Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

16/01/2015

Kỉ niệm 110 năm phong trào Đông Du : về bức ảnh được xem là Phan Bội Châu và Cường Để

Đây là quan điểm của tác giả Trần Xuân An. Bài đã đi trên tạp chí Xưa & Nay năm 2007. Lần đầu tiên mình biết bài này. Cũng lần đầu tiên biết đến tác giả.

Bức ảnh là bức ảnh sau:



Toàn văn đọc ở dưới, lấy nguyên về từ đây (trang riêng của tác giả ở đây).

---

BÀI MƯỜI BỐN

đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
(giaodiem.com)
số tháng 8-2006

đã đăng trên Tạp chí Xưa & Nay
số 282, tháng 4-2007, tr. 12 - 13



TRẦN XUÂN AN

VỀ TẤM ẢNH PHAN BỘI CHÂU VÀ CƯỜNG ĐỂ CHỤP CHUNG



Sáng hôm nay, 09-08-2006 (HB6), trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, có đăng tải ý kiến của ông Trương Văn Tân và bài trả lời của ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa, về tấm ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung, vốn được nhiều người cho là không theo tôn ti quân thần thời phong kiến (đúng ra là phải  “vua ngồi, tôi đứng”).

Để rõ hơn, xin xem theo link ở chú thích (*e), dẫn đến bài viết của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc trên Tạp chí điện tử Chuyển Luân. Trần Viết Ngạc cho rằng khi chụp bức ảnh trái với đạo lí tôn ti phong kiến vốn có “vua ngồi, tôi đứng”, Phan Bội Châu có dụng ý khẳng định chính Phan Bội Châu mới là người lãnh đạo phong trào Đông Du, chứ không phải Cường Để.

 Xin cảm ơn ông Trương Văn Tân đã phản hồi ý kiến và ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa đã trả lời.

Để cuộc thảo luận thêm sôi nổi, trước hết, tôi chỉ nêu thêm một vài tư liệu sẵn có trong sách báo để chúng ta cùng tham khảo.

I. Về tư liệu:

1. Tôi đã viết ở một chú thích thuộc phần phụ lục của cuốn sách “Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’” , đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 5-2005:

 “… trong “Tự phán”, Phan Bội Châu có viết: “Tôi khi chưa gặp Cụ [Mai Lão Bạng – TXA. chua thêm], chưa chụp bóng bao giờ, đến lúc hoan nghênh Cụ, tôi mới cùng Cụ chung nhau chụp một bức ảnh. Người Pháp biết được ảnh tướng tôi là từ lúc đó” (sđd., tr. 144 [1]). Xin hiểu câu này, trong điều kiện máy ảnh còn thô sơ, chưa có ống kính tối tân hiện đại, việc mật thám chụp ảnh lén là rất khó; chỉ có thể chụp ảnh trong hiệu ảnh. Chúng tôi nghĩ rằng, việc Pháp có được ảnh Phan Bội Châu để truy nã hẳn là ngẫu nhiên” [2].

Chi tiết cần chú ý là câu trích nguyên văn của Phan Bội Châu. Câu ấy cho người đọc một thông tin: lần đầu tiên Phan Bội Châu chụp ảnh (“chụp bóng”) là lúc gặp Mai Lão Bạng. Và cũng theo “Tự phán” , Mai Lão Bang sang đến đất Nhật Bản vào tháng ba năm Mậu thân (1908) [3] và đến tháng hai năm sau, Kỉ dậu (1909), Cường Để & Phan Bội Châu mới bị Nhật trục xuất [3].

2. Ngoài ra, còn có một bài thơ của Phan Bội Châu, “Xem bức ảnh mình trước đây 32 năm, tự trào” :

Râu mày trơ trẽn với non sông
Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng?
Sấm điếc gió câm, trời đất trọi
Muông qua chim lại, tháng ngày chung
Cố đôi (=quăng) xác thịt, đôi (=quăng) không đặng
Toan vớt đồng bào, vớt chẳng xong
Biết nói cùng ai, cười với bóng
Ông xanh xanh hỡi thấu chăng lòng? [4]

Xin lưu ý: Dưới bài thơ này không được Phan Bội Châu ghi năm sáng tác, nên chỉ có thể phỏng đoán: khoảng vào năm 1937, căn cứ vào sự sắp xếp vị trí bài thơ của soạn giả bộ sách là phó giáo sư tiến sĩ Chương Thâu (hai bài đặt trước và sau bài này đều được Phan Bội Châu viết vào năm 1937, có ghi năm hoặc cả ngày, tháng lẫn năm sáng tác rất rõ ràng). Nhưng có lẽ Chương Thâu cũng chỉ phỏng đoán mà thôi. Vì vậy, trong trường hợp này, có thể thêm sai số +1 (không thể sớm hơn 1905 mà chỉ có thể muộn hơn 1905), thành năm 1938.

Nếu đúng là bài thơ được viết vào năm 1937 hoặc 1938, thì “bức ảnh mình trước đây 32 năm”, được chụp vào năm Ất tị (1905), lúc Phan Bội Châu mới sang tới Nhật Bản, hoặc đầu năm Bính ngọ (1906), Cường Để mới cùng Đăng Tử Kính qua đến nước Nhật [5], gặp Phan Bội Châu.

Nhưng có dữ kiện nào cho phép chúng ta nghĩ rằng, bài thơ trên viết về bức ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung (“chúa đứng, tôi ngồi”) đâu? Vì nhìn kĩ, với mức phóng lớn tấm ảnh (xem Chuyển Luân, link đã dẫn), rõ ràng Phan Bội Châu trong ảnh vẫn có chừa râu mép (ứng với câu thơ thứ nhất: “Râu mày…”). Tuy vậy, cũng phải hiểu, “râu mày” chỉ là biểu tượng cho đàn ông, “tu mi nam tử” mà thôi. Câu thơ thứ hai, chỉ là một cách nói tu từ (mĩ từ pháp):

Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng?

Đó không phải là một câu nghi vấn thực sự (ảnh giả mạo).

