Bài viết không có chút gì mới hay độc đáo cả. Hầu như là luộc lại một số thông tin đã cũ. Mà ngay câu đầu tiên đã sai.
Lưu làm tư liệu theo dòng thời gian.
---
LƯU TƯ LIỆU
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=631&sitepageid=417#sthash.5YuxOTqf.dpbs
Tìm hiểu về tác giả Trần Dân Tiên
20 Tháng Năm 2014 / 514 lượt xem
Nguyễn Thị Thu Hằng
Phòng HC-TH
Cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch xuất bản lần đầu tiên tại Trung Quốc, sau đó là tại Paris (Pháp) và đến năm 1955 mới được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Hà Nội, sau đó được tái bản nhiều lần.
Trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (8) năm 1990, trong bài viết “Bài thơ chữ Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh”, tác giả Phác Can, có một ghi chú về cuốn sách của Trần Dân Tiên như sau: “Ngoài các bản tiếng Việt, cuốn sách này ở Việt Nam hiện còn có bản dịch Trung văn, mang tiêu đề Hán là Hồ Chí Minh truyện (Tiểu sử Hồ Chí Minh) ghi tên tác giả bằng chữ tiếng Việt là Trần Dân Tiên, ghi tên người dịch bằng chữ Hán là Trương Niệm Thức, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành tại Thượng Hải, do công ty hữu hạn ấn loát Gia Hoa in lần thứ nhất vào tháng 6/1949 dưới thời Tưởng Giới Thạch.”
Tác giả cuốn tiểu sử nổi tiếng trên là Trần Dân Tiên, đây cũng là tác phẩm duy nhất đã được biết đến của tác giả này. Mục đích cuốn sách ra đời vào thời điểm đó để trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là ai?”. Thông qua lời kể của một nhà báo có bút danh Trần Dân Tiên, người đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những ngày đầu nước nhà độc lập, cuộc đời của nhà cách mạng và là người đứng đầu nhà nước Việt Nam độc lập được kể lại qua “những mẩu chuyện” như tên gọi của sách. Có lẽ việc xây dựng và củng cố hình ảnh về lãnh tụ Hồ Chí Minh được hình thành khởi đầu từ cuốn sách này vì trước đó cái tên Hồ Chí Minh rất mơ hồ với nhiều người với các tên gọi khác nhau. Qua cuốn sách này, tác giả muốn nhấn mạnh rằng tất cả các bí danh đó đều cùng là một người duy nhất – Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, hay Hồ Chủ tịch. Nội dung cuốn sách viết về Hồ Chủ tịch với các chi tiết sống động khiến độc giả thích thú, trừ cái tên Trần Dân Tiên là gây nhiều tranh cãi. Tác giả Trần Dân Tiên thực sự là ai? Những ý kiến về vấn đề này được chia làm hai luồng: Luồng ý kiến thứ nhất dựa vào phong cách của Hồ Chí Minh, đó là không bao giờ tự nói về mình, cho rằng cuốn sách này không phải do Hồ Chí Minh viết. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng Trần Dân Tiên chính là một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đối với luồng ý kiến thứ nhất
Theo lời kể của ông Nguyễn Khôi (1), nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội, thì cuốn sách ra đời trong lúc cả trong nước và ngoài nước, cả kẻ địch và nhân dân đều ít ai biết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà chỉ biết Nguyễn Ái Quốc, vì thế theo sáng kiến của ông Hoàng Quốc Việt, Thường vụ Trung ương Đảng gợi ý cho ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền viết giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, ông Trần Huy Liệu giao cho ông Vũ Đình Huỳnh, thư ký trợ lý của Bác chắp bút, xong bản thảo thì ông Trần Huy Liệu sửa, viết bổ sung rồi qua các ông Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh đọc duyệt cho ý kiến để hoàn thiện, xuất bản. Tên bút danh Trần Dân Tiên có ý nghĩa: người công dân đầu tiên họ Trần của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Họ Trần có thể là gợi nhắc về gốc gác của những người chắp bút (Vũ Đình Huỳnh, Trần Huy Liệu, Trường Chinh) đều là người quê Vua Trần - Trần Hưng Đạo (Nam Định)? Ở thời điểm ấy bận trăm công nghìn việc, thù trong giặc ngoài như thế thì Bác làm sao mà ngồi chắp bút viết về mình được? Hơn nữa, Hồ Chủ tịch là người bình sinh khiêm tốn không khi nào muốn nói về mình (2).
