ: núi cao, sông chảy ngang dọc trình bày, đó là văn của đất. Tiếng vàng tiếng ngọc, điều lí trước sau, đó là văn của thánh nhân. Nước ta, bờ cõi muôn dặm, núi sông thắng tích chỗ nào cũng có. Năm nay, ngự giá ra Bắc, thăm mùa màng, hỏi việc nông, xem dân tình, xét quan lại, làm phúc, ban ơn, dạy chính sự, sửa việc binh, phàm trải qua chỗ nào đều có thơ để ghi việc, tính được gồm 173 bài. …Hai bài vịnh “Hồng Lĩnh”, “Thiết cảng” thì tả hết tình trạng núi sông, cơ trời mở đóng, mà cùng là hình thế bày ra ở đó. Ngước thấy bút pháp của thánh thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên tấm đá để trấn một phương, làm áng văn lưu truyền muôn đời. Vậy xin giao cho các nơi sở tại đem khắc vào bia lớn, để núi sông càng tươi đẹp, địa hạt thêm vẻ vang mà áng đại văn chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy giữ được đến vô cùng”. [2, tr. 416-417]
Vua xem sớ tâu, phê bảo rằng: “Khi trẫm ra Bắc, trải xem các địa phương, coi đến núi sông mà nhớ ơn liệt thánh, mừng tục thuần Mĩ mà mộ sự vẻ vang của triều xưa, không phải là chỉ ưa thích thơ văn mà thôi. Nhưng sơ thảo lần đầu, sợ chưa đủ để lại cho đời sau. Nay đã có lời xin thì giao cho các đại thần duyệt lại, tâu lên. Trương Đăng Quế, Vũ Duy Cẩn lại xin cho thi hành việc khắc. Vua bèn y cho. Bấy giờ mới chia định: …bài “Núi Hồng Lĩnh”, bài “Thiết cảng” ở Nghệ An;…, sai địa phương sở tại khắc thơ vào đá, dựng bia ở bên đường”. [2, tr. 417].
Dịch nghĩa: Núi Hồng
Chín mươi chín ngọn núi bày theo thứ tự,
Núi đứng tầng tầng chót vót trông sừng sững. Hương Tích chùa xưa nay vẫn còn đây,
Sự tích về dấu vết của Trang Vương đã tan thành tro bụi.
Chim hạc bay ngoài đồng nội tương truyền về đậu trên đỉnh núi, Chim Hồng bay xa được ngợi ca nổi tiếng đã quay trở lại.
Núi non trùng điệp kéo dài liền với trời xanh, Một nửa núi mây che phủ, một nửa núi không.
Nguyên chú:
(1) 山之陽有古寺, 名香蹟清光靜寂, 迥絕塵. 凡俗傳楚莊王之女, 酷好佛教遠來參禪, 修 化于此, 莊王追尋到處, 得之. 築臺居于寺之北. 今存舊址, 名莊王址.
Sơn chi dương hữu cổ tự, danh Hương Tích, thanh quang tĩnh tịch, quýnh tuyệt trần. Phàm tục truyền Sở Trang Vương chi nữ khốc, hảo Phật giáo, viễn lai tham thiền, tu hoá vu thử, Trang Vương truy tầm đáo xứ, đắc chi. Trúc đài cư vu tự chi bắc. Kim tồn cựu chỉ, danh Trang Vương chỉ.
Ở sườn núi có ngôi chùa cổ, tên là Hương Tích, tĩnh mịch sáng trong, xa rời chốn trần tục. Phàm tục truyền con gái của Sở Trang Vương, rất sùng Phật giáo, từ xa đến học thiền, tu hoá ở đây, Trang Vương đi tìm đến xứ này, tìm được con gái, ông cho xây dựng nhà cửa ở phía bắc ngôi chùa. Ngày nay vẫn còn nền móng cũ, tên là nền Trang Vương.
(2) 此山在河靜省德壽府起自宜春縣歷于天祿縣綿亙蜿蜒, 凡九十九峰, 相傳玄鶴群來 各棲嵿, 嵿乃 […] 1 鴻嶺名之誠, 牢不可破, 抑或別有意義亦未可知.
Thử sơn tại Hà Tĩnh tỉnh, Đức Thọ phủ khởi tự Nghi Xuân huyện, lịch vu Thiên Lộc huyện miên cắng uyên diên, phàm cửu thập cửu phong, tương truyền huyền hạc quần lai các thê đỉnh, đỉnh nãi… hồng lĩnh danh chi thành, lao bất khả phá, ức hoặc biệt hữu ý nghĩa diệc vị khả tri.
Núi này khởi nguồn từ huyện Nghi Xuân, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trải qua huyện Thiên Lộc kéo dài ngoằn ngoèo, tất cả có 99 ngọn núi, tương truyền có bầy chim Hạc đen đến đậu trên đỉnh núi, núi này có tên là núi Hồng, bền vững không gì phá được, hay là có ý nghĩa gì khác, cũng chưa thể biết.
