Tin thầy vừa qua đời sáng nay, loan đi trong chúng tôi từ hơn 10 giờ sáng nay (21/5), một sáng Chủ Nhật đầu hè 2023. Tôi lặng đi một lúc lâu, bởi đêm qua, thực ra là rạng sáng hôm nay, tôi vừa xem đi xem lại vài lần video quay cảnh thầy trò chuyện với chúng tôi tại nhà riêng của thầy mới đây thôi.
Cũng mới hôm qua (Thứ Bảy ngày 20/5), tôi vừa viết bài "Văn nghệ Thứ Bảy : Một nửa thế kỉ "Búp Trên Cành" và mạch nguồn quê hương (bài Bùi Thị Biên Linh 2023)" trên Giao Blog, trong đó, có nhắc đến nhà văn Bút Ngữ - người thầy của riêng tôi, mà cũng là thầy có bao thế hệ học trò trong ngôi nhà chung Búp trên cành ngày trước (1976-1990s) và Nhà Búp hôm nay.
Đêm qua, một cách kì lạ, tôi cứ xem đi xem lại các video của tháng 3 năm 2023, rồi tính sẽ viết một bài gì ra tấm ra món về thầy Bút Ngữ. Muốn viết ra tấm ra món, là vì, lâu nay, ở chỗ nọ chỗ kia, tôi đã viết những mảnh nho nhỏ (ví dụ ở đây hay ở đây), mà chưa có điều kiện viết một bài dài hơi về thầy. Đang còn nhẩm tính bố cục một bài như vậy, thì sáng nay, hơn 10 giờ, nhận được tin thầy đã ra đi.
Thầy Bút Ngữ với các thế hệ học trò "Búp trên cành" (Chủ Nhật ngày 5/3/2023, tại nhà riêng của thầy - thành phố Thái Bình)
https://www.youtube.com/watch?v=fsMJg1SYAQU
Tôi cứ đắn đo mãi về việc có nên đưa video quay cảnh thầy trò chúng tôi hàn huyên vui vẻ vào ngày 5 tháng 3 vừa rồi lên kênh YouTube hay không ? Đêm qua, tôi cũng đắn đo thêm nhiều lần nữa. Nửa muốn đưa lên để lưu một kỉ niệm chung, nửa thì lại không muốn vì dù sao cũng là kỉ niệm của riêng - riêng của thầy trò chúng tôi.
Hôm nay, thầy vừa nhẹ bước đi về miền bát ngát, tôi quyết định đưa video lên kênh Giao Blog (xem video ở trên, tôi mới đưa lên ít phút trước).
Thầy đã đi về miền bát ngát vượt lên trên các "pháo đài đồng bằng", vượt lên các "xóm chài" với những triền đê dài ngút mắt, vượt lên trên những tầng mây trắng nơi đồng trước đồng sau trải dài vô tận. Trong phút giây này, con nhẩm đọc một bài ca dao mới của thầy trong sách giáo khoa (bài Làm mưa):
"
Bước lên đồng cao
Thấy dòng sông mới
Bước xuống đồng dưới
Thấy con mương đào
Bước về đồng sau
Thấy gàu đang tát
Bước ra đồng trước
Thấy guồng đang quay
Không mưa từ chín tầng mây
Thì mưa từ những bàn tay con người
"
Ngày 21 tháng 5 năm 2023,
Giao Blog
---
CẬP NHẬT
10. Ngày 25/5/2023 bản cập nhật một bài viết trước đây của nhà thơ Kim Chuông
Vâng. Bút Ngữ. Ông là một nhà văn. Người đẹp của một thời, mà trên đời này, rồi sẽ còn mấy ai, như thế ?
Từ những năm chiến tranh chống Mỹ đang là Tổng Biên tập tờ báo, của tỉnh Đảng bộ Thái Bình, Bút Ngữ được cử, đóng vai trò “thủ lĩnh”, nhóm những người sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật.
Vừa bước vào tuổi bốn mươi, Bút Ngữ trẻ, đẹp. Mặt vuông. chữ điền. Nước da trắng hồng. Người lành đến dịu mát.
Những ngày đất nước đang chiến tranh ác liệt, đi lại khó khăn. Xe không. Đường xa. Bom đạn địch bất thường. Bút Ngữ khi một mình. Khi đôi ba người, vai đeo túi vải, khi guồng xe đạp, lúc nhảy xe đò mải mê về các vùng để tìm người lập Hội.
Những người viết Thái Bình có tên thời ấy lần lượt được Bút Ngữ mời về cộng sự. Bùi Công Bính từ Việt Bắc. Nguyễn Khoa Đăng ở một trường Vũ Thư. Võ Bá Cường ở huyện đảo Cẩm Phả. Đức Hậu đào than ở mỏ. Kim Chuông từ Báo Quân khu Tả ngạn về. Sau nữa, Hà Văn Thuỳ, Lê Bính rồi nhà thơ Hoàng Tố Nguyên, quê Gò Me, Nam bộ được anh Ngữ đón về từ Phòng văn nghệ của Ty Văn hóa Hà Tây…
Với Bút Ngữ, hai mươi năm làm lãnh đạo, thời “Chủ tịch” của ông, có cái “oách”, ít ai có được. Về tuổi tác, Bút Ngữ thuộc bậc anh cả của hầu hết anh em trong cơ quan Hội. Về danh tiếng, người ta từng nghe các vị lãnh đạo tỉnh, tự hào khoe rằng, “Bút Ngữ là nhà văn. “Nhà con một” của Thái Bình. Bởi, tính từ nhà bác học, nhà thơ Lê Quý Đôn, Thái Bình đi qua hàng thế kỷ nhạt mờ mới có một Bút Ngữ nổi tiếng từ hồi còn là đội viên bảo vệ Uỷ Ban kháng chiến hành chính huyện Vũ Tiên. Khi trở thành cán bộ tuyên truyền, Bút Ngữ vẫn vừa đào hầm bí mật, vừa đưa cán bộ vượt đường ra vào vùng du kích, vừa theo theo sát những trận càn, theo sát những chiến công của bộ đội, du kích, anh viết bài tuyên truyền, in báo, in trên đất thó, gộp thành từng tập mỏng gửi vào vùng chiến. Bút Ngữ viết văn, lại có ca dao, có thơ chọn in trong văn tuyển. Bài ca dao “Làm mưa” được giải của Báo Văn nghệ, có câu : “Không mưa từ chìn tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người…” được Bộ Giáo dục tuyển vào sách giáo khoa tiểu học, còn dùng đến bây giờ. Rồi bài thơ “Tiền Hải”, Ty Giáo dục Thái Bình tuyển vào sách giáo khoa cho học sinh trung học, một thuở, học trò học thuộc lòng ra rả.
Bút Ngữ là người dự trại viết đầu tiên của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1959, cuối trại, ông có truyện vừa “Bên đồng nước úng,” tập truyện in chung với Ngô Ngọc Bội. Cũng dịp này, Bút Ngữ có chùm thơ in chung với Ngọc Minh đều ở nhà xuất bản Văn nghệ.
Bút Ngữ vừa là Chủ tịch Hội VHNT - Thái Bình, vừa là Phó Trưởng Ty Văn hoá, Bí thư Đảng đoàn khối Văn học nghệ thuật của một vùng đất. Bút Ngữ lại có uy tín, đang được bầu hai khoá liền (khoá III- khoá IV) là Đại biểu Quốc hội…
Thời ấy, thành tựu của Bút Ngữ với Thái Bình hay nhiều tỉnh khác được coi là thật hiếm.
Tôi nhớ, mấy lần, Tỉnh uỷ lấy phiếu thăm dò uy tín các cán bộ lãnh đạo đầu ngành, một trăm phần trăm anh chị em cơ quan văn nghệ đều có thư trả lời riêng và “trình” rằng, Bút Ngữ là con người “lý tưởng.” Một “lãnh đạo lý tưởng”.
Viết về Bút Ngữ, nhà văn Hà Văn Thuỳ gọi ông là “người thầy đầu tiên”. Bởi, trước hết nơi ông là “cái đức”. Bởi, từ Bút Ngữ luôn toả ra tấm lòng nhân hậu, thương yêu, tôn trọng con người. Ông là tấm gương về “lễ”. Cho đến bây giờ, 30 năm trôi qua, nhưng tôi, (H.V.T) còn nhớ như in hình ảnh ông mỗi cuộc họp, hai tay ông xoa xoa, miệng chào đón khách. Khi đó, tôi gặp nơi ông dáng nét quen thuộc của vị chủ tế trước ngôi đền văn chương. Và cũng một thoáng hình ảnh Tống Giang trong ngày tựu nghĩa. Cách ứng xử lễ nghĩa như vậy tiếc rằng ngày nay không còn nữa...” (*)
Bút Ngữ yêu người, dễ tin người đến nỗi. Gặp ai anh cũng thu mình, bẻ mình gẫy đi để gần được xung quanh. Tôi thấy anh em cơ quan, ít người biết anh lành, thường “bắt nạt”, lấn anh. Những lúc ấy, cách ứng xử của anh là “nhẫn”. Anh lặng lẽ rút lui về thu mình ngồi trong phòng, hay nằm vật ra giường mà nghĩ. Sau đó, bằng phút tự tìm đến ngồi lại với nhau, hay chờ vào cuộc họp, anh Ngữ mới thận trọng đọc những lời đã được viết ra hoặc nói vo những gì đã nghĩ chín trong bụng. Lúc này, nào lý tình ấm nồng, sâu sắc. Nào cái giọng run rẩy, chứa chan… Anh Ngữ đã nhiều lần làm nhiều người xúc động và càng được anh em cơ quan trọng nể.