Tuy nhiên đó cũng chỉ là những chuyện kể mà ông Nguyễn Khôi nghe được ở các vị thủ trưởng, các bậc đàn anh nói chuyện với nhau qua những lần tiếp xúc trong những câu chuyện dọc đường công tác kể chuyện về Bác, không phải là cứ liệu trên giấy trắng mực đen.
Đối với luồng ý kiến thứ hai
Trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên đã chọn cách tìm gặp gỡ những người đã từng quen biết với Hồ Chí Minh để hỏi chuyện, thu thập tài liệu rồi viết nên tác phẩm này, nhưng người ta tin rằng thực ra nó là tự truyện. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức năm 1985 từng viết rằng: “...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Thật là khó khăn để trong khuôn khổ 150 trang sách nhỏ, có thể nói được về cuộc đời của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại của dân tộc trên suốt nửa thế kỷ đấu tranh…” (3). Ông Hà Minh Đức chú thích rằng thông tin này được lấy từ cuốn Những sự kiện lịch sử Đảng, nhà xuất bản Sự Thật, năm 1976, tập 1, trang 672. Và sau một phần tư thế kỉ, trong cuốn sách Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh, trang 316, nhà xuất bản Khoa học xã hội 2010, ông vẫn giữ nguyên quan điểm từ năm 1985.
Mặt khác, trong bài viết Việt Nam, nhận thức và ứng xử với vấn đề tôn giáo của tác giả Mạc Thủy đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử có đoạn: “...Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên - Hồ Chí Minh: “Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao....” (4).
Trước lời giới thiệu về cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, in lần thứ hai, năm 1976, trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên, nhà xuất bản Sự Thật - cơ quan xuất bản văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam - đã viết lời dẫn nhập như sau: “... Trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, Hồ Chủ tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới…”. Nhà xuất bản không thể không biết rõ lai lịch của cuốn sách, lý lịch của người viết vì nếu không biết tác giả cuốn sách là ai thì không thể in trong nước và để các nhà xuất bản nước ngoài xuất bản rộng rãi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Hơn nữa, một khi sách đã xuất bản thì dù tên tác giả có là bút danh chăng nữa thì cũng cần có một người thực với tên tuổi rõ ràng để nhà xuất bản trả nhuận bút.
Đôi điều trao đổi
Theo luồng ý kiến thứ nhất, Trần Dân Tiên là một nhà báo thì không có gì phải bàn luận.
Theo luồng ý kiến thứ hai, có thể lí giải:
Vào thời điểm những năm 1940, hiểu biết về thân thế của Hồ Chủ tịch rất ít, do vậy, cần có một tài liệu tuyên truyền trong nhân dân trong nước và giới thiệu với bạn bè quốc tế về những hoạt động cách mạng của Người. Lúc bấy giờ Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa được Liên Xô công nhận, còn nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì đến tháng 10/1949 mới được thành lập. Do đó, tài liệu này một mặt để tuyên truyền về cuộc cách mạng ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam, mặt khác tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Ra đời trong hoàn cảnh như thế, cuốn sách đã rất có ích cho cách mạng Việt Nam , là câu trả lời cho những người quan tâm muốn biết Hồ Chủ tịch là ai?
Ông Vũ Kỳ - thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngay sau những ngày đầu thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi, cũng từng nói rằng Bác Hồ không muốn nhắc nhiều đến bản thân mình. Xuất bản một cuốn sách nói về mình, thiết nghĩ Hồ Chủ tịch cũng không muốn nhưng Người cho rằng đó là một điều cần làm trong hoàn cảnh lịch sử ấy. Bất cứ cuộc cách mạng nào cũng cần có một lãnh tụ, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ vấn đề này. Mặt khác, khi Trung ương Đảng đã quyết định lựa chọn để suy tôn Người, là một Đảng viên, việc Người chấp hành quyết định của tổ chức là điều đương nhiên. Vào thời kỳ bấy giờ, nhằm mục đích tuyên truyền về cuộc kháng chiến của dân tộc và người lãnh đạo cuộc cách mạng, có nhiều văn nghệ sỹ cũng đã vinh dự được giao nhiệm vụ khắc họa chân dung Bác như nhà điêu khắc Vũ Cao Đàm, Diệp Minh Châu, nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn, họa sĩ Phan Kế An, nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Đăng Định và các nhà điêu khắc của Đức, Nga… Thấu hiểu đây cũng là một yêu cầu chính trị quan trọng như những nhiệm vụ khác, nên Người thường chủ động tạo điều kiện cho các họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà báo, quay phim có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Tuy nhiên ở thời điểm vận nước nguy nan như thế, nhiều khả năng Chủ tịch Hồ Chí Minh không có thời gian để chắp bút mà có thể là những cán bộ thân cận, cốt cán nghe Bác kể những mẩu chuyện, những tâm sự của Người, sau đó ghi chép lại, tập hợp thành cuốn sách. Trong hoàn cảnh rất ít người biết về cuộc đời và những hoạt động cách mạng của Bác thì còn ai kể chính xác hơn chính bản thân Người?
