Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

20/06/2025

Thơ ngự chế của vua Thiệu Trị ở một số danh thắng tại xứ Nghệ

Mở đầu là một bài viết của tác giả ở Nghệ An.

Các bổ sung và cập nhật sẽ dán dần ở dưới như mọi khi.

Tháng 6 năm 2025,

Giao Blog


---

2 bài thơ ngự chế về danh thắng xứ Nghệ của vua Thiệu Trị
 16/07/2013 11:05

Vua thiệu trị (tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông), niên hiệu Thiệu Trị là vị vua trị vì thứ 3 của triều Nguyễn. không chỉ nổi tiếng là một vị vua khoan hòa với thần dân, cần mẫn trong chính sự, ông còn là một người rất giỏi văn học, từng đi nhiều nơi và sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Trong đó, phải kể tới hai bài thơ ngự chế khắc lên bia đá ca ngợi vẻ đẹp núi sông xứ Nghệ trong một lần tuần du ra Bắc…

(Baonghean) - Vua thiệu trị (tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông), niên hiệu Thiệu Trị là vị vua trị vì thứ 3 của triều Nguyễn. không chỉ nổi tiếng là một vị vua khoan hòa với thần dân, cần mẫn trong chính sự, ông còn là một người rất giỏi văn học, từng đi nhiều nơi và sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay. Trong đó, phải kể tới hai bài thơ ngự chế khắc lên bia đá ca ngợi vẻ đẹp núi sông xứ Nghệ trong một lần tuần du ra Bắc…

Ngày Giáp Thân, tháng 2 năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2, trong chuyến “Ngự giá bắc tuần”, Vua Thiệu Trị ngự thuyền từ sông Đại Nại đi qua núi Hồng Lĩnh, thấy cảnh núi sông tươi đẹp nên thơ bèn triệu quan tỉnh Hà Tĩnh là Vũ Đức Nhu hỏi về danh thắng này. Sau khi nghe truyền thuyết về núi Hồng, nhà vua tức cảnh ngự chế bài thơ “Hồng Lĩnh” và cho khắc bia dựng dưới chân núi Hồng thuộc xã Tiếp Vũ, huyện Can Lộc, nay là Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Tấm bia này có khổ 120cm x 64cm, trong lòng bia khắc bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật xen lẫn với các dòng chữ nhỏ khác là lời chú thích về huyền tích chùa Hương Tích, cũng như nguồn gốc tên gọi núi Hồng Lĩnh. Phần cuối cùng là niên hiệu cho ta biết ngày tháng lập bia. Tất cả văn bia gồm 11 dòng, 189 chữ. Nguyên văn chữ Hán, xin tạm dịch thơ như sau:

Hồng Lĩnh

Chín chín ngọn cao giỏi đặt bày
Tầng tầng chót vót giáp trời mây
Chùa xưa Hương Tích nay còn đó
Sự nghiệp Trang Vương mấy kẻ hay
Dã hạc tương truyền về trên núi
Chinh hồng sải cánh cũng lại đây
Núi non hùng vĩ ôm trời biếc
Một dải trong xanh một dải mây
Ngày tốt tháng Chạp niên hiệu Thiệu Trị thứ 2
Ngự chế một bài thơ. Cung kính khắc
(Trần Tử Quang dịch)



Núi hồng, sông Lam

Sau khi hoàn thành lễ thụ phong tại Hà Nội, vua Thiệu Trị cùng quần thần trở về kinh đô Huế. Khi đi qua con kênh Sắt thuộc địa phận xã Diễn An huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An ngày nay, thấy phong cảnh hữu tình, nhà vua ngự chế bài thơ “Thiết cảng” ca ngợi vẻ đẹp con kênh Sắt, cũng như nhắc lại sự tích kì bí liên quan đến sự ra đời của dòng kênh này. Bài thơ đã được khắc trên bia đá đặt tại bờ Đông con kênh Sắt, thuộc xã Tập Phúc, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn An, huyện Diễn Châu.

Trải qua 171 năm, với bao thăng trầm và biến thiên của lịch sử, tấm bia này chìm vào lãng quên và chỉ còn được lưu truyền trong sử sách. Năm 2007, trong một chuyến điền dã, Câu lạc bộ Hán - Nôm Nghệ An đã tìm thấy tấm văn bia này nằm dưới chân núi Sở, cách mép QL 1A chỉ khoảng 10m. Toàn bộ tấm bia bị cây gai bụi rậm bao phủ nên không bị tác động của ngoại cảnh và vẫn hoàn toàn vẹn nguyên như trước. Tấm bia có khổ 63 x 106cm.

Vì đây là văn bia ngự chế của nhà vua cho nên nó được chạm khắc cực kỳ tinh xảo, nghệ thuật trang trí cao hơn rất nhiều so với các văn bia khác. Trán bia chạm khắc mặt quỷ La Hầu, xung quanh là hình các đám mây vân vũ. Viền bia chạm hoa lá trông rất uyển chuyển và thanh thoát. Theo đánh giá của chúng tôi, văn bia Thiết Cảng là tấm bia đẹp nhất và nguyên vẹn nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay. Cũng giống như văn bia “Hồng Lĩnh”, bia “Thiết cảng” khắc một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật xen lẫn lời chú thích về các sự kiện có liên quan. Phần thơ, được khắc cỡ chữ to còn phần chú thích khắc chữ nhỏ.

Phần đầu gồm 2 câu đề và 2 câu thực, tiếp theo sau là lời chú thích về sự tích hình thành cũng như nguồn gốc tên gọi con kênh Sắt. Phần 2 là 2 câu luận và lời chú thích về hiện trạng con kênh. Phần 3 là 2 câu kết và câu cuối của phần chú thích. Phần cuối cùng, ghi thời gian lập văn bia vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) và câu chú thích cho biết văn bia do chính Hiến Tổ Chương hoàng đế ngự chế. Tất cả văn bia gồm 14 dòng, 286 chữ. Xin được tạm dịch nghĩa như sau:

Kênh Sắt

Ôm muôn ngọn núi chảy vòng quanh
Nghe nói xưa công tạo hóa thành
Mỏ Sắt đá tan lưu vách núi
Uy trời lối mở tạm thông kênh
Huyền vi khó giải thần cơ lạ
Bình thản càng tin thế đạo hanh
Lũng Thục núi non đâu sánh nổi
Mà san dọn phẳng, rõ là kinh
Ngày tốt tháng Chạp niên hiệu Thiệu Trị thứ 2
Ngự chế một bài thơ. Cung kính khắc
(Bùi Văn Chất dịch)

Trải qua 171 năm, hai tấm bia là dấu ấn rõ ràng nhất về cuộc tuần du của Hiến Tổ Chương Hoàng đế năm nào, và cũng là niềm tự hào về một mảnh đất văn hiến với nhiều danh lam thắng cảnh. Đây là những tác phẩm rất có giá trị về văn học, lịch sử cũng như nghệ thuật điêu khắc, lại là tác phẩm ngự chế của vị vua nổi tiếng. Xứ Nghệ tự hào khi là nơi có những di sản quý báu mà không phải địa phương nào cũng có được.

Hiện nay tấm bia đã được di chuyển và được bảo vệ bằng một nhà bia khang trang, kiên cố nằm cách vị trí cũ không xa ngay sát bên Quốc lộ 1A.


Trần Tử Quang (Thư viện tỉnh Nghệ An)


https://baonghean.vn/2-bai-tho-ngu-che-ve-danh-thang-xu-nghe-cua-vua-thieu-tri-10051114.html

...


CẬP NHẬT



5.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Lễ hội đền Cuông, Nghệ An

Đền Cuông là ngôi đền thờ An Dương Vương Thục Phán được nhân dân xây dựng, tọa lạc tại núi Mộ Dạ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Đền Cuông được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào ngày 21-2-1975. Ngày nay, vào các ngày từ 12 đến 16-2 âm lịch hằng năm, nhân dân thường tổ chức lễ hội đền Cuông với nhiều hoạt động văn hóa đa dạng và phong phú, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và lễ bái.

1. Lịch sử và lễ hội đền Cuông

Lịch sử đền Cuông

Chưa rõ đền Cuông được xây dựng tự bao giờ, nhưng vào đầu TK XIX, Phạm Đình Hổ đã nhắc đến trong sách Vũ Trung tùy bút. Các đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Khải Định đều cho tu sửa lại đền (1).

Đền Cuông gắn liền với một huyền thoại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc - Thục Phán. Sau khi Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi, ông đã đoàn kết sức mạnh toàn quân đại phá quân Tần và lên ngôi vua lấy hiệu Thục An Dương Vương. Sau đó đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm (từ năm 257 đến 208 trước CN). Năm 208 trước CN, do mất cảnh giác, Triệu Đà đem quân tấn công, buộc An Dương Vương phải rút quân về phương Nam và tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ, nay thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, người dân Diễn Châu đã lập miếu thờ ông ở Cửa Hiền. Theo truyền thuyết kể lại, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, trên núi Mộ Dạ thường xuất hiện những đốm lửa lập lòe. Nhân dân cho rằng đó chính là linh hồn của vua Thục Phán muốn yên ngự trên núi, người dân sau đó đã lập đền thờ và rước linh hồn ngài về thờ phụng. Đền thờ An Dương Vương trên núi Mộ Dạ có từ ngày đó.

Ngôi đền được gọi là đền Cuông nhưng ngụ ý nói đền Công (tiếng Nghệ An). Tương truyền, khu vực núi Mộ Dạ xưa có nhiều chim công (chim hạc) sinh sống, thế núi Mộ Dạ nhìn xa tựa một con chim công khổng lồ đang múa, đầu chim chính là nơi đền tọa lạc.

Kiến trúc đền Cuông

Dù chưa có tài liệu lịch sử nào ghi lại chính xác thời điểm khởi dựng đền Cuông, tuy nhiên dưới thời nhà Nguyễn, đền đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt vào năm Giáp Tý 1864, vua Tự Đức đã ban sắc chỉ xây dựng lại đền với quy mô như ngày nay. Đền Cuông có sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên, tọa lạc ở lưng chừng núi Mộ Dạ, ngay sát quốc lộ 1A, cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía Bắc. Trên núi Mộ Dạ là một rừng thông bạt ngàn xanh mướt, phía sau núi là biển cả mênh mông, sát chân núi về phía Bắc là biển Cửa Hiền bằng phẳng, cát mịn, sóng vỗ nhẹ trắng xóa.