Một lần, vừa đến cơ quan, thấy Bút Ngữ hai tay bê chậu nước từ sân giếng về bên thềm rửa mặt. Dáng lom khom, vừa đi vừa khóc không ra tiếng. Biết cậu phụ trách văn phòng sai, lại “xẵng” với anh. Tôi gắt. “Anh Ngữ. Anh là thủ trưởng cơ quan. Cậu ấy là nhân viên. Sao phải chịu như thế?” Anh Ngữ giọng mếu máo. “Tôi khóc cho tôi. Tôi là lãnh đạo, sao không nói nổi anh em. Tôi khóc cho anh em nữa. Sao tôi nói đúng. Nói đến điều như vậy, sao anh em không biết nghe tôi”.
Anh Ngữ ăn ở với anh em bằng tấm lòng cao đẹp. Những ai từng sống trong cơ quan văn nghệ Thái Bình, người ít kẻ nhiều, không ai không được anh dìu dắt, đắp bồi bằng tình yêu thương nhân ái. Không ai quên, việc anh Ngữ cưu mang, đùm bọc anh Nguyên, một nhà thơ từ quê hương Gò Me, Nam Bộ về Thái Bình sinh sống.Từ công việc, gia đình, vợ con đến nơi ăn chốn ở hằng ngày, anh Ngữ đối với anh Nguyên bằng tất cả tấm tình của người “chủ ngôi nhà”, tấm tình của bạn bầu đồng nghiệp, tấm tình của người miền Bắc với quê hương miền Nam ruột thịt. Buổi anh Nguyên qua đời, sau này cả việc “sang cát,” lo toan mộ phần đẹp đẽ cho nhà thơ, anh Ngữ tận tình, chu đáo mời đông đủ các anh Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Võ Văn Trực, Vũ Từ Trang …bạn bè từ Hà Nội và nhiều nơi khác về thắp hương, đưa tiễn nhà thơ lần cuối. Nhiều người đến viếng nhà thơ. Người biết anh Nguyên. Nhiều người chưa biết anh Nguyên. Nhưng, nhìn anh Ngữ lo toan. Nhìn dáng hình cao thượng bao dung. Nhìn cử chỉ với tất cả những gì khổ đau đè lên “người chủ gia đình” đang ghé vai gánh vác, ai nấy đều nom Bút Ngữ mà ướt đầm nước mắt.
Bút Ngữ trọng người lao động. Thấy ai chịu đi, chịu viết, anh rón rén nói lời khen, vẻ mừng vui ra mặt. Ai có bài “phát”, bài in, anh khoe với mọi người rồi thông báo trong cuộc họp, cuộc giao ban, kịp thời biểu dương, cổ vũ.
Hai mươi năm dốc lòng dựng xây, phát triển Hội, anh Ngữ làm nên thời “hoàng kim” thật sôi nổi mà vui. Nhiều trại lớp được mở. Hội không mấy khi vắng khách ra vào. Rất đông các nhà văn, nhà thơ, từ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nông Quốc Chấn, Phạm Hổ, Tạ Hữu Yên, Tô Hoài, Nguyễn Kiên, Hồ Phương, Đào Vũ…Đến các Hoạ sĩ Trần Văn Cẩn, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Sáng…Các Nhạc sĩ Hoàng Vân, Nguyễn Văn Tý, Thái Cơ… Bao nhiêu những gương mặt, tuổi tên từng làm rung động các thế hệ người đọc, người viết đều về với Thái Bình, gắn bó với Hội Thái Bình và nhà văn Bút Ngữ.
Thời ấy, người lãnh đạo như anh Ngữ thật “vô sản,” chỉ một lòng vì Hội. Phòng ở và làm việc của anh là gian nhà “cấp bốn.” Nhiều nhuận bút ở các số báo anh tự nguyện hiến cho cơ quan. Nhà ở dưới quê, anh Ngữ được tỉnh cấp đất ở một vùng ven thị, nhưng lâu, không có đủ tiền của để dựng, anh tự nguyện đem trả.
Với đời văn, Bút Ngữ là “thợ cày cần mẫn”. Ở Hội, lúc nào ngưòi ta cũng gặp anh hai chân ngồi cò đậu, mải miết “bơi” trên trang viết. Trên hai mươi đầu sách.. Hàng nghìn bài báo đủ các thể loại “cung cấp” cho tạp chí, cho báo, cho đài. Bài “bắt buộc” anh Ngữ phải viết vì vai trò lãnh đạo. Vì “phải có” để tuyên truyền, quảng bá với tỉnh, với trung ương. Rồi bài đặt của người biên tập từ các nơi yêu quý “mời” anh . Bài ngẫu hứng từ cảm xúc. Bài xã luận. Bài nghiên cứu, sáng tác…Anh Ngữ như “con gà mắn đẻ”, cứ “cục ta cục tác” chẳng mấy khi dừng. Ngày ấy, anh em nhìn anh mà phục một vía. Bởi, anh họp suốt ngày. Việc suốt ngày. Vậy mà năm nào cũng “tung” ra đầu sách. Cuộc thi nào anh cũng có bài gửi và túc tắc có giải. Chỉ riêng chuyến đi thực tế ở Tây Nguyên. Nửa tháng trời lăn lộn, về nhà, Bút Ngữ “đẻ” ra ba truyện ngắn. Một bút ký dài, in và phát nhiều kỳ. Rồi, tiểu thuyết “Cao nguyên mưa nắng” dày đẫy ba trăm trang .. .
Thời anh Ngữ, văn chương phải gánh vác những sự kiện lớn lao và nóng bỏng của núi sông, dân tộc. Anh Ngữ “tự nhận thức” và ý thức rất rõ giá trị hữu ích trên mỗi trang viết của mình. Một tầng bề mặt của biết bao diễn biến ngổn ngang, bề bộn nơi chiến tranh, nơi con người, thế sự…Cái phản ánh. Cái gọi là “minh hoạ”, đôi khi không tránh khỏi sự giản đơn, sơ lược. Coi giá trị ôm trùm trong mô tả là cần kíp, là nét trội, thì những số phận nhân vật, nhất là những tư riêng, coi là vụn, là chưa phải thời điểm để nhắc tới, ca vang…Đây là quan niệm một thời . Là “tự thức” mà anh Ngữ đã sớm tìm cho mình “một miền”, một sở trường để mở hướng cuốc cày, khám phá.
Bút Ngữ đi sâu vào đề tài lịch sử !
Tìm mình ở đề tài lịch sử, nhà văn Nguyễn Khải đã viết, Bút Ngữ đã tìm được một cách đắc địa “đất dụng võ” của mình. Bởi, Bút Ngữ có vốn nho học khá sâu. Anh chịu đọc, chịu tìm tòi nghiên cứu. Với phẩm chất cần cù, cẩn trọng, luôn ghi chép tỉ mỉ, lưu giữ một cách hệ thống, ngăn nắp, khoa học các tư liệu tìm được.
Trước thành công khác nhau ở hàng nghìn trang viết, tôi nhớ, khi đang giữ cương vị Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Thái Bình, nhà văn Nguyễn Khải từ miền Nam gửi cho tôi bài viết với bức thư như sự kêu gọi, hỗ trợ. Nguyễn Khải khen : “Cụ Bảng Đôn của anh Ngữ viết giỏi lắm. Đây là tiểu thuyết hay của anh. Văn chương thích. Nhân vật thích. Vấn đề của tiểu thuyết cũng thâm thuý và sâu…
Bút Ngữ đã bốn lần giành được các giải thưởng văn học. Hai lần của Hội Nhà văn Việt Nam cho cuốn tiểu thuyết “Chuyện ở xóm chài” và “Cụ Bảng Đông”. Hai lần giải chính thức cho hai tiểu thuyết khác, giải thưởng của Ủy Ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chưa kể bốn lần giải đầu, giải thưởng văn học mang tên nhà bác học Lê Quý Đôn, tỉnh Thái Bình và hàng chục giải thưởng ở các cuộc thi văn học do các cơ quan Báo, Đài tổ chức. ..
Những ngày cuối tháng 5/ 2023 này, Bút Ngữ đã bước vào tuổi 94. Đã hai lần chịu tai biến mạch máu não.Nhưng một sớm khi đang ngồi trên bàn viết, Bút Ngữ bỗng dưng bị choáng, ngã. Hai ngày nằm cấp cứu tại Bệnh viện Thái Bình, nhưng không qua khỏi. Nhà văn đã giã từ cõi thế, mãi mãi vĩnh biệt cuộc đời này.
Từ Kinh Đào, Vũ Phong, Vũ Thư, Thái Bình, người cùng làng với nhà văn Dũng Hà, người đồng hương với các nhà văn Phạm Lê Văn (Thợ Rèn), Minh Chuyên, Đỗ Vĩnh Bảo…Cái tên Phan Đình Khương, tên thật của nhà văn Bút Ngữ, chẳng mấy ai nhớ. Người ta nhớ, quý yêu và kính trọng nhà văn Bút Ngữ ở ngôi sao ban mai luôn lấp lánh dẫn đường trên một vùng đất lúa. Nhớ Bút Ngữ, một “Chủ soái.” Một người anh thật nồng thắm, thương yêu.
“Một Tống Giang !...Một hình ảnh vị chủ tế trước ngôi đền văn chương trong những ngày tựu nghĩa”(**)…
“Thời Bút Ngữ” sao mà đẹp, mà yêu…Mà trên đời này, rồi còn biết khi nào có nữa?
K. C
(**)Hà Văn Thuỳ
Bài đăng Báo Thái Bình, ngày 13-12-2002
Báo Văn nghệ, số 27 tháng 7/2003
http://trannhuong.net/tin-tuc-56383/but-ngu--mot-thoi-nguoi-dep.vhtm
9. Ngày 24/5/2023 (từ Fb Nguyễn Quý - con dâu của nhà văn Bút Ngữ)
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02CejFvqEw7geHii29ZUk2XoWYrMiFXEBkpoeYjEdDKJdRcLvFEK3EsJ3DgtVzj4G2l&id=100008818983080
8. Ngày 23/5/2023
Bút Ngữ – ‘Chẳng mưa từ chín tầng mây…’
Vanvn- Trong tuyển tập Giải nhất văn chương (NXB Hội Nhà văn, 1998) ở trang ghi danh sách những người được giải cuộc “Thi ca dao 1961 tuần báo Văn học” có tên Bút Ngữ. Bài ca dao được giải của Bút Ngữ được tuyển vào sách Tiếng Việt 2 (tập 2, NXB Giáo dục, 1996).