Về cách dẫn dắt câu chuyện trong vai một nhà báo muốn tìm cách phác họa chân dung Hồ Chủ tịch, theo quan điểm của tác giả bài viết này, có thể đó là sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nên hiểu đó chỉ là một cách tác giả lựa chọn để đưa độc giả đi vào nội dung cuốn sách một cách tự nhiên. Khi viết truyện ngắn Vi hành nhân chuyến đi Pháp của vua Khải Định, Nguyễn Ái Quốc đã từng dùng hình thức nhập vai một người anh gửi thư cho cô em họ, kể lại những điều tai nghe mắt thấy về chuyến đi của Khải Định; trong loạt bài Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch 4 tháng sang Pháp, Người lấy bút danh là Đ.H, viết thư cho hai cô em Xuân và Lan, kể rằng mình được theo Cụ Hồ sang Pháp, đồng thời ghi lại hành trình để cho các em mình biết; trong truyện ngắn Giấc ngủ mười năm, lấy bút danh Trần Lực, Bác nhập vai một anh Vệ quốc quân người dân tộc Nùng; trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, với bút danh T.Lan, Bác lại vào cả hai vai người hỏi chuyện – người trả lời.
Về những dòng ca ngợi Hồ Chủ tịch trong cuốn sách, theo quan điểm của tác giả bài viết này, đó là do những đồng chí biên tập các câu chuyện đã viết thêm vào để tuyên truyền, định hướng trong nhân dân và giới thiệu với bạn bè quốc tế biết tình cảm kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ cách mạng của dân tộc.
Lời kết còn bỏ ngỏ?
Theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh thì trong 170 bút danh, bí danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ hoạt động và 17 bí danh, bút danh đang được nghiên cứu xác minh thêm cũng không có tên Trần Dân Tiên. Bởi vậy, đây có thể là bút hiệu của một tập thể tác giả? Nếu đúng như vậy, việc hình thành tác phẩm, từ ý tưởng tới bản thảo đầu tiên đến tác phẩm hoàn thành, là một quá trình làm việc của cả một tập thể trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh là người xem xét sau cùng để chỉnh lại cho đúng những chi tiết còn chưa chính xác. Bài viết nổi tiếng Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân tháng 2/1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được hình thành qua những bước tương tự. Bản thảo lần thứ nhất do đồng chí Tố Hữu chuẩn bị theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cuối năm 1968. Sau khi bản dự thảo lần đầu được sửa chữa, Người cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị yêu cầu nghiên cứu và góp ý kiến. Bước thứ ba hình thành bản thảo là tập hợp các ý kiến góp ý của các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, bổ sung và sửa lần cuối để hoàn thành.
Tuy chưa thể khẳng định tác giả đích thực của cuốn sách nhưng không thể phủ nhận rằng giá trị của cuốn sách đối với những nghiên cứu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này, ngày càng có nhiều sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch vẫn được coi là cuốn sách đầu tiên, được tin cậy nhất và sách này luôn được tham khảo như một nguồn tư liệu gốc. Hầu hết mọi người cho rằng nguồn tin của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức là chính thống nên chắc hẳn là chính xác. Tuy nhiên nhiều đối tượng thù địch, phản động, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam vớ được mẩu thông tin này lại như thể mèo mù vớ được cá rán. Chúng vin vào những dòng ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuốn sách để nêu những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt thông tin sai lệch nhằm bôi nhọ hình tượng Hồ Chí Minh, nhưng tất cả những âm mưu đó đều thất bại.
Trong tác phẩm - công trình nghiên cứu kéo dài hơn 10 năm, mang tên Hồ Chí Minh - The Missing Years (tạm dịch là “Hồ Chí Minh - Những năm tháng chưa được biết đến”) của Tiến sỹ triết học và lịch sử người Mỹ Sophie Quinn-Judge có đánh giá cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch như sau: “Tuy nó được dựa trên sự thật, những điều nó bỏ qua hay tô vẽ thêm, và việc khẳng định phẩm chất vô sản của Hồ Chí Minh đã biến cuốn sách thành một yếu tố tạo ra huyền thoại về ông hơn là một sử liệu nghiêm túc” (5).