(Quyển 2, tờ 10a-11a/b)
Sự tích về núi Hồng cũng được sách Đại Nam thực lục ghi chép qua lời của quan tỉnh địa phương là Vũ Đức Nhu. Qua lời kể ấy câu truyện như có sự huyền bí về lịch sử hình thành tên gọi của núi.
“Thuyền ngự do sông Đại Nại tiến phát, qua núi Hồng Lĩnh, vua triệu quan tỉnh là Vũ Đức Nhu, hỏi về thắng tích núi ấy. Nhu thưa rằng: “Núi này khởi đầu từ huyện Nghi Xuân, qua huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc), quanh co, liền lượt, gồm 99 ngọn. Tương truyền có đàn chim hạc đen đậu ở trên núi, cho nên đặt tên là “Hồng Lĩnh”, bên phía nam núi này có ngôi chùa cổ, tên gọi là Hương Tích. Tục truyền: xưa con gái của Sở Trang vương rất mộ đạo Phật ở xa đến thăm cảnh chùa rồi ở tu và hoá tại đây. Trang vương theo tìm được, mới dựng đài ở phía bắc chùa này, nay vẫn còn nền cũ, gọi là nền “Trang vương”. Vua cười nói: “Đó là câu chuyện hài hước của người Tề, nói sự quái lạ, truyền mãi không thể bỏ hết!”. Hoặc giả có ý nghĩa gì khác cũng chưa biết chừng”. [2, tr. 296].
___________
1. Nguyên văn chữ này bị mất nên chúng tôi chưa đọc được.
Dịch nghĩa: Sáng sớm ra khỏi thành Nghệ An bỏ thuyền đi đường bộ
Chiếu của vua tuyên đến quận Hoan,
Cờ loan hướng về châu Ái.
Nhân dân ra đường nghênh đón,
Đường xá đọng đầy hương thơm.
Sáng sớm muôn núi phủ màu xanh,
Trong khói xuân muôn cây tươi tốt.
[…] dấu chân thú chạy bụi không cuốn,
Đường bằng phẳng trông xa dài dằng dặc.
(Quyển 2, tờ 13b-14a)
Dịch nghĩa: Dừng ngựa tại hành cung An Kim
Tốt thay được cảnh trời mát mẻ vui vẻ đi nhanh,
Không biết rằng trời đã quá trưa lâu rồi.
Cởi yên buộc ngựa nhàn nhã nghỉ ngơi,
Uống nước đầu sông Mã thấy làn sóng lay động.
(Quyển 2, tờ 14a)
___________
1. Chữ này trong văn bản bị mờ hết chữ không đọc được.
Đi dã ngoại ở Hưng Nguyên
Ngoại ô rộng lớn thoáng đãng cảnh yên tĩnh,
Núi cao trùng điệp che chắn cho nơi này.
Xung quanh núi ôm ấp bao bọc chầu về,
Đường xá vòng quanh chạy khắp nơi.
Mờ tối cảnh mây khói mờ mịt,
Trời không có gió mà có tiếng cây cối.
Nghe tiếng chim muông kêu trên đỉnh núi,
Ngôi miếu cổ mãi còn hương khói.
(Quyển 2, tờ 14a-14b)
Dịch nghĩa: Đêm xuân được thơ ở hành cung An Hương
Một khắc đáng giá ngàn vàng đêm dài tịch mịch,
Hoa trên núi biết ý tự mình ngậm hương.
Gió đông đưa hương thơm đến trước thềm cảm thấy khoan khoái,
Vườn thượng uyển chẳng lưu lại hương thơm của hoa ngoài cánh đồng.
(Quyển 2, tờ 14b)
___________
1. Nguyên văn khắc chữ 文 văn, nhưng nếu theo logic thì phải là chữ văn 聞 (nghe), mới hợp lí.
Dịch nghĩa: Cảng Sắt
Suối nhỏ chảy vòng vèo trong lòng muôn ngọn núi,
Nghe nói người xưa mượn công của tạo hoá.
Mỏ sắt ở lưng núi còn lưu lại đá vương vãi,
Cửa cảng oai trời cạn mà vẫn lưu thông.
Lẽ huyền vi chẳng giải được chuyện lạ thần cơ, Đất bằng phẳng càng hiện rõ đạo đời hưng thịnh. Núi non của Lũng Thục cũng không sánh được, Dời đến nước Triệu nước Sở vẻ đẹp sao hết được.
Nguyên chú:
(Quyển 2, tờ 15a-15b)
(1) 史記: 唐時高駢為安南都護, 駢使林諷領眾疏鑿此港, 以便漕運, 至興元縣山岡亂石, 人 工摧折殆, 欲中止. 時五月忽當晝雷震數百聲打碎其亂, 石尚遺一巨石眾工亦力不能施悉成港 道. 六月間雷復大震將巨石一時碎裂港道乃成, 時人稱為天威港, 港之西是鐵穴山故又名鐵港.