Nhưng, cũng phải đặt vấn đề cho thật rốt ráo: Biết đâu, bài thơ trên có thể được sáng tác muộn hơn, 1939 hoặc 1940 chẳng hạn, và đầu đề bài thơ của Phan Bội Châu cũng sai nốt (không phải 32 năm, mà chỉ 30 năm).

Từ đó, với giả thiết như vậy (ảnh được chụp muộn hơn 1908), có thể nói, tấm ảnh “vua đứng, tôi ngồi” (Cường Để & Phan Bội Châu) được chụp ở một thời điểm sau thời điểm Phan Bội Châu chụp chung ảnh với Mai Lão Bạng (1908).

Sở dĩ, có thể đặt giả thiết với sự sai lệch thời điểm khá lớn như vậy là bởi, qua nhiều văn bản do Phan Bội Châu trước tác, người đọc thấy ông có rất nhiều lầm lẫn khi hồi ức. Xin đơn cử: Trong bài “Tết tha hương”, Phan Bội Châu nhớ số lượng du học sinh đến 400 người; Chương Thâu phải ghi chú là Phan Bội Châu nhớ không thật đúng, sự thực là chỉ trên dưới 200 người mà thôi. Thậm chí, có lầm lẫn đến mức không ngờ là ngày thành lập Việt Nam quang phục hội, một ngày rất trọng đại, Phan Bội Châu cũng không nhớ thật chính xác. Đoạn cuối bài, Phan Bội Châu lại viết: “Tháng giêng năm sau, tức năm Quý sửu, Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Đông đến ngày thành lập”; Chương Thâu phải ghi chú thêm: “Về ngày thành lập Việt Nam Quang phục hội, ở đây Phan Bội Châu nhớ không chính xác. Theo như “Ngục trung thư” (1914), “Phan Bội Châu niên biểu” (1929) thì đều chép là tháng 5-1912, năm Nhâm tí, chứ không phải tháng giêng năm Quý sửu (2-1913)” [6]. Tuổi già, trách sao được những lầm lẫn do lão hóa như thế.

II. Về chủ ý khi chụp ảnh “vua đứng, tôi ngồi”:

Nếu quả thật là không còn nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của tấm ảnh Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng) nói trên, tôi nhận thấy có ít ra là 3 luồng ý kiến, trong đó có 2 ý kiến chúng ta đã biết:

1. Ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc;

2. Ý kiến của ông chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm Nguyễn Văn Hóa.

Ngoài ra, còn còn có thêm ý kiến thứ 3:

3. Ý kiến từ ý kiến của anh Lê Tiến Công (phóng viên Tạp chí Huế Xưa & Nay, giảng viên Đại học Khoa học Huế). Hôm qua, anh Lê Tiến Công có nhắn tin và trao đổi qua điện thoại với tôi. Tuy dè dặt, nhưng anh không tỏ ra không đồng ý với cách lí giải của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc. Và vô hình chung, tôi nghĩ rằng có thể người ta sẽ lí giải: do Phan Bội Châu lớn tuổi hơn, nên Phan Bội Châu phải ngồi, còn Cường Để trẻ hơn ông đến 14, 15 tuổi, theo tôn ti tuổi tác và  đạo lí “kính lão đắc thọ”, Cường Để phải đứng.

Thật ra, từ lâu, tôi nghĩ, tôn ti tuổi tác và tôn ti quân thần đều phải được xem trọng trong xã hội, nhất là xã hội phong kiến ngày xưa, vốn đặt nặng chữ “Lễ” (với cách thức, ý nghĩa tác dụng theo quan niệm bấy giờ), và cho đến ngày nay, cả hai loại tôn ti ấy không phải là không có một giá trị giáo hóa xã hội nào đó, nên cũng chưa hẳn đã nhạt nhòa. Tuy nhiên, trong trường hợp hai loại tôn ti ấy không thống nhất (vua lớn tuổi hơn bề tôi) mà mâu thuẫn nhau (bề tôi lớn tuổi hơn vua), như trường hợp Phan Bội Châu và Cường Để, thì ngày xưa, người ta phải đặt tôn ti quân thần lên trên tất cả mọi loại tôn ti khác, gồm cả tôn ti tuổi tác (đại thần râu tóc bạc phơ cũng phải khấu đầu trước ấu chúa dăm bảy tuổi).

Theo tôi, tôi chỉ nên ghi chép lại lời của chính Phan Bội Châu phát biểu trước tòa án tại Hà Nội vào ngày 23-11-1925: “Tôi phản đối chính trị cố nhiên là phải cần có người, cần có của, và phải lợi dụng ông Cường Để, cho người trong nước, đã in sâu cái óc quân chủ, vui lòng giúp rập (TXA. nhấn mạnh). Điều đó tôi không chối” [7]Như vậy, thực chất, Phan Bội Châu vẫn là một nhà dân chủ với ý thức như Trần Viết Ngạc đã nêu: Phan Bội Châu chứ không phải Cường Để, mới đích thực là lãnh tụ của phong trào Đông Du, với sự xác quyết mục tiêu chính trị của phong trào ấy là làm cách mạng, đánh Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng chế độ quân chủ lập hiến mà vai trò thủ tướng là tối cao và quyền lực quốc hội có giá trị quyết định nhất, nhà vua cùng hoàng gia chỉ là thứ yếu, đều phải chấp hành hiến pháp. Ít ra, đó cũng là mục tiêu dân chủ của Phan Bội Châu, tuy có gì đó, cho đến hôm nay, đầu thế kỉ XXI, hậu thế chúng ta, hẳn có người vẫn còn cảm giác nào đó hơi … “bất bình”, khi nhìn ngắm bức ảnh ấy. Nếu hiểu mình bị lợi dụng chỉ như một “chiêu bài”, mặc dù biết rằng sự việc này thường xuyên diễn ra dưới chế độ phong kiến hàng ngàn năm, hẳn Cường Để đã buồn đau, phẫn nộ biết chừng nào? Hay tự thâm tâm, và biết đâu, Cường Để đã cùng Phan Bội Châu minh bạch giao ước: Cường Để đã là và sẽ là một nhà vua quân chủ lập hiến, đồng chí và đồng quyền lợi (chia sẻ quyền lực tùy tỉ lệ như hiến định) với Phan Bội Châu, theo trào lưu tiến bộ xã hội bấy giờ [8], những năm đầu thế kỉ XX (01-09/XX)? …

Nên chăng, cần thêm vài dấu cảm xen lẫn với vài dấu hỏi?

