Bài trên trang của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1.
Như mọi khi, các tư liệu cập nhật hay bổ sung sẽ được dán dần lên ở dưới.
Tháng 9 năm 2023,
Giao Blog

---
Từ những tư liệu trong Châu bản triều Nguyễn đến gia phả dòng họ Mạc ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đều cho thấy Mạc Cảnh Huống là người có nhiều công lao đối với nhà Nguyễn thời kì khai quốc.
Mạc Cảnh Huống (1542 – 1677), húy là Lịch, là con út của Thái tông Mạc Đăng Doanh và thứ phi Đậu Thị Giang. Ông xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc nhưng lại là một vị khai quốc công thần của nhà Nguyễn. Trong buổi đầu xây dựng vương triều Nguyễn, Mạc Cảnh Huống cùng với Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều là những người có công lớn.
Sau khi nhà Nguyễn thống nhất giang sơn, Nguyễn Ư Dĩ và Tống Phước Hiệp đều được truy tặng, chỉ duy Mạc Cảnh Huống là chưa được ban phong. Vì vậy, đến đời vua Duy Tân, Nguyễn Trường Dọc thay mặt dòng họ Nguyễn Trường ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam bẩm xin truy tặng, ban sắc văn cho Mạc Cảnh Huống để thờ tự. Căn cứ trên tờ bẩm và tư văn của tỉnh Quảng Nam, Phủ Phụ chính đã dâng tấu lên vua Duy Tân. Bản tấu xin truy tặng ban sắc văn cho Mạc Cảnh Huống này gồm 5 trang, có kí hiệu tờ 114, tập 3 Duy Tân, phông Châu bản triều Nguyễn. Trên văn bản có đóng dấu kiềm Phụ chính của Phủ Phụ chính và nét son châu điểm của vua Duy Tân.
Phần đầu của bản tấu ghi chép khái lược về sự trạng của Mạc Cảnh Huống như sau: “Hôm qua nhận được tư văn của tỉnh Quảng Nam trình bày: Căn cứ tờ bẩm của Nguyễn Trường Dọc họ Nguyễn Trường thuộc xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, nguyên là người huyện Tống Sơn, trình rằng: Thuỷ tổ ở triều trước là quan Thống binh, Thái phó truy phong Nguyên huân Nguyễn Trường Huống, cùng tổ đời thứ hai là Thượng tướng quân, về sau có công đánh giặc Cao Man bị tử trận mất tích, khẩn xin đề đạt ông tổ họ tộc đó được truy tặng ban sắc văn để thờ tự; thứ nữa nhận được ân dầy của triều đình. Tỉnh đó cung kính chiếu theo Liệt truyện tiền biên ghi chép Mạc Cảnh Huống người Nghi Dương, Hải Dương, là em của Khiêm vương Mạc Kính Điển, Hiếu Văn hoàng hậu tiên triều của bản quốc là cháu gái. Mùa Đông năm Mậu Ngọ (1558), Thái tổ Cao hoàng đế vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa, Cảnh Huống mang gia quyến đi theo. Trải làm quan tới chức Thống binh, tham gia trù tính nơi màn trướng. Cảnh Huống cùng với Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều là bậc công thần phụ tá thời sơ quốc. Con trai là Vinh (ban đầu họ Mạc, được ban quốc tính đổi là họ Nguyễn Trường), vào triều Hoàng đế Hy Tông lấy công chúa Ngọc Liên, làm quan đến chức Phó tướng, Lưu thủ Phú Yên; năm thứ 16 đánh dẹp bình định được giặc Phong có công, đặc biệt ban cho ấn son, công nghiệp vững bền mãi. Nay họ đó kêu trình mọi lẽ, phủ thần đã tư cho Quốc sử quán tra cứu trả lời. Nay nhận được phúc trả lời rằng Thực lục tiền biên ghi chép về sự trạng của Cảnh Huống và con trai là Vinh đều y như ghi chép trong Liệt truyện tiền biên. Lần đó Thái tổ Cao hoàng đế vào trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều dẫn con em theo, cùng Cảnh Huống đồng lòng phụ tá, giúp dập, ba người là mệnh thần phụ tá thời sơ quốc có công.”1
