Bài ở dưới là lấy nguyên từ trang cá nhân của NNM.
---
Thứ ba - 03/01/2017 10:55
Trong hầu hết các loại hình tôn giáo tín ngưỡng truyền thống ở việt nam thì có lẽ thờ thần, thánh là một loại hình tiêu biểu nhất. Tiêu biểu không chỉ bởi bề dày trong lịch sử của nó mà còn là loại hình tâm linh chiếm thị phần số đông trong dân chúng Việt Nam.
Hệ thống thần thánh ở Việt Nam hết sức đa dạng với nhiều dạng như: thần tự nhiên : mây, mưa, sấm chớp, đất, nước, núi, cây, rắn, đá… ;có nhân thần: anh hùng lịch sử, anh hùng văn hóa, và anh hùng cộng đồng. Thờ Mẫu Tam phủ là một dạng anh hùng văn hóa. Phát triển trên nền của thờ nữ thần ở Việt Nam, sự tái cấu trúc lại trong hiện tượng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở cuối thế kỷ XVII đầu XVIII không chỉ thể hiện khát vọng được tự do và mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ mà còn cho thấy rõ ràng một ý thức mãnh liệt của dòng văn hóa Mẹ và nhu cầu đòi được tôn trọng của một nửa thế giới trên đất này.
Thờ mẫu Tam phủ xưa có hệ thống riêng được gọi là Tam tòa thánh mẫu (thờ nữ thần Liễu Hạnh và hai thị nữ: Quỳnh hoa và Quế hoa) đều là những nữ thần có nguồn gốc tiên giới. Trong hệ thống này thờ vị nữ thần chủ là Liễu Hạnh với lịch sử ra đời khoảng thế kỷ XVII – XVIII và là vị nữ thần của cư dân thương mại. Vị thần này có sử tích lưu truyền trong dân gian khác hẳn các thần linh Tam phủ khác (thờ ở các vùng sông nước), bà là con gái Ngọc hoàng, do đánh vỡ chén ngọc bị đày xuống trần gian đầu thai vào nhà Lê Thái Công tại thôn Thiên Bản Vụ bản. Cuộc đời và huyền kỳ về người phụ nữ có nguồn gốc tiên giới này diễn ra khá phức tạp và liên quan chặt chẽ đến các địa danh: Vụ Bản ( Nam Định); Sòng sơn Thanh Hóa; Và Tây Hồ (Hà Nội) liên quan đến ba lần bà đầu thai xuống trần. Lần một làm con nhà Lê Thái Công, sau lấy chồng là Đào Lang; lần hai tự ý xuống trần về thăm cha mẹ và kết hôn với hậu sinh của chồng (kiếp đầu thai sau) và lên Tây Hồ (Hà Nội) xướng họa thơ văn với nho sinh; Lần 3 xuống trần mở quán bán hàng ở khu vực đèo ngang và nảy sinh cuộc đại chiến tại Sùng sơn với thế lực của bát vị Kim cương do Phật bà phái đến[1] từ lần thất trận này bà quy y theo Phật. Lễ hội thờ bà chúa Liễu tại Thiên Bản vụ bản và ngay từ thời Nguyễn đã là lễ hội có quy mô cấp quốc gia[2]. Trong dân gian khu vực này vẫn gọi về hệ thống này là Tam tòa Thánh Mẫu (hoặc Thánh Mẫu tam phủ)[3], Tại Phủ Dày hiện nay vẫn còn hiện diện trong hậu cung ba ngôi Tam tòa Thánh Mẫu.
Còn Hệ thống Tam phủ thờ ba vị nam thần (Thiên – Địa – Thoải) có nguồn gốc là các vị thần tự nhiên khác được dân gian thờ cúng và thực hành tế lễ từ rất lâu đời trước đây là một hệ thống khác. Đền thờ những vị thần này phân bố chủ yếu ở các vùng Duyên giang (ven sông, biển). Ngày nay vẫn còn các di tích đó: đền thờ quan Tam phủ (Hải Dương); đền thờ Tam phủ (Hoài Đức, PhúcThọ) và nhiều địa phương khác nữa. Quy mô thờ cúng các vị thần Tam phủ này chỉ ở các cấp độ làng xã.