Sử kí: Đường thời Cao Biền vi An Nam đô hộ, Biền sử Lâm Phúng lãnh chúng sơ tạc thử cảng, dĩ tiện tào vận, chí Hưng Nguyên huyện sơn cương loạn thạch, nhân công tồi triết, đãi dục trung chỉ. Thời ngũ nguyệt hốt đương trú lôi bách thanh đả toái kì loạn, thạch thượng di nhất cự thạch, chúng công diệc lực bất năng thi tất thành cảng đạo. Lục nguyệt gian lôi phục đại chấn tương cự thạch nhất thời toái liệt. Cảng đạo nãi thành, thời nhân xưng vi Thiên uy cảng, cảng chi tây thị thiết huyệt sơn cố hựu danh Thiết cảng.
Theo sử sách ghi chép: Thời Đường Cao Biền làm Đô hộ sứ nước An Nam. Biền sai Lâm Phúng sai dân ta đào con kênh này, để thuận tiện cho chuyên chở. tới địa phận huyện Hưng Nguyên, đá núi lởm chởm, nhân công bị đưa tới chỗ nguy hiểm, họ muốn dừng lại giữa chừng. Vào tháng 5 đột nhiên ban ngày bỗng nghe hàng trăm tiếng sấm đánh tan tảng đá ấy, song còn sót lại một tảng đá lớn, công nhân không đủ sức thi công hoàn tất tạo thành dòng kênh. Đến tháng 6, lại một tiếng sét lớn, tảng đá lớn trong chốc lát vỡ tan, hình thành cảng đạo. Thời bấy giờ, người ta gọi là “Cảng Thiên Uy”. Phía Tây cảng là Mỏ Sắt, nên lại có tên là “Thiết cảng”.
(2) 相傳此港道因有江河引流通之嶺岫隨勢鑿之, 自河內可通乂安以南. 今則相夾田疇 涵蓄資農.若於山下縈紆則浮沙日壅以成平地. 似乎天意, 漕運有方, 設險有所, 居中禦外不 可通達如初. 玄妙機緘亦未 可知. 玆因事以理論之怪異 之事. 耳食之言, 未足信也.
Tương truyền thử cảng đạo nhân hữu giang hà dẫn lưu thông chi lĩnh tụ tuỳ thế tạc chi, tự Hà Nội khả thông Nghệ An dĩ nam. Kim tắc tương giáp điền trù hàm súc tư nông. Nhược ư sơn hạ oanh hu tắc phù sa nhật ủng dĩ thành bình địa. Tự hồ thiên ý, tào vận hữu phương, thiết hiểm hữu sở, cư trung ngự ngoại, bất khả thông đạt như sơ. Huyền diệu cơ giam, diệc vị khả tri. Tư nhân sự, dĩ lí luận chi, quái dị chi sự. Nhĩ thực chi ngôn, vị túc tín dã.
Tương truyền kênh này vì nhân có những lạch sông ngòi dẫn thông đến hang núi, tuỳ thế núi mà đào kênh, từ Hà Nội thông đến Nghệ An cho tới phía Nam. Ngày nay thì ruộng đất của nông dân bao quanh, ở dưới chân núi thì hàng ngày phù sa bồi đã thành bình địa. Giống như ý trời, vận chuyển đường thuỷ có sách, nguy hiểm có chỗ, ở bên trong che bên ngoài, không thể thông suốt như trước nữa. Những lẽ sâu kín huyền vi cơ trời cũng chưa thể biết. Nay nhân sự việc này, lấy cái điều quái dị đó mà bàn luận, thì lời nói truyền thuyết đó, chưa đủ để tin cậy vậy.
Vua Thiệu Trị khi Ngự giá qua Thiết cảng nghe được sự tích lạ mới nói với đại thần Trương Đăng Quế: “Ngự giá đi qua Thiết cảng. Vua bảo đại thần Trương Đăng Quế rằng: “Đường cảng này, tương truyền: nhân có các sông chảy xuống thông qua các núi, người ta mới lựa theo hình thế, đào ra, từ Hà Nội có thể đi suốt đến phía nam tỉnh Nghệ An; nhưng đến nay phù sa mỗi ngày một bồi thêm, đã thành ra đất bằng; tựa như vì chốn Thần kinh đã định, giữ hiểm đã có chỗ, chuyển vận đã có phương, ở bên trong, giữ bên ngoài, không thể thông đạt như trước, đó là cơ trời huyền diệu, chưa dễ lường biết, nhưng lấy lí mà bàn thì: tục truyền việc Cao Biền đào cảng này, nhờ uy trời chấn động, vỡ đá, thật là một sự quái lạ. Lời truyền thuyết vu vơ ấy không đủ tin được”. [2, tr. 298]
Thiết cảng là kênh đào rất quan trọng từ xưa đến nay, song có lẽ những sự huyền tích về sự hình thành dòng kênh này khiến nó được thần thánh hoá, cho dù vua Thiệu Trị không tin điều đó là có thật.
3. Một vài so sánh nhận xét về văn bản trong văn bia và văn bản trong thơ ngự chế
Mặc dù chúng tôi chưa được tiếp cận với bản gốc văn bia bài Thiết cảng tại Nghệ An, nhưng thông qua bài viết: Thiết cảng – bài thơ ngự chế, khắc lên bia của tác giả Bùi Văn Chất dịch và giới thiệu chúng tôi cũng xin được so sánh một vài chữ khác giữa hai văn bản này
Nhận xét: ở câu thứ 2 của bài thơ chữ 公 được khắc trong văn bia còn chữ 工 công được in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập.