Đền Cuông được xây dựng theo kiến trúc chữ “Tam” gồm tam quan, ba tòa: thượng, trung và hạ điện. Nhìn từ cổng chính vào, gần hai chục cột nanh đầu nghê chĩa lên tua tủa như đại pháo dựng. Cổng tam quan gồm ba cổng ra vào đồ sộ, cổ kính rêu phong. Cổng giữa ba lầu có những cành si bám vào theo thời gian làm cảnh quan thêm u tịch. Hai cổng bên có hai tầng, đều được thiết kế theo kiểu vòm cuốn. Tòa thượng điện là nơi đặt ban thờ của vua An Dương Vương có kiến trúc kiểu chồng diêm bốn mái. Tòa hạ điện cũng có kiến trúc tương tự tòa thượng điện. Tòa trung điện là nơi đặt ban thờ Cao Lỗ - vị tướng đã giúp vua Thục chế tác nỏ thần, nơi đây được thiết kế theo kiến trúc kiểu chồng diêm 8 mái. Hiện nay, trong đền Cuông còn có nhiều di vật quý như trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí. Ngoài ra, trong đền còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu như có ý nhắc nhở con cháu đời sau luôn ghi tạc ân đức vua An Dương Vương. Xung quanh khu vực đền Cuông có rất nhiều ngọn núi, tảng đá gắn liền với truyền thuyết và huyền thoại về ngài. Tảng đá bàn cờ được cho là nơi An Dương Vương ngồi đánh cờ với thần Kim Quy. Dưới chân núi Mộ Dạ có tảng đá gạo, tương truyền là nơi Thục Phán phát gạo cho dân và quân sĩ về nhà làm ăn sinh sống. Núi Cờ, núi Kiếm, núi Gươm, núi Đầu Cân là tên gọi của mỗi một vật được mang trên mình của Thục Phán khi còn sống (2).

Truyền thuyết đan xen lịch sử đã tạo nên một đền Cuông huyền thoại, là điểm di tích tâm linh thu hút nhiều du khách xa gần ghé thăm mỗi dịp xuân về.

Lễ hội đền Cuông

Xưa kia, triều đình quy định lễ hội đền Cuông là quốc lễ, quốc tế. Trên mặt chính của lầu từ cổng tam quan đền Cuông hiện vẫn còn lưu được dòng chữ Hán đắp nổi rất lớn “Quốc tế thượng từ” (Đền nhà nước tế). Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội do tổng Cao Xá gồm 4 thôn: Cao Ái, Cao Quan, Tập Phúc, Yên Phụ đảm nhận trực tiếp, bao gồm các việc chính như: cử ban lễ nghi, mổ trâu, bò, lợn, gà, soạn mâm cỗ hiến tế… Trước đây, đền Cuông chỉ có lễ tế thần, mỗi năm có một kỳ đại tế vào ngày rằm tháng 2 âm lịch. Tham gia tế lễ đều là quan chức (đã nghỉ hưu hoặc đương chức) mặc triều phục, người nào cũng có áo mũ cân đai. Trong các kỳ tế lễ, ban đêm đều có hát tuồng, chèo, đốt đèn bông, đèn hoa sáng đẹp. Ban lễ nghi của đền gồm có 35 người, chia thành 4 ban: Ban tế: gồm 1 chủ tế và 2 bồi tế; Ban chấp sự: 24 người luân phiên lo hương khói; Ban tri đồ: 4 người bảo vệ nội điện; Ban tri diện: 4 người bảo vệ vòng ngoài.

Lễ hội đền Cuông chính thức được tổ chức từ năm 1993, trước đó chỉ tồn tại dưới hình thức là lễ tế thần. Đến nay, lễ hội được tổ chức thường niên từ ngày 12 đến 16-2 âm lịch. Đây là một trong những lễ hội lớn, quan trọng trong năm của tỉnh Nghệ An nói chung và huyện Diễn Châu nói riêng. Lễ hội đền Cuông không chỉ là một lễ hội nhằm tri ân, tưởng nhớ công đức của Thục Phán An Dương Vương trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, mà còn thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân. Lễ hội có các phần nghi lễ chính như: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ rước, lễ đại tế và lễ tạ. Trong đó, không thể không nhắc tới phần lễ rước linh vị Thục An Dương Vương, công chúa và các chư thần từ đình Xuân Ái về đền Cuông, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà sum vầy, nhân dân no ấm hạnh phúc.

Sau phần lễ chính là phần hội, diễn ra từ 15 đến tối 16-2 âm lịch với các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ thẻ, cờ người, vật, đu dây; các môn thể thao: bóng chuyền, bóng bàn, kéo co, leo núi; các hoạt động văn hoá, văn nghệ: biểu diễn nghệ thuật, hát chầu văn, thi nét đẹp đền Cuông, chiếu phim video, trưng bầy triển lãm lưu động các chuyên đề về di tích danh thắng - lễ hội của Nghệ An (3). Trong những năm gần đây, Ban tổ chức lễ hội còn đưa vào phần hội những hoạt động sôi nổi như hội trại thanh niên, hội thi Thanh niên thanh lịch lần thứ 3 (năm 2019) thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong vùng.

Lễ hội đền Cuông hiện nay đã trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân địa phương. Lễ hội được tổ chức hằng năm như một sự tri ân của thế hệ hôm nay đối với những người có công với đất nước, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc mà thế hệ trẻ ngày nay cần học hỏi và phát huy.

2. Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc của lễ hội đền Cuông trong phát triển du lịch tâm linh ở Nghệ An

Hiện nay, du lịch văn hóa tâm linh là xu hướng đang được khách du lịch nội địa ưa chuộng. Phát biểu tại Hội nghị quốc tế về du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững, TS Dương Văn Sáu đã phát biểu: “Tâm linh là niềm tin, ước vọng của con người đối với đối tượng siêu hình mà người ta hướng tới đồng thời là những tác động từ các yếu tố siêu hình tới đời sống tinh thần của một số cá nhân trong những không gian và thời gian nhất định mà không phải khi nào chúng ta cũng giải thích được” (4).

 Các cơ sở tâm linh như đền, chùa, miếu là một trong những nơi con người muốn tìm đến để chiêm bái và thõa mãn nhu cầu tâm linh của họ. Và đền Cuông là một trong những địa chỉ quen thuộc mà người dân vùng biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu nói riêng và người dân Nghệ An nói chung thường lui tới để cầu mong những điều tốt đẹp. Ông Trần Thế Nam, du khách tham dự lễ hội đền Cuông cho biết: “Hằng năm, mỗi lần tổ chức lễ hội là gia đình tôi đều có mặt tại đền Cuông với những sản vật của biển để dâng lên An Dương Vương, bày tỏ lòng biết ơn, cầu mong năm mới may mắn, an lành, mong những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cá bạc đầy khoang”.

Tuy lễ hội mới được phục hồi từ năm 1993, nhưng hằng năm, lượng khách về tham quan chiêm bái và tham gia lễ hội đền Cuông đã tăng lên đáng kể. Nơi đây được du khách biết đến như một điểm du lịch tâm linh đầu năm, trở thành nếp sống sinh hoạt không thể thiếu của người dân xứ Nghệ. Vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển được giá trị văn hóa của lễ hội đền Cuông.

Thứ nhất, chính quyền địa phương cùng phối hợp với tỉnh để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ lễ hội được tốt hơn nhằm bảo tồn không gian tâm linh linh thiêng của lễ hội đền Cuông. Năm 2017, đền Cuông được đầu tư nâng cấp một số hạng mục như lát sân đền, hệ thống đường điện. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng cho lễ hội hằng năm, các cấp chính quyền sở tại và tỉnh Nghệ An nên quan tâm đầu tư xây dựng thêm một số hạng mục cơ bản như: khu để xe cho khách tham quan, mở rộng sân bãi hay xây khu đón tiếp để đón tiếp khách du lịch nội địa và khách quốc tế khi đến du lịch Nghệ An. Cải tạo xây dựng một số khu vực lân cận để đáp ứng nhu cầu hành lễ của du khách.

Thứ hai, xây dựng nếp sống văn hóa lễ hội. Giải pháp này không những bảo tồn được nét đẹp văn hóa vốn có của lễ hội, mà còn phát huy được giá trị đối với sự phát triển du lịch của địa phương. Cần phát huy và nâng cao vai trò lãnh đạo của chính quyền địa phương trong công tác tổ chức, hướng dẫn và điều hành các hoạt động tại lễ hội đền. Lãnh đạo địa phương cần xác định, đây là một hoạt động lễ hội nghiêm túc, linh thiêng, có giá trị về mặt tâm linh đối với cư dân địa phương và khách du lịch. Vì vậy, cần xác định đúng vai trò chủ đạo trong công tác tham mưu của Ban Tổ chức lễ hội, Ban quản lý di tích. Công tác thanh tra, kiểm tra phải tổ chức thường xuyên, giải quyết những vấn đề phát sinh diễn ra trong lễ hội một cách nhanh nhất, tránh xảy ra những vấn đề đáng tiếc ảnh hưởng đến giá trị tâm linh của lễ hội. Cần xử lý nghiêm minh những sai phạm tại lễ hội như biến tướng cờ bạc, lừa bịp du khách hay các hiện tượng mê tín dị đoan để những trò chơi dân gian tổ chức ở lễ hội diễn ra lành mạnh, mang lại sự thoải mái cho du khách.