Khế ước xã hội vốn minh bạch?

Kính mong được góp ý thêm về bài viết…


TRẦN  XUÂN AN
Tp.HCM.,17 giờ 24, ngày 09-08 HB6 (2006)

_____________________


[1] Phan Bội Châu, “Tự phán” , Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2000, tr. 144.

Đối chiếu: Chương Thâu (biên soạn), “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 6, [trong tập này có “Phan Bội Châu niên biểu” (tên khác của cuốn“Tự phán”)], Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 176.


[3]    “Tự phán”, sđd., tr. 142 & 156.
Ngoài ra, có một số bài thơ khác của Phan Bội Châu có liên quan đến ảnh chụp như sau:

+++ “Đề bức ảnh chụp chung với Nguyễn Ngọc Dư”,
 trong “Phan Bội Châu toàn tập”, tập  5, sđd., tr. 376.

+++ “Đề sau bức ảnh cụ Lý Tuệ”
trong “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 5, sđd., tr. 323.
Lý Tuệ chụp ảnh kỉ niệm khi vô Huế thăm PBC., vào năm 1931 (sđd., tr.đd.).

+++ Câu đối (1937): “Tặng Thần Kinh ảnh quán”
“Phan Bội Châu toàn tập”, tập 6, sđd., tr. 447.
Khoảng 1936 – 1940 (chú thích sđd., tr. đd.)

[4] Chương Thâu (biên soạn ), “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 5, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 378.

[5] “Tự phán”, sđd., tr. 78 – 79.

[6] “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 374 – 378.

[7] “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 22 – 24.

[8] Về sau, chính Phan Bội Châu cũng phủ định chế độ quân chủ lập hiến mà chủ trương chính thể cộng hòa, dân chủ, tiến bộ hơn.

TXA.