Câu thứ 7 phần nội dung bài thơ chữ 此 thử được khắc ở văn bia, còn chữ 比 được in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Hai chữ này có hình dạng gần giống nhau rất dễ nhầm.
Trong phần chú thích được in chữ nhỏ hơn phần chính bài thơ chữ lai 來 và chữ tư 來 ở trong văn bia, còn chữ giáp 夾 và chữ tư 資 in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Hai chữ này có hình dạng giống nhau nên rất dễ nhầm lẫn.
Trong câu phần chú thích chữ vi 為 in ở văn bia còn chữ vị 未 in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Như vậy, nếu so sánh cả hai văn bản thì chúng tôi nhận thấy có 5 chữ khác biệt ở trong văn bia và trong ngự chế thi.
Việc đào kênh Thiết cảng đã bị gián đoạn nhiều lần, không những tốn kém tiền của nhiều mà mãi vẫn không có được lượng nước như ý. Trước tình hình đó thời vua Tự Đức tiếp tục cho đào để làm lợi lâu dài về sau.
Sách Đại Nam thực lục ghi chép về việc vua Tự Đức sai phái người đi kiểm tra Thiết cảng, theo tấu báo của quan tổng đốc Nghệ An và Hà Tĩnh. “Thự Tổng đốc An – Tĩnh là Vũ Trọng Bình tâu xin đào đục Thiết cảng ở hạt Nghệ An (dài hơn 1193 trượng). Đình thần bàn cho là: Liền năm mất mùa đói kém, còn đương phải cứu chữa cho dân. Nay bắt dân khơi đào, sức dân không làm nổi. Vả lại, hiện nay của kho ít, công việc nhiều, có nhiều sự không tiện, đường cảng ấy sẽ để tính sau”. [3, tr. 695]
Qua lời tấu của quan địa phương phần nào chúng ta biết được để đào con kênh dài 1.193 trượng, rất tốn kém, ngay cả triều đình cũng gặp khó khăn. Năm Tự Đức thứ 19 (1866), vua giáng dụ sai quan tỉnh tiếp tục cùng với nhân dân đào kênh để không bị bỏ dở “Khâm phái là Phạm Ý đi việc công về tâu nói: Việc khai Thiết cảng ở Nghệ An, công trình to lớn, dân gian không vui lòng làm việc, hiện nay nắng và ẩm thấp, lại cảm nhiễm nhiều, mà khai đào đã sâu vẫn chưa thấy nước, thế khó thành công. Vua giáng dụ sai quan tỉnh cứ theo hiện tình tâu về, nếu làm đã sắp xong thì phải đào để được lợi lâu dài, nên xét xem dân cần thứ gì mà giúp đỡ, khuyên bảo khiến cho quên nhọc vui lòng làm, thì công trước không đến nỗi mất không”. [3, tr. 1060]
Dịch nghĩa: Nghỉ trưa ở hành cung An Luỹ
Một nửa dựa vào thôn núi một nửa ở đường,
Vài cây cột nhỏ dựng nhà để nghênh đón xe vua.
Dừng xe xem xét vì niềm vui của dân,
Nghệ An, Hà Tĩnh việc nông đều tốt đẹp.
Dịch nghĩa: Nghỉ đêm ở hành cung An Quỳnh
Muôn khe suối vạn cây tùng trên núi nghe sảng khoái như tiếng tiêu thổi,
Đêm xuân bừng tỉnh giấc ngỡ như là tiếng sóng cuốn.
Mây đã về núi xa bầu trời quang đãng,
Trăng mới mọc ở phía đông chiếu sáng cả nơi vua ở.
(Quyển 2, tờ 16a)
4. Các trạm thông tin (hành cung) ở Nghệ An và giá trị nội dung của các bài thơ
Thời Nguyễn dọc đường thiên lí từ Thuận Hoá ra đến Bắc Thành và từ Thuận Hoá vào phía Nam có rất nhiều trạm thông tin và dịch trạm. Khi có dịp tuần thú, vua đến nơi nào thì nơi đó lập tức phải dựng nhà nghỉ còn gọi là hành cung. Thông thường hành cung là nơi vua ở tạm nên không cần làm cầu kì kiên cố. Nhiều khi chính vua ra lệnh cho quan sở tại địa phương không cần dựng nhà cầu kì tốn kém.
Tỉnh thành Nghệ An thời vua Thiệu Trị có những hành cung như An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh. Những hành cung này đã từng được vua cảm tác làm thơ khi nghỉ chân tại đây.