Tăng cường tuyên truyền nét đẹp văn hóa lễ hội đền Cuông cho du khách thập phương thông qua các trò chơi truyền thống như đánh cờ người, kéo co, đốt lửa trại, đu dây. Tăng cường tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội để nâng cao ý thức của người dân và du khách khi tham gia lễ hội trong việc dâng hương đúng nơi quy định, bảo vệ và gìn giữ môi trường, cảnh quan xanh, sạch, đẹp. Thành lập các đội thanh niên tình nguyện để hướng dẫn, giúp đỡ du khách trong những ngày diễn ra lễ hội. Tuyên truyền để khách hạn chế sử dụng túi nilon trong quá trình tham gia lễ hội mà thay bằng túi vải, túi cói để đựng lễ vật dâng hương. Thu gom rác thải đúng nơi quy định sau khi lễ bái.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tổ chức phục vụ lễ hội đền Cuông. Hiện nay, lễ hội mới chỉ được khách trong tỉnh biết đến và tham gia với quy mô chưa rộng. Vì vậy, đội ngũ phục vụ du khách tham gia lễ hội còn hạn chế và chưa thật sự chuyên nghiệp. Nhưng trong thời gian tới, với sự phát triển của du lịch, số lượng du khách từ các vùng miền sẽ tăng lên, rất cần một nguồn nhân lực có tính chuyên nghiệp để đảm bảo chất lượng phục vụ cho lễ hội. Vì vậy, các nhà quản lý cũng nên có những chính sách đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân lực phục vụ tại đền. Đặc biệt là đội ngũ thuyết minh viên những kiến thức về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng liên quan đến di tích. Bên cạnh đội ngũ cán bộ quản lý, thuyết minh viên tại điểm, Ban Quản lý Khu di tích đền Cuông nên mời các chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng dân cư đưa ra những góp ý để tổ chức lễ hội ngày càng có tính chuyên nghiệp hơn. Chính quyền huyện Diễn Châu nên kết hợp với Sở Du lịch Nghệ An để thường xuyên tổ chức những hội thảo liên quan đến việc tu bổ, giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử của đền Cuông, nhằm thu thập những ý kiến của các nhà khoa học để tìm ra những giải pháp hữu hiệu trong việc khai thác và bảo tồn giá trị của nó trước những tác động tiêu cực.

Thứ tư, giải pháp về phát triển kinh tế du lịch. Nghệ An là một tỉnh có thế mạnh về di tích lịch sử và các lễ hội truyền thống. Đây cũng là điều kiện giúp Nghệ An có thể phát triển mạnh loại hình du lịch tâm linh. Để góp phần giới thiệu về nét đẹp của kiến trúc và lễ hội đền Cuông, chính quyền địa phương nên kết hợp với các công ty du lịch để xây dựng các chương trình du lịch tâm linh trong đó đền Cuông là một điểm đến. Chính sự phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch như vậy sẽ là điều kiện để du lịch Nghệ An sớm trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.

Có thể nói, việc duy trì, tổ chức tốt lễ hội đền Cuông không chỉ nhằm tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về một điểm di tích tâm linh của huyện Diễn Châu nói riêng, của Nghệ An nói chung mà còn giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa, những nét đẹp của phong tục tập quán nơi đây cho du khách thập phương. Đồng thời còn tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp giao lưu hợp tác đầu tư, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di sản của dân tộc Việt Nam.

____________________________

1. Đền Cuôngvi.wikipedia.org, truy cập ngày 22-9-2021.

2. Anh Tuấn, Đền Cuông: Truyền thuyết và lễ hộivanhoanghean.com.vn, 29-3-2012.

3. Nguồn: Sở Du lịch Nghệ An.

4. Dương Văn Sáu, Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2017.



PHAN THỊ BÍCH THẢO

Nguồn: Tạp chí VHNT số 476, tháng 10-2021

http://vanhoanghethuat.vn/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-van-hoa-le-hoi-den-cuong-nghe-an.htm









4.

NGUYỄN HUY KHUYẾN

1. Dẫn luận

     Ngự chế Bắc tuần thi tập, kí hiệu H77/1- 6, hiện đang lưu trữ, bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt, gồm 5 quyển, tổng cộng 190 tờ ghi chép rất nhiều bài thơ vua Thiệu Trị đã làm về những địa phương đã đi qua như: Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,… Bộ sách này được in năm 1844 và được ghi chép trong Đại Nam thực lục: “Tập thơ Ngự chế Bắc tuần khắc xong, ban cấp cho hoàng tử, hoàng thân, các quan văn võ và các quan ở các tỉnh về chầu, cùng phủ Thừa Thiên, trường Quốc Tử Giám, học chính các tỉnh đều 1 tập”. [64, tr. 608]

     Tại nhiều địa phương, các bài thơ do vua Thiệu Trị làm được ghi lại và sau đó được khắc vào văn bia dựng tại nơi được vua ngự chế thơ để làm kỉ niệm. Nhiều bài thơ sau này bị mất, do bia bị mất hoặc nhiều nguyên nhân do lịch sử để lại mà bị mờ, bị mất chữ,…

     Tại tỉnh thành Nghệ An, vua Thiệu Trị đã dừng chân ở các hành cung dọc đường thiên lí và có làm một số bài thơ. Hai trong số đó đã được tìm thấy trong văn bia tại núi Hồng Lĩnh và văn bia ở con Kênh Sắt. Hai tấm bia này chính là bia khắc hai bài ngự chế do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác để ca ngợi cảnh đẹp hùng vĩ của núi Hồng và sự kì lạ của dòng kênh Sắt.

     Có nhiều bản dịch về hai tấm bia này cũng như những bình luận của các nhà Hán học, song cũng có những nhầm lẫn do văn bia mờ hoặc do đánh máy sai chữ. Để cung cấp thêm những bài thơ do vua Thiệu Trị viết về Nghệ An cũng như cung cấp lại nguyên văn hai bài thơ Hồng Lĩnh và Thiết cảng, chúng tôi mạo muội gửi tới độc giả nguyên văn các bài thơ này gồm cả phần chữ Hán, phiên âm và dịch nghĩa.

2. Nguyên văn các bài thơ ngự chế của vua Thiệu Trị

     Các bài thơ ngự chế này được in trong sách Ngự chế Bắc tuần thi tập, quyển 2, từ tờ số 11 đến tờ số 16. Bộ sách này hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt.

     Tình trạng văn bản của những bài thơ này hiện còn khá tốt, chữ được khắc trên mộc bản, phần bài thơ khắc chữ lớn, phần chú thích khắc chữ nhỏ.

     Sự việc vua Thiệu Trị Bắc tuần khi đi qua các tỉnh có làm thơ ngự chế và hai địa danh Hồng Lĩnh và Thiết cảng đã được vua sai quan sở tại khắc vào bia đá dựng ở bên đường: “Khắc các bài thơ ngự chế khi Bắc tuần ở các địa phương. Quan Nội các dâng sớ nói: “Trộm nghĩ: núi cao, sông chảy ngang dọc trình bày, đó là văn của đất. Tiếng vàng tiếng ngọc, điều lí trước sau, đó là văn của thánh nhân. Nước ta, bờ cõi muôn dặm, núi sông thắng tích chỗ nào cũng có. Năm nay, ngự giá ra Bắc, thăm mùa màng, hỏi việc nông, xem dân tình, xét quan lại, làm phúc, ban ơn, dạy chính sự, sửa việc binh, phàm trải qua chỗ nào đều có thơ để ghi việc, tính được gồm 173 bài. …Hai bài vịnh “Hồng Lĩnh”, “Thiết cảng” thì tả hết tình trạng núi sông, cơ trời mở đóng, mà cùng là hình thế bày ra ở đó. Ngước thấy bút pháp của thánh thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên tấm đá để trấn một phương, làm áng văn lưu truyền muôn đời. Vậy xin giao cho các nơi sở tại đem khắc vào bia lớn, để núi sông càng tươi đẹp, địa hạt thêm vẻ vang mà áng đại văn chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy giữ được đến vô cùng”. [2, tr. 416-417]

     Vua xem sớ tâu, phê bảo rằng: “Khi trẫm ra Bắc, trải xem các địa phương, coi đến núi sông mà nhớ ơn liệt thánh, mừng tục thuần Mĩ mà mộ sự vẻ vang của triều xưa, không phải là chỉ ưa thích thơ văn mà thôi. Nhưng sơ thảo lần đầu, sợ chưa đủ để lại cho đời sau. Nay đã có lời xin thì giao cho các đại thần duyệt lại, tâu lên. Trương Đăng Quế, Vũ Duy Cẩn lại xin cho thi hành việc khắc. Vua bèn y cho. Bấy giờ mới chia định: …bài “Núi Hồng Lĩnh”, bài “Thiết cảng” ở Nghệ An;…, sai địa phương sở tại khắc thơ vào đá, dựng bia ở bên đường”. [2, tr. 417].

     Dịch nghĩa: Núi Hồng

Chín mươi chín ngọn núi bày theo thứ tự,
Núi đứng tầng tầng chót vót trông sừng sững. Hương Tích chùa xưa nay vẫn còn đây,
Sự tích về dấu vết của Trang Vương đã tan thành tro bụi.
Chim hạc bay ngoài đồng nội tương truyền về đậu trên đỉnh núi, Chim Hồng bay xa được ngợi ca nổi tiếng đã quay trở lại.
Núi non trùng điệp kéo dài liền với trời xanh, Một nửa núi mây che phủ, một nửa núi không.

     Nguyên chú:

(1) 山之陽有古寺, 名香蹟清光靜寂, 迥絕塵. 凡俗傳楚莊王之女, 酷好佛教遠來參禪, 修 化于此, 莊王追尋到處, 得之. 築臺居于寺之北. 今存舊址, 名莊王址.

     Sơn chi dương hữu cổ tự, danh Hương Tích, thanh quang tĩnh tịch, quýnh tuyệt trần. Phàm tục truyền Sở Trang Vương chi nữ khốc, hảo Phật giáo, viễn lai tham thiền, tu hoá vu thử, Trang Vương truy tầm đáo xứ, đắc chi. Trúc đài cư vu tự chi bắc. Kim tồn cựu chỉ, danh Trang Vương chỉ.

     Ở sườn núi có ngôi chùa cổ, tên là Hương Tích, tĩnh mịch sáng trong, xa rời chốn trần tục. Phàm tục truyền con gái của Sở Trang Vương, rất sùng Phật giáo, từ xa đến học thiền, tu hoá ở đây, Trang Vương đi tìm đến xứ này, tìm được con gái, ông cho xây dựng nhà cửa ở phía bắc ngôi chùa. Ngày nay vẫn còn nền móng cũ, tên là nền Trang Vương.

(2) 此山在河靜省德壽府起自宜春縣歷于天祿縣綿亙蜿蜒, 凡九十九峰, 相傳玄鶴群來 各棲嵿, 嵿乃 […] 1 鴻嶺名之誠, 牢不可破, 抑或別有意義亦未可知.