Nhà sử học Dương Trung Quốc nói về cuốn sách như sau: “Cuốn sách ấy không thể nói là đã “làm thay đổi cuộc đời tôi”, song đã tạo một cái hích nhẹ và hướng tôi bước vào ngả đường nghề nghiệp mà vào thời điểm đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Cuốn sách “không phải là sử” ấy thật sự gây ấn tượng với tôi. Sau này khi đã thâm niên trong nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội đọc và gặp nhiều người nước ngoài, có người thuần túy là nhà nghiên cứu, có người là nhân chứng lịch sử, cũng có người là cả hai. Tôi đã nghe và đọc được rất nhiều cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về cuốn sách này và nhân vật của sách. Cuốn sách nhỏ thật sự đã “dẫn tôi vào đời” nghề nghiệp để hướng tới cái khao khát muốn tìm ra những gương mặt thật đã tạo nên một lịch sử thật”(6).
Cuốn Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch từ khi được xuất bản lần đầu vào cuối thập kỷ 1940 đến nay đã qua gần bảy thập kỷ, được nhiều nhà xuất bản tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách trở thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung cấp nhiều tư liệu về cuộc đời hoạt động của Bác từ những ngày thơ ấu, về quê hương, gia đình, về quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, trong đó nhiều chi tiết là tư liệu gốc hoặc duy nhất. Tác phẩm đã khẳng định hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và trở thành cẩm nang cho nhiều nhà nghiên cứu cũng như độc giả trong, ngoài nước.
Chú thích:
(1) Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, tác giả Cổ pháp cố sự, Chuyện làng Đình Bảng xưa
(2) Website Tạp chí Văn hóa Nghệ An http://vanhoanghean.vn
(3) Hà Minh Đức, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr132
(4) Website Tạp chí Cộng sản http://www.tapchicongsan.org.vn
(5) Hồ Chí Minh: The Missing Years (1919-1941), University of California Press , Berkeley Los Angeles 2002, tr255
(6) Chuyên mục “Quyển sách thay đổi cuộc đời”, website báo Tuổi trẻ
Bản quyền thuộc: Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (Cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 226 - 08 043 315 Fax: 08 043 064 Email: khuditichphuchutich@cpt.gov.vn Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2 và chiều thứ 6). Sáng từ: 8h đến 11h. Chiều từ: 13h30' đến 16h
---
BỔ SUNG
1.
Bản chép ngày 11/5/2019
(tức là bản chép lại sau 5 năm; nhìn lại thì thầy: 5 năm trước mới có 514 lượt xem, còn bây giờ thì đã có 6177 lượt xem)
Tìm hiểu về tác giả Trần Dân Tiên
20 Tháng Năm 2014 / 6177 lượt xem
Nguyễn Thị Thu Hằng
Phòng HC-TH
Cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch xuất bản lần đầu tiên tại Trung Quốc, sau đó là tại Paris (Pháp) và đến năm 1955 mới được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Hà Nội, sau đó được tái bản nhiều lần.
Trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (8) năm 1990, trong bài viết “Bài thơ chữ Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh”, tác giả Phác Can, có một ghi chú về cuốn sách của Trần Dân Tiên như sau: “Ngoài các bản tiếng Việt, cuốn sách này ở Việt Nam hiện còn có bản dịch Trung văn, mang tiêu đề Hán là Hồ Chí Minh truyện (Tiểu sử Hồ Chí Minh) ghi tên tác giả bằng chữ tiếng Việt là Trần Dân Tiên, ghi tên người dịch bằng chữ Hán là Trương Niệm Thức, Bát nguyệt xuất bản xã ấn hành tại Thượng Hải, do công ty hữu hạn ấn loát Gia Hoa in lần thứ nhất vào tháng 6/1949 dưới thời Tưởng Giới Thạch.”