Sách Đại Nam thực lục cho biết về tên các hành cung ở Nghệ An: “Thưởng thêm cho các trạm thông tin trên đường thuỷ, đường bộ từ Quảng Trị ra Bắc. (Phàm những trạm chạy tin rất nhiều, thì châm chước liệu cấp thêm … An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh ở Nghệ An”. [2, tr. 291]
“Lại nữa, những trạm trên đường bộ từ Quảng Trị ra Bắc, đường xe vua ra Bắc tuần qua đó, như trạm. An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh ở Nghệ An”. [2, tr. 358]
Các bài thơ trên đã mang đến những nội dung tư liệu hết sức quý giá để nghiên cứu về vùng đất Nghệ An, đặc biệt là việc xây dựng con kênh Sắt và vẻ đẹp của núi Hồng. Bên cạnh đó là những di tích mà vua Thiệu Trị đã từng ghé lại nghỉ ngơi trong các hành cung. Đúng như lời nhận xét của đình thần về hai bài thơ của vua Thiệu Trị về núi Hồng Lĩnh và Thiết Cảng: “Hai bài vịnh “Hồng Lĩnh”, “Thiết cảng” thì tả hết tình trạng núi sông, cơ trời mở đóng, mà cùng là hình thế bày ra ở đó. Ngước thấy bút pháp của thánh thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên tấm đá để trấn một phương, làm áng văn lưu truyền muôn đời. Vậy xin giao cho các nơi sở tại đem khắc vào bia lớn, để núi sông càng tươi đẹp, địa hạt thêm vẻ vang mà áng đại văn chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy giữ được đến vô cùng”.
Ngoài giá trị sử liệu, những bài thơ này còn cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về phong cảnh tuyệt mĩ. Phong cảnh của tỉnh thành Nghệ An có hương, có hoa, có chim muông cây cối, có chùa cổ miếu xưa hoà quyện vào nhau tạo nên bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Đọc các bài thơ cảm tác tại các hành cung của vua Thiệu Trị mới thấy rất rõ điều đó. Trên núi có thông, tiếng rít vào nhau tựa như có ai thổi tiêu, đâu đó trên ngôi miếu cổ khói hương vẫn còn nghi ngút, đêm đêm nghe tiếng chim kêu trên đỉnh núi, để rồi ánh trăng sáng chiếu rọi chốn cung vua.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Ngự chế Bắc tuần thi tập, bản chữ Hán, kí hiệu H77, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch tập 6), NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch tập 7), NXB Giáo dục, Hà Nội.
https://thanhdiavietnamhoc.com/gia-tri-lich-su-qua-cac-bai-tho-ve-dia-danh-o-nghe-an-cua-vua-thieu-tri/
3.
Viết tiếp bài Miếu Tiên cô , chuyện lạ có thật ở Nghệ An:
Sẽ xem xét xếp hạng di sản tư liệu về tấm bia Ngự chếVHO - Hôm qua 24.9, chúng tôi đã trao đổi với bà Phan Anh, Trưởng phòng Di sản văn hóa (Sở VHTT Nghệ An), về vấn đề bài báo Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An (Báo Văn Hóa số 4092, ra ngày 23.9).

Bà Phan Anh cho biết: “Tôi đã đọc bài báo. Hiện cán bộ của Phòng đang kiểm tra thông tin bài báo phản ánh. Sau kiểm tra, Phòng sẽ làm việc với địa phương là Phòng Văn hóa huyện Diễn Châu để có phương án xử lý”.
Chúng tôi nêu giả thiết, nếu thực tế nêu trong bài báo là đúng thì hướng xử lý của Phòng Di sản văn hóa sẽ như thế nào? Bà Phan Anh nói: “Theo phân cấp quản lý nhà nước, Phòng Di sản văn hóa sẽ có văn bản đề nghị UBND huyện Diễn Châu nghiên cứu, đưa ra biện pháp xử lý thích hợp.
Nếu tính chất vụ việc vượt quá thẩm quyền cấp huyện chúng tôi sẽ tham mưu với lãnh đạo Sở có phương án tiếp theo nhằm giải quyết hiệu quả bài báo nêu. Phòng Di sản văn hóa cũng đã trao đổi vấn đề này với Ban Quản lý Di tích Nghệ An, là đơn vị cấp hai của Sở”.
Trước đó, tại Ban Quản lý Di tích Nghệ An, bà Trần Thị Kim Phượng, Trưởng ban, đã thẳng thắn nêu một số chính kiến về một số nội dung bài báo phản ảnh, kể cả việc “mình sai thì phải sửa”.
Theo bà Phượng, mấy năm gần đây, Ban tổ chức lễ hội đền Cuông thường đến “miếu Tiên cô” thắp hương trước khi lễ hội diễn ra. Do sơ suất, một số nhân viên Phòng truyên truyền cứ nghĩ “có thể đây là dấu tích thờ Mẫu Liễu Hạnh có từ đền Tuần xưa” nên không để ý đến sự hiện diện của “ngôi miếu Tiên cô”.
Sau khi đọc kỹ bài báo Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An”, chúng tôi sực nhớ đến tư liệu tại Cục lưu trữ Trung ương IV tại Đà Lạt đang lưu giữ một mộc bản triều Nguyễn, sách Ngự chế Bắc tuần thi tập, quyển 2, mặt khắc 14, 15 ghi lại bài thơ “Thiết cảng” (Kênh sắt) của vua Thiệu Trị.