     Thử sơn tại Hà Tĩnh tỉnh, Đức Thọ phủ khởi tự Nghi Xuân huyện, lịch vu Thiên Lộc huyện miên cắng uyên diên, phàm cửu thập cửu phong, tương truyền huyền hạc quần lai các thê đỉnh, đỉnh nãi… hồng lĩnh danh chi thành, lao bất khả phá, ức hoặc biệt hữu ý nghĩa diệc vị khả tri.

     Núi này khởi nguồn từ huyện Nghi Xuân, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trải qua huyện Thiên Lộc kéo dài ngoằn ngoèo, tất cả có 99 ngọn núi, tương truyền có bầy chim Hạc đen đến đậu trên đỉnh núi, núi này có tên là núi Hồng, bền vững không gì phá được, hay là có ý nghĩa gì khác, cũng chưa thể biết.

     (Quyển 2, tờ 10a-11a/b)

     Sự tích về núi Hồng cũng được sách Đại Nam thực lục ghi chép qua lời của quan tỉnh địa phương là Vũ Đức Nhu. Qua lời kể ấy câu truyện như có sự huyền bí về lịch sử hình thành tên gọi của núi.

     “Thuyền ngự do sông Đại Nại tiến phát, qua núi Hồng Lĩnh, vua triệu quan tỉnh là Vũ Đức Nhu, hỏi về thắng tích núi ấy. Nhu thưa rằng: “Núi này khởi đầu từ huyện Nghi Xuân, qua huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc), quanh co, liền lượt, gồm 99 ngọn. Tương truyền có đàn chim hạc đen đậu ở trên núi, cho nên đặt tên là “Hồng Lĩnh”, bên phía nam núi này có ngôi chùa cổ, tên gọi là Hương Tích. Tục truyền: xưa con gái của Sở Trang vương rất mộ đạo Phật ở xa đến thăm cảnh chùa rồi ở tu và hoá tại đây. Trang vương theo tìm được, mới dựng đài ở phía bắc chùa này, nay vẫn còn nền cũ, gọi là nền “Trang vương”. Vua cười nói: “Đó là câu chuyện hài hước của người Tề, nói sự quái lạ, truyền mãi không thể bỏ hết!”. Hoặc giả có ý nghĩa gì khác cũng chưa biết chừng”. [2, tr. 296].

___________
1. Nguyên văn chữ này bị mất nên chúng tôi chưa đọc được.

Dịch nghĩa: Sáng sớm ra khỏi thành Nghệ An bỏ thuyền đi đường bộ

Chiếu của vua tuyên đến quận Hoan,
Cờ loan hướng về châu Ái.
Nhân dân ra đường nghênh đón,
Đường xá đọng đầy hương thơm.
Sáng sớm muôn núi phủ màu xanh,
Trong khói xuân muôn cây tươi tốt.
[…] dấu chân thú chạy bụi không cuốn,
Đường bằng phẳng trông xa dài dằng dặc.

(Quyển 2, tờ 13b-14a)

     Dịch nghĩa: Dừng ngựa tại hành cung An Kim

Tốt thay được cảnh trời mát mẻ vui vẻ đi nhanh,
Không biết rằng trời đã quá trưa lâu rồi.
Cởi yên buộc ngựa nhàn nhã nghỉ ngơi,
Uống nước đầu sông Mã thấy làn sóng lay động.

(Quyển 2, tờ 14a)

___________
1. Chữ này trong văn bản bị mờ hết chữ không đọc được.

Đi dã ngoại ở Hưng Nguyên

Ngoại ô rộng lớn thoáng đãng cảnh yên tĩnh,
Núi cao trùng điệp che chắn cho nơi này.
Xung quanh núi ôm ấp bao bọc chầu về,
Đường xá vòng quanh chạy khắp nơi.
Mờ tối cảnh mây khói mờ mịt,
Trời không có gió mà có tiếng cây cối.
Nghe tiếng chim muông kêu trên đỉnh núi,
Ngôi miếu cổ mãi còn hương khói.

(Quyển 2, tờ 14a-14b)

     Dịch nghĩa: Đêm xuân được thơ ở hành cung An Hương

Một khắc đáng giá ngàn vàng đêm dài tịch mịch,
Hoa trên núi biết ý tự mình ngậm hương.
Gió đông đưa hương thơm đến trước thềm cảm thấy khoan khoái,
Vườn thượng uyển chẳng lưu lại hương thơm của hoa ngoài cánh đồng.

(Quyển 2, tờ 14b)

___________
1. Nguyên văn khắc chữ 文 văn, nhưng nếu theo logic thì phải là chữ văn 聞 (nghe), mới hợp lí.

     Dịch nghĩa: Cảng Sắt

Suối nhỏ chảy vòng vèo trong lòng muôn ngọn núi,
Nghe nói người xưa mượn công của tạo hoá.
Mỏ sắt ở lưng núi còn lưu lại đá vương vãi,
Cửa cảng oai trời cạn mà vẫn lưu thông.

     Lẽ huyền vi chẳng giải được chuyện lạ thần cơ, Đất bằng phẳng càng hiện rõ đạo đời hưng thịnh. Núi non của Lũng Thục cũng không sánh được, Dời đến nước Triệu nước Sở vẻ đẹp sao hết được.

     Nguyên chú:

(Quyển 2, tờ 15a-15b)

(1) 史記: 唐時高駢為安南都護, 駢使林諷領眾疏鑿此港, 以便漕運, 至興元縣山岡亂石, 人 工摧折殆, 欲中止.  時五月忽當晝雷震數百聲打碎其亂, 石尚遺一巨石眾工亦力不能施悉成港 道. 六月間雷復大震將巨石一時碎裂港道乃成, 時人稱為天威港, 港之西是鐵穴山故又名鐵港.

     Sử kí: Đường thời Cao Biền vi An Nam đô hộ, Biền sử Lâm Phúng lãnh chúng sơ tạc thử cảng, dĩ tiện tào vận, chí Hưng Nguyên huyện sơn cương loạn thạch, nhân công tồi triết, đãi dục trung chỉ. Thời ngũ nguyệt hốt đương trú lôi bách thanh đả toái kì loạn, thạch thượng di nhất cự thạch, chúng công diệc lực bất năng thi tất thành cảng đạo. Lục nguyệt gian lôi phục đại chấn tương cự thạch nhất thời toái liệt. Cảng đạo nãi thành, thời nhân xưng vi Thiên uy cảng, cảng chi tây thị thiết huyệt sơn cố hựu danh Thiết cảng.

     Theo sử sách ghi chép: Thời Đường Cao Biền làm Đô hộ sứ nước An Nam. Biền sai Lâm Phúng sai dân ta đào con kênh này, để thuận tiện cho chuyên chở. tới địa phận huyện Hưng Nguyên, đá núi lởm chởm, nhân công bị đưa tới chỗ nguy hiểm, họ muốn dừng lại giữa chừng. Vào tháng 5 đột nhiên ban ngày bỗng nghe hàng trăm tiếng sấm đánh tan tảng đá ấy, song còn sót lại một tảng đá lớn, công nhân không đủ sức thi công hoàn tất tạo thành dòng kênh. Đến tháng 6, lại một tiếng sét lớn, tảng đá lớn trong chốc lát vỡ tan, hình thành cảng đạo. Thời bấy giờ, người ta gọi là “Cảng Thiên Uy”. Phía Tây cảng là Mỏ Sắt, nên lại có tên là “Thiết cảng”.

(2) 相傳此港道因有江河引流通之嶺岫隨勢鑿之, 自河內可通乂安以南. 今則相夾田疇 涵蓄資農.若於山下縈紆則浮沙日壅以成平地. 似乎天意, 漕運有方, 設險有所, 居中禦外不 可通達如初. 玄妙機緘亦未 可知. 玆因事以理論之怪異 之事. 耳食之言, 未足信也.

     Tương truyền thử cảng đạo nhân hữu giang hà dẫn lưu thông chi lĩnh tụ tuỳ thế tạc chi, tự Hà Nội khả thông Nghệ An dĩ nam. Kim tắc tương giáp điền trù hàm súc tư nông. Nhược ư sơn hạ oanh hu tắc phù sa nhật ủng dĩ thành bình địa. Tự hồ thiên ý, tào vận hữu phương, thiết hiểm hữu sở, cư trung ngự ngoại, bất khả thông đạt như sơ. Huyền diệu cơ giam, diệc vị khả tri. Tư nhân sự, dĩ lí luận chi, quái dị chi sự. Nhĩ thực chi ngôn, vị túc tín dã.

     Tương truyền kênh này vì nhân có những lạch sông ngòi dẫn thông đến hang núi, tuỳ thế núi mà đào kênh, từ Hà Nội thông đến Nghệ An cho tới phía Nam. Ngày nay thì ruộng đất của nông dân bao quanh, ở dưới chân núi thì hàng ngày phù sa bồi đã thành bình địa. Giống như ý trời, vận chuyển đường thuỷ có sách, nguy hiểm có chỗ, ở bên trong che bên ngoài, không thể thông suốt như trước nữa. Những lẽ sâu kín huyền vi cơ trời cũng chưa thể biết. Nay nhân sự việc này, lấy cái điều quái dị đó mà bàn luận, thì lời nói truyền thuyết đó, chưa đủ để tin cậy vậy.

     Vua Thiệu Trị khi Ngự giá qua Thiết cảng nghe được sự tích lạ mới nói với đại thần Trương Đăng Quế: “Ngự giá đi qua Thiết cảng. Vua bảo đại thần Trương Đăng Quế rằng: “Đường cảng này, tương truyền: nhân có các sông chảy xuống thông qua các núi, người ta mới lựa theo hình thế, đào ra, từ Hà Nội có thể đi suốt đến phía nam tỉnh Nghệ An; nhưng đến nay phù sa mỗi ngày một bồi thêm, đã thành ra đất bằng; tựa như vì chốn Thần kinh đã định, giữ hiểm đã có chỗ, chuyển vận đã có phương, ở bên trong, giữ bên ngoài, không thể thông đạt như trước, đó là cơ trời huyền diệu, chưa dễ lường biết, nhưng lấy lí mà bàn thì: tục truyền việc Cao Biền đào cảng này, nhờ uy trời chấn động, vỡ đá, thật là một sự quái lạ. Lời truyền thuyết vu vơ ấy không đủ tin được”. [2, tr. 298]

     Thiết cảng là kênh đào rất quan trọng từ xưa đến nay, song có lẽ những sự huyền tích về sự hình thành dòng kênh này khiến nó được thần thánh hoá, cho dù vua Thiệu Trị không tin điều đó là có thật.