>> Nhà văn Bút Ngữ qua đời ở tuổi 93
>> Nhà văn Bút Ngữ – Cây đa xanh giữa ngàn xanh
Năm 2007, lịch treo tường in chung giữa NXB Giáo dục và NXB Chính trị Quốc gia, ở tờ lịch 23.3.2007 – ngày Khí tượng Quốc tế in 2 câu kết của bài được giải: “Chẳng mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Từ 1953, ở tuổi ngoài 20, Bút Ngữ đã là cây bút tác chiến nhanh của làng văn nghệ Thái Bình, ông sáng tác ca dao, diễn ca, tấu, viết lời cho các điệu hát xẩm, hát chèo… rồi tự tay in bột gửi về các huyện, khích lệ quân dân tham gia cuộc kháng chiến 9 năm. Vậy mà, năm 2019 ở tuổi bát tuần có lẻ, ông còn trình làng tập thơ Thiếu nữ lên chùa! Và năm nay, lão ông 90 xuân Bút Ngữ, vẫn sáng tác, vẫn nói bằng lời ngòi bút, ông đang chờ ngày ra mắt tiểu thuyết mới.
“Bước lên đồng trên/ Thấy con sông mới/ Bước xuống đồng dưới/ Thấy con kênh đào/ Bước ra đồng sau/ Thấy máy bơm nước/ Bước ra đồng trước/ Thấy guồng đang quay/ Chẳng mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Học trò lớp 2 ngày ấy, nhất là những em ở vùng nông thôn đọc bài này, hào hứng lắm vì bài học mà giống như bài hát của trò chơi Xúc sắc xúc sẻ: “Bước lên giường cao/ Thấy đôi rồng ấp/ Bước xuống giường thấp/ Thấy đôi rồng chầu/ Bước ra đằng sau/ Thấy nhà ngói lợp/ Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm…”.
Bút Ngữ đã mượn những chữ chủ âm, mượn tiết điệu xưa để làm bài đồng dao mới. Cái mới từ những người nông dân muốn thay trời làm mưa! Mong muốn của những nhân vật thơ ca đang “bước” thoăn thoắt kia có vẻ “duy ý chí”? Nhưng biết làm sao, không “duy” thì đói vì hạn hán sẽ đốt cháy thóc lúa! Cho nên phải bày thế trận cứu hỏa. Có trước – sau, trên – dưới bọc lót, che chở! Có “đào”, có “tát”, có “quay”! Có đăng đối trong không gian 4 phía, có liên thanh động từ để sau 40 âm tiết chia thành 10 nhịp tứ tự dồn dập, thơ tới được cao trào, và vút lên một thách thức, một tin tưởng: “Không mưa từ chín tầng mây/ Thì mưa từ những bàn tay con người”.
Thơ tứ tự đang vun vút hàng dọc, bỗng chuyển hàng ngang lục bát để dứt khoát “không … thì…” Dứt khoát được, là vì, trời chỉ có 9 tầng cao mà mỗi người nông dân những 10 ngón tay! Và họ đoàn kết để mười thành trăm, trăm thành nghìn…
Trong nền văn minh lúa nước, đề tài “mưa” là một thách thức để các tác gia dân gian và bác học cùng đua tài. Nếu ca dao có nhân vật chắp tay: “Lạy trời mưa xuống/ Lấy nước tôi uống/ Lấy ruộng tôi cầy/ Lấy đầy bát cơm/ Lấy rơm đun bếp” thì thần thoại để ông cóc tía gõ trống kiện trời, giúp con cóc bé tí, lớn vụt lên, cao hơn thiên đình: “Con cóc là cậu ông trời/ Ai mà đánh nó thì trời đánh cho”, và bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương làm cơn mưa thất ngôn bát cú thật ngang ngược: “Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa/ Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve/ Mải việc làm ăn quên cả mệt/ Dạng hang một lúc đã đầy phè”.
Ngay trong cuộc thi ta nhắc trên kia, nếu Bút Ngữ đáo để với ông trời, thì Ngô Văn Phú tha thướt, thơ mộng! Trong thơ, giữa đất và trời, mấy cô thôn nữ đẹp như các nàng tiên: “Trên trời mây trắng như bông/ Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây/ Mấy cô má đỏ hây hây/ Đội bông như thể đội mây về làng”.
Người viết sử bằng thơ và tiểu thuyết
Thái Bình, quê Bút Ngữ, nằm bên quốc lộ số 5 nối Hà Nội với Hải Phòng. Bằng con mắt của người làm thơ, Bút Ngữ thấy con đường hóa thành nét bút nối chiến tranh với hòa bình, hôm qua và hôm nay, hy sinh cùng thụ hưởng… những quan hệ có tính triết học ấy, lại hiển hiệt sinh động cụ thể trên con đường nối đất quê dưới chân mình với tít tắp trời xanh:
“Một đồng chí qua đường/ Một nấm mồ mới mọc/ Hai đồng chí qua đường/ Hai nấm mồ mới mọc…// Anh du kích Đường 5/ Lần mò trong gió buốt/ Tiếng cú rúc đêm sương/ Tiếng vợ ai thầm khóc/ Thần chết đón ngang đường…/ Nghĩ gì – Anh vẫn bước// Dậy đất một tiếng bom/ Lật tung đoàn tàu giặc/ Đồng lúa ven Đường 5/ Thêm nấm mồ mới mọc// Một chặng đầu Đường 5/ Một nhà máy mới mọc/ Hai chặng giữa Đường 5/ Hai nhà máy mới mọc// Ngày ngày máy tỏa khói/ Dệt những tấm màn xanh/ Từ lưng trời lướt tới/ Nhẹ phủ nấm mồ anh” (Anh du kích đường 5 – trích tập thơ Trên rừng hoa ban in chung với Ngọc Minh, NXB Văn học, 1962).
Nhà thơ Minh Huệ (1927 – 2003) có lời bình: “Bài thơ có tư tưởng tính tốt, có chủ đề rõ ràng, kiến trúc gọn, giản dị mà chắc, cấu tứ tròn trĩnh, có tìm tòi, có chọn lọc, không khí bài thơ gợi lên được không khí chiến đấu âm thầm, gian khổ và dũng cảm của những người du kích địch hậu”.
Bút Ngữ là người viết tiểu thuyết lịch sử rất có nghề, theo nhà phê bình văn học Nguyên An: “Điều đáng ghi nhận như là một thành công của Bút Ngữ ở tác phẩm Cần Vương Đông Du là cách viết, cách dựng tiểu thuyết, là mạnh dạn khắc họa tính cách nhân vật qua đối thoại và mô tả dáng vẻ bề ngoài, rất phù hợp với không gian lịch sử, bối cảnh xã hội quá khứ, qua đó làm nổi bật tính cách nhân vật. Gợi ra được vẻ kỳ vĩ và hùng tráng, có bi ai mà quật cường…”.
Không chỉ ghi chép, Bút Ngữ chính là người góp phần làm nên lịch sử văn học tỉnh Thái Bình thời hiện đại. Nhà văn Kim Chuông, kể trong Văn chương và bạn văn (NXB Hội Nhà văn):
Vào những năm 1970 – 1971, ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, lúc ấy đang là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình, bàn với nhà văn Bút Ngữ Thái Bình đâu chỉ “lúa”? Thái Bình đất văn chứ. Một trăm mười một vị tiến sĩ có bia trong Văn Miếu! Thế là, Bút Ngữ, nhà văn đang phụ trách tờ báo của tỉnh, được cử giữ vai trò “thủ lĩnh”, đứng đầu nhóm người sáng lập Hội văn học nghệ thuật.
Đất nước đang chiến tranh ác liệt, đi lại khó khăn. Xe không. Đường xa. Bom đạn địch bất thường. Bút Ngữ khi một mình. Khi đôi ba người, vai đeo túi vải, khi guồng xe đạp, lúc nhảy xe đò mải mê về các vùng để tìm người lập Hội. Bùi Công Bính từ Việt Bắc. Nguyễn Khoa Đăng ở một trường Vũ Thư. Võ Bá Cường ở huyện đảo Cẩm Phả. Đức Hậu đào than ở mỏ. Sau nữa, Hà Văn Thùy, Lê Bính rồi nhà thơ Hoàng Tố Nguyên, quê Gò Me, Nam bộ… Nhà văn Tô Hoài biết việc này ông động viên, bằng cách nói chuyện nghề văn: “Tác phẩm của Bút Ngữ, là những truyện ngắn, tiểu thuyết lịch sử về sông nước, đồng ruộng. Bút Ngữ đã khơi dòng cho một lực lượng mới”.