Tác giả cuốn tiểu sử nổi tiếng trên là Trần Dân Tiên, đây cũng là tác phẩm duy nhất đã được biết đến của tác giả này. Mục đích cuốn sách ra đời vào thời điểm đó để trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh là ai?”. Thông qua lời kể của một nhà báo có bút danh Trần Dân Tiên, người đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những ngày đầu nước nhà độc lập, cuộc đời của nhà cách mạng và là người đứng đầu nhà nước Việt Nam độc lập được kể lại qua “những mẩu chuyện” như tên gọi của sách. Có lẽ việc xây dựng và củng cố hình ảnh về lãnh tụ Hồ Chí Minh được hình thành khởi đầu từ cuốn sách này vì trước đó cái tên Hồ Chí Minh rất mơ hồ với nhiều người với các tên gọi khác nhau. Qua cuốn sách này, tác giả muốn nhấn mạnh rằng tất cả các bí danh đó đều cùng là một người duy nhất – Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, hay Hồ Chủ tịch. Nội dung cuốn sách viết về Hồ Chủ tịch với các chi tiết sống động khiến độc giả thích thú, trừ cái tên Trần Dân Tiên là gây nhiều tranh cãi. Tác giả Trần Dân Tiên thực sự là ai? Những ý kiến về vấn đề này được chia làm hai luồng: Luồng ý kiến thứ nhất dựa vào phong cách của Hồ Chí Minh, đó là không bao giờ tự nói về mình, cho rằng cuốn sách này không phải do Hồ Chí Minh viết. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng Trần Dân Tiên chính là một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đối với luồng ý kiến thứ nhất
Theo lời kể của ông Nguyễn Khôi (1), nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội, thì cuốn sách ra đời trong lúc cả trong nước và ngoài nước, cả kẻ địch và nhân dân đều ít ai biết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà chỉ biết Nguyễn Ái Quốc, vì thế theo sáng kiến của ông Hoàng Quốc Việt, Thường vụ Trung ương Đảng gợi ý cho ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền viết giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, ông Trần Huy Liệu giao cho ông Vũ Đình Huỳnh, thư ký trợ lý của Bác chắp bút, xong bản thảo thì ông Trần Huy Liệu sửa, viết bổ sung rồi qua các ông Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh đọc duyệt cho ý kiến để hoàn thiện, xuất bản. Tên bút danh Trần Dân Tiên có ý nghĩa: người công dân đầu tiên họ Trần của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Họ Trần có thể là gợi nhắc về gốc gác của những người chắp bút (Vũ Đình Huỳnh, Trần Huy Liệu, Trường Chinh) đều là người quê Vua Trần - Trần Hưng Đạo (
Tuy nhiên đó cũng chỉ là những chuyện kể mà ông Nguyễn Khôi nghe được ở các vị thủ trưởng, các bậc đàn anh nói chuyện với nhau qua những lần tiếp xúc trong những câu chuyện dọc đường công tác kể chuyện về Bác, không phải là cứ liệu trên giấy trắng mực đen.
Đối với luồng ý kiến thứ hai
Trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên đã chọn cách tìm gặp gỡ những người đã từng quen biết với Hồ Chí Minh để hỏi chuyện, thu thập tài liệu rồi viết nên tác phẩm này, nhưng người ta tin rằng thực ra nó là tự truyện. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức năm 1985 từng viết rằng: “...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Thật là khó khăn để trong khuôn khổ 150 trang sách nhỏ, có thể nói được về cuộc đời của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại của dân tộc trên suốt nửa thế kỷ đấu tranh…” (3). Ông Hà Minh Đức chú thích rằng thông tin này được lấy từ cuốn Những sự kiện lịch sử Đảng, nhà xuất bản Sự Thật, năm 1976, tập 1, trang 672. Và sau một phần tư thế kỉ, trong cuốn sách Sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh, trang 316, nhà xuất bản Khoa học xã hội 2010, ông vẫn giữ nguyên quan điểm từ năm 1985.
Mặt khác, trong bài viết Việt Nam, nhận thức và ứng xử với vấn đề tôn giáo của tác giả Mạc Thủy đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử có đoạn: “...Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên - Hồ Chí Minh: “Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao....” (4).
Trước lời giới thiệu về cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, in lần thứ hai, năm 1976, trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên, nhà xuất bản Sự Thật - cơ quan xuất bản văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam - đã viết lời dẫn nhập như sau: “... Trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, Hồ Chủ tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới…”. Nhà xuất bản không thể không biết rõ lai lịch của cuốn sách, lý lịch của người viết vì nếu không biết tác giả cuốn sách là ai thì không thể in trong nước và để các nhà xuất bản nước ngoài xuất bản rộng rãi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Hơn nữa, một khi sách đã xuất bản thì dù tên tác giả có là bút danh chăng nữa thì cũng cần có một người thực với tên tuổi rõ ràng để nhà xuất bản trả nhuận bút.
Đôi điều trao đổi
Theo luồng ý kiến thứ nhất, Trần Dân Tiên là một nhà báo thì không có gì phải bàn luận.