Tác giả Thơm Quang, cán bộ Cục lưu trữ cũng có bài viết “Chuyến thăm Nghệ An của vua Thiệu Trị” đăng trên Cổng thông tin điện tử Sở KH&CN Nghệ An, ngày 15.7.2024. Bài báo cho hay: Ngày Ất Dậu, mùa Xuân tháng 2 năm Nhân Dần (1842), vua Thiệu Trị cùng đoàn tùy tùng có chuyến ngự giá từ Kinh đô Huế ra Bắc.
Trong lộ trình đó, vua đã dừng chân tại Nghệ An để nắm bắt sự tình và mục đích tận mắt nhìn con người, cảnh vật xứ Nghệ… Đến tháng 10, vua Thiệu Trị cho khắc các bài thơ ngự chế khi Bắc tuần ở các địa phương, trong đó có bài “Thiết cảng” (Kênh sắt).
“Như vậy, ngôi “miếu Tiên cô” như bài báo phản ánh đã thần thánh hóa câu chuyện “húy thị” không đúng với hiện diện của tấm văn bia do vua Thiệu Trị soạn từ năm 1842”, bà Phượng nêu chính kiến.
Cũng theo bà Phượng, tấm văn bia Ngự chế này có thể xếp hạng di sản tư liệu (loại di sản này vừa mới bổ sung trong Luật Di sản văn hóa, đang chờ Quốc hội thông qua).
Sắp tới, Ban Quản lý Di tích Nghệ An phối hợp Phòng Di sản văn hóa sẽ có cuộc làm việc với UBND huyện Diễn Châu để bàn ba nội dung: Một, khoanh vùng để bảo vệ tấm văn bia Ngự chế.
Hai, xây nhà bia thay vì “ngôi miếu Tiên cô” hiện nay. Nhà bia có bốn cột. Bậc tam cấp cao khoảng 1m.
Ba, có một tấm biển dẫn tích. Tấm biển này ghi cụ thể sự tích tấm văn bia Ngự chế. Nội dung văn bia, kể cả phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ từ văn bia.
Bà Phượng tâm huyết: “Tấm văn bia Ngự chế là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ bởi đây là tấm văn bia Ngự chế duy nhất có trên đất Nghệ An. Người đi trên quốc lộ 1A và du khách tham gia lễ hội đền Cuông dễ dàng rẽ lên núi Mộ Dạ để chiêm bái thay vì chuyện thắp hương, mua lễ, làm lễ tại “miếu Tiên cô” như mấy năm trước. Nó không đúng. Nó phản cảm”.
https://baovanhoa.vn/van-hoa/se-xem-xet-xep-hang-di-san-tu-lieu-ve-tam-bia-ngu-che-106291.html
2.
Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An
VHO - Trên núi Mộ Dạ bên quốc lộ 1 thuộc địa phận xã Diễn An, huyện Diễn Châu (Nghệ An) xuất hiện ngôi miếu có tên Tiên cô. Nhưng ngôi miếu này ai làm, từ lúc nào và thờ ai… là những câu hỏi khiến nhiều người quan tâm. Chúng tôi lên núi Mộ Dạ, mới hay ngôi miếu đang được “khoác” vào mình những ảo ảnh kỳ dị.

Ngày 18.9, chúng tôi tiếp cận ngôi miếu. Ngôi miếu cao gần 3m so với mặt đường hiện tại, chiều ngang hơn 1,5m nổi bật với màu sơn vàng, ngói đỏ, mực đen.
Dưới mái ngói hình lòng thuyền, mặt trước ngôi miếu đề chữ: Miếu Tiên cô. Phía dưới là cửa miếu trống. Hai bên có đôi câu đối: Vạn cổ anh linh phù quốc thịnh, Ức niên hách trạc hộ dân an. Bức bình phong trước miếu gắn hình con hổ vẻ mặt hung dữ. Bên trái miếu là lò gạch hóa vàng mã.
Phía dưới ghi bốn lời cảnh báo giúp người dân khi hóa vàng mã thận trọng, phòng chống cháy rừng. Cuối cùng là thông tin: “Ban quản lý Đền Cuông cùng thầy S., số điện thoại 0975xxxxx”.
“Sự tích” miếu Tiên cô
Chúng tôi ngạc nhiên nhìn thấy tấm bia đá màu xám trang trọng “đứng” im lìm trong lòng miếu. Mặt bia khắc kín chữ Hán. Bên hàng chữ to có những hàng chữ nhỏ. Trước tấm bia có tượng Phật, bát hương, chai nước khoáng và tấm “Linh miếu” trên đó ghi tên 19 tín chủ phát tâm công đức miếu Tiên cô.
Chúng tôi tìm cách liên lạc với người có trách nhiệm để tìm hiểu “sự tích” ngôi miếu mới, lạ này. Số điện thoại của thầy S. là “chìa khóa” đầu tiên.