Ông thầy văn chương hiền lành, sâu sắc
Bút Ngữ từng là “hiệu trưởng” trường viết văn “Bút trên cành” dành cho thiếu nhi Thái Bình, với 4 khóa đào tạo kéo dài 20 năm từ Hè 1976 tới Hè 1996. Học sinh các lớp này tham gia 13 cuộc thi do Báo Thiếu niên Tiền phong tổ chức, nhằm hưởng ứng cuộc vận động thiếu nhi viết vẽ của Tổ chức UNESCO và báo Sự thật thiếu niên Liên Xô, hoặc do Ủy ban Khoa học kỹ thuật Việt Nam, Bộ Giáo dục, Tổng cục Bưu điện Việt Nam phát động. Những năm ấy các em ở Thái Bình nhận được 56 giải cá nhân và 5 giải đồng đội. Trong số giải cá nhân có tới 10 giải A và 13 giải B. Các em còn có 7 tranh được chọn vào Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 8 bài văn thơ và bức tranh được in hoặc trưng bày tại Liên Xô, Ấn Độ, Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức…
Một học sinh giỏi của trường này, ngày ấy, người chiếm giải cao trong cuộc thi viết thư năm 1988 – chuyên gia ngôn ngữ Hán – Nôm Chu Xuân Giao nhớ lại:
“Mãi sau này, khi tốt nghiệp đại học rồi, về thăm ông, mới vỡ ra, ông có vốn Hán văn không xoàng. Ông viết được bút lông. Do mình mải du lãng, còn thầy một dạo vào Nam với người con trai, nên tới cả 20 năm, 2 thầy trò không gặp nhau. Mở cổng để tôi vào nhà là chị B., con gái thầy. Tôi không xưng tên, chỉ nói là học trò. Tôi đi vội lên tầng 2. Tôi xúc động thực sự, trước mắt mình, thầy vẫn rất khỏe qua sắc mặt và dáng ngồi. Tôi cúi thấp chào thầy. Thầy lúc ấy đã quay sẵn ra phía cửa như chờ đợi, và nói: “Giao đấy à”! Xúc động đến ngỡ ngàng! Vậy là thầy vẫn nhận ra tôi. Thầy bảo, vẫn với nhịp điệu nho nhỏ điềm tĩnh như ngày xưa: “Dù thay đổi thế nào, nhưng cái nét xưa vẫn đủ nhận ra. Người ta mỗi người tựa như có một thứ tinh anh riêng, không lẫn được”.
Một học trò khác, cô giáo Bùi Thị Biên Linh, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam tâm sự: “… thật bất ngờ khi tôi nhận được điện thoại của thầy Bút Ngữ. Ông ân cần hỏi han, động viên sáng tác. 39 năm kể từ ngày tôi vào Nam lập nghiệp và mất liên lạc với các “búp trên cành”, thầy vẫn nhớ rành rọt tên tôi và tên truyện tôi viết ngày ấy! Ở tuổi 90, thầy vẫn đọc và nhắn tin động viên khi chúng tôi in sách và gửi biếu. Tôi đã xúc động nghẹn ngào khi thầy gọi điện cho tôi và bảo “Bác đã đọc lần thứ 3 tập sách của cháu. Cháu viết ân tình lắm! Cái gốc của con người là phải biết sống ân nghĩa, ân tình”. Mỗi năm, khi Hội Nhà văn xét giải thường niên, mỗi 5 năm xét giải Nhà nước, các thành viên nhóm Búp trên cành lại hồi hộp ngóng trông và hy vọng có tên nhà Văn Bút Ngữ”.
TRẦN QUỐC TOÀN
Báo Thể thao & Văn hóa
https://vanvn.vn/but-ngu-chang-mua-tu-chin-tang-may/
7. Ngày 22/5/2023
https://www.facebook.com/nhabup.vn/posts/pfbid02NbgiR4E61bfcLAYDBFdnKx7Sqjaba5HJA49a8PzGtF8o5cwPQMYqSSCDX6pon373l
6. Ngày 22/5/2023
Nhà văn Bút Ngữ đã về Cõi Xưa Mây trắng
Thứ hai - 22/05/2023 09:56
https://nhabup.vn/news/tac-gia-tac-pham/nha-van-but-ngu-da-ve-coi-xua-may-trang-4501.html
5. Ngày 22/5/2023
"
https://www.facebook.com/son.thanh.549668/posts/pfbid0xEPz76ZY94QT8aDfJYP8g5XxaNzVp1GSTjZgffkLLosQioqM5yK7pHSVWysUHEHCl
"
"
https://www.facebook.com/thieu.nguyenquang.739/posts/pfbid0zP1NC3dgvy8x859zsT43CAS5rXEgN8dU3pet8ftjhH3SAJwuWt9gqz2kbg73JMAul
"
4. Ngày 22/5/2023
Nhà văn Bút Ngữ – Cây đa xanh giữa ngàn xanh
Vanvn- Như tin đã đưa, nhà văn Bút Ngữ ở Thái Bình đã qua đời ngày 21.5.2023, hưởng thọ 93 tuổi. Tưởng nhớ bậc lão thành có nhiều đóng góp cho văn học, Vanvn.vn trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết về ông của tác giả Quang Viện.
>> Nhà văn Bút Ngữ qua đời ở tuổi 93
Nhà văn Bút Ngữ vốn là một đội viên can trường bảo vệ Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp rồi phấn đấu thành cán bộ tuyên truyền. Lúc đào hầm bí mật giấu cán bộ thoát khỏi những trận càn của giặc Pháp, lúc theo sát những trận đánh của bộ đội, du kích, thu thập tin tức viết bài cổ vũ kháng chiến, hoàn cảnh nào ông cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hòa bình lập lại (1954), ông là một trong những người tiên phong xây nền, đắp móng cho hoạt động.
1. Bút Ngữ, danh từ này mỗi lần xướng lên, người nghe trong tỉnh, trong nước đều cảm thấy thân quen. Ðồng hành với bút danh ấy là một loạt tác phẩm truyện ký, tiểu thuyết đáng nhớ như: Ðêm về sáng (1971); Những ngày nước cường (1972); Pháo đài Ðồng Bằng (1997), Chuyện ở xóm Chài (1983); Cao nguyên mưa nắng (1985); Người đi đày trên đại dương (1991); Người thời loạn (1996); Vua Ba vành, Bà Chúa Ngừ (1999); Anh Ngạn (2000); Cụ Bảng Ðôn (2001); Cử nhân Bùi Viện (2004); Cần Vương – Ðông Du (2007)…
Nhà văn Bút Ngữ tên thật là Phan Ðình Khương. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư. Năm 1953, ông được về làm việc tại Ty Tuyên truyền văn nghệ. Ông làm ca dao, diễn ca, hát xẩm, hát chèo rồi tự tay in bột gửi về các huyện. Nhớ nhất là trận càn Thủy ngân, ông nắm tình hình chiến sự, viết nhanh về những trận đánh hay và những đội viên du kích xuất sắc, in gấp, phát tán kịp thời và được hoan nghênh. Thời gian ở Ty Tuyên truyền văn nghệ, được dự nhiều lớp tập huấn của trung ương, quân khu giúp ông trưởng thành, cho ra mắt truyện ngắn “Con thuyền” in trong tập san Tả ngạn sông Hồng, sau đó Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in trong tập “Những kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội”. Thành quả ban đầu tuy còn nhiều hạn chế – như lời tự bạch của ông, nhưng đó chính là niềm tin giúp ông dấn thân vào nghiệp báo, nghiệp văn chương mà cả cuộc đời ông đã lựa chọn.
2. Có một Bút Ngữ nhà văn làm báo như người thợ cày cần mẫn. Năm 1965, ông được giao phụ trách tờ báo của tỉnh. Thời điểm đó, quân xâm lược Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc và Thái Bình. Ông kể: Giặc ném bom ác liệt ở các trọng điểm cầu Bo, Ðống Năm, đê Trà Lý, cống Trà Linh và hàng chục nơi khác. Phóng viên của báo phải thay nhau đến nơi nguy hiểm đó viết tin, bài, chụp ảnh, kịp thời tố cáo tội ác của giặc và hướng dẫn kinh nghiệm đánh giặc, tránh giặc. Trong nhiều kỷ niệm làm báo thời chiến, ông nhớ nhất kỷ niệm về trận ném bom của giặc Mỹ xuống làng Phương Man (Thái Thụy) làm 31 người chết, 33 người bị thương.
Ông cùng với một phóng viên ảnh xuống ngay. Cả một làng trù phú bỗng tan nát, cây cối đổ gãy ngả nghiêng, nhà sập xen nhà cháy. Người bị thương đã được đưa tới bệnh viện. Xác chết bị quăng xuống ao được vớt lên. Bài viết đã được ông thực hiện ngay trong đêm ấy, dưới ánh đèn dầu che giấy ba mặt. Riêng ảnh, phải đem về Hà Nội để làm bản kẽm. Có phóng viên đã xung phong đi Hà Nội, đây là việc khó và nguy hiểm bởi bấy giờ chỉ có hai đường về Hà Nội là qua phà Tân Ðệ và Triều Dương thì cả hai đều là trọng điểm ném bom của giặc.
Ngay sau khi giặc Mỹ ném bom Phương Man, Ủy ban Trung ương tố cáo tội ác giặc Mỹ điện về cho tỉnh: “Cử người nắm được tình hình trận bom Phương Man lên báo cáo”. Ông được chọn bởi vì ông vừa rời Phương Man sau trận bom. “Ngại thật, không phải việc của mình” – ông thầm nghĩ. Nhưng, cứ nghĩ đến cái chết của những con người vô tội ở Phương Man, ông lại không đành lòng. Ông nhận nhiệm vụ. Phải nhờ người chở bằng xe máy về Hà Nội gấp. Giữa đường, xe hỏng, vừa đi vừa chữa. Quá vất vả để vượt qua quãng đường hơn trăm ki-lô-mét. Ðến Hà Nội, tìm được trụ sở Ủy ban Trung ương tố cáo tội ác giặc Mỹ, giao tận tay tờ Báo Thái Bình phản ánh vụ ném bom của giặc Mỹ xuống Phương Man, đồng chí thường trực đọc ngay một mạch rồi ngẩng lên hỏi ông: “Anh có còn gì để nói thêm ngoài tờ báo này?”. Ông lắc đầu. Ðồng chí thường trực tỏ vẻ hài lòng: “Tờ báo phản ánh khá kỹ. Chúng tôi sẽ dùng làm tư liệu để tố cáo vụ ném bom đêm vào vùng dân cư này”.