Như vậy cả hai hệ thống này đều có những thực hành tế lễ bởi dân địa phương nhưng có quy mô khác nhau và văn khấn khi tế lễ cũng khác nhau: cụ thể
- Văn Khấn chúa Liễu: “Cung duy Liễu Hạnh, công chúa sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu Đại vương Ngọc Động hạ. Mẫu nghi thiên hạ, mặc tướng sinh linh. Sùng Sơn hiển thánh, Thiên Bản giáng sinh. Ti dân hộ quốc, giáng vũ khu tình; Cầu chi tất ứng, lễ bản hồ thành.Thần tứ chi phúc, cộng hưởng an ninh ».
- Văn khấn Tam phủ: “Mỗ niên Nguyệt Nhật, mỗ quán mỗ danh, cẩn dĩ lễ vật thứ - phẩm cung tiến vu. Thiên - phủ tôn thần bảo toạ; Điạ - phủ tôn thần bảo toạ; Thuỷ - phủ tôn thần bảo toạ. Kính duy quyền tham chủ tế; hoả diệu tài thành.Tế nhãn hoàn phú- tái chi công; nhuận vật hợp thí - sinh chi đức. Ngưỡng kỳ giáng giám; bảo hựu khang ninh. Tứ thời vô hạn lạo chi tai, phong hoà vũ thuận; hợp cảnh hưởng thuần - hi chi phúc, vật phụ nhân khang. Thần đẳng bất thăng nguyện vọng chi chí. Cẩn tấu”[4]
Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX thì hiện tượng thờ cúng Mẫu Liễu Hạnh với tư cách là vị Thánh phù dân giúp nước (ti dân hộ quốc); giáng phúc, giáng hoạ (Thần tứ chi phúc) và hiện tượng thờ cúng thần linh Tam phủ với tư cách là các vị Thần tự nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hoà, nhân khang vật thịnh (tứ thời vô hạn lạo chi tai, phong hoà vũ thuận; hợp cảnh hưởng thuần - hi chi phúc, vật phụ nhân khang) là hai hình thức tín ngưỡng khác biệt. Một đằng là tín ngưỡng có quy mô tế lễ mang tầm cỡ quốc gia và một đằng là tín ngưỡng có quy mô tế lễ ở làng xã. Điều đó chứng tỏ cho đến giai đoạn này, dòng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cũng như các nghi thức tế lễ Mẫu và dòng thờ Thần nước, Thần Đất, Thần trời (Tam phủ) vẫn là hai dạng thức thực hành nghi lễ riêng biệt. Về sau Tam tòa Thánh mẫu có thể do nhầm lẫn, hoặc được dân gian đánh tráo khái niệm mà thành Tam phủ là để đối ứng âm dương với một hệ thống Tam phủ này.
Như vậy, khi Tổ chức UNESCO công nhận “thực hành nghi lễ thờ Mẫu Tam phủ” là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại là công nhận hệ thống thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Trong các hình thức tế lễ thánh mẫu Liễu Hạnh dưới thời xưa ngoài tế nam quan, nữ quan còn tồn tại một hình thức khác là nhập đồng Thánh mẫu[5]. Nghi lễ này dung chứa nhiều lễ thức từng tồn tại nhiều trong dân gian từ trước đó bao gồm: nhập hồn, múa bóng, hát văn mà đã từng xuất hiện nhiều trong các cuộc lên đồng tế lễ các nữ thần khu vực miền Trung Việt Nam: đền thờ Quế nương (ở phía nam động Tam Thạch thuộc phủ Cam Lộ (trấn Thuận Hoá/ Huế)…; đền thờ Thánh mẫu ở xã Kim Khê/ Vĩnh lộc/ Thanh Hóa….). Về giá trị của thực hành nghi lễ này tôi đã viết rất kỹ trong sách “Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị” vậy nên chỉ xin tóm lược lại như sau:
*Nghi lễ này có nguồn gốc từ sự hỗn hợp/ dung hợp của khá nhiều yếu tố: Tục lập thi (xác cốt/ nhập hồn) vốn dĩ lưu truyền trong dân gian từ rất xa xưa ở Trung quốc và có lẽ du nhập vào Việt nam khoảng thời Bắc Thuộc và lưu hành trong dân gian với các hình thức Gọi Hồn, Nhập Hồn, về sau được sử dụng trong thờ Mẫu Tam phủ như một phương cách để tiếp nhận với linh hồnThánh Mẫu. Trong Lên đồng còn du nhập cả các điệu thức trong múa Bóng thờ thần của người Chăm (do sự thâu hóa văn hóa Chăm của người Việt trong khoảng thế kỷ X- XV) để rồi đến thế kỷ XVIII khi Thờ Thánh Mẫu Tam phủ thịnh hành thì những yếu tố này được cấu thành lại mà làm thành diễn xướng nghi lễ lên đồng như chúng ta thấy ngày nay (ở miền Trung VN xưa gọi là “ tiệc hát”[6].