Theo luồng ý kiến thứ hai, có thể lí giải:
Vào thời điểm những năm 1940, hiểu biết về thân thế của Hồ Chủ tịch rất ít, do vậy, cần có một tài liệu tuyên truyền trong nhân dân trong nước và giới thiệu với bạn bè quốc tế về những hoạt động cách mạng của Người. Lúc bấy giờ Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa được Liên Xô công nhận, còn nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì đến tháng 10/1949 mới được thành lập. Do đó, tài liệu này một mặt để tuyên truyền về cuộc cách mạng ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam, mặt khác tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Ra đời trong hoàn cảnh như thế, cuốn sách đã rất có ích cho cách mạng Việt
Ông Vũ Kỳ - thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngay sau những ngày đầu thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi, cũng từng nói rằng Bác Hồ không muốn nhắc nhiều đến bản thân mình. Xuất bản một cuốn sách nói về mình, thiết nghĩ Hồ Chủ tịch cũng không muốn nhưng Người cho rằng đó là một điều cần làm trong hoàn cảnh lịch sử ấy. Bất cứ cuộc cách mạng nào cũng cần có một lãnh tụ, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ vấn đề này. Mặt khác, khi Trung ương Đảng đã quyết định lựa chọn để suy tôn Người, là một Đảng viên, việc Người chấp hành quyết định của tổ chức là điều đương nhiên. Vào thời kỳ bấy giờ, nhằm mục đích tuyên truyền về cuộc kháng chiến của dân tộc và người lãnh đạo cuộc cách mạng, có nhiều văn nghệ sỹ cũng đã vinh dự được giao nhiệm vụ khắc họa chân dung Bác như nhà điêu khắc Vũ Cao Đàm, Diệp Minh Châu, nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn, họa sĩ Phan Kế An, nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Đăng Định và các nhà điêu khắc của Đức, Nga… Thấu hiểu đây cũng là một yêu cầu chính trị quan trọng như những nhiệm vụ khác, nên Người thường chủ động tạo điều kiện cho các họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà báo, quay phim có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất. Tuy nhiên ở thời điểm vận nước nguy nan như thế, nhiều khả năng Chủ tịch Hồ Chí Minh không có thời gian để chắp bút mà có thể là những cán bộ thân cận, cốt cán nghe Bác kể những mẩu chuyện, những tâm sự của Người, sau đó ghi chép lại, tập hợp thành cuốn sách. Trong hoàn cảnh rất ít người biết về cuộc đời và những hoạt động cách mạng của Bác thì còn ai kể chính xác hơn chính bản thân Người?
Về cách dẫn dắt câu chuyện trong vai một nhà báo muốn tìm cách phác họa chân dung Hồ Chủ tịch, theo quan điểm của tác giả bài viết này, có thể đó là sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nên hiểu đó chỉ là một cách tác giả lựa chọn để đưa độc giả đi vào nội dung cuốn sách một cách tự nhiên. Khi viết truyện ngắn Vi hành nhân chuyến đi Pháp của vua Khải Định, Nguyễn Ái Quốc đã từng dùng hình thức nhập vai một người anh gửi thư cho cô em họ, kể lại những điều tai nghe mắt thấy về chuyến đi của Khải Định; trong loạt bài Nhật ký hành trình của Hồ Chủ tịch 4 tháng sang Pháp, Người lấy bút danh là Đ.H, viết thư cho hai cô em Xuân và Lan, kể rằng mình được theo Cụ Hồ sang Pháp, đồng thời ghi lại hành trình để cho các em mình biết; trong truyện ngắn Giấc ngủ mười năm, lấy bút danh Trần Lực, Bác nhập vai một anh Vệ quốc quân người dân tộc Nùng; trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, với bút danh T.Lan, Bác lại vào cả hai vai người hỏi chuyện – người trả lời.
Về những dòng ca ngợi Hồ Chủ tịch trong cuốn sách, theo quan điểm của tác giả bài viết này, đó là do những đồng chí biên tập các câu chuyện đã viết thêm vào để tuyên truyền, định hướng trong nhân dân và giới thiệu với bạn bè quốc tế biết tình cảm kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ cách mạng của dân tộc.
Lời kết còn bỏ ngỏ?
Theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh thì trong 170 bút danh, bí danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ hoạt động và 17 bí danh, bút danh đang được nghiên cứu xác minh thêm cũng không có tên Trần Dân Tiên. Bởi vậy, đây có thể là bút hiệu của một tập thể tác giả? Nếu đúng như vậy, việc hình thành tác phẩm, từ ý tưởng tới bản thảo đầu tiên đến tác phẩm hoàn thành, là một quá trình làm việc của cả một tập thể trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh là người xem xét sau cùng để chỉnh lại cho đúng những chi tiết còn chưa chính xác. Bài viết nổi tiếng Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân tháng 2/1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được hình thành qua những bước tương tự. Bản thảo lần thứ nhất do đồng chí Tố Hữu chuẩn bị theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cuối năm 1968. Sau khi bản dự thảo lần đầu được sửa chữa, Người cho đánh máy thành nhiều bản gửi đến từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị yêu cầu nghiên cứu và góp ý kiến. Bước thứ ba hình thành bản thảo là tập hợp các ý kiến góp ý của các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, bổ sung và sửa lần cuối để hoàn thành.
Tuy chưa thể khẳng định tác giả đích thực của cuốn sách nhưng không thể phủ nhận rằng giá trị của cuốn sách đối với những nghiên cứu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này, ngày càng có nhiều sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch vẫn được coi là cuốn sách đầu tiên, được tin cậy nhất và sách này luôn được tham khảo như một nguồn tư liệu gốc. Hầu hết mọi người cho rằng nguồn tin của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức là chính thống nên chắc hẳn là chính xác. Tuy nhiên nhiều đối tượng thù địch, phản động, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam vớ được mẩu thông tin này lại như thể mèo mù vớ được cá rán. Chúng vin vào những dòng ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuốn sách để nêu những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt thông tin sai lệch nhằm bôi nhọ hình tượng Hồ Chí Minh, nhưng tất cả những âm mưu đó đều thất bại.
Trong tác phẩm - công trình nghiên cứu kéo dài hơn 10 năm, mang tên Hồ Chí Minh - The Missing Years(tạm dịch là “Hồ Chí Minh - Những năm tháng chưa được biết đến”) của Tiến sỹ triết học và lịch sử người Mỹ Sophie Quinn-Judge có đánh giá cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịchnhư sau: “Tuy nó được dựa trên sự thật, những điều nó bỏ qua hay tô vẽ thêm, và việc khẳng định phẩm chất vô sản của Hồ Chí Minh đã biến cuốn sách thành một yếu tố tạo ra huyền thoại về ông hơn là một sử liệu nghiêm túc” (5).
Nhà sử học Dương Trung Quốc nói về cuốn sách như sau: “Cuốn sách ấy không thể nói là đã “làm thay đổi cuộc đời tôi”, song đã tạo một cái hích nhẹ và hướng tôi bước vào ngả đường nghề nghiệp mà vào thời điểm đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Cuốn sách “không phải là sử” ấy thật sự gây ấn tượng với tôi. Sau này khi đã thâm niên trong nghề nghiệp, tôi có nhiều cơ hội đọc và gặp nhiều người nước ngoài, có người thuần túy là nhà nghiên cứu, có người là nhân chứng lịch sử, cũng có người là cả hai. Tôi đã nghe và đọc được rất nhiều cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về cuốn sách này và nhân vật của sách. Cuốn sách nhỏ thật sự đã “dẫn tôi vào đời” nghề nghiệp để hướng tới cái khao khát muốn tìm ra những gương mặt thật đã tạo nên một lịch sử thật”(6).
Cuốn Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch từ khi được xuất bản lần đầu vào cuối thập kỷ 1940 đến nay đã qua gần bảy thập kỷ, được nhiều nhà xuất bản tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách trở thành một trong những tác phẩm quan trọng nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh, cung cấp nhiều tư liệu về cuộc đời hoạt động của Bác từ những ngày thơ ấu, về quê hương, gia đình, về quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, trong đó nhiều chi tiết là tư liệu gốc hoặc duy nhất. Tác phẩm đã khẳng định hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc Việt
Chú thích:
(1) Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, tác giả Cổ pháp cố sự, Chuyện làng Đình Bảng xưa
(2) Website Tạp chí Văn hóa Nghệ An http://vanhoanghean.vn
(3) Hà Minh Đức, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr132
(4) Website Tạp chí Cộng sản http://www.tapchicongsan.org.vn
(5) Hồ Chí Minh: The Missing Years (1919-1941), University of California Press , Berkeley Los Angeles 2002, tr255
(6) Chuyên mục “Quyển sách thay đổi cuộc đời”, website báo Tuổi trẻ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=631&sitepageid=417#sthash.5YuxOTqf.JV1e5QyZ.dpbs
Bản quyền thuộc: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Địa chỉ: Số 1 - Hoàng Hoa Thám (Cổng Đỏ) - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 08 044 287 - 08 043 315 Fax: 08 043 064
Email: nhasanbacho.pct@gmail.com
Khu di tích mở cửa tất cả các ngày trong tuần (trừ chiều thứ 2).