Những năm 1967, 1968 mặc dù bận trăm công nghìn việc, sức khỏe không được tốt nhưng Bác Hồ vẫn đọc Báo Thái Bình. Thông qua tờ báo, Bác khen Thái Bình tiến bộ, Bác chú ý đến phong trào “Dũng sĩ năm tấn, phụ nữ ba đảm đang”. Ðọc Báo Thái Bình tiến lên, thấy 65 thiếu niên cứu bạn hoặc trả lại tiền đánh rơi, Bác tặng mỗi cháu một huy hiệu và tặng huy hiệu cho một nữ cán bộ xã. Bác không quên hỏi thăm các đồng chí lãnh đạo tỉnh mỗi khi gặp về tình hình sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là những địa phương được Báo Thái Bình biểu dương như Hợp tác xã Tân Phong đạt 9 tấn thóc/ha; cánh đồng Nguyễn Văn Bé đạt 11 tấn thóc/ha… Bác còn khen Thái Bình có một hợp tác xã làm tốt công tác hậu phương quân đội như lập sổ vàng ghi tên những người đi chiến đấu cứu nước; lập hòm thư “Tiền tuyến – Hậu phương”, thông báo thi đua giết giặc và sản xuất giữa bộ đội và người ở nhà… Bác nói với các đồng chí lãnh đạo tỉnh: “Báo Thái Bình tiến lên đã biểu dương đấy”. Niềm vui lớn lao ấy có hòa chung một niềm vui nho nhỏ của ông.
3. Đang phụ trách báo Ðảng của tỉnh, cơ quan làm việc vào độ nền nếp thì ông lại “nhận chỉ” gom người thành lập Hội Văn học Nghệ thuật. Lúc này Bút Ngữ vào tuổi 40, độ tuổi sung mãn và chín chắn trong công việc. Ông được giao nhiệm vụ mới và trở thành người sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Ông sốt sắng kết bạn, tìm người về công tác tại Hội. Lúc ấy, cơ hội thăng tiến với ông rất nhiều. Ông không để ý. Có nhà văn thời bấy giờ “chê” ông là người “dửng dưng” với quyền lực. Tỉnh ủy dự kiến đưa ông vào Ban Chấp hành rồi giữ chức Trưởng Ty Văn hóa nhưng ông cứ chối từ, chỉ xin làm việc ở Hội Văn học Nghệ thuật để có thời gian học tập, sáng tác nhiều hơn.
Văn của ông gần gũi với mọi người. Bài thơ “Làm mưa” của ông được chọn in trong sách giáo khoa bậc tiểu học, dùng đến bây giờ, câu thơ long lanh: “Không mưa từ chín tầng mây/Thì mưa từ những bàn tay con người”. Cuộc sống lao động bình dị được chắt lọc và nâng tầm nghệ thuật.
Bút Ngữ dành khá nhiều tâm lực cho văn. Ông viết về kháng chiến chống thực dân Pháp như: Pháo đài Ðồng Bằng. Nhà phê bình văn học Trần Bảo Hưng bình luận: “Pháo đài Ðồng Bằng” là cuốn sách dày dặn đầu tiên của Bút Ngữ. Anh dựng lại địa phương đã diễn ra hình thức chiến tranh đặc biệt, qua đó ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân xã Nguyên Xá (Ðông Hưng). Anh thông thuộc đối tượng mà mình phản ánh, ngòi bút của anh phóng khoáng, chân thực, tỉ mỉ, chi tiết. Làng Nguyễn xứng đáng được Bác Hồ thưởng cờ “Làng kiểu mẫu”. Anh Ngạn là tập ký sự dài, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở khu Tả ngạn sông Hồng dưới sự lãnh đạo của Khu ủy do anh Ngạn (đồng chí Ðỗ Mười) đứng đầu. Cuốn sách được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia giới thiệu: “Bút Ngữ đã phác họa sự thật sinh động của cuộc kháng chiến gian lao, anh dũng của quân dân Tả ngạn thời kỳ 1951 – 1955, với những việc đánh Pháp, diệt ác, phá tề, trừ gian, chống càn, chống đói, nằm hầm, sản xuất cải thiện đời sống… Không chỉ là tiền tuyến mà còn là hậu phương của Việt Bắc, Tây Bắc… Tất cả những việc đó được biểu hiện một cách sinh động qua từng trang sách của Bút Ngữ”.
Bút Ngữ có hai chục tập sách đã xuất bản và mấy tập chờ in, trong số đó có bảy tập về đề tài lịch sử. Sau khi đọc tiểu thuyết lịch sử “Người đi đày trên đại dương”, khắc họa chân dung Kỳ Ðồng Nguyễn Văn Cẩm, nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Cái công phu tra cứu, so sánh, tìm hiểu mọi nguồn gốc của một tài liệu lịch sử để phân biệt thực hư của Bút Ngữ là lâu lắm, lâu gấp mấy lần thời gian ông ngồi viết”. Ông đã đọc hàng chục công trình của nhiều soạn giả nổi tiếng từ thời Nguyễn đến nay. Trên tạp chí Hồn Việt, GS-TS Mai Quốc Liên nhận xét: “Nhà văn Bút Ngữ có thiên hướng viết về tiểu thuyết lịch sử dưới dạng gạn lọc và dựng lại tư liệu lịch sử. Ông đọc, làm việc kỹ càng, chuẩn xác như một nhà sử học… Bút Ngữ là một người trung hậu của một vùng đất nổi tiếng văn hiến”.
Nhà phê bình văn học – TS. Nguyên An viết trên tạp chí Nhà Văn: “Nếu có dịp, tôi nghĩ nên đọc kỹ cuốn tiểu thuyết lịch sử Cần Vương – Ðông Du của Bút Ngữ hơn. Ở tác phẩm dày ngót 800 trang này, có thể thấy được khá rõ nhiều điều về một Bút Ngữ trong làng văn đương đại Việt Nam ta: một khả năng đọc, hiểu để chiếm lĩnh, bao quát và chọn ra những tư liệu cần và đủ cho một nhà viết truyện, dựng truyện; một khả năng tái hiện lịch sử chân thực qua hình tượng của nhiều nhân vật có thật và giả tưởng… Ở đây, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông, Nguyễn Hữu Ðộ với những nhà cai trị người Pháp với cả mấy ông vua và rất nhiều văn thân nghĩa sĩ cần vương… tất cả, có tới dăm chục nhân vật, đã được nhà văn cho hiện lên”.
Cũng tác phẩm ấy, nhà văn Vũ Tú Nam viết: “Anh Bút Ngữ. Tôi vừa đọc xong Cần Vương – Ðông Du, vội biên thư cho anh, với tư cách đồng nghiệp và bạn đọc, tôi cảm ơn anh tuổi cao sức yếu đã cố gắng hoàn thành tập truyện 780 trang, đọc hấp dẫn và có ích… Chân dung của phong trào yêu nước Cần Vương – Ðông Du hiện lên rõ nét và sinh động…”. Nhà xuất bản Văn học viết trong lời nói đầu về “Cần Vương – Ðông Du”: “…Tập tiểu thuyết được thể hiện với nhiều tâm huyết và công phu của cây bút có kinh nghiệm viết về đề tài lịch sử cách mạng. Tác phẩm sẽ như một dấu ấn – một trong những công trình đồ sộ của những năm đầu thế kỷ XXI nhìn lại chặng đường đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp…”.
Ðã có nhiều người viết về Bút Ngữ, nhiều trang viết kín chữ, nhưng điều đó khó cản ngăn tôi viết về ông – một cây bút thực sự từ lao động mà ra nên rất mê say, cần cù lao động. Lao động, tự học, tự rèn, học ngày, học đêm, học thầy, học bạn, có kết quả rõ ràng. Lao động trong thực hành, trong vận dụng kỹ năng, nghệ thuật và sáng tạo thành công. Ðó thật là tố chất đáng quý. Nhờ đó mà ông được Hội Nhà văn tuyển vào học khóa đầu tiên của Trường viết văn Quảng Bá. Ðược lãnh đạo tỉnh giao công tác đúng năng lực, ông sớm phát huy sở trường, trở thành gương lao động, 12 lần là chiến sĩ thi đua. Và như một thiên duyên, ông đã bước vào báo chí, văn học một cách tự nhiên, không gượng ép. Sinh ra từ làng quê, thực sự hiểu đồng quê, sống gắn bó, thấm đẫm chất quê nên văn, thơ của Bút Ngữ luôn sử dụng chất liệu bình dị, gần gũi, đậm đà và căng tràn chất thơ. Ông là cây đa xanh trong vườn văn chương xanh mướt của quê nhà!
QUANG VIỆN
Báo Thái Bình
https://vanvn.vn/nha-van-but-ngu-cay-da-xanh-giua-ngan-xanh/
Vốn là bài của năm 2015
Nhà văn Bút Ngữ - Cây đa xanh giữa ngàn xanh
1. Bút Ngữ, danh từ này mỗi lần xướng lên, người nghe trong tỉnh, trong nước đều cảm thấy thân quen. Ðồng hành với bút danh ấy là một loạt tác phẩm truyện ký, tiểu thuyết đáng nhớ như: Ðêm về sáng (1971); Những ngày nước cường (1972); Pháo đài Ðồng Bằng (1997), Chuyện ở xóm Chài (1983); Cao nguyên mưa nắng (1985); Người đi đày trên đại dương (1991); Người thời loạn (1996); Vua Ba vành, Bà Chúa Ngừ (1999); Anh Ngạn (2000); Cụ Bảng Ðôn (2001); Cử nhân Bùi Viện (2004); Cần Vương - Ðông Du (2007)…
Nhà văn Bút Ngữ tên thật là Phan Ðình Khương. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư. Năm 1953, ông được về làm việc tại Ty Tuyên truyền văn nghệ. Ông làm ca dao, diễn ca, hát xẩm, hát chèo rồi tự tay in bột gửi về các huyện. Nhớ nhất là trận càn Thủy ngân, ông nắm tình hình chiến sự, viết nhanh về những trận đánh hay và những đội viên du kích xuất sắc, in gấp, phát tán kịp thời và được hoan nghênh. Thời gian ở Ty Tuyên truyền văn nghệ, được dự nhiều lớp tập huấn của trung ương, quân khu giúp ông trưởng thành, cho ra mắt truyện ngắn "Con thuyền" in trong tập san Tả ngạn sông Hồng, sau đó Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in trong tập "Những kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội". Thành quả ban đầu tuy còn nhiều hạn chế - như lời tự bạch của ông, nhưng đó chính là niềm tin giúp ông dấn thân vào nghiệp báo, nghiệp văn chương mà cả cuộc đời ông đã lựa chọn.