Khi chúng tôi gọi, thầy S. nói “các anh sắm lễ, thầy từ ngã ba Diễn Châu vào giúp làm lễ”. Khoảng 30 phút sau, chúng tôi trở lại miếu, thấy thầy S. vừa đến trong bộ quần áo thầy cúng.
Sau nén nhang thơm, chúng tôi ngỏ ý muốn thầy S. cho biết sự xuất hiện của tấm bia đá. Thầy S. nói: “Trước đây, bia đá nằm cạnh chân núi Mộ Dạ, nay là tim đường quốc lộ 1.
Năm 2016, chủ thầu tên Minh thi công mở rộng đoạn đường này. Thợ của ông Minh lái máy ủi đến gần tấm bia đá thì bị sững lại, không hoạt động được.
Đoán biết bia đá thiêng nên ông Minh báo cáo chính quyền địa phương, xin đất trên núi Mộ Dạ để di chuyển tấm bia lên vị trí đang tại vị hôm nay. Sau khi tấm bia di chuyển, Công ty giao thông 470 làm công đức, xây 45 bậc xi măng và ba bức tường bao quanh tấm bia, gọi là “nhà” bảo vệ tấm bia”.
“Năm 2018, tôi sơn, sửa lại và đề chữ “Miếu Tiên cô” và viết đôi câu đối”, thầy S. nói. “Dựa vào cơ sở nào để thầy đề tên “Miếu Tiên cô”? Chúng tôi tiếp tục gặng hỏi. “Tất cả chuyện nằm trong tấm bia đá này”, thầy S. chỉ bia đá, khẳng định.

Tấm văn bia Ngự chế
Theo thầy S., nội dung trong tấm bia đá này do vua Thiệu Trị viết khi đi qua Nghệ An. Nội dung chủ yếu nói về một “huý thị” (ngày giỗ của người con gái) quê huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Người con gái này có nhiều công trạng với triều đại, giờ an nghỉ tại đây nên được vua Thiệu Trị ghi công. Trong bia đá còn có nhiều chuyện bí hiểm khác.
Ví như chuyện cô gái chết, hóa thành đá thiêng đến mức quan quân ngoài Bắc vào Nam đánh trận phải đi xe ngựa qua đây thắp hương mộ bà, cầu đánh đâu thắng đó. Các nhà tư sản muốn giàu có cũng đi xe ngựa vào đây thắp hương mộ bà.
Trong bia cũng nói rõ chuyện Cao Biền đời nhà Đường nghe tin mộ bà thiêng nên bay bằng con diều giấy sang đây yểm cho bà mất thiêng. Một thời gian, thiên lôi đánh trúng mộ bà…
Thầy S. nói trong tấm bia đá ghi lại sự tích của bà ở Hưng Nguyên nhưng do lâu đời rồi nên bà hóa thành cô tiên. Cô tiên thì phải có miếu. Thời gian của câu chuyện trên diễn ra khoảng 30 phút, chúng tôi hỏi nhiều lần rằng, “trong bia đá này, vua Thiệu Trị có viết bài thơ Thiết Cảng không”.
Thầy S. nói: “Có thơ gì đâu…Thiết là sắt”. Nói đoạn, thầy S. giải thích qua loa: “Cảng là nước, là cảng biển”. Chúng tôi quay về thành phố Vinh mang theo nhiều hoài nghi lời thầy S. về sự tích ngôi miếu mới, lạ này.
Bởi lẽ, qua tìm hiểu ban đầu, chúng tôi đinh ninh nội dung chính do vua Thiệu Trị soạn và khắc trên bia đá là bài thơ mang tên “Thiết Cảng”. Nội dung này không hề nghe thầy S. nhắc đến khi nói về sự tích Miếu Tiên cô.
Chúng tôi tìm “chìa khóa” thứ hai là nhà nghiên cứu Trần Mạnh Cường, nghiên cứu viên thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (Sở KH&CN Nghệ An).

Sau khi nghe chúng tôi kể lại câu chuyện về thầy S, anh Trần Mạnh Cường đưa ra bài viết “Văn bia Ngự chế của vua Thiệu Trị tại Nghệ An”, đăng báo Nghệ An, năm 2012.
Bài báo thông tin, cuối năm 1842, sau khi hoàn thành lễ thụ phong tại Hà Nội, vua Thiệu Trị (1807-1847) cùng quần thần trở về kinh đô Huế. Khi đi qua kênh Sắt, nhà vua nhớ lại huyền tích năm nào liền ngự chế bài thơ “Thiết Cảng” (Kênh Sắt), ca ngợi phong cảnh cũng như nhắc lại sự tích kì bí, cho khắc lên bia đá, đặt tại bờ Đông kênh Sắt tại xã Tập Phúc, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Tấm bia khổ 63 x 106cm. Trán bia hình bán nguyệt, họa khắc hình đầu rồng. Xung quanh chạm các đám mây vân vũ, hoa lá trông rất uyển chuyển, thanh thoát.
Đế bia hình chữ nhật bằng phẳng. Tất cả đều mang dấu ấn đậm nét của văn bia thời Nguyễn. Lòng bia khắc bài thơ “Thiết Cảng”, thể thơ Đường luật; xen lẫn các chú thích về các sự kiện liên quan.