Bản của Giao điểm bộ mới


VỀ TẤM ẢNH PHAN BỘI CHÂU VÀ CƯỜNG ĐỂ CHỤP CHUNG
(Received: Wednesday, August 09, 2006 4:12:56 AM)
 Trần Xuân An
Sáng hôm nay, 09-08-2006 (HB6), trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, có đang tải ý kiến của ông Trương Văn Tân và bài trả lời của ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa, về tấm ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung, vốn được nhiều người cho là không theo tôn ti quân thần thời phong kiến (đúng ra là phải “vua ngồi, tôi đứng”).
Để rõ hơn, xin xem theo link ở chú thích (*e), dẫn đến bài viết của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc trên Tạp chí điện tử Chuyển Luân. Trần Viết Ngạc cho rằng khi chụp bức ảnh trái với đạo lí tôn ti phong kiến vốn có “vua ngồi, tôi đứng”, Phan Bội Châu có dụng ý khẳng định chính Phan Bội Châu mới là người lãnh đạo phong trào Đông Du, chứ không phải Cường Để.
 Xin cảm ơn ông Trương Văn Tân đã phản hồi ý kiến và ông chủ biên Nguyễn Văn Hóa đã trả lời.
Để cuộc thảo luận thêm sôi nổi, trước hết, tôi chỉ nêu thêm một vài tư liệu sẵn có trong sách báo để chúng ta cùng tham khảo.
I. Về tư liệu:
1. Tôi đã viết ở một chú thích thuộc phần phụ lục của cuốn sách“Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’”, đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 5-2005:
“… trong “Tự phán”, Phan Bội Châu có viết: “Tôi khi chưa gặp Cụ [Mai Lão Bạng – TXA. chua thêm], chưa chụp bóng bao giờ, đến lúc hoan nghênh Cụ, tôi mới cùng Cụ chung nhau chụp một bức ảnh. Người Pháp biết được ảnh tướng tôi là từ lúc đó” (sđd., tr. 144 [1]). Xin hiểu câu này, trong điều kiện máy ảnh còn thô sơ, chưa có ống kính tối tân hiện đại, việc mật thám chụp ảnh lén là rất khó; chỉ có thể chụp ảnh trong hiệu ảnh. Chúng tôi nghĩ rằng, việc Pháp có được ảnh Phan Bội Châu để truy nã hẳn là ngẫu nhiên” [2].
Chi tiết cần chú ý là câu trích nguyên văn của Phan Bội Châu. Câu ấy cho người đọc một thông tin: lần đầu tiên Phan Bội Châu chụp ảnh (“chụp bóng”) là lúc gặp Mai Lão Bạng. Và cũng theo “Tự phán”, Mai Lão Bang sang đến đất Nhật Bản vào tháng ba năm Mậu thân (1908[3] và đến tháng hai năm sau, Kỉ dậu (1909), Cường Để & Phan Bội Châu mới bị Nhật trục xuất [3].
2. Ngoài ra, còn có một bài thơ của Phan Bội Châu, “Xem bức ảnh mình trước đây 32 năm, tự trào”:
Râu mày trơ trẽn với non sông
Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng?
Sấm điếc gió câm, trời đất trọi
Muông qua chim lại, tháng ngày chung
Cố đôi (=quăng) xác thịt, đôi (=quăng) không đặng
Toan vớt đồng bào, vớt chẳng xong
Biết nói cùng ai, cười với bóng
Ông xanh xanh hỡi thấu chăng lòng? [4]
Xin lưu ý: Dưới bài thơ này không được Phan Bội Châu ghi năm sáng tác, nên chỉ có thể phỏng đoán: khoảng vào năm 1937, căn cứ vào sự sắp xếp vị trí bài thơ của soạn giả bộ sách là phó giáo sư tiến sĩ Chương Thâu (hai bài đặt trước và sau bài này đều được Phan Bội Châu viết vào năm 1937, có ghi năm hoặc cả ngày, tháng lẫn năm sáng tác rất rõ ràng). Nhưng có lẽ Chương Thâu cũng chỉ phỏng đoán mà thôi. Vì vậy, trong trường hợp này, có thể thêm sai số +1 (không thể sớm hơn 1905 mà chỉ có thể muộn hơn 1905), thành năm 1938.
Nếu đúng là bài thơ được viết vào năm 1937 hoặc 1938, thì “bức ảnh mình trước đây 32 năm”, được chụp vào năm Ất tị (1905), lúc Phan Bội Châu mới sang tới Nhật Bản, hoặc đầu năm Bính ngọ (1906), Cường Để mới cùng Đăng Tử Kính qua đến nước Nhật [5], gặp Phan Bội Châu.
Nhưng có dữ kiện nào cho phép chúng ta nghĩ rằng, bài thơ trên viết về bức ảnh Phan Bội Châu và Cường Để chụp chung (“chúa đứng, tôi ngồi”) đâu? Vì nhìn kĩ, với mức phóng lớn tấm ảnh (xem Chuyển Luân, link đã dẫn), rõ ràng Phan Bội Châu trong ảnh vẫn có chừa râu mép (ứng với câu thơ thứ nhất: “Râu mày…”). Tuy vậy, cũng phải hiểu, “râu mày” chỉ là biểu tượng cho đàn ông, “tu mi nam tử” mà thôi. Câu thơ thứ hai, chỉ là một cách nói tu từ (mĩ từ pháp):
Thiệt phải mình chăng, lòng hỏi lòng?
Đó không phải là một câu nghi vấn thực sự (ảnh giả mạo).
Nhưng, cũng phải đặt vấn đề cho thật rốt ráo: Biết đâu, bài thơ trên có thể được sáng tác muộn hơn, 1939 hoặc 1940 chẳng hạn, và đầu đề bài thơ của Phan Bội Châu cũng sai nốt (không phải 32 năm, mà chỉ 30 năm).
Từ đó, với giả thiết như vậy (ảnh được chụp muộn hơn 1908), có thể nói, tấm ảnh “vua đứng, tôi ngồi” (Cường Để & Phan Bội Châu) được chụp ở một thời điểm sau thời điểm Phan Bội Châu chụp chung ảnh với Mai Lão Bạng (1908).
Sở dĩ, có thể đặt giả thiết với sự sai lệch thời điểm khá lớn như vậy là bởi, qua nhiều văn bản do Phan Bội Châu trước tác, người đọc thấy ông có rất nhiều lầm lẫn khi hồi ức. Xin đơn cử: Trong bài “Tết tha hương”, Phan Bội Châu nhớ số lượng du học sinh đến 400 người; Chương Thâu phải ghi chú là Phan Bội Châu nhớ không thật đúng, sự thực là chỉ trên dưới 200 người mà thôi. Thậm chí, có lầm lẫn đến mức không ngờ là ngày thành lập Việt Nam quang phục hội, một ngày rất trọng đại, Phan Bội Châu cũng không nhớ thật chính xác. Đoạn cuối bài, Phan Bội Châu lại viết: “Tháng giêng năm sau, tức năm Quý sửu, Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Đông đến ngày thành lập”; Chương Thâu phải ghi chú thêm: “Về ngày thành lập Việt Nam Quang phục hội, ở đây Phan Bội Châu nhớ không chính xác. Theo như “Ngục trung thư” (1914), “Phan Bội Châu niên biểu” (1929) thì đều chép là tháng 5-1912, năm Nhâm tí, chứ không phải tháng giêng năm Quý sửu (2-1913)” [6]. Tuổi già, trách sao được những lầm lẫn do lão hóa như thế.