2. Có một Bút Ngữ nhà văn làm báo như người thợ cày cần mẫn. Năm 1965, ông được giao phụ trách tờ báo của tỉnh. Thời điểm đó, quân xâm lược Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc và Thái Bình. Ông kể: Giặc ném bom ác liệt ở các trọng điểm cầu Bo, Ðống Năm, đê Trà Lý, cống Trà Linh và hàng chục nơi khác. Phóng viên của báo phải thay nhau đến nơi nguy hiểm đó viết tin, bài, chụp ảnh, kịp thời tố cáo tội ác của giặc và hướng dẫn kinh nghiệm đánh giặc, tránh giặc. Trong nhiều kỷ niệm làm báo thời chiến, ông nhớ nhất kỷ niệm về trận ném bom của giặc Mỹ xuống làng Phương Man (Thái Thụy) làm 31 người chết, 33 người bị thương. Ông cùng với một phóng viên ảnh xuống ngay. Cả một làng trù phú bỗng tan nát, cây cối đổ gãy ngả nghiêng, nhà sập xen nhà cháy. Người bị thương đã được đưa tới bệnh viện. Xác chết bị quăng xuống ao được vớt lên. Bài viết đã được ông thực hiện ngay trong đêm ấy, dưới ánh đèn dầu che giấy ba mặt. Riêng ảnh, phải đem về Hà Nội để làm bản kẽm. Có phóng viên đã xung phong đi Hà Nội, đây là việc khó và nguy hiểm bởi bấy giờ chỉ có hai đường về Hà Nội là qua phà Tân Ðệ và Triều Dương thì cả hai đều là trọng điểm ném bom của giặc. Ngay sau khi giặc Mỹ ném bom Phương Man, Ủy ban Trung ương tố cáo tội ác giặc Mỹ điện về cho tỉnh: "Cử người nắm được tình hình trận bom Phương Man lên báo cáo". Ông được chọn bởi vì ông vừa rời Phương Man sau trận bom. "Ngại thật, không phải việc của mình" - ông thầm nghĩ. Nhưng, cứ nghĩ đến cái chết của những con người vô tội ở Phương Man, ông lại không đành lòng. Ông nhận nhiệm vụ. Phải nhờ người chở bằng xe máy về Hà Nội gấp. Giữa đường, xe hỏng, vừa đi vừa chữa. Quá vất vả để vượt qua quãng đường hơn trăm ki-lô-mét. Ðến Hà Nội, tìm được trụ sở Ủy ban Trung ương tố cáo tội ác giặc Mỹ, giao tận tay tờ Báo Thái Bình phản ánh vụ ném bom của giặc Mỹ xuống Phương Man, đồng chí thường trực đọc ngay một mạch rồi ngẩng lên hỏi ông: "Anh có còn gì để nói thêm ngoài tờ báo này?". Ông lắc đầu. Ðồng chí thường trực tỏ vẻ hài lòng: "Tờ báo phản ánh khá kỹ. Chúng tôi sẽ dùng làm tư liệu để tố cáo vụ ném bom đêm vào vùng dân cư này".
Những năm 1967, 1968, mặc dù bận trăm công nghìn việc, sức khỏe không được tốt nhưng Bác Hồ vẫn đọc Báo Thái Bình. Thông qua tờ báo, Bác khen Thái Bình tiến bộ, Bác chú ý đến phong trào "Dũng sĩ năm tấn, phụ nữ ba đảm đang". Ðọc Báo Thái Bình tiến lên, thấy 65 thiếu niên cứu bạn hoặc trả lại tiền đánh rơi, Bác tặng mỗi cháu một huy hiệu và tặng huy hiệu cho một nữ cán bộ xã. Bác không quên hỏi thăm các đồng chí lãnh đạo tỉnh mỗi khi gặp về tình hình sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là những địa phương được Báo Thái Bình biểu dương như Hợp tác xã Tân Phong đạt 9 tấn thóc/ha; cánh đồng Nguyễn Văn Bé đạt 11 tấn thóc/ha… Bác còn khen Thái Bình có một hợp tác xã làm tốt công tác hậu phương quân đội như lập sổ vàng ghi tên những người đi chiến đấu cứu nước; lập hòm thư "Tiền tuyến - Hậu phương", thông báo thi đua giết giặc và sản xuất giữa bộ đội và người ở nhà… Bác nói với các đồng chí lãnh đạo tỉnh: "Báo Thái Bình tiến lên đã biểu dương đấy". Niềm vui lớn lao ấy có hòa chung một niềm vui nho nhỏ của ông.
3. Ðang phụ trách báo Ðảng của tỉnh, cơ quan làm việc vào độ nền nếp thì ông lại "nhận chỉ" gom người thành lập Hội Văn học Nghệ thuật. Lúc này Bút Ngữ vào tuổi 40, độ tuổi sung mãn và chín chắn trong công việc. Ông được giao nhiệm vụ mới và trở thành người sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Ông sốt sắng kết bạn, tìm người về công tác tại Hội. Lúc ấy, cơ hội thăng tiến với ông rất nhiều. Ông không để ý. Có nhà văn thời bấy giờ "chê" ông là người "dửng dưng" với quyền lực. Tỉnh ủy dự kiến đưa ông vào Ban Chấp hành rồi giữ chức Trưởng Ty Văn hóa nhưng ông cứ chối từ, chỉ xin làm việc ở Hội Văn học Nghệ thuật để có thời gian học tập, sáng tác nhiều hơn.
Văn của ông gần gũi với mọi người. Bài thơ "Làm mưa" của ông được chọn in trong sách giáo khoa bậc tiểu học, dùng đến bây giờ, câu thơ long lanh: "Không mưa từ chín tầng mây/Thì mưa từ những bàn tay con người". Cuộc sống lao động bình dị được chắt lọc và nâng tầm nghệ thuật.
Bút Ngữ dành khá nhiều tâm lực cho văn. Ông viết về kháng chiến chống thực dân Pháp như: Pháo đài Ðồng Bằng. Nhà phê bình văn học Trần Bảo Hưng bình luận: "Pháo đài Ðồng Bằng" là cuốn sách dày dặn đầu tiên của Bút Ngữ. Anh dựng lại địa phương đã diễn ra hình thức chiến tranh đặc biệt, qua đó ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân xã Nguyên Xá (Ðông Hưng). Anh thông thuộc đối tượng mà mình phản ánh, ngòi bút của anh phóng khoáng, chân thực, tỉ mỉ, chi tiết. Làng Nguyễn xứng đáng được Bác Hồ thưởng cờ "Làng kiểu mẫu". Anh Ngạn là tập ký sự dài, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở khu Tả ngạn sông Hồng dưới sự lãnh đạo của Khu ủy do anh Ngạn (đồng chí Ðỗ Mười) đứng đầu. Cuốn sách được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia giới thiệu: "Bút Ngữ đã phác họa sự thật sinh động của cuộc kháng chiến gian lao, anh dũng của quân dân Tả ngạn thời kỳ 1951 - 1955, với những việc đánh Pháp, diệt ác, phá tề, trừ gian, chống càn, chống đói, nằm hầm, sản xuất cải thiện đời sống… Không chỉ là tiền tuyến mà còn là hậu phương của Việt Bắc, Tây Bắc… Tất cả những việc đó được biểu hiện một cách sinh động qua từng trang sách của Bút Ngữ".
Bút Ngữ có hai chục tập sách đã xuất bản và mấy tập chờ in, trong số đó có bảy tập về đề tài lịch sử. Sau khi đọc tiểu thuyết lịch sử "Người đi đày trên đại dương", khắc họa chân dung Kỳ Ðồng Nguyễn Văn Cẩm, nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: "Cái công phu tra cứu, so sánh, tìm hiểu mọi nguồn gốc của một tài liệu lịch sử để phân biệt thực hư của Bút Ngữ là lâu lắm, lâu gấp mấy lần thời gian ông ngồi viết". Ông đã đọc hàng chục công trình của nhiều soạn giả nổi tiếng từ thời Nguyễn đến nay. Trên tạp chí Hồn Việt, GS, TS Mai Quốc Liên nhận xét: "Nhà văn Bút Ngữ có thiên hướng viết về tiểu thuyết lịch sử dưới dạng gạn lọc và dựng lại tư liệu lịch sử. Ông đọc, làm việc kỹ càng, chuẩn xác như một nhà sử học… Bút Ngữ là một người trung hậu của một vùng đất nổi tiếng văn hiến". Nhà phê bình văn học - TS. Nguyên An viết trên tạp chí Nhà Văn: "Nếu có dịp, tôi nghĩ nên đọc kỹ cuốn tiểu thuyết lịch sử Cần Vương - Ðông Du của Bút Ngữ hơn. Ở tác phẩm dày ngót 800 trang này, có thể thấy được khá rõ nhiều điều về một Bút Ngữ trong làng văn đương đại Việt Nam ta: một khả năng đọc, hiểu để chiếm lĩnh, bao quát và chọn ra những tư liệu cần và đủ cho một nhà viết truyện, dựng truyện; một khả năng tái hiện lịch sử chân thực qua hình tượng của nhiều nhân vật có thật và giả tưởng… Ở đây, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông, Nguyễn Hữu Ðộ với những nhà cai trị người Pháp với cả mấy ông vua và rất nhiều văn thân nghĩa sĩ cần vương… tất cả, có tới dăm chục nhân vật, đã được nhà văn cho hiện lên". Cũng tác phẩm ấy, nhà văn Vũ Tú Nam viết: "Anh Bút Ngữ. Tôi vừa đọc xong Cần Vương - Ðông Du, vội biên thư cho anh, với tư cách đồng nghiệp và bạn đọc, tôi cảm ơn anh tuổi cao sức yếu đã cố gắng hoàn thành tập truyện 780 trang, đọc hấp dẫn và có ích… Chân dung của phong trào yêu nước Cần Vương - Ðông Du hiện lên rõ nét và sinh động…". Nhà xuất bản Văn học viết trong lời nói đầu về "Cần Vương - Ðông Du": "...Tập tiểu thuyết được thể hiện với nhiều tâm huyết và công phu của cây bút có kinh nghiệm viết về đề tài lịch sử cách mạng. Tác phẩm sẽ như một dấu ấn - một trong những công trình đồ sộ của những năm đầu thế kỷ XXI nhìn lại chặng đường đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp...".