3. Một vài so sánh nhận xét về văn bản trong văn bia và văn bản trong thơ ngự chế

     Mặc dù chúng tôi chưa được tiếp cận với bản gốc văn bia bài Thiết cảng tại Nghệ An, nhưng thông qua bài viết: Thiết cảng – bài thơ ngự chế, khắc lên bia của tác giả Bùi Văn Chất dịch và giới thiệu chúng tôi cũng xin được so sánh một vài chữ khác giữa hai văn bản này


Nhận xét: ở câu thứ 2 của bài thơ chữ 公 được khắc trong văn bia còn chữ 工 công được in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập.

     Câu thứ 7 phần nội dung bài thơ chữ 此 thử được khắc ở văn bia, còn chữ 比 được in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Hai chữ này có hình dạng gần giống nhau rất dễ nhầm.

     Trong phần chú thích được in chữ nhỏ hơn phần chính bài thơ chữ lai 來 và chữ tư 來 ở trong văn bia, còn chữ giáp 夾 và chữ tư 資 in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Hai chữ này có hình dạng giống nhau nên rất dễ nhầm lẫn.

     Trong câu phần chú thích chữ vi 為 in ở văn bia còn chữ vị 未 in trong Ngự chế Bắc tuần thi tập. Như vậy, nếu so sánh cả hai văn bản thì chúng tôi nhận thấy có 5 chữ khác biệt ở trong văn bia và trong ngự chế thi.

     Việc đào kênh Thiết cảng đã bị gián đoạn nhiều lần, không những tốn kém tiền của nhiều mà mãi vẫn không có được lượng nước như ý. Trước tình hình đó thời vua Tự Đức tiếp tục cho đào để làm lợi lâu dài về sau.

     Sách Đại Nam thực lục ghi chép về việc vua Tự Đức sai phái người đi kiểm tra Thiết cảng, theo tấu báo của quan tổng đốc Nghệ An và Hà Tĩnh. “Thự Tổng đốc An – Tĩnh là Vũ Trọng Bình tâu xin đào đục Thiết cảng ở hạt Nghệ An (dài hơn 1193 trượng). Đình thần bàn cho là: Liền năm mất mùa đói kém, còn đương phải cứu chữa cho dân. Nay bắt dân khơi đào, sức dân không làm nổi. Vả lại, hiện nay của kho ít, công việc nhiều, có nhiều sự không tiện, đường cảng ấy sẽ để tính sau”. [3, tr. 695]

      Qua lời tấu của quan địa phương phần nào chúng ta biết được để đào con kênh dài 1.193 trượng, rất tốn kém, ngay cả triều đình cũng gặp khó khăn. Năm Tự Đức thứ 19 (1866), vua giáng dụ sai quan tỉnh tiếp tục cùng với nhân dân đào kênh để không bị bỏ dở “Khâm phái là Phạm Ý đi việc công về tâu nói: Việc khai Thiết cảng ở Nghệ An, công trình to lớn, dân gian không vui lòng làm việc, hiện nay nắng và ẩm thấp, lại cảm nhiễm nhiều, mà khai đào đã sâu vẫn chưa thấy nước, thế khó thành công. Vua giáng dụ sai quan tỉnh cứ theo hiện tình tâu về, nếu làm đã sắp xong thì phải đào để được lợi lâu dài, nên xét xem dân cần thứ gì mà giúp đỡ, khuyên bảo khiến cho quên nhọc vui lòng làm, thì công trước không đến nỗi mất không”. [3, tr. 1060]

     Dịch nghĩa: Nghỉ trưa ở hành cung An Luỹ

Một nửa dựa vào thôn núi một nửa ở đường,
Vài cây cột nhỏ dựng nhà để nghênh đón xe vua.
Dừng xe xem xét vì niềm vui của dân,
Nghệ An, Hà Tĩnh việc nông đều tốt đẹp.

     Dịch nghĩa: Nghỉ đêm ở hành cung An Quỳnh

Muôn khe suối vạn cây tùng trên núi nghe sảng khoái như tiếng tiêu thổi,
Đêm xuân bừng tỉnh giấc ngỡ như là tiếng sóng cuốn.
Mây đã về núi xa bầu trời quang đãng,
Trăng mới mọc ở phía đông chiếu sáng cả nơi vua ở.

(Quyển 2, tờ 16a)

4. Các trạm thông tin (hành cung) ở Nghệ An và giá trị nội dung của các bài thơ

     Thời Nguyễn dọc đường thiên lí từ Thuận Hoá ra đến Bắc Thành và từ Thuận Hoá vào phía Nam có rất nhiều trạm thông tin và dịch trạm. Khi có dịp tuần thú, vua đến nơi nào thì nơi đó lập tức phải dựng nhà nghỉ còn gọi là hành cung. Thông thường hành cung là nơi vua ở tạm nên không cần làm cầu kì kiên cố. Nhiều khi chính vua ra lệnh cho quan sở tại địa phương không cần dựng nhà cầu kì tốn kém.

     Tỉnh thành Nghệ An thời vua Thiệu Trị có những hành cung như An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh. Những hành cung này đã từng được vua cảm tác làm thơ khi nghỉ chân tại đây.

     Sách Đại Nam thực lục cho biết về tên các hành cung ở Nghệ An: “Thưởng thêm cho các trạm thông tin trên đường thuỷ, đường bộ từ Quảng Trị ra Bắc. (Phàm những trạm chạy tin rất nhiều, thì châm chước liệu cấp thêm … An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh ở Nghệ An”. [2, tr. 291]

     “Lại nữa, những trạm trên đường bộ từ Quảng Trị ra Bắc, đường xe vua ra Bắc tuần qua đó, như trạm. An Dũng, An Kim, An Hương, An Luỹ, An Quỳnh ở Nghệ An”. [2, tr. 358]

     Các bài thơ trên đã mang đến những nội dung tư liệu hết sức quý giá để nghiên cứu về vùng đất Nghệ An, đặc biệt là việc xây dựng con kênh Sắt và vẻ đẹp của núi Hồng. Bên cạnh đó là những di tích mà vua Thiệu Trị đã từng ghé lại nghỉ ngơi trong các hành cung. Đúng như lời nhận xét của đình thần về hai bài thơ của vua Thiệu Trị về núi Hồng Lĩnh và Thiết Cảng: “Hai bài vịnh “Hồng Lĩnh”, “Thiết cảng” thì tả hết tình trạng núi sông, cơ trời mở đóng, mà cùng là hình thế bày ra ở đó. Ngước thấy bút pháp của thánh thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên tấm đá để trấn một phương, làm áng văn lưu truyền muôn đời. Vậy xin giao cho các nơi sở tại đem khắc vào bia lớn, để núi sông càng tươi đẹp, địa hạt thêm vẻ vang mà áng đại văn chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy giữ được đến vô cùng”.

     Ngoài giá trị sử liệu, những bài thơ này còn cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về phong cảnh tuyệt mĩ. Phong cảnh của tỉnh thành Nghệ An có hương, có hoa, có chim muông cây cối, có chùa cổ miếu xưa hoà quyện vào nhau tạo nên bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Đọc các bài thơ cảm tác tại các hành cung của vua Thiệu Trị mới thấy rất rõ điều đó. Trên núi có thông, tiếng rít vào nhau tựa như có ai thổi tiêu, đâu đó trên ngôi miếu cổ khói hương vẫn còn nghi ngút, đêm đêm nghe tiếng chim kêu trên đỉnh núi, để rồi ánh trăng sáng chiếu rọi chốn cung vua.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Ngự chế Bắc tuần thi tập, bản chữ Hán, kí hiệu H77, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV.

2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch tập 6), NXB Giáo dục, Hà Nội.

3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch tập 7), NXB Giáo dục, Hà Nội.

https://thanhdiavietnamhoc.com/gia-tri-lich-su-qua-cac-bai-tho-ve-dia-danh-o-nghe-an-cua-vua-thieu-tri/



3.

Viết tiếp bài Miếu Tiên cô , chuyện lạ có thật ở Nghệ An:

Sẽ xem xét xếp hạng di sản tư liệu về tấm bia Ngự chế

VŨ TOÀN 

VHO - Hôm qua 24.9, chúng tôi đã trao đổi với bà Phan Anh, Trưởng phòng Di sản văn hóa (Sở VHTT Nghệ An), về vấn đề bài báo Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An (Báo Văn Hóa số 4092, ra ngày 23.9).

 Bà Phan Anh cho biết: “Tôi đã đọc bài báo. Hiện cán bộ của Phòng đang kiểm tra thông tin bài báo phản ánh. Sau kiểm tra, Phòng sẽ làm việc với địa phương là Phòng Văn hóa huyện Diễn Châu để có phương án xử lý”.

Chúng tôi nêu giả thiết, nếu thực tế nêu trong bài báo là đúng thì hướng xử lý của Phòng Di sản văn hóa sẽ như thế nào? Bà Phan Anh nói: “Theo phân cấp quản lý nhà nước, Phòng Di sản văn hóa sẽ có văn bản đề nghị UBND huyện Diễn Châu nghiên cứu, đưa ra biện pháp xử lý thích hợp.

Nếu tính chất vụ việc vượt quá thẩm quyền cấp huyện chúng tôi sẽ tham mưu với lãnh đạo Sở có phương án tiếp theo nhằm giải quyết hiệu quả bài báo nêu. Phòng Di sản văn hóa cũng đã trao đổi vấn đề này với Ban Quản lý Di tích Nghệ An, là đơn vị cấp hai của Sở”.

Trước đó, tại Ban Quản lý Di tích Nghệ An, bà Trần Thị Kim Phượng, Trưởng ban, đã thẳng thắn nêu một số chính kiến về một số nội dung bài báo phản ảnh, kể cả việc “mình sai thì phải sửa”.