Theo ghi chép trong Châu bản triều Nguyễn thì Mạc Cảnh Huống là người Nghi Dương, Hải Dương, là em của Khiêm vương Mạc Kính Điển, là chú ruột của Hiếu Văn hoàng hậu2. Mùa Đông năm Mậu Ngọ (1558), Thái tổ Cao hoàng đế3 vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa, sau đó Cảnh Huống mang gia quyến đi theo và trở thành bậc công thần phụ tá thời sơ quốc. Chính bởi công lao to lớn của ông và sau này con trai là Cảnh Vinh lấy công chúa Ngọc Liên mà được theo quốc tính. Thực lục tiền biên chép về việc Mạc Cảnh Huống và con trai là Mạc Cảnh Vinh đổi sang họ Nguyễn như sau: “Kỷ Tỵ, năm thứ 16 (1629), mùa đông tháng 10 ….Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.”4 Đến thời Tây Sơn thì đổi sang họ Nguyễn Trường, sau này Mạc Cảnh Huống được truy phong Nguyên huân Nguyễn Trường Huống và trở thành thủy tổ của dòng họ Nguyễn Trường ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Theo gia phả của chi phái họ Mạc (Nguyễn Trường) ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thì Mạc Cảnh Huống là người có tài quân sự, từng phò tá ba đời chúa Nguyễn, từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đến chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Trong thời gian phò tá các chúa Nguyễn, ông là vị tướng quan trọng của quân đội Đàng Trong, là người vạch ra chiến lược quân sự chống lại quân Trịnh ở Đàng Ngoài và bình định Chiêm Thành ở phương Nam. Đặc biệt, dưới thời chúa Tiên, ông là người có công lớn trong công cuộc Nam tiến, mở rộng biên giới về phía Nam. Có thể nói công lao ấy sánh ngang với Nguyễn Ư Dĩ và Tống Phước Hiệp.
Trong thời gian phụ tá chúa Tiên, Mạc Cảnh Huống luôn là người vạch đường lối, dâng kế sách, tham mưu nơi màn trướng, sớm khuya vất vả. Công lao của ông trong buổi đầu chúa Tiên khởi nghiệp được ghi lại trong Thực lục tiền biên như sau: “Kỷ Mùi, năm thứ 2 (1559), mùa thu tháng 8, Thanh Hóa và Nghệ An bị lụt, dân lưu tán nhiều vào miền Nam. Bấy giờ mọi việc bắt đầu. Chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản. Nguyễn Ư Dĩ5 cùng bọn Tống Phước Trị6 (bấy giờ gọi là Luân quận công), Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương, chúa đều thành thực tin dùng”7.
Đến đời chúa Sãi, ông đóng vai trò quan trọng trong đường lối hòa bình để bình định bộ tộc Man ở Ai Lao thường sang quấy nhiễu biên giới phía Tây. Năm 1627, ông lại góp phần vào chiến thắng đánh lui quân Trịnh khi chúa Trịnh Tráng cho quân tiến đánh Đàng Trong. Năm 1633, khi quân Trịnh định đánh Đàng Trong lần hai, ông đã vạch ra kế sách góp phần ngăn chặn sự tiến công của đội quân Đàng Ngoài này.
Mặc dù Mạc Cảnh Huống rất có tài quân sự nhưng ông cũng là người sùng tín đạo Phật. Vì vậy, ông phò tá chúa Thượng đến năm Mậu Dần (1638) thì xin từ quan để chuyên tâm tu hành. Khi đó, ông đã 96 tuổi. Ông chọn làng Trà Kiệu, huyện Diên Phước, dinh Quảng Nam (sau đổi là xã Trà Kiệu huyện Duy Xuyên; nay là xóm Hoàng Châu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) để định cư.
Khi định cư ở làng Trà Kiệu, Mạc Cảnh Huống vẫn luôn một lòng hướng về Phật đạo. Năm Đinh Mùi (1667), ông cho trùng tu lại ngôi chùa trên đồi Bảo Châu tên là Bảo Châu Sơn tự và trụ trì tại đó, lấy pháp danh là Thuyền Cảnh Chân Tu. Tương truyền, nhờ tu luyện theo phương pháp thiền của đạo Phật mà Mạc Cảnh Huống sống tới 135 tuổi.
Từ những tư liệu trong Châu bản triều Nguyễn đến gia phả dòng họ Mạc ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đều cho thấy Mạc Cảnh Huống là người có nhiều công lao đối với nhà Nguyễn thời kì khai quốc. Đặc biệt, công nghiệp đó vẫn được minh trưng trong sử sách, biên chép ở Đại Nam Liệt truyện tiền biên và Đại Nam thực lục tiền biên. Bởi vậy, khi vua Duy Tân lên ngôi (1907-1916), xét lại công lao của các huân thần thuở quốc sơ đã truy tặng cho Mạc Cảnh Huống là “Khai quốc công thần Tráng Vũ tướng quân, Đô thống phủ Chưởng phủ sự, húy Trung Trinh đưa vào thờ trong đền Trung Nghĩa khiến được thấm nhuần ân sâu mà báo đáp công lớn”8.