Ðã có nhiều người viết về Bút Ngữ, nhiều trang viết kín chữ, nhưng điều đó khó cản ngăn tôi viết về ông - một cây bút thực sự từ lao động mà ra nên rất mê say, cần cù lao động. Lao động, tự học, tự rèn, học ngày, học đêm, học thầy, học bạn, có kết quả rõ ràng. Lao động trong thực hành, trong vận dụng kỹ năng, nghệ thuật và sáng tạo thành công. Ðó thật là tố chất đáng quý. Nhờ đó mà ông được Hội Nhà văn tuyển vào học khóa đầu tiên của Trường viết văn Quảng Bá. Ðược lãnh đạo tỉnh giao công tác đúng năng lực, ông sớm phát huy sở trường, trở thành gương lao động, 12 lần là chiến sĩ thi đua. Và như một thiên duyên, ông đã bước vào báo chí, văn học một cách tự nhiên, không gượng ép. Sinh ra từ làng quê, thực sự hiểu đồng quê, sống gắn bó, thấm đẫm chất quê nên văn, thơ của Bút Ngữ luôn sử dụng chất liệu bình dị, gần gũi, đậm đà và căng tràn chất thơ. Ông là cây đa xanh trong vườn văn chương xanh mướt của quê nhà!
Quang Viện
https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/55/40304/nha-van-but-ngu-cay-da-xanh-giua-ngan-xanh
3. Ngày 21/5/2023
Nhà văn Bút Ngữ qua đời ở tuổi 93 tại Thái Bình
Vanvn- Nhà văn Bút Ngữ, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã từ trần lúc 4h ngày 21.5.2023 (tức ngày 3 tháng Tư năm Quý Mão), hưởng thọ 93 tuổi. Lễ viếng nhà văn Bút ngữ bắt đầu từ 7h ngày 22.5.2023 (tức ngày 4 tháng Tư năm Quý Mão) tại nhà riêng số 03/46, phố Đốc Nhưỡng, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Lễ truy điệu và đưa tang lúc 17h cùng ngày, an táng tại nghĩa trang quê nhà.
Nhà văn Bút Ngữ tên thật là Phan Đình Khương, sinh ngày 01.02.1931, quê quán: Làng Kinh Đào, xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979.
Quá trình học tập, công tác, sáng tác của ông: Làm chiến sỹ bảo vệ huyện Vũ Tiên, vùng địch hậu, chống Pháp – Phóng viên báo Thái Bình – Phó tổng biên tập báo Thái Bình – Chủ tịch Hội Văn nghệ Thái Bình – Ủy viên TƯ Liên hiệp VHNT Việt Nam – Đại biểu Quốc hội các khóa III và IV.
Nhà văn Bút Nguyet đã xuất bản: Pháo đài đồng bằng (tiểu thuyết, 1979, tái bản 2019); Chuyện ở xóm Chài (truyện vừa, 1983; tái bản 2002); Cao nguyên mưa nắng (tiểu thuyết, 1985); Người đi đày trên đại dương (truyện dài, 1991; tái bản 2001); Người thời loạn (tiểu thuyết, 1996); Vua Ba Vành (truyện dài, 1997); Bà chúa Ngừ (truyện dài, 1999); Anh Ngạn (ký sự dài, 2000); Cụ Bảng Đôn (truyện dài, 2001); Cử nhân Bùi Viện (tiểu thuyết, 2004); Gia đình ông Án Kiến” (truyện dài, 2006, chung với Nguyễn Tiến Đoàn); Cần vương, Đông du (tiểu thuyết, 2007); Nỗi đau và niềm vui (tập hồi ký, 2011); Truyện ngắn Bút Ngữ (tập truyện, 2018); Thiếu nữ lên chùa (tập thơ trào phúng, 2019).
Ông từng đạt các giải thưởng văn học: Giải Ba của Hội nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Kim Đồng cho “Chuyện ở xóm chài“. Giải Chính thức của Bộ Lao đồng – Thương binh – Xã hội và Hội Nhà văn cho truyện vừa “Vụ đông“. Giải Nhì của Bộ Lâm nghiệp và Hội Nhà văn cho truyện ngắn “Cồn Trai sóng gió“. Tặng thưởng hạng Ba của Liên hiệp VHVT Việt Nam cho truyện “Vua Ba Vành“. Tặng thưởng của Liên hiệp VHNT cho tập ký sự “Anh Ngạn”. Tặng thưởng văn học năm 2002 của Hội Nhà văn Việt Nam cho tập truyện “Cụ Bảng Đôn“. Giải Lê Quý Đôn của UBND tỉnh Thái Bình với Ba giải A (các năm 1986, 1991, 2016) và Hai giải B (các năm 1996, 2003).
Nhà thơ Kim Chuông viết: “Bút Ngữ yêu người, dễ tin người đến nỗi. Gặp ai anh cũng thu mình, bẻ mình gãy đi để gần được xung quanh. Có người biết anh lành, thường “lấn” anh, có khi hơi quá đáng. Những lúc ấy, người ta thấy, cách ứng xử của Bút Ngữ chỉ một điều là “nhẫn”. Anh ít nóng. Ít phản ứng vỗ mặt. Anh thường bình tĩnh, mềm. Thường tìm cách ngồi riêng với nhau để tri kỷ, hay chờ cuộc họp nào đó. Lúc ấy, anh thận trọng đọc từng lời đã được nghĩ chín và viết ra trên giấy. Lúc này, nào lý tình đượm nồng, sâu sắc. Nào cái giọng run rẩy, chan chứa yêu thương … Cứ thế, Bút Ngữ đã nhiều lần làm nhiều người xúc động và ngày càng được anh em cơ quan nể trọng vì cái tâm, cái đức hiếm có nơi anh.”
Sinh thời nhà văn Bút Ngữ chia sẻ về nghề văn: “Trên đời nghề nào làm tốt cũng có ích cho người làm và những người khác. Nghề văn nếu làm thật tốt, sự có ích sẽ tăng gấp bội, do được nhiều người thưởng thức, truyền rộng, nhớ lâu và noi theo. Kiệt tác như Truyện Kiều còn được người nước ngoài truyền tụng, tôn vinh.”
Vì tuổi cao sức yếu, nhà văn Bút Ngữ đã tạ thế lúc 4h ngày 21.5.2023 (tức ngày 3 tháng Tư năm Quý Mão), hưởng thọ 93 tuổi.
Hội Nhà văn Việt Nam và Ban Biên tập Vanvn.vn xin chia buồn sâu sắc với gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp và những người yêu quý nhà văn Bút Ngữ!
VANVN
https://vanvn.vn/nha-van-but-ngu-qua-doi-o-tuoi-93-tai-thai-binh/
2b.
https://www.facebook.com/bacly.lathi/posts/pfbid0CvnNN9AfVkGA9oMoVqUe8qttXGFFE51mxps1oVFH9WKGiRj3SoKoDxi9uSM3y7HZl
2. Ngày 21/5/2023
"
"
https://www.facebook.com/ha.tridung1954/posts/pfbid0j5M2T4EDd1SNVtARUaYrZNNVTXrqGmg9rSG5nJZLqzP4857FW8V4wZo5GAPU4v2bl
1. Ngày 21/5/2023
https://www.facebook.com/thieu.nguyenquang.739/posts/pfbid02UGjZwDxqWVbsEQ5oruofd1C2Rx2bhjDMMtQW9DUDWHtfvEoMXozKA9TRAYmLj6Qkl
..
---
BỔ SUNG
1. Ngày 5/3/2023:
"
https://www.facebook.com/100018550884008/videos/pcb.1270262940268723/730657425444950
"
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0k4noofDfwkQzTDj8xKAH1FYJvS2zXVbRGRxdxu42aZ1WwEBZoQ89cuA8qkNAT4U4l&id=100018550884008
..
0. Ngày 12/9/2022
Thái Bình hạt gạo chia ba
Nhà văn Bút Ngữ tên thật là Phan Ðình Khương, sinh năm 1931 trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư. Bút Ngữ làm báo, viết văn như người thợ cày cần mẫn, đắm mình với nông dân Thái Bình thời chống Mỹ, đặc biệt trong phong trào “Dũng sĩ năm tấn, phụ nữ ba đảm đang”. Tiếp xúc với nhà văn, nhà báo Bút Ngữ, tôi được nghe ông nói về “Thái Bình hạt gạo chia ba”:
“Quê ta hạt gạo chia ba
Phần vào tiền tuyến, phần ra công trường
Một phần giành lại hậu phương
Bát cơm vơi để tình thương thêm đầy”.