Theo bà Phượng, mấy năm gần đây, Ban tổ chức lễ hội đền Cuông thường đến “miếu Tiên cô” thắp hương trước khi lễ hội diễn ra. Do sơ suất, một số nhân viên Phòng truyên truyền cứ nghĩ “có thể đây là dấu tích thờ Mẫu Liễu Hạnh có từ đền Tuần xưa” nên không để ý đến sự hiện diện của “ngôi miếu Tiên cô”.

Sau khi đọc kỹ bài báo Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An”, chúng tôi sực nhớ đến tư liệu tại Cục lưu trữ Trung ương IV tại Đà Lạt đang lưu giữ một mộc bản triều Nguyễn, sách Ngự chế Bắc tuần thi tập, quyển 2, mặt khắc 14, 15 ghi lại bài thơ “Thiết cảng” (Kênh sắt) của vua Thiệu Trị.

Tác giả Thơm Quang, cán bộ Cục lưu trữ cũng có bài viết “Chuyến thăm Nghệ An của vua Thiệu Trị” đăng trên Cổng thông tin điện tử Sở KH&CN Nghệ An, ngày 15.7.2024. Bài báo cho hay: Ngày Ất Dậu, mùa Xuân tháng 2 năm Nhân Dần (1842), vua Thiệu Trị cùng đoàn tùy tùng có chuyến ngự giá từ Kinh đô Huế ra Bắc.

Trong lộ trình đó, vua đã dừng chân tại Nghệ An để nắm bắt sự tình và mục đích tận mắt nhìn con người, cảnh vật xứ Nghệ… Đến tháng 10, vua Thiệu Trị cho khắc các bài thơ ngự chế khi Bắc tuần ở các địa phương, trong đó có bài “Thiết cảng” (Kênh sắt).

“Như vậy, ngôi “miếu Tiên cô” như bài báo phản ánh đã thần thánh hóa câu chuyện “húy thị” không đúng với hiện diện của tấm văn bia do vua Thiệu Trị soạn từ năm 1842”, bà Phượng nêu chính kiến.

Cũng theo bà Phượng, tấm văn bia Ngự chế này có thể xếp hạng di sản tư liệu (loại di sản này vừa mới bổ sung trong Luật Di sản văn hóa, đang chờ Quốc hội thông qua).

Sắp tới, Ban Quản lý Di tích Nghệ An phối hợp Phòng Di sản văn hóa sẽ có cuộc làm việc với UBND huyện Diễn Châu để bàn ba nội dung: Một, khoanh vùng để bảo vệ tấm văn bia Ngự chế.

Hai, xây nhà bia thay vì “ngôi miếu Tiên cô” hiện nay. Nhà bia có bốn cột. Bậc tam cấp cao khoảng 1m.

Ba, có một tấm biển dẫn tích. Tấm biển này ghi cụ thể sự tích tấm văn bia Ngự chế. Nội dung văn bia, kể cả phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ từ văn bia.

Bà Phượng tâm huyết: “Tấm văn bia Ngự chế là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ bởi đây là tấm văn bia Ngự chế duy nhất có trên đất Nghệ An. Người đi trên quốc lộ 1A và du khách tham gia lễ hội đền Cuông dễ dàng rẽ lên núi Mộ Dạ để chiêm bái thay vì chuyện thắp hương, mua lễ, làm lễ tại “miếu Tiên cô” như mấy năm trước. Nó không đúng. Nó phản cảm”. 

https://baovanhoa.vn/van-hoa/se-xem-xet-xep-hang-di-san-tu-lieu-ve-tam-bia-ngu-che-106291.html


2.

Miếu Tiên cô, chuyện lạ có thật ở Nghệ An

VŨ TOÀN 

VHO - Trên núi Mộ Dạ bên quốc lộ 1 thuộc địa phận xã Diễn An, huyện Diễn Châu (Nghệ An) xuất hiện ngôi miếu có tên Tiên cô. Nhưng ngôi miếu này ai làm, từ lúc nào và thờ ai… là những câu hỏi khiến nhiều người quan tâm. Chúng tôi lên núi Mộ Dạ, mới hay ngôi miếu đang được “khoác” vào mình những ảo ảnh kỳ dị.

 Ngày 18.9, chúng tôi tiếp cận ngôi miếu. Ngôi miếu cao gần 3m so với mặt đường hiện tại, chiều ngang hơn 1,5m nổi bật với màu sơn vàng, ngói đỏ, mực đen.

Dưới mái ngói hình lòng thuyền, mặt trước ngôi miếu đề chữ: Miếu Tiên cô. Phía dưới là cửa miếu trống. Hai bên có đôi câu đối: Vạn cổ anh linh phù quốc thịnh, Ức niên hách trạc hộ dân an. Bức bình phong trước miếu gắn hình con hổ vẻ mặt hung dữ. Bên trái miếu là lò gạch hóa vàng mã.

Phía dưới ghi bốn lời cảnh báo giúp người dân khi hóa vàng mã thận trọng, phòng chống cháy rừng. Cuối cùng là thông tin: “Ban quản lý Đền Cuông cùng thầy S., số điện thoại 0975xxxxx”.

“Sự tích” miếu Tiên cô

Chúng tôi ngạc nhiên nhìn thấy tấm bia đá màu xám trang trọng “đứng” im lìm trong lòng miếu. Mặt bia khắc kín chữ Hán. Bên hàng chữ to có những hàng chữ nhỏ. Trước tấm bia có tượng Phật, bát hương, chai nước khoáng và tấm “Linh miếu” trên đó ghi tên 19 tín chủ phát tâm công đức miếu Tiên cô.

Chúng tôi tìm cách liên lạc với người có trách nhiệm để tìm hiểu “sự tích” ngôi miếu mới, lạ này. Số điện thoại của thầy S. là “chìa khóa” đầu tiên.

Khi chúng tôi gọi, thầy S. nói “các anh sắm lễ, thầy từ ngã ba Diễn Châu vào giúp làm lễ”. Khoảng 30 phút sau, chúng tôi trở lại miếu, thấy thầy S. vừa đến trong bộ quần áo thầy cúng.

Sau nén nhang thơm, chúng tôi ngỏ ý muốn thầy S. cho biết sự xuất hiện của tấm bia đá. Thầy S. nói: “Trước đây, bia đá nằm cạnh chân núi Mộ Dạ, nay là tim đường quốc lộ 1.

Năm 2016, chủ thầu tên Minh thi công mở rộng đoạn đường này. Thợ của ông Minh lái máy ủi đến gần tấm bia đá thì bị sững lại, không hoạt động được.

Đoán biết bia đá thiêng nên ông Minh báo cáo chính quyền địa phương, xin đất trên núi Mộ Dạ để di chuyển tấm bia lên vị trí đang tại vị hôm nay. Sau khi tấm bia di chuyển, Công ty giao thông 470 làm công đức, xây 45 bậc xi măng và ba bức tường bao quanh tấm bia, gọi là “nhà” bảo vệ tấm bia”.

“Năm 2018, tôi sơn, sửa lại và đề chữ “Miếu Tiên cô” và viết đôi câu đối”, thầy S. nói. “Dựa vào cơ sở nào để thầy đề tên “Miếu Tiên cô”? Chúng tôi tiếp tục gặng hỏi. “Tất cả chuyện nằm trong tấm bia đá này”, thầy S. chỉ bia đá, khẳng định.

Tấm văn bia Ngự chế

Theo thầy S., nội dung trong tấm bia đá này do vua Thiệu Trị viết khi đi qua Nghệ An. Nội dung chủ yếu nói về một “huý thị” (ngày giỗ của người con gái) quê huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.

Người con gái này có nhiều công trạng với triều đại, giờ an nghỉ tại đây nên được vua Thiệu Trị ghi công. Trong bia đá còn có nhiều chuyện bí hiểm khác.

Ví như chuyện cô gái chết, hóa thành đá thiêng đến mức quan quân ngoài Bắc vào Nam đánh trận phải đi xe ngựa qua đây thắp hương mộ bà, cầu đánh đâu thắng đó. Các nhà tư sản muốn giàu có cũng đi xe ngựa vào đây thắp hương mộ bà.

Trong bia cũng nói rõ chuyện Cao Biền đời nhà Đường nghe tin mộ bà thiêng nên bay bằng con diều giấy sang đây yểm cho bà mất thiêng. Một thời gian, thiên lôi đánh trúng mộ bà…

Thầy S. nói trong tấm bia đá ghi lại sự tích của bà ở Hưng Nguyên nhưng do lâu đời rồi nên bà hóa thành cô tiên. Cô tiên thì phải có miếu. Thời gian của câu chuyện trên diễn ra khoảng 30 phút, chúng tôi hỏi nhiều lần rằng, “trong bia đá này, vua Thiệu Trị có viết bài thơ Thiết Cảng không”.

Thầy S. nói: “Có thơ gì đâu…Thiết là sắt”. Nói đoạn, thầy S. giải thích qua loa: “Cảng là nước, là cảng biển”. Chúng tôi quay về thành phố Vinh mang theo nhiều hoài nghi lời thầy S. về sự tích ngôi miếu mới, lạ này.

Bởi lẽ, qua tìm hiểu ban đầu, chúng tôi đinh ninh nội dung chính do vua Thiệu Trị soạn và khắc trên bia đá là bài thơ mang tên “Thiết Cảng”. Nội dung này không hề nghe thầy S. nhắc đến khi nói về sự tích Miếu Tiên cô.

Chúng tôi tìm “chìa khóa” thứ hai là nhà nghiên cứu Trần Mạnh Cường, nghiên cứu viên thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (Sở KH&CN Nghệ An).

Sau khi nghe chúng tôi kể lại câu chuyện về thầy S, anh Trần Mạnh Cường đưa ra bài viết “Văn bia Ngự chế của vua Thiệu Trị tại Nghệ An”, đăng báo Nghệ An, năm 2012.

Bài báo thông tin, cuối năm 1842, sau khi hoàn thành lễ thụ phong tại Hà Nội, vua Thiệu Trị (1807-1847) cùng quần thần trở về kinh đô Huế. Khi đi qua kênh Sắt, nhà vua nhớ lại huyền tích năm nào liền ngự chế bài thơ “Thiết Cảng” (Kênh Sắt), ca ngợi phong cảnh cũng như nhắc lại sự tích kì bí, cho khắc lên bia đá, đặt tại bờ Đông kênh Sắt tại xã Tập Phúc, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Tấm bia khổ 63 x 106cm. Trán bia hình bán nguyệt, họa khắc hình đầu rồng. Xung quanh chạm các đám mây vân vũ, hoa lá trông rất uyển chuyển, thanh thoát.