________________
Chú thích:
1.Phông Châu bản triều Nguyễn, Duy Tân tập 3, tờ 114.
2 Tức chúa Tiên Nguyễn Hoàng
3Hiếu Văn hoàng hậu tức Quận chúa Mạc Thị Giai là con gái của Khiêm vương Mạc Kính Điển, về sau trở thành vương phi của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
4Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, tr.44, Nxb Giáo dục, H.2007.
5Có tài liệu viết là Nguyễn Ư Kỉ.
6Trong Châu bản triều Nguyễn viết là Tống Phước Hiệp.
7Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, tr.28, Nxb Giáo dục, H.2007.
Nguyễn Thị Thu Hường
https://www.archives.org.vn/bai-viet/mac-canh-huong-%E2%80%93-mot-vi-khai-quoc-cong-than-duoi-trieu-nguyen.htm#:~:text=M%E1%BA%A1c%20C%E1%BA%A3nh%20Hu%E1%BB%91ng%20(1542%20%E2%80%93%201677,c%C3%B4ng%20th%E1%BA%A7n%20c%E1%BB%A7a%20nh%C3%A0%20Nguy%E1%BB%85n.
..
---
CẬP NHẬT
1. Tháng 9 năm 2023
https://www.facebook.com/groups/MacTocVietNam/posts/9976978789041422/
https://www.facebook.com/groups/MacTocVietNam/posts/9976932045712763/
....
BỔ SUNG
2.
Tống Phước Trị, người góp phần vào việc mở đất phương Nam
Nằm trên vùng đất xã Hà Sơn, nơi có bề dày lịch sử, văn hóa, giao điểm của Thanh kê ngũ huyện, thôn Song Nga, nơi hiện có nhà thờ họ Tống, vẫn giữ được nét quê làng cũ.
Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên cho biết: Tống Phước Trị là người Quý huyện (tức huyện Tống Sơn, không rõ làng xã), trấn Thanh Hoa, làm chức trấn phủ Thuận Hóa (tức Thừa Thiên Huế ngày nay), tước Luân Quận công dưới triều Lê Trung hưng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVI.
Vốn là người đức độ, làm chính sự theo đường lối khoan hòa, giản dị, vì thế, trong thời gian trấn phủ Thuận Hóa, Tống Phước Trị rất được lòng dân, trăm họ đều yêu mến, tôn xưng là “Bản xứ công”, hay là “ông xứ này” (nghĩa là ông trấn thủ ở đây).
Vào khoảng năm 1550, vua Lê (Trung Tông Vũ Hoàng Đế) xét đất Thuận Hóa và Quảng Nam cần phải có tướng giỏi làm trấn thủ để giữ yên dân chúng, bảo vệ bờ cõi, đề phòng quân Mạc vào cướp phá; Thái sư Trịnh Kiểm tiến cử Bùi Tá Hán và Tống Phước Trị. Vua Lê phong Bùi Tá Hán làm Trấn Quận công trấn thủ phủ Quảng Nam, Tống Phước Trị làm Luân Quận công trấn thủ phủ Thuận Hóa.
Đến tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa - miền đất được coi là “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời!). Đi theo Nguyễn Hoàng gồm có tướng sĩ bản bộ của ông và vợ con của họ trong đó có rất nhiều người Thanh Hóa (chủ yếu là huyện Tống Sơn) theo đường biển ra cửa Đại An, vượt Đông Hải tiến thẳng vào Cửa Việt đến đóng quân trên một cồn cát thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), bên bờ sông Thạch Hãn. Vì là người có cùng quê gốc là “Quý huyện” (huyện Tống Sơn) với Nguyễn Hoàng, hơn nữa lại trọng tài đức của vị “Thái tổ Hoàng đế nhà Nguyễn” (tức Nguyễn Hoàng), Tống Phước Trị đã nhanh chóng dâng ngay sổ sách, bản đồ trong cõi Thuận Hóa lên vị quan trấn thủ mới. Sau đó, Tống Phước Trị cùng với Uy Quốc công Nguyễn Ư Dĩ (cậu ruột của Nguyễn Hoàng) và Thống binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm phụ tá “góp mưu nơi màn trướng”, “khởi xướng mưu lớn”, “nhiều phương trù hoạch để dựng nghiệp vương”, giúp đỡ Nguyễn Hoàng trong việc cai trị và mở mang xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam thời bấy giờ.