Dù đã hơn chín mươi tuổi nhưng nhà văn Bút Ngữ vẫn khỏe và mẫn tiệp; hầu chuyện và hỏi ông về nghề báo cái gì ông cũng nhớ như một “bách khoa”. Nhà văn Bút Ngữ nói rằng, thời của ông làm Báo Thái Bình là thời của đèn dầu và viết tay không có máy chữ để đánh, chẳng biết đến điện thoại thông minh như bây giờ, ban ngày đi cơ sở ban đêm ngồi viết, viết thật và viết kỹ. Ngày Thái Bình phải chia hạt gạo làm ba (phần vào tiền tuyến, phần ra công trường, chỉ có một phần để lại hậu phương) dân số của tỉnh khi ấy chỉ khoảng 1,2 triệu người. Thái Bình đã phải huy động hàng chục vạn lao động trẻ khỏe từ đồng ruộng ra chiến trường, tương đương 16% dân số của tỉnh. Ngày 5/8/1964, giặc Mỹ gây sự kiện vịnh Bắc Bộ và cho máy bay ném bom miền Bắc, ném bom Thái Bình. Thế là Thái Bình vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến, trên đồng ruộng chỉ còn người già, phụ nữ, trẻ em sức yếu, trong đó 75% là lao động nữ. Trong tình trạng lao động trẻ khỏe ra chiến trường nhưng nông nghiệp Thái Bình vẫn phải “tay cày, tay súng” vươn lên để làm ra hạt thóc, củ khoai, vẫn phải nuôi con lợn, con gà để làm nghĩa vụ với Nhà nước và thực hiện “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để giải phóng miền Nam”.
Nhà văn Bút Ngữ nhớ lại ngày 16/4/1972, Mỹ mở đầu đợt ném bom lần thứ hai vào các thành phố lớn Hà Nội và Hải Phòng nhưng Thái Bình cũng trở thành mục tiêu quan trọng của máy bay Mỹ. Bởi ngày đó Thái Bình được xem như một tổng kho lương thực, thực phẩm. Mỹ ném bom làm sập cầu thì làm cầu khác, nhưng Mỹ ném bom làm vỡ đê thì nước lũ tràn vào gây thảm họa khôn lường. Mỹ đã làm việc ấy, gây tội ác như vậy với nhân dân Thái Bình và cống Ngô Xá, huyện Vũ Thư, cống Lân, cống Trà Linh bị máy bay giặc Mỹ chà đi xát lại hàng chục trận bom. Đê sông Trà Lý bị bom Mỹ khoét giữa tim đê, có quả bom nằm sâu trên chục mét... Trong hơn 800 trận đánh phá của không quân Mỹ vào tỉnh Thái Bình đợt thứ hai Mỹ đã nhằm vào mục tiêu đê và cầu cống hơn 100 trận. Toàn bộ hệ thống đê sông Hồng, sông Luộc, sông Trà, đê biển đều bị máy bay Mỹ oanh tạc và như vậy để chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, nông dân Thái Bình tiếp tục động viên con em xung phong ra chiến trường. Lớp anh trước, lớp em sau, con trai con gái cứ tuổi 17, 18 là rủ nhau viết đơn tình nguyện tòng quân. Ngày đó 80% số gia đình nông thôn Thái Bình có người đi chiến đấu ở miền Nam hoặc chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn. Và trên đồng ruộng, đâu chỉ có việc cấy, việc cày mà việc trực phòng không cứu đê, chở đất hàn gắn đê cũng dựa phần lớn vào những người phụ nữ ở hậu phương.
Dân có ruộng dập dìu hợp tác...
Tôi đọc mấy cuốn sổ lưu tài liệu nghề báo của nhà văn Bút Ngữ, viết: “...Ở Hợp tác xã Tân Phong, nơi có cánh đồng Gò Mòi, bị máy bay Mỹ ném xuống tám quả bom bi mẹ, nổ bung ra hàng nghìn quả bi con. Khi được mấy anh bộ đội công binh hướng dẫn cách vô hiệu hóa bom bi, xã viên xã Tân Phong, một số tập trung trên bờ sẵn sàng băng cứu thương, nhiều xã viên xung phong xuống ruộng mò bom. Và lần ấy nông dân đã gỡ hết bom, cấy hết diện tích, bà con làm thơ tặng nhau:
“Tay mò từng quả bom xuyên
Tay nâng từng dảnh Mộc tuyền cấy theo”
Những năm tháng ấy nông dân Thái Bình đã dựa vào nhau trong hợp tác xã để cấy cày, để sản xuất. Họ giúp nhau khắc phục khó khăn do lực lượng lao động yếu và thiếu, tình thương yêu của nông dân là một tập thể, vì nhiều người cùng chung cảnh ngộ, vắng chồng con, cha yếu mẹ già. Hợp tác xã thời chống Mỹ như một tổ chức tổng quản, quán xuyến từ sản xuất đến đời sống của nông dân, ai cũng thuộc lòng “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đó như mệnh lệnh từ tiền tuyến gửi về hậu phương. Hợp tác xã của một thời tiếng kẻng làm mệnh lệnh ra đồng của nông dân, của một thời tiếng kẻng ba phòng, tiếng kẻng phòng không. Đã làm nên những mùa vàng đẹp. Nếu không có tiếng kẻng ra đồng và hợp tác xã thì Thái Bình đâu có cánh đồng “tám mươi” của Thái Ninh bao đời úng trũng, cấy một vụ bấp bênh thành cánh đồng cấy hai vụ chắc ăn. Sao có thể biến cánh đồng làng Đông Nhuế ngàn năm chiêm khô, mùa thối thành đồng lúa của Hợp tác xã Vũ Thắng, huyện Kiến Xương giành 10 tấn thóc một héc-ta đầu tiên của tỉnh Thái Bình. Và nếu không có những nông dân thời hợp tác quê mình thì sao Hợp tác xã Quảng Nạp có thể biến vùng đất ven biển thành “bờ xôi, ruộng mật”. Ngày ấy trên cánh đồng là những nông dân “kiện tướng làm bèo dâu”, kiện tướng thủy lợi, là phong trào cấy dày, cấy nông tay, cấy thẳng hàng... chuyển vụ lúa chiêm thành vụ xuân, mở rộng cây vụ đông và cây màu... Hạt gạo Thái Bình ngày ấy được nông dân thu hoạch trên những vụ lúa và cánh đồng mà nông dân đã đặt cho những cái tên nặng nghĩa nặng tình cao đẹp “Vụ xuân Vĩnh Trà”, “Ruộng cao sản Nguyễn Văn Trỗi”, “Cánh đồng 10 tấn Nguyễn Văn Bé”.
Sự kiện 81 ngày đêm Thành cổ Quảng Trị, nông dân Thái Bình tiếp sức với “Cánh đồng Quảng Trị kiên cường”. Những năm đánh Mỹ, nông dân Thái Bình đã góp cho Nhà nước 50% tổng số thóc làm ra, bình quân 8 vạn tấn thóc mỗi năm. Năm 1972 là năm cao nhất nông dân Thái Bình đóng góp cho Nhà nước tới 11 vạn 6.180 tấn lương thực, bình quân mỗi lao động góp cho Nhà nước 20kg thịt lợn, chưa kể hàng vạn tấn thịt gà, cá, trứng được gửi ra tiền tuyến miền Nam và gửi vào các công trường, nhà máy. Xã viên nông dân Thái Bình thời ấy cấy trồng, chăn nuôi rất giỏi và không phải làm ra để họ hưởng, để ăn no, ăn ngon. Tất cả phải hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, sau đó mới để lại cho riêng mình. Ngày ấy bình quân mỗi nhân khẩu sau vụ cấy ở hợp tác xã khá cũng chỉ được 18kg thóc một tháng, trung bình chỉ đạt 13kg, Có nhiều hợp tác xã chỉ chia cho nông dân được 5 - 7kg thóc một người một tháng. Không có thóc để ăn, nông dân ăn độn sắn, ngô, khoai, có người mùa giáp hạt lên tận vùng núi trung du mua sắn khô về chống đói. Thiếu thốn vô cùng nhưng người nông dân Thái Bình ngày ấy chịu đựng hồn nhiên. Ai cũng bảo nhau “Thóc để gửi ra chiến trường nuôi bộ đội ăn no đánh thắng, mà bộ đội thì gia đình nào chả có”.
Quê ta hạt gạo chia ba đó là tình yêu ruộng đồng, yêu cây lúa của nông dân Thái Bình những năm cả nước cùng ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn để giải phóng miền Nam”. Đó là tình cảm của nông dân Thái Bình thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”. Hạt gạo của nông dân Thái Bình là hạt gạo nghĩa tình, sẻ chia chung thủy, để hôm nay vẫn vọng vang khúc ca “Cô Ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh/ Chị Hai năm tấn quê ở Thái Bình/ Hai chị em trên hai trận tuyến/ Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang/ Trang sử vàng chống Mỹ cứu nước/ Sáng ngời tên những cô gái Việt Nam”. Ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất, Nam Bắc một nhà, non sông về một mối, dịp ấy Báo Thái Bình đã đăng bài thơ:
“Những hạt thóc đi từ đất Thái Bình
Qua Quảng Trị, Thừa Thiên vào Hàm Tân, Xuyên Mộc...
Thóc dạt dào như đất nước dạt dào tiềm lực
Mỗi bước thóc vào, trăm bước quân đi”.
Tôi đã thật hạnh phúc được hầu chuyện nhà văn, nhà báo Bút Ngữ gạo cội về văn chương và báo chí của làng báo Thái Bình. Được nghe và được ghi chép lại chuyện nghề báo những năm Thái Bình “hạt gạo chia ba”.
Nguyễn Công Liêm
(Thành phố Thái Bình)
https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/39/158951/thai-binh-hat-gao-chia-ba
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.