II. Về chủ ý khi chụp ảnh “vua đứng, tôi ngồi”:
Nếu quả thật là không còn nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của tấm ảnh Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng) nói trên, tôi nhận thấy có ít ra là 3 luồng ý kiến, trong đó có 2 ý kiến chúng ta đã biết:
1. Ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc;
2. Ý kiến của ông chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm Nguyễn Văn Hóa.
Ngoài ra, còn còn có thêm ý kiến thứ 3:
3. Ý kiến từ ý kiến của anh Lê Tiến Công (phóng viên Tạp chí Huế Xưa & Nay, giảng viên Đại học Khoa học Huế). Hôm qua, anh Lê Tiến Công có nhắn tin và trao đổi qua điện thoại với tôi. Tuy dè dặt, nhưng anh không tỏ ra không đồng ý với cách lí giải của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc. Và vô hình chung, tôi nghĩ rằng có thể người ta sẽ lí giải: do Phan Bội Châu lớn tuổi hơn, nên Phan Bội Châu phải ngồi, còn Cường Để trẻ hơn ông đến 14, 15 tuổi, theo tôn ti tuổi tác và  đạo lí “kính lão đắc thọ”, Cường Để phải đứng.
Thật ra, từ lâu, tôi nghĩ, tôn ti tuổi tác và tôn ti quân thần đều phải được xem trọng trong xã hội, nhất là xã hội phong kiến ngày xưa, vốn đặt nặng chữ “Lễ” (với cách thức, ý nghĩa tác dụng theo quan niệm bấy giờ), và cho đến ngày nay, cả hai loại tôn ti ấy không phải là không có một giá trị giáo hóa xã hội nào đó, nên cũng chưa hẳn đã nhạt nhòa. Tuy nhiên, trong trường hợp hai loại tôn ti ấy không thống nhất (vua lớn tuổi hơn bề tôi) mà mâu thuẫn nhau (bề tôi lớn tuổi hơn vua), như trường hợp Phan Bội Châu và Cường Để, thì ngày xưa, người ta phải đặt tôn ti quân thần lên trên tất cả mọi loại tôn ti khác, gồm cả tôn ti tuổi tác (đại thần râu tóc bạc phơ cũng phải khấu đầu trước ấu chúa dăm bảy tuổi).
Theo tôi, tôi chỉ nên ghi chép lại lời của chính Phan Bội Châu phát biểu trước tòa án tại Hà Nội vào ngày 23-11-1925: “Tôi phản đối chính trị cố nhiên là phải cần có người, cần có của, và phải lợi dụng ông Cường Để, cho người trong nước, đã in sâu cái óc quân chủ, vui lòng giúp rập (TXA. nhấn mạnh). Điều đó tôi không chối” [7]Như vậy, thực chất, Phan Bội Châu vẫn là một nhà dân chủ với ý thức như Trần Viết Ngạc đã nêu: Phan Bội Châu chứ không phải Cường Để, mới đích thực là lãnh tụ của phong trào Đông Du, với sự xác quyết mục tiêu chính trị của phong trào ấy là làm cách mạng, đánh Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng chế độ quân chủ lập hiến mà vai trò thủ tướng là tối cao và quyền lực quốc hội có giá trị quyết định nhất, nhà vua cùng hoàng gia chỉ là thứ yếu, đều phải chấp hành hiến pháp. Ít ra, đó cũng là mục tiêu dân chủ của Phan Bội Châu, tuy có gì đó, cho đến hôm nay, đầu thế kỉ XXI, hậu thế chúng ta, hẳn có người vẫn còn cảm giác nào đó hơi … “bất bình”, khi nhìn ngắm bức ảnh ấy. Nếu hiểu mình bị lợi dụng chỉ như một “chiêu bài”, mặc dù biết rằng sự việc này thường xuyên diễn ra dưới chế độ phong kiến hàng ngàn năm, hẳn Cường Để đã buồn đau, phẫn nộ biết chừng nào? Hay tự thâm tâm, và biết đâu, Cường Để đã cùng Phan Bội Châu minh bạch giao ước: Cường Để đã là và sẽ là một nhà vua quân chủ lập hiến, đồng chí và đồng quyền lợi (chia sẻ quyền lực tùy tỉ lệ như hiến định) với Phan Bội Châu, theo trào lưu tiến bộ xã hội bấy giờ [8], những năm đầu thế kỉ XX (01-09/XX)? …
Nên chăng, cần chấm thêm vài dấu cảm xen lẫn với vài dấu hỏi?
Khế ước xã hội vốn minh bạch?
Kính mong được góp ý thêm về bài viết…
TRẦN  XUÂN AN
Tp.HCM.,17 giờ 24, ngày 09-08 HB6 (2006)
_____________________
[1] Phan Bội Châu, “Tự phán”, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2000, tr. 144.
Đối chiếu: Chương Thâu (biên soạn ), “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 6, [trong tập này có “Phan Bội Châu niên biểu” (tên khác của cuốn “Tự phán”)], Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 176.
[3] “Tự phán”, sđd., tr. 142 & 156.
Ngoài ra, có một số bài thơ khác của Phan Bội Châu có liên quan đến ảnh chụp như sau:
+++ “Đề bức ảnh chụp chung với Nguyễn Ngọc Dư”,
 trong “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 5, sđd., tr. 376.
+++ “Đề sau bức ảnh cụ Lý Tuệ”
trong “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 5, sđd., tr. 323.
Lý Tuệ chụp ảnh kỉ niệm khi vô Huế thăm PBC., vào năm 1931 (sđd., tr.đd.).
+++ Câu đối (1937): “Tặng Thần Kinh ảnh quán”
“Phan Bội Châu toàn tập”, tập 6, sđd., tr. 447.
Khoảng 1936 – 1940 (chú thích sđd., tr. đd.)
[4] Chương Thâu (biên soạn ), “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 5, Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 378.
[5] “Tự phán”, sđd., tr. 78 – 79.
[6] “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 374 – 378.
[7] “Phan Bội Châu toàn tập”, tập 4, sđd., tr. 22 – 24.
[8] Về sau, chính Phan Bội Châu cũng phủ định chế độ quân chủ lập hiến mà chủ trương chính thể cộng hòa, dân chủ, tiến bộ hơn.
                                                                                                 TXA.





Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du (1905-2005)
-
Suy Nghĩ thêm về Đông Kinh Nghĩa Thục
 Trần Viết Ngạc
1.     Nhờ ông giúp sức khơi dòng đầu, 

Người vượt trùng dương ngày càng nhiều.(1)

Người khơi dòng đầu cho Phong trào Đông du không ai khác hơn là Tăng Bạt Hổ.  Chẳng những Phan Bội Châu và Đặng Tử Mẫn khắc tên Ông đầu tiên trên bảng Việt Nam Nghĩa Liệt vì ông là "ngọn sóng trước tiên của lớp thuỷ triều mới đang bành trướng, ngọn lửa đầu tiên của bộ máy đang bộc phát" (2) mà Nguyễn Thượng Hiền cũng đánh giá cao hành động của ông là "kết thúc nghĩa hội cũ mà mở ra nghĩa hội mới". (3)
Tăng Bạt Hổ (1858- 1906) tên thật là Tăng Doãn Văn, "tên chữ là Sư Triệu, người tỉnh Bình Định, bổn tính hào mại, kiến thức thấu suốt, khí phách cương nghị. Trong lúc nói năng thì thái độ hoà nhã, dịu dàng, gần gũi người ta"...  (4) đã chiến đấu trong nghĩa hội Cần vương Bình Định. Khi Cần Vương Bình Định tan rã, ông thoát sang Trung Hoa. Người Pháp xem ông là một phái viên rất đắc lực của Tôn Thất Thuyết bấy giờ đang an trí ở Thiều Châu.  Ông đi về thường xuyên giữa Quảng Đông và Huế, nhờ thế mà sĩ phu ở Huế biết đến những biến động ở Viễn đông. Chẳng những đọc tân thư, ông còn lặn lội khắp vùng đông Á: Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan và từng xuống đến Nam Dương (Indonesia).
Mối quan hệ giữa phái viên và chàng rể quan Phụ Chính hẳn đã gợi mở ra nhiều vấn đề:
- Sự lạc hậu của nền giáo dục từ chương khoa cử trên nền tảng tứ thư ngũ kinh.
- Phong trào Cần vương thất bại, con đường giải phóng dân tộc lâm vào cuộc khủng hoảng tư tưởng và bế tắc.
- Phải phá vòng kiềm hãm của thực dân đế quốc để đặt mối quan hệ với Đông Nam Á: nước Nhật đã duy tân và hùng cường, Trung Hoa đang thức tỉnh...
Nguyễn Thượng Hiền đã nhớ lại một trong những lần gặp gỡ ấy: "Mùa Xuân năm Mậu Tuất (1898) Sư Triệu từ nước ngoài trốn về, gặp tôi ở Hà Thành, mới một lần mà đã như bạn cũ...  Tôi mới bàn với Sư Triệu là muốn cứu nước mà không lo kết nạp anh hào và thăm  dò con cháu các nhà có thù với giặc thì không được..., nên đem họ xuất dương , tôi luyện tài họ để ngày sau làm rường cột cho nước" (5)
Thật không thể tin được rằng chính trong năm 1898 khi mà cuộc khởi nghĩa vô vọng của Võ Trứ và Trần Cao Vân ở Phú yên thất bại thảm hại thì phong trào Đông Du đã manh nha dù cho kế hoạch của Tăng và Nguyễn đã không thực hiện được.
Chúng tôi ngờ rằng những cuốn tân thư đầu tiên mà Nguyễn Thượng Hiền đã có may mắn tiếp cận đã từ tay Tăng Doãn Văn.  Phan Bội Châu đã được đọc tân thư và nghe chuyện Tăng Bạt Hổ từ Nguyễn Thượng Hiền:  "... Tôi  xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình trạng cạnh tranh ở trong hoàn hảo, thảm trạng quốc vong diệt chủng càng kích thích trong vẻ sâu lắm.  Tiên sinh lại kể những việc nghĩa dũng của ông Tăng Bạt Hổ  cho tôi nghe, tôi chôn sâu người ấy ở trong lòng, và cái tư tương phá cửa sổ lồng đến lúc đó mới manh động"(6)
Chẳng những là "khơi múi, mở đầu", Tăng Bạt Hổ còn là người dẫn đường cho Phan Bội Châu đông du và tích cực giải quyết những khó khăn buổi đầu một cách hiệu quả.  Phan Bội Châu đã khắc hoạ chân dung Tăng một cách tuyệt đẹp:
"Ông tuổi ngoài bốn mươi mà râu mày cốt cách, trời hạ sương thu, trông qua một lần mà biết chắc là người duyệt lịch đã dày lắm.  Ngồi nói chuyện, ông kể tình hình ngoài bể rất kỹ, mà nói đến nhân vật nước Tàu hiện thời càng rạch ròi như đếm tiền trong túi. Tôi được gặp ông, mừng là trời trao..." (7)
 2.  Phan Bội Châu và Cường Để
 Sau khi gặp Tiểu La và thống nhất ý kiến với vịêc tìm kiếm một Lê Trang Tông để ủng phù làm minh chủ và không bằng lòng  với một Tôn Thất Toại " khí thức ngó cũng tầm thường", Phan Bội Châu đã ra Huế lân la giao tiếp với con cháu Hiệp Hoà và con cả Đồng Khánh nhưng không thấy ai tâm hợp.  Cuối cùng, đã lâu ngày mới thăm dò được kỳ Ngoại hầu là người "sẵn có chí lớn".
Kỳ ngoại Hầu Cường Để thuộc dòng trưởng của vua Gia Long; hậu duệ của Anh Duệ Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh.  Chẳng may, Đông cung mất sớmnên không thể kế thừa ngôi vị và Gia Long đã chọn Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm kế vị thay vì cháu đích tôn là Phúc đường (Mỹ Đường) (8) mà đa số đại thần ủng hộ: Ông của Cường Để là con của Mỹ Đường: Cảm Hoá công Lệ Chung ( Duệ Chung) Hàm hoá Hương công, con của Cảm Hoá, là thân phụ của Cường Để.
Theo Cường Để, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày, Phan đình Phùng đã cho người liên lạc với Hàm Hoá và muốn Hàm Hoá thay Hàm Nghi ở ngôi vị lãnh đạo tinh thần cho phong trào Cần Vương.  Hàm hoá lấy cớ tuổi già muốn giao lại địa vị ấy cho Cường Để lúc bấy giờ mới mười hai tuổi (1894).  Việc không thực hiện được  vì phái viên của Phan đình Phùng là Hồ quý Châu lâm bệnh mất  và năm sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng chấm dứt cùng với sinh mệnh của người lãnh đạo.(9)  Mùa thu năm Quý Mão (1903), khâm sứ Pháp Auvergne  muốn truất phế Thành Thái, có thăm dò Cường Để để thay thế nhưng việc không thành.