Đình làng Song Nga là địa chỉ mà tất cả các dòng họ trong thôn quy tụ về đây sinh hoạt cộng đồng.
Cũng trong sách Đại nam thực lục tiền biên có chép: “Mùa thu tháng Tám năm Kỷ Mùi (1559). Bấy giờ mọi việc bắt đầu. Chúa (tức Nguyễn Hoàng) khuya sớm chăm lo nghĩ việc củng cố căn bản. Nguyễn Ư Dĩ cùng bọn Tống Phước Trị (bấy giờ gọi là Luân Quận công), Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương. Chúa đều thành thục tin dùng”. Về sau, Tống Phước Trị ốm rồi qua đời khi đang tại chức.
Như vậy, cuộc đời làm quan của Tống Phước Trị công lớn là giúp họ Nguyễn xây dựng một vương triều mới, góp phần mở đầu, tạo nên những điều kiện cho sự phát triển ở đất Đàng Trong. Dưới sự quản lý của các chúa Nguyễn, vùng đất phía Nam của đất nước đã hoàn toàn thay đổi diện mạo, tất nhiên trong sự phát triển và thịnh vượng ấy có công lao của Tống Phước Trị. Sau khi ông qua đời, triều đình dựng đền thờ, cấp ruộng tế tự, cử phu coi mộ. Con cháu ông đều thành đạt, vinh hiển.
Là người nghiên cứu về Tống Phước Trị qua rất nhiều tư liệu và điền dã, TS Phạm Văn Tuấn, trong bài Luân Quốc công Tống Phước Trị với chúa Nguyễn và đền thờ ông ở quê hương Tống Sơn in trong tập kỷ yếu hội thảo Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX cho rằng: Trước năm 60 của thế kỷ XX, ở sườn núi Trạch Lâm (xưa thuộc tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn nay thuộc xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn) có “Miếu Luân Quốc công Đại vương”. Điều này cũng đã được ghi chép trong sách “Thanh Hóa chư thần lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn, biên chép thần hiệu các vị dương thần và âm thần các địa hạt trong tỉnh Thanh Hóa thờ phụng, có ghi mục “Thiếu úy Luân Quận công tôn thần, thôn Hạ Trù, huyện Tống Sơn thờ”. Nơi đây đã được xem là thờ Tống Phước Trị, tuy nhiên, đến nay, miếu thờ ấy cũng không còn.
Thôn Song Nga, xã Hà Sơn đang phấn đấu đạt NTM kiểu mẫu trong thời gian tới.
Lần theo manh mối về dòng họ Tống, chúng tôi được biết ở thôn Song Nga, xã Hà Sơn (Hà Trung) có rất đông người thuộc dòng họ Tống sinh sống, cụ thể là có 8 nhánh họ Tống. Và chúng tôi đã tìm đến nhà anh Tống Quang Văn, Bí thư chi bộ thôn Song Nga. Anh Văn cho biết: Tôi từng nghe các cụ nói về cụ Tống Phước Trị. Tiếc là gia phả của dòng họ đã bị mất từ năm 1971, do khi người cháu mang ra Hà Nội để dịch từ văn bản chữ Hán sang quốc ngữ. Anh cũng xác nhận trước đây do giao thông đi lại khó khăn, một nhánh con cháu họ Tống ở xã Quang Trung (thị xã Bỉm Sơn) đã lập nhà thờ hay miếu thờ gì đó. Song, về sau tất cả đều dồn về nhà thờ tại gia đình anh để cúng các cụ.
Về mặt tư liệu lịch sử có thể chưa đầy đủ nhưng đã hé mở được những băn khoăn về con cháu của cụ Tống Phước Trị trên đất xứ Thanh. TS Phạm Văn Tuấn cho rằng: Đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận, đặt đúng vị trí của Luân Quận công Tống Phước Trị trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc để có những hành động thiết thực như phục dựng, tôn tạo lại đền thờ, khai thác và phát huy những giá trị của di tích và quê hương vào việc xây dựng nền văn hóa dân tộc...
Bài và ảnh: Kiều Huyền
https://vhds.baothanhhoa.vn/tong-phuoc-tri-nbsp-nguoi-gop-phan-vao-viec-mo-dat-phuong-nam-31426.htm
1.