*Nghi lễ lên đồng xưa cũng như nay đều có những giá trị đặc thù về nhiều mặt như: lịch sử, văn hóa, tôn giáo và y học. Trong thực hành nghi lễ lên đồng hầu bóng là một hình thức diễn xướng dân gian có sự tham gia của nhiều yếu tố nghệ thuật đặc sắc: nghệ thuật biểu diễn trang phục, âm nhạc, ca từ, diễn xuất đóng vai… các lời ca từ hát văn đều là những truyền thuyết, thần tích, giai thoại đẹp đẽ kể về những lịch sử, hành trạng, công lao của các vị thần. Ở phương diện thẩm mỹ tôn giáo thì thực hành nghi lễ lên đồng là để vươn tới thánh thần/ nhất thể với thánh thần.
Đặc biệt từ phương diện y học, khi thực hành nghi lễ lên đồng, các chủ thể Đồng xưa (có căn tính đặc biệt khác người) hoặc các Thanh Đồng nay (là người nhạy cảm) khi ở vào không gian tôn giáo, với tác dụng của âm nhạc, chất kích thích, màu sắc, hương lửa… rất có thể xảy ra trạng thái cảm xúc được phóng thích, các huyệt đạo được khai mở mà xuất hiện trạng thái hưng phấn ở trường độ cao. Nói cách khác trong trạng thái lên đồng hoạt động ý thức yếu đi và thu hẹp giao diện hoạt động nhường chỗ cho hoạt động vô thức chiếm ưu thế mà tạo ra trạng thái ngây ngất. Không hiếm trường hợp các đồng có thể xuất hiện khả năng tâm linh; hay chí ít cũng tạo ra trạng thái hưng phấn khác thường trong và sau nghi lễ khiến nhiều cá nhân mắc các chứng bệnh thần kinh (trầm nhược ở các thể hưng cảm hay trầm cảm) có thể khỏi bệnh[7]. Điểm đặc biệt này của một số căn Đồng khi thực hành nghi lễ đã tạo ra quyền uy cho cá nhân họ với vai trò người trung gian (medium) và cũng chính là “điểm mờ” của nghi lễ. Từ đây dẫn đến sự ngộ nhận của nhiều Thanh đồng, và cũng kéo theo hệ lụy không ít cho những người cuồng tín nếu như những Thanh đồng cố tình lợi dụng thực hành nghi lễ để phục vụ lợi ích cá nhân.
Tóm lại, là một thực hành nghi lễ tôn giáo độc đáo, nghi lễ lên đồng hầu bóng đã không chỉ mang những thông điệp từ trong quá khứ đến hiện tại mà trong chức năng, vai trò của mình diễn xướng nghi lễ lên đồng không chỉ tạo ra những cơ hội thu hẹp khoảng cách giữa thần – người để vươn tới những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp mà với tập hợp các lễ phục, nghi lễ lên đồng còn như một bảo tàng sống về văn hóa Việt Nam/.
Tài liệu tham khảo:
- Assagioli Roberto (1997), Sự phát triển siêu cá nhân, Nxb Khoa học xã hội
- Trần Mạnh Cường (1999), Nhận xét đặc điểm biến đổi ý thức của trạng thái lên đồng ở các lễ hội vùng Nam Định, Luận văn Th.s chuyên ngành tâm thần học.
- Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội.
- Ngô Văn Doanh (2002), "Để có những điệu múa thiêng trong lễ hội Rijanưga của người Chăm", Tc Nghiên cứu Đông Nam á , (2).
- Ngô Văn Doanh (2007), "Múa Bóng trong lễ vía bà Thiên Yana", Tc Nghiên cứu Đông Nam á, (7).
- Thiện Đình (1930) Nghi lễ phổ Thông, tạp chí Đông Dương.
- Bùi Quang Huy (2008), Trầm cảm, Nxb Y Học.
- Bùi Quang Huy (2007), Rối loạn lo âu, Nxb Y Học.
- Phạm Thị Hiền (2007), Tìm hiểu các hình thái rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân điều trị nội trú tại viện sức khoẻ tâm thần năm 2005, Khoá luận tốt nghiệp bác sĩ y khoa chuyên ngành Tâm thần, Đại học y HN.
- Freud. S, C. Jung, E. Fromm & Roberto Assagioli (2002), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin.
- Nguyễn Ngọc Mai (2001), Bước đầu tìm hiểu trang phục trong tín ngưỡng thờ mẫu, Tc VHNT, số 6
- Nguyễn Ngọc Mai (2000), Tìm hiểu biểu tượng màu sắc trong tín ngưỡng Tứ phủ, Tc Nghiên cứu ĐNÁ . sô 2
- Nguyễn Ngọc Mai (2009), Mạng xã hội của những căn đồng, Tc Nghiên cứu Con người. Số 3
- Nguyễn Ngọc Mai (2009), Mối liên hệ giữa lên đồng (Việt) và múa Bóng (chăm) Tc Nghiên cứu văn hoá. Số 2
- Nguyễn Ngọc Mai (2010), Lên đồng ở châu thổ bắc bộ, và một số vấn đề đặt ra, Tc Văn hoá nghệ thuật, số 6
- Nguyễn Ngọc Mai (2010), Nghi lễ lên đồng và mối quan hệ với nhóm xã hội đặc thù. Tc Nghiên cứu Con người. Số 3
- Nguyễn Ngọc Mai (2013) Tác động của kinh tế thị trường đến thực hành nghi lễ lên đồng ở đồng bằng bắc bộ, số 351- 352 (tháng 9- 10).
- Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, nxb VHTT.
- Nguyễn Ngọc Mai (4/2014), Múa lửa trong nghi lễ lên đồng. Tc Nghiên cứu tôn giáo. Số 4
- Nguyễn Ngọc Mai (4/2014), Giá trị của thờ mẫu & nghi lễ lên đồng trong bối cảnh văn hóa xã hội VN, in trong sách Khoa học tư duy từ nhiều tiếp cận khác nhau, Nxb Tri thức 2016
- Ngô Đức Thịnh ( cb2014) Đạo mẫu và các hình thức shaman ở Châu Á, Nxb Khoa học xã hội.
- Tương Giang Thị (1934), Phong hoá đất Hà Thành, Tc Nam phong (197)
- Lê Hữu Trác (1971), Thượng kinh ký sự, Nxb Văn học.
- Nguyễn Việt (1984), Tâm thần học, Nxb Y Học.
[1] Được giới nghiên cứu gọi là cuộc chiến với nội đạo tràng
[2] Xem thêm Nguyễn Ngọc Mai (2013) Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb VH tr
[3] Chữ phủ ở đây được dùng với nghĩa như một hệ thống đối xứng với Tam phủ thờ ba vị thần Nam. Trong tươg quan tứ phủ thì phủ Liễu Hạnh/ Phủ dày ( tên địa danh hành chính) đuọc sát nhập vào thành Tứ phủ.
[4] Thiện đình ( 1930) Nghi lễ phổ Thông, tạp chí Đông Dương.
[5] Ngày nay chúng tôi gọi bằng khái niệm “lên đồng hầu bóng”.
[6] Xem thêm Lê Hữu Trác (1971) Thượng Kinh Kí sự, Nxb văn học, tr 19
[7] Xem thêm: Nguyễn Ngọc Mai ( 2013) Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb VH, tr 341.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.