Lần thứ ba Cường Để có cơ hội để trở thành bậc chí tôn là vào năm 1907. Vua Thành Thái bị truất phế và Pháp cũng như triều đình Huế tìm người kế vị. Thượng thư bộ công là Nguyễn hữu Bài, theo Thiên Chúa giáo, đã không ngần ngại đề nghị với người Pháp cho rước Cường Để, đang lưu vong ở Nhật Bản với cương vị Hội chủ Duy tân hội, về Huế để đưa lên ngôi! Giải thích sự kiện này, tài liệu Pháp cho biết từ khi đặt nền đô hộ, một phe phái đã hình thành trong giới quan lại và tín đồ Thiên Chúa giáo với mục đích đưa dòng trưởng của Đông cung Cảnh lên ngai vàng ở Huế (10).  Không có gì khó hiểu ước muốn của dòng trưởng và ý đồ của tín đồ  Thiên chúa giáo nếu ta biết rằng Đông cung Cảnh có mối quan hệ thân thiết với Bá Đa Lộc và muốn cải đạo.  Xu hướng đó cũng thể hiện trong vịêc Cường Để giới thiệu Nguyễn Hữu Bài, Đốc vận Hiền... tham gia Duy Tân hội năm 1904.(11)
Phải chăng chí lớn của Cường Để xuất phát từ nhân thân của ông?  Phải chăng vì cảm nhận được điều đó mà Phan Châu Trinh bài bác vị minh chủ của Duy Tân hội ?  Sự thực lịch sử cho thấy rằng Cường Để không cam chịu thân phận của một Lê Trang Tông - vị minh chủ danh nghĩa- mà dần dà muốn có thực quyền, càng không phải thực quyền của một người lãnh đạo Duy Tân hội mà là thực quyền của một vị vua tương lai.
Trong giai đọan đầu khi Duy Tân hội mới thành lập (1904) bên cạnh những Tiểu la Nguyễn Thành (1863) Châu Thương Văn (1856), Đỗ đăng Tuyển (1856), Tăng Bạt Hổ (1858), Phan Bội Châu (1867) thì hội chủ chỉ là một thanh niên mới ngòai hai mươi tuổi chưa có chút thành tích gì trong khoa bảng, học vấn cũng như đấu tranh.  Vai trò một vị minh chủ danh nghĩa còn non tuổi đời đã thể hiện rõ nét trong buổi đầu xuất dương.  Tại nhà Lưu vĩnh Phúc, nơi Tán tương Nguyễn Thiện Thuật tá túc, hai vị lãnh đạo họ Phan - một của Duy tân hội, một của Phong trào Duy tân công khai - bàn luận chính trị.  Phan Tây Hồ đã chỉ trích chế độ quân quyền thậm tệ, cho rằng cái tệ quân chủ chuyên chế không trừ được thì tuy phục quốc cũng chưa phải là hạnh phúc!  Chẳng những Cường Để chỉ "tựa cột mà nghe" mà sau đó trong một bức thư gởi cho hòang tộc ở Huế đã tư xưng là người thừa kế "giặc của dân". (12)
Dân tặc hậu Cường Để bái cáo ư ngã tôn nhân liệt tôn...
Theo tài liệu của Pháp, chữ dân tặc để chỉ ngôi quân chủ là một từ của Phan Châu Trinh đặt ra khi đàm luận với các môn sinh của Lương Văn Can ở Hà Nội nhân khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1904), manh nha ý tưởng vềmột nền cộng hòa... Cả những quan lại trung thành với thực dân như Lê Hoan, Hòang Trọng Phu cũng nhận được văn bản này. (13)
Và thật hợp lý khi Phan Bội Châu đưa vị hội chủ vào học trường Chấn Võ để được rèn luyện cùng với Nguyễn Thức Canh, Lương Ngọc Luyến và Nguyễn Điển.  Cường Để đã không chịu được sự khổ luyện.  Theo Nguyễn Thức Canh đến cuối năm 1906 Cường Để mới nhập trường và rời trường và tháng 11-1907.  Một năm học tập "lơ đểnh bài vở nhà trường nên thành tích bỉ nhân ở trường Chấn Võ bấy giờ thường vào hạng kém" (14)
Trước khi về nước, Phan Châu Trinh đã căn dặn Phan Bội Châu "quốc dân hy vọng chỉ nơi mình ông.  Kỳ ngọai hầu không cần gì đâu". Lại ngõ lời với du học sinh trong bữa liên hoan tiễn đưa "Khuyên anh em nên ra sức học hành, đến như vấn đề quốc thể và chính trị tương lai thì không muốn phát biểu ý kiến" (15)
Trong một bức thư gởi riêng cho Cường Để, Phan Châu Trinh đả kích mạnh mẽ:
"Nhữ đặc bất quá nhất học sinh, nhĩ ký vô quốc hỷ, hà sở vị dân?  Ký vô dân hỹ, hà sở vị chủ..."
(Anh bất quá chỉ là một sinh viên bình thường.  Đã không có nước làm sao anh có quốc dân?  Đã không có quốc dân, anh xưng chủ với ai?...)
Tư liệu của Pháp cho biết tức giận vì những lời đả kích trên, Cường Để đã viết thư cho các quan lại thân thiết của ông ở triều đình Huế tố cáo thái độ chống quân chủ của Phan mà hậu quả là bản án nặng nề dành cho Phan nhân vụ Chống thuế 1908. (16)
Thực ra chẳng cần thư của Cường Để (nếu có), Phan Châu Trinh đã mua chuốc óan thù với trìều đình Huế bằng thư gởi toàn quyền Paul Beau rồi!   Cường Để sau khi rời trường Chấn Võ cũng là lúc học sinh Nam Kỳ du học ngày càng đông.  Sự ngưỡng mộ của đồng bào Nam Kỳ đối với hội chủ dòng dõi Đông Cung cũng như sự tôn sùng vị hội chủ của học sinh Nam Kỳ đã tạo cho Cường Để một tư thế mới.  Các du học sinh diện kiến Cường Để đều phải lạy 5 lạy như là nghi lễ quân thần!(17).  Khác với du học sinh Bắc Kỳ và Trung kỳ luôn coi Phan Bội Châu là người lãnh đạo quan trọng và thực sự của Hội, các học sinh Nam Kỳ còn nặng tư tưởng tôn quân đã xem Cường Để là người lãnh đạo cao nhất và Phan Bội Châu chỉ giữ vai trò phụ tá.
Cường Để lấy lại họ Nguyễn Phúc, một cách từ chối cách đặt tên theo phiên hệ mà Minh Mệnh áp đặt cho tất cả hậu duệ của 11 anh em của ông.  Ông lấy tên Nguyễn Phúc Dân, tương tư như tên của hai người con của Đông cung Cảnh là Phúc Thùy và Phúc Đường.  Aán của ông khắc Gia Thành (vương hiệu hay niên hiệu ?) khiến người ta liên tưởng đến niên hiệu Gia Long của Thế tổ nhà Nguyễn (18).