莫景貺
莫景貺(越南語:Mạc Cảnh Huống/莫景貺;1542年—1632年),因後代賜姓阮長,又被追稱為阮長貺(越南語:Nguyễn Trường Huống/阮長貺),出身越南莫朝宗室,是莫太宗莫登瀛幼子。
莫景貺在莫朝時的官爵職務不詳,他的妻子阮玉楊和南方阮主阮潢的妻子阮氏是姐妹[1]。所以莫朝滅亡後,莫景貺攜帶家眷,跨海投靠了阮潢,落籍肇豐府藍山寺。並將姪女、兄長莫敬典之女莫氏佳嫁給阮潢第六子阮福源為妻。莫景貺在阮主手下官至統兵,參預軍機大事,和阮潢重臣阮於己、宋福洽同等功勞。莫景貺後在任上去世。
莫景貺作為阮潢重臣,在阮朝開國後卻並未得到封贈。直到維新元年(1907年)十二月,經莫景貺後人上書,阮朝朝廷才正式追贈莫景貺為「開國功臣、壯武將軍、都統府掌府事」,賜諡忠貞,列祀於忠義祠。[2]
莫景貺有一子,阮主賜姓阮福[3],名叫阮福榮,官至鎮邊營鎮守,娶瑞國公阮福源長女阮氏玉蓮為妻。
注釋
- 《大南列傳前編》卷一 孝文皇后。
- 《大南實錄》正編第六紀附編 卷二十 維新元年十二月 1481.追贈前朝功臣阮長貺條。
- 阮朝開國後,又改為阮長。《大南列傳前編》稱改為阮有,有誤。
參考文獻
- 《大南列傳前編》 卷三 莫景貺傳
https://zh.wikipedia.org/zh-tw/%E8%8E%AB%E6%99%AF%E8%B2%BA
...
阮於己
阮於己(越南语:Nguyễn Ư Kỷ/阮於己,?—1600年後?),字無事(越南语:Vô Sự/無事)[1],阮朝奠基者昭勳靖公阮淦妻子阮氏梅的兄長[2]。
阮於己祖籍海陽四岐縣,後遷居清化,父親阮明辨是後黎朝特進輔國上將軍署衞事,他也在後黎朝任太傅,封威國公(越南语:Uy quốc công/威國公)[1]。統元五年(1526年),莫登庸篡黎,阮淦入哀牢起兵抗莫。次子阮潢年紀尚小,就將他留在阮於己家中照顧;後來阮潢長大,阮於己勸他要建立事業[1]。
到阮淦去世後,阮潢出仕後黎朝,封太保端國公;其時右丞相鄭檢想謀害阮淦獨掌政權,令阮潢非常不安,自稱得病不上朝。他詢問阮於己意見,阮於己指出鄭檢「包藏禍心,當遠避之」,順化一地易守難攻,可以託姊姊阮氏玉寶(鄭檢正妃)要求獲得那裡再圖謀大計[1]。阮潢就使人通知阮氏玉寶,阮氏玉寶乘機對鄭檢閒語順化有瘴氣、又有莫朝將領,應該留人駐紮免得讓莫朝侵占,鄭檢就上表請後黎朝皇帝讓阮潢鎮守順化[1]。
正治元年(1558年)冬天,阮潢出發去順化,阮於己率領子弟跟隨。到愛子沙墟,有百姓獻上清水七壜(备注:越语水“Nước”与国“nước”同音),阮於己說:「天賜也!天事必象。今主上初就國,而民以水獻,其有國之徵乎。」(天賜啊!有事天一定會有預兆的。現在主上到國,而民眾獻水,是立國的象徵啊。)阮潢接受他的說法,在當地建營[1]。其後阮潢每次出征討賊,阮於己都跟隨。
慎德元年(1600年),阮潢的海軍到神符,突然聽說鄭兵追到,阮於己立刻命令軍隊划船。不久船上沒有棹索,安謨工者范氏獻上一簍生絲以製作棹索,於是海軍能迅速離去,而范氏在順化居住數年才回鄉[1]。阮潢得知此事,賞賜很多財物給阮於己;阮於己則全數分給將士,不久就去世了,在貴縣貴鄉立廟祭祀[1]。
嘉隆二年(1803年),嘉隆帝下令改建貴鄉原廟,廷臣以阮於己是外戚不應該祭祀,就罷去貴鄉的祭祀了[1]。紹治五年(1845年),東閣大學士武春謹呈請追錄阮於己功績,紹治帝下諭禮部查察,後追贈開國功臣、特進壯武將軍、中軍都統府掌府事、太師,諡忠貞,封威國公(越南语:Oai Quốc công/威國公),賜從祀太廟,在右廡排名第一[1]。
家庭
子女
參考資料
- 《大南列傳前編卷三》
- 《大南列傳前編卷一》
https://zh.wikipedia.org/wiki/%E9%98%AE%E6%96%BC%E5%B7%B1
...






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.