Đế bia hình chữ nhật bằng phẳng. Tất cả đều mang dấu ấn đậm nét của văn bia thời Nguyễn. Lòng bia khắc bài thơ “Thiết Cảng”, thể thơ Đường luật; xen lẫn các chú thích về các sự kiện liên quan.

Phần cuối, ghi thời gian lập văn bia vào ngày tốt tháng Chạp, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật) và câu chú cho biết văn bia do chính tay vua Thiệu Trị soạn (ngự chế thi nhất thủ). Tất cả văn bia gồm 14 dòng, 286 chữ.

Sau đây là nội dung bài thơ “Thiết Cảng”:

Phiên âm: Thiết cảng: Oanh hồi tiểu giản vạn phong trung/Văn đạo tiền nhân tạ hóa công/ Thiết Huyệt sơn yêu lưu lạn thạch/Thiên Uy càng khẩu thiển lưu thông/Huyền vi mạc trạng thần cơ dị/Bình thản vưu trưng thế đạo long/ Lũng Thục, Hào Hàm vô nhị tỷ/Ban sừ Triệu, Sở diệu hà cùng.

Dịch nghĩa: Kênh Sắt: Khe nhỏ chảy quanh giữa muôn ngàn ngọn núi/Nghe nói rằng người xưa mượn công của tạo hóa/Eo núi giữa huyệt Sắt vẫn còn đá nhỏ vương vãi/Cảng Thiên Uy vì thế mà kém lưu thông/ Lẽ trời thì khó biết, thần cơ thì lạ lẫm/Nhưng nay đất đai bằng phẳng, càng minh chứng cho đạo đời hưng thịnh/Vùng Lũng Thục, vùng Hào Hàm (ở bên Tàu) cũng không so sánh với đây được/ Nếu dời chỗ này sang nước Triệu, nước Sở thì cảnh đẹp vô cùng (Trần Mạnh Cường phiên âm, dịch nghĩa).

Dịch thơ: Kênh Sắt: Khe nước chảy, muôn ngàn ngọn núi/ Người xưa hay tạo hóa tạc nên/Ở nơi huyệt Sắt, eo còn đá/Thiên Uy cảng nước khó lưu thông/Lẽ trời khó biết, thần cơ lạ/Đất đai phẳng lặng, đạo trời hưng/Lũng Thục, Hào Hàm so sao được/ Ví như Triệu - Sở đẹp vô cùng (Vũ Toàn dịch).

Lời kết

Như vậy, miếu Tiên cô không có sự tích, chỉ có “vỏ” nguyên là “nhà” bảo vệ tấm văn bia, sửa sang lại. Đây là tấm bia rất có giá trị khoa học về lịch sử, văn hóa và còn nguyên vẹn, vì thế Sở VHTT Nghệ An cần có bia dẫn tích cho tấm văn bia Ngự chế này để những người quan tâm có thể hiểu rõ. Hoặc di dời tấm bia về Bảo tàng tỉnh để trưng bày, giới thiệu cho du khách tham quan, chiêm bái và nghiên cứu. Đây là cách bảo vệ, tôn vinh di tích lịch sử, văn hóa cách đây 182 năm.

https://baovanhoa.vn/van-hoa/mieu-tien-co-chuyen-la-co-that-o-nghe-an-106042.html



1.


Chuyến thăm Nghệ An của vua Thiệu Trị

Thứ hai - 15/07/2024 08:19 0
    Dưới triều Nguyễn, các vị vua đầu triều trong thời gian trị vì đều có chuyến ngự giá ra Bắc. Có thể kể đến là vua Gia Long có chuyến ngự giá vào năm 1803 và năm 1804, vua Minh Mạng vào năm 1821. Thường thì các vua ngự giá ra Bắc là để nhận thụ phong từ vua Thanh, ngoài ra còn để “xét quan lại, chỉnh binh nhung, làm tốt, gia ơn tới khắp dân chúng”. Nối nghiệp vua cha Minh Mạng, 1 năm sau khi lên ngôi, vua Thiệu Trị cũng thực hiện chuyến ngự giá Bắc tuần. Và trong lộ trình đó, vua đã dừng chân tại tỉnh Nghệ An để nắm bắt sự tình và mục đích tận mắt nhìn con người, cảnh vật xứ Nghệ. Mộc bản triều Nguyễn - Di sản thế giới đã ghi chép về chuyến thăm Nghệ An của vị vua thứ 3 triều Nguyễn.