Phần cuối, ghi thời gian lập văn bia vào ngày tốt tháng Chạp, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật) và câu chú cho biết văn bia do chính tay vua Thiệu Trị soạn (ngự chế thi nhất thủ). Tất cả văn bia gồm 14 dòng, 286 chữ.

Sau đây là nội dung bài thơ “Thiết Cảng”:
Phiên âm: Thiết cảng: Oanh hồi tiểu giản vạn phong trung/Văn đạo tiền nhân tạ hóa công/ Thiết Huyệt sơn yêu lưu lạn thạch/Thiên Uy càng khẩu thiển lưu thông/Huyền vi mạc trạng thần cơ dị/Bình thản vưu trưng thế đạo long/ Lũng Thục, Hào Hàm vô nhị tỷ/Ban sừ Triệu, Sở diệu hà cùng.
Dịch nghĩa: Kênh Sắt: Khe nhỏ chảy quanh giữa muôn ngàn ngọn núi/Nghe nói rằng người xưa mượn công của tạo hóa/Eo núi giữa huyệt Sắt vẫn còn đá nhỏ vương vãi/Cảng Thiên Uy vì thế mà kém lưu thông/ Lẽ trời thì khó biết, thần cơ thì lạ lẫm/Nhưng nay đất đai bằng phẳng, càng minh chứng cho đạo đời hưng thịnh/Vùng Lũng Thục, vùng Hào Hàm (ở bên Tàu) cũng không so sánh với đây được/ Nếu dời chỗ này sang nước Triệu, nước Sở thì cảnh đẹp vô cùng (Trần Mạnh Cường phiên âm, dịch nghĩa).
Dịch thơ: Kênh Sắt: Khe nước chảy, muôn ngàn ngọn núi/ Người xưa hay tạo hóa tạc nên/Ở nơi huyệt Sắt, eo còn đá/Thiên Uy cảng nước khó lưu thông/Lẽ trời khó biết, thần cơ lạ/Đất đai phẳng lặng, đạo trời hưng/Lũng Thục, Hào Hàm so sao được/ Ví như Triệu - Sở đẹp vô cùng (Vũ Toàn dịch).
Lời kết
Như vậy, miếu Tiên cô không có sự tích, chỉ có “vỏ” nguyên là “nhà” bảo vệ tấm văn bia, sửa sang lại. Đây là tấm bia rất có giá trị khoa học về lịch sử, văn hóa và còn nguyên vẹn, vì thế Sở VHTT Nghệ An cần có bia dẫn tích cho tấm văn bia Ngự chế này để những người quan tâm có thể hiểu rõ. Hoặc di dời tấm bia về Bảo tàng tỉnh để trưng bày, giới thiệu cho du khách tham quan, chiêm bái và nghiên cứu. Đây là cách bảo vệ, tôn vinh di tích lịch sử, văn hóa cách đây 182 năm.
https://baovanhoa.vn/van-hoa/mieu-tien-co-chuyen-la-co-that-o-nghe-an-106042.html
1.
Thứ hai - 15/07/2024 08:19 0



https://ngheandost.gov.vn/khxhnvna/dat-va-nguoi-xu-nghe/chuyen-tham-nghe-an-cua-vua-thieu-tri-79.html
...
---
BỔ SUNG
1.
![]() | |
| Tấm văn bia "Thiết cảng" do vua Thiệu Trị ngự chế |
Tấm bia được phát hiện nằm cách mép Quốc lộ 1A chỉ khoảng 10m dưới chân núi Sở cùng dãy núi Mộ dạ, thuộc địa phận xã Diễn An, Cách Đền Cuông khoảng 500m. Theo qui hoạch dự án, tấm bia phải di dời, vì vậy UBND huyện Diễn Châu đã giao cho xã Diễn An hoàn thiện thủ tục hồ sơ để có phương án di dời, tôn tạo nhằm bảo vệ và phát huy giá trị lịch sử của tấm bia quí có niên đại gần 200 năm tuổi. Theo đó, tấm bia này sẽ được dịch chuyển vào chân núi cách vị trí hiện tại khoảng 50m.
Theo nghiên cứu ban đầu, thì đây là tấm bia đá ghi lại bài thơ của Vua Thiệu Trị - vị vua thứ 3 của triều Nguyễn cùng quần thần khi đi ngang qua Kênh Sắt xã Diễn An, một trong 8 cảnh đẹp của huyện Đông Thành xưa đã ngự chế bài thơ ca ngợi phong cảnh hữu tình của Thiết Cảng tức Kênh Sắt. Việc phục dựng tấm bia này sẽ được gắn với khu di tích lịch sử Đền Cuông - Núi Mộ Dạ.
(Trọng Tấn)
https://truyenhinhnghean.vn/van-hoa-nghe-thuat/201205/phuc-dung-tam-bia-co-gan-200-nam-tuoi-tai-day-nui-mo-da-628472/
...










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.