3. Về tấm ảnh Cường Để - Phan Bội Châu 

Ảnh Cường Để và Phan Bội Châu
Tấm ảnh mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là tấm ảnh Cường Để và Phan Bộ Châu.  Mấy điểm cần chú ý:
- Cường Để và Phan Bội Châu đều mặc lễ phục Tây phương rất trang trọng.
- Ảnh được chụp trong một tiệm ảnh chứ không phải ở trong nhà hay ngòai trời.
Hai điểm đó cho thấy đây là là một tấm ảnh chính thức được chụp với một mục đích sử dụng nào đó.  Có điều Hội chủ thì đứng trong khi vị tổng lý thì ngồi ngay ngắn trên ghế.  Tấm ảnh vì thế sẽ là lời cải chính những ai tin rằng Hội chủ Cường Để là người lãnh đạo đích thực và Phan Bội Châu chỉ là người phụ tá, cho dù là một phụ tá đắc lực.  Phải chăng không tiện nói rõ với học sinh Đông Du và nhất là học sinh gốc Nam Kỳ, Phan Bội Châu đã chủ động và có dụng ý khi cho chụp tấm ảnh trên?
Dù thế nào chăng nữa, sau khi cả hai bị trục  xuất ra khỏi đất Nhật, Phan Bội Châu và Cường Để đã không còn gắn kết trong họat động.  Khi thành lập Việt Nam Quang Phục hội năm 1912 thì hợp tác giữa Cường Để và Phan Bội Châu chỉ còn là danh nghĩa.  Việc Việt Nam Quang Phục hội minh định tôn chỉ của hội là "Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hòa Dân quốc" đã bị các đại biểu Nam Kỳ phản đối.  "Đồng bào trong Nam dối với Kỳ ngoại hầu tín ngưỡng rất sâu, não chất ấy chưa bỗng chốc mà đổi được". (19)
Cường Để lúc bấy giờ ở Hồng Kông đã tránh mặt không tham dự.  Dù vậy, hội nghị thành lập VNQPH vẫn dành cho Cường Để chức vụ Hội trưởng kiêm Bộ trưởng Tổng bộ.
Ông hội trưởng Cường Để nói gì về tổ chức vừa được cải tổ:
"Tháng 5 năm Nhâm Tý (1912), ông Phan Bội Châu mời bỉ nhân về Quảng Châu để tiến hành sự cải tổ Việt Nam Quang Phục hội, song bỉ nhân khi ấy mắc bệnh không về được, nên viết thư giao quyền cho ông Phan tiện nghi hành sự.  Oâng Phan được bầu chọn là tổng lý, tức là người thay quyền hội chủ chấp hành việc hội.  Hoàng Trọng Mậu làm bí thư" (20)  Vị hội trưởng đã không nói gì đến sự thay đổi tôn chỉ của VNQPH, cũng không buồn nói đến tổ chức của hội gồm Tổng vụ bộ mà Cường Để đứng đầu, Bình nghị bộ và Chấp hành bộ gồm tất cả 15 người phụ trách.  Hoàng trọng Mậu chỉ giữ chức Quân vụ ủy viên lại được Cường Để xem là nhân vật thứ hai sau Phan Bội Châu và không thừa nhận minh bạch chức hội trưởng của mình.
Nhận xét về tổ chức mới được thành lập, Cường Để viết:
"Nhưng làm việc mà kinh tế tự mình không có, chỉ có người ngoài giúp đỡ khó có kết quả tốt nên những họat động của ông Phan hồi ấy lúc đầu tuy  có rộn rực nhưng sau chẳng khỏi im dần đi, cho đến cuối năm thì cơ hồ không có gì nữa".
Việc của VNQPH là việc của ông Phan, và cơ hồ không còn gì vào cuối năm 1912.  Không còn gì hay còn gì thì trên thực tế VNQPH không còn chỗ trong tâm trí Cường Để.  Và Cường Để có những họat động độc lập: về Nam Kỳ ba thánng (1913) quyên góp chừng 50.000 đồng, đi Aâu Châu tám tháng (1913-1914).  Từ đó Cường Để hầu như không còn họat động nào liên quan đến VNQPH dù trên danh nghĩa ông vẫn là hội trưởng.  Thậm chí khi đề cập đến cuộc khởi nghĩa năm 1916 mà vua Duy Tân đồng ý tham dự , cũng không biết (và làm như không biết?) rằng cuộc khởi nghĩa đó là do VNQPH trong nước tổ chức.  Cường Để cũng không hề nhắc đến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917) do Lương Ngọc Quyến (người đồng chí đã cùng ông học một thời gian ở trường Chấn Võ) với danh nghĩa VNQPH.  Từ năm 1912 cho đến lúc Phan Bội Châu bị bắt (1925), Cường Để và Phan Bội Châu đã thực sự không còn chung chí hướng và họat động.
Trần Viết Ngạc
Chú thích
(1) Đặng Đoàn Bằng - Phan Thị Hán : Việt Nam Nghĩa liệt sữ, nguyên tác Hán văn, bản dịch của Tôn Quang Phiệt, nxb Văn Học, Hà nội, 1972.  Trang 32
(2) như trên, trang 25
(3) như trên, trang 26
(4) như trên, trang 32
(5) như trên, trang 34
(6) Phan Bội Châu - Tự phán, nxb Anh Minh, Huế, 1956.  Trang 27
(7) như trên, trang 42
(8) Nguyễn Phúc Đường tức Mỹ Đường, Lệ Chung tức Duệ Chung.
(9) Cường Để, Cuộc đời cách mạng Cường Để, nguyên tác Nhật ngữ do ký giả Tùng Lâm chấp bút, bản dịch của Ban Tuyên truyền VNPQH.  Tráng Liệt xuất bản, Sài Gòn, 1957
(10) Note sur l'agitation anti-francaise depuis 10 ans et le parti nationaliste annamite.  Annexe au Rapport de M. le Gouverneur General de l'Indochine a` M. le Ministre.  A.O.M, ký hiệu 3F 34-65514.  Tài liệu đánh máy, trang 15
(11) Cường Để, sđd, trang 14
(12) Note sur l'agitation..., tlđd, trang 19
(13) Như trên, trang 21
(14) Cường Để, sđd, trang 25.  Theo Cường để thì ông học ở Chấn Võ từ giữa năm 1906 đến đầu 1908.
(15) Trần Trọng Khắc, Năm mươi bốn năm hải ngoại.  Cơ sở ấn loát Xây dụng, Sài gòn, 1971, trang 28
(16) Note sur l'agitation..., tlđd, trang 23
(17) Như trên, trang 27 (về vụ án Gilbert Chiếu ở Mỹ Tho năm 1908)
(18) Như trên, trang 3
(19) Phan Bội Châu, Tự phán, sđd, trang 146
(20) Cường Để, sđd, trang 54
- Ảnh Cường Để và Phan Bội Châu
- Bằng tốt nghiệp Khoa Anh ngữ do trường Đông kinh Cao đẳng Sư phạm cấp cho Trần Trọng Khắc (tức Nguyễn Thức Canh) năm 1917
- Bằng Bác sĩ Y khoa do đại học Berlin (Đức quốc) cấp cho Trần Trọng Khắc, năm 1931 - Bản dịch tiếng Hoa do sứ quán Trung hoa chứng.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.