    Ban thưởng cho quan, dân
    Hành trình của vua Thiệu Trị được xuất phát từ Kinh đô Huế, sau khi đi qua các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình và Hà Tĩnh. Đến ngày Ất Dậu, mùa xuân tháng 2 năm Nhâm Dần (1842), vua Thiệu Trị cùng đoàn tùy tùng đã đặt chân đến tỉnh Nghệ An. Khi đến bến sông tỉnh thành Nghệ An, suất đội tỉnh bắn súng chỉ thiên, chào mừng vua đến nơi. Vua ngự giá đến hành cung tỉnh thành, nhìn thấy người dân chen chúc đứng sát bên đường chào đón. Vị vua thứ 3 của triều Nguyễn đã vui mừng mà hỏi Ngự tiền đại thần Trương Đăng Quế rằng: “Lòng người mong trẫm đến như thế này, hành trình có nên chậm lại không?”. Đăng Quế thưa rằng: “Tôi theo nhật trình mà tính thì sứ thần nhà Thanh phải đến thượng tuần tháng 3 mới qua cửa ải. Kỳ hạn đi đường của ta cũng đủ chỉnh bị, vậy thong thả cũng được”.
    Trong mấy ngày lưu lại ở Nghệ An, vua Thiệu Trị đã đi coi xét thành trì, tình hình việc nông và cuộc sống của người dân. Thấy mọi thứ được quan tỉnh xếp đặt thuận lợi, vua bèn triệu quan Vũ Tuấn và Hồ Hựu vào ban thưởng cho mỗi người 1 đồng kim tiền và hỏi thăm rằng: “Hành cung và nhà trạm, có bắt dân phải làm không?”. Hai người tâu rằng: “Hành cung ở tỉnh lỵ thì do những binh ở tỉnh làm, còn hành cung ở các trạm thì dân trong hạt làm lấy”. Vua nói: “Binh thì đã có lương, còn dân thì lấy gì mà cung ứng? Bất đắc dĩ mà bắt dân làm, ý trẫm không muốn thế. Những tài liệu đã dùng để làm, chuẩn cho theo đúng thực, cấp giá tiền cho dân”. Hai người lại thưa rằng: “Bóng cờ của vua đi tới, ngàn năm mới một lần được gặp, đem sức làm ruộng phục vụ người trên là phận sự của dân, mà cũng là ý muốn, chứ không muốn lĩnh giá”. Vua nói: “Kính vua, mến người trên, vẫn là cái tình rất hậu của dân ta, nhưng trẫm đối với việc yêu dân, chưa từng một chút bỏ nhãng, há nỡ khinh dị dùng sức của dân sao? Tất phải thưởng cấp cho dân bội giá”.
    Vua cũng nhân dụ bộ Hộ ban thưởng thêm cho các quan viên văn, võ các thứ bậc khác nhau: “Hạt này lúa mạ tươi tốt, trộm cướp dẹp hết, nhân dân đều yên, trẫm rất lấy làm khen ngợi, bằng lòng. Về những thân biền thuộc tỉnh, gia ơn thưởng cấp cho mọi người có thứ bậc. Quan văn: Đốc học được thưởng 2 đồng ngân tiền hạng lớn; Tri phủ, ngân tiền hạng lớn, hạng nhỏ mỗi hạng 1 đồng; Tri huyện, 1 đồng ngân tiền lớn; Giáo thụ, Huấn đạo, Thông phán, Kinh lịch, mỗi người 1 đồng ngân tiền nhỏ. Quan võ: Vệ úy, Phó vệ úy, mỗi người được thưởng 2 đồng ngân tiền lớn; Thành thủ úy và Hiệp quản, ngân tiền lớn nhỏ mỗi hạng 1 đồng; Cai đội, Chánh đội trưởng suất đội, thí sai Chánh đội trưởng suất đội, mỗi người 1 đồng ngân tiền nhỏ. Bát, cửu phẩm và những người hậu bổ đều được thưởng tiền lương 1 tháng; những thư lại thuộc tỉnh, chưa vào ngạch, đều thưởng tiền lương nửa tháng”.
    Không chỉ có các quan viên ở cấp tỉnh, phủ, huyện mới được thưởng, vua Thiệu Trị còn ban thưởng cho những biền binh ở Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An dự đi theo hầu và những biền binh mọi ngạch ở Kinh: tiền lương nửa tháng; những binh sung việc đóng giữ ở Kinh; tiền lương 1 tháng; những thú binh ở các tỉnh ngự giá đi tới cũng như thế. Ngoài ra, vua còn tha bớt thuế thân 3 phần 10 cho dân đinh các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh năm ấy, những thổ dân và những người trốn đi nơi khác mới về, bỏ thiếu thuế bạc, tiền thóc đọng lại, đều được khoan tha có thứ bậc.
    Đặc biệt, khi hay tin vua tới, Thổ tri huyện, huyện thừa ở hai phủ Trấn Ninh, Trấn Biên tỉnh Nghệ An đã cùng nhau ủy cho bọn thổ huyện thừa và cai tổng huyện Khâm, huyện Sầm Tộ đem sản vật địa phương đến cung tiến gồm 2 đôi ngà voi và 4 chiếc tê giác. Vua khen là biết chuộng nghĩa, lại chịu khó đi từ xa tới, bèn thưởng cho rất hậu.
    Tế miếu vua Thục, làm thơ về Thiết cảng
    Ở tỉnh Nghệ An, có miếu thờ vua Thục Phán An Dương Vương (đền Cuông). Đây là miếu thờ từ lâu đã được các triều đại phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc đế vương, là chốn linh thiêng bậc nhất ở xứ Nghệ. Cứ mỗi lần quốc lễ, triều đình đều sai quan đến tế, người dân quanh năm được phụng thờ. Và trong những ngày ở Nghệ An, vua Thiệu Trị đã sai Thị vệ đại thần Vũ Văn Giải đem lễ tế vua Thục An Dương Vương để cầu mong quốc thái dân an. Trước đây, vua từng dụ bộ Lễ rằng: “Đức của thần to biết chừng nào! Cho nên cái phúc hàng vạn, hàng ức, người làm thơ đã ca tụng; những lễ tế Phương, tế Vọng, sách Lễ Ký đã ghi truyền. Có cầu đảo tất có báo ứng, lẽ đó không sai được. Trẫm là người đức bạc, nối giữ cơ nghiệp lớn, kính trời, theo tổ, siêng chính sự, yêu thương dân, một lòng lo nghĩ, cố làm cho được thịnh trị. Nay xét theo điển lễ, xa giá ra Bắc tuần, truy nhớ vua Thục An Dương: cảm ứng đã rõ, uy linh đã rệt, cần phải tế, chỉ nguyện cho Thánh tổ mẫu ta, Nhân tuyên Từ khánh Thái hoàng thái hậu, hưởng thọ vô cùng, cơ đồ nhà nước ta yên định mãi mãi, hằng năm được mùa, trộm cướp dẹp hết, trong yên, ngoài tĩnh, thần giúp đỡ cho, ơn ấy hậu thay!”.
    Kết thúc chuyến thăm Nghệ An, trên hành trình di chuyển ra Thanh Hóa, khi ngang qua Thiết Cảng (Kênh Sắt) ở huyện Diễn Châu, vua nhớ lại huyền tích năm nào, bèn bảo với đại thần Trương Đăng Quế rằng: “Đường cảng này, tương truyền: nhân có các sông chảy xuống thông qua các núi, người ta mới lựa theo hình thế, đào ra, từ Hà Nội có thể đi suốt đến phía Nam tỉnh Nghệ An; nhưng đến nay phù sa mỗi ngày một bồi thêm, đã thành ra đất bằng; tựa như vì chốn Thần kinh đã định, giữ hiểm đã có chỗ, chuyển vận đã có phương, ở bên trong, giữ bên ngoài, không thể thông đạt như trước, đó là cơ trời huyền diệu, chưa dễ lường biết, nhưng lấy lý mà bàn thì: tục truyền việc Cao Biền đào cảng này, nhờ uy trời chấn động, vỡ đá, thật là một sự quái lạ. Lời truyền thuyết vu vơ ấy không đủ tin được”.
    Khoảng trung tuần tháng 3 năm ấy, sau khi kết thúc chuyến “Ngự giá Bắc tuần”, hồi loan về Kinh, bộ Hộ đã biên làm tập “Bắc tuần ân điển” của vua Thiệu Trị, trong đó có ban ân điển vua dành cho tỉnh Nghệ An như sau: “Những tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên, chỗ nào xa giá có đi qua trong năm nay, những tiền, gạo về thuế thân, đầu lõi, điệu(1), cước đều tha bớt 3 phần 10; Những tỉnh Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An thiếu đọng thuế bạc đều rộng miễn cho 3 thành”.
    Đến tháng 10, vua Thiệu Trị cho khắc các bài thơ ngự chế khi Bắc tuần ở các địa phương. Quan Nội các dâng sớ nói: “… nước ta, bờ cõi muôn dặm, núi sông thắng tích chỗ nào cũng có. Năm nay, ngự giá ra Bắc, thăm mùa màng, hỏi việc nông, xem dân tình, xét quan lại, làm phúc, ban ơn, dạy chính sự, sửa việc binh, phàm trải qua chỗ nào đều có thơ để ghi việc, tính được gồm 173 bài… Hai bài vịnh “Hồng Lĩnh”, “Thiết cảng” thì tả hết tình trạng núi sông, cơ trời mở đóng, mà cùng là hình thế bày ra ở đó. Ngước thấy bút pháp của thánh thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên tấm đá để trấn một phương, và làm áng văn lưu truyền muôn đời. Vậy xin giao cho các nơi sở tại đem khắc vào bia lớn, để núi sông càng tươi đẹp, địa hạt thêm vẻ vang mà áng đại văn chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy cùng giữ được đến vô cùng”.
    Và trong chuyến Ngự giá Bắc tuần, vua Thiệu Trị đã làm tập thơ “Ngự chế Bắc tuần thi tập” gồm 173 bài. Tập thơ này đã được in và ban tặng cho nhiều địa phương lúc bấy giờ, tuy nhiên hiện nay mới chỉ tìm được bản khắc ván duy nhất đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Trong có ghi lại một số bài thơ về địa danh ở tỉnh Nghệ An - nơi vua từng đi qua, trong đó có bài “Thiết cảng” (kênh sắt). Mộc bản triều Nguyễn - sách Ngự chế Bắc Tuần thi tập, quyển 2, mặt khắc 14, 15 còn ghi lại bài thơ như sau:
    Phiên âm:  Thiết Cảng
    Oanh hồi tiểu giạn vạn phong trung
    Văn đạo tiền nhân tạ hoá công
    Thiết huyệt sơn yêu lưu lạn thạch
    Thiên Uy cảng khấu thiển lưu thông
    Huyền vị mạc trạng thần cơ dị
    Bình thản vưu trưng thế đạo long
    Lũng thục hào hàm vô nhị tỷ
    Ban sừ Triệu sở diệu hà cùng   
    Dịch nghĩa:  Kênh Sắt
    Suối chảy quanh quanh, núi điệp trùng
    Nghe nói người xưa cậy hoá công Núi Sắt lưng sườn còn đá vụn,
    Thiên Uy cảng khấu khó lưu thông Huyền vi như thể sức thần lạ
    Bằng phẳng càng hay thế sự hưng
    Đồng ruộng, núi non đâu sánh được
    Sông thành bình địa, diệu kỳ không(2)
    Đến tháng 10 năm 1842, vua Thiệu Trị cho khắc bài thơ “Thiết cảng” vào bia đá dựng bên đường: “Khi trẫm ra Bắc, trải xem các địa phương, coi đến núi sông mà nhớ ơn liệt thánh, mừng tục thuần mỹ mà mộ sự vẻ vang của triều xưa, không phải là chỉ ưa thích thơ văn mà thôi… Bấy giờ mới chia định: bài “Sông Vĩnh Định”, bài “Sông Ái Tử” ở Quảng Trị; bài “Định Bắc trường thành”, bài “Cầu Lý Hòa”, bài “Hai núi Khiêu Thạch”, bài “Sông Linh Giang”, bài “Cửa Hoành Sơn” ở Quảng Bình; bài “Núi Hồng Lĩnh” ở Hà Tĩnh; bài “Thiết cảng” ở Nghệ An; bài “Sông Ngọc Giáp”, bài “Núi Tam Điệp” ở Thanh Hoá; bài “Núi Hộ Thành” ở Ninh Bình, gồm 18 bài thơ ngự chế, sai địa phương sở tại khắc thơ vào đá, dựng bia ở bên đường”. Hiện nay vẫn còn dấu tích bia đá ở xã Diễn An, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
    Có thể nói, trong hành trình công cán ra Bắc, thời gian dừng chân tại tỉnh Nghệ An của vua Thiệu Trị tuy ngắn nhưng đã giúp vua hiểu hơn về cuộc sống, dân tình ở Nghệ An, chính nhà vua cũng tự bộc bạch rằng: “Trẫm ngày đêm áy náy, ăn ngủ không yên, nhưng chuyến đi này không phải chuyên về việc bang giao mà thôi, trong đó còn bàn những việc: xét địa phương, xem phong tục, mở điều lợi, trừ điều hại”.
    Chú thích
    1. Điệu: một trong ba thứ thuế mà phong kiến Việt Nam phỏng theo chế độ thuế khoá tô, dung, điệu đời Đường: bắt những hộ làm nghề dệt phải nộp hiện vật như vải, lụa,…; nếu không thì phải nộp thay bằng tiền.
    2. Tác giả Thái Huy Bích dịch.
    Tài liệu tham khảo
    1. Hồ sơ H23, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
    2. Hồ sơ H77, Mộc bản triều Nguyễn - Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.


    https://ngheandost.gov.vn/khxhnvna/dat-va-nguoi-xu-nghe/chuyen-tham-nghe-an-cua-vua-thieu-tri-79.html

    ...



    ---


    BỔ SUNG


    1.


    09:04, 08/05/2012
    Sau khi nhận được thông tin tấm bia cổ có niên đại gần 200 năm tuổi nằm trong qui hoạch thi công Dự án mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua xã Diễn An, lãnh đạo huyện Diễn Châu đã trực tiếp kiểm tra và có phương án di dời phục dựng đảm bảo giá trị lịch sử của tấm bia quí này.

     

      
     Tấm văn bia "Thiết cảng" do vua Thiệu Trị ngự chế 

     

    Tấm bia được phát hiện nằm cách mép Quốc lộ 1A chỉ khoảng 10m dưới chân núi Sở cùng dãy núi Mộ dạ, thuộc địa phận xã Diễn An, Cách Đền Cuông khoảng 500m. Theo qui hoạch dự án, tấm bia phải di dời, vì vậy UBND huyện Diễn Châu đã giao cho xã Diễn An hoàn thiện thủ tục hồ sơ để có phương án di dời, tôn tạo nhằm bảo vệ và phát huy giá trị lịch sử của tấm bia quí có niên đại gần 200 năm tuổi. Theo đó, tấm bia này sẽ được dịch chuyển vào chân núi cách vị trí hiện tại khoảng 50m.

     

    Theo nghiên cứu ban đầu, thì đây là tấm bia đá ghi lại bài thơ của Vua Thiệu Trị - vị vua thứ 3 của triều Nguyễn cùng quần thần khi đi ngang qua Kênh Sắt xã Diễn An, một trong 8 cảnh đẹp của huyện Đông Thành xưa đã ngự chế bài thơ ca ngợi phong cảnh hữu tình của Thiết Cảng tức Kênh Sắt. Việc phục dựng tấm bia này sẽ được gắn với khu di tích lịch sử Đền Cuông -  Núi Mộ Dạ.

     

    (Trọng Tấn)


    https://truyenhinhnghean.vn/van-hoa-nghe-thuat/201205/phuc-dung-tam-bia-co-gan-200-nam-tuoi-tai-day-nui-mo-da-628472/

    ...

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét

    Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

    LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

    Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.