Mùa đông: Sáng: 8h -11h. Chiều: 13h30 - 16h
Mùa hè: Sáng: 7h30 -11h. Chiều: 13h30 - 16h
Mùa đông: Sáng: 8h -11h. Chiều: 13h30 - 16h
Mùa hè: Sáng: 7h30 -11h. Chiều: 13h30 - 16h
2.
Hội thảo khoa học "Tuyên ngôn Độc lập - Giá trị dân tộc và thời đại" (28/8/2015)
31 Tháng Tám 2015 / 1324 lượt xem
Cách đây 70 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại, đã lãnh đạo toàn dân tiến hành Tổng Khởi nghĩa tháng Tám thành công, lập ra chính quyền cách mạng trong cả nước. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước toàn thể đồng bào trong nước và nhân dân thế giới.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (9/1945-9/2015), sáng ngày 28/8/2015, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã phối hợp tổ chức Hội thảo Khoa học “Tuyên ngôn Độc lập - Giá trị dân tộc và thời đại”.
Tới dự Hội thảo có Lãnh đạo Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, đại diện các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp, các bạn sinh viên Đại học Thủ đô, cùng các cơ quan thông tấn, báo chí của Trung ương và Hà Nội đến dự và đưa tin về Hội thảo này.
Với 45 bài tham luận của các Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ, các nhà khoa học của 3 đơn vị đã góp phần làm rõ hơn thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám và hoàn cảnh ra đời, nội dung, giá trị của Tuyên ngôn Độc lập đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua và sự phát triển của tư tưởng nhân loại.
Hội thảo là một hoạt động thiết thực chào mừng Kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập đối với dân tộc Việt Nam và thời đại. Đồng thời, góp phần vào việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hội thảo đạt hiệu quả cao và đã thành công tốt đẹp.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (9/1945-9/2015), sáng ngày 28/8/2015, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã phối hợp tổ chức Hội thảo Khoa học “Tuyên ngôn Độc lập - Giá trị dân tộc và thời đại”.
Tới dự Hội thảo có Lãnh đạo Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, đại diện các cơ quan hữu quan, các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp, các bạn sinh viên Đại học Thủ đô, cùng các cơ quan thông tấn, báo chí của Trung ương và Hà Nội đến dự và đưa tin về Hội thảo này.
Với 45 bài tham luận của các Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ, các nhà khoa học của 3 đơn vị đã góp phần làm rõ hơn thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám và hoàn cảnh ra đời, nội dung, giá trị của Tuyên ngôn Độc lập đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua và sự phát triển của tư tưởng nhân loại.
Hội thảo là một hoạt động thiết thực chào mừng Kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập đối với dân tộc Việt Nam và thời đại. Đồng thời, góp phần vào việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Hội thảo đạt hiệu quả cao và đã thành công tốt đẹp.
Đồng chí Đỗ Hoàng Linh - Phó Giám đốc Khu Di tích đọc bài tham luận với chủ đề: "Bối cảnh quốc tế và thời cơ lịch sử của cách mạng tháng Tám năm 1945" |
Đồng chí Nguyễn Thị Bình - Phòng TTGD Khu Di tích đọc bài tham luận với chủ đề: "Thắng lợi của cách mạng tháng Tám - sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp" |
Đồng chí Nguyễn Thị Thu Hằng - Cán bộ Khu Di tích đọc bài tham luận với chủ đề: "Từ Tuyên ngôn độc lập (Mỹ) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (Pháp) đến Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa" |
Tin và ảnh: Đặng Quang Huy
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/articledetail.aspx?articleid=772&sitepageid=550#sthash.TUd4lUbv.dpbs
3.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Trung Hoa
27 Tháng Năm 2015 / 19491 lượt xem
Nguyễn Thị Thu Hằng
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Nhận định về mối quan hệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với văn hóa các nước nói chung, Nghị quyết 24C/18.6.5 của Khóa họp Ðại Hội đồng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO lần thứ 24 tại Pa-ri, từ ngày 20/10 - 20/11/1987 nêu rõ: “Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”. Bên cạnh cốt lõi là sự kết tinh truyền thống dân tộc, ở Hồ Chí Minh còn có sự tiếp biến văn hóa từ quá trình tìm tòi, học hỏi nhiều nền văn hóa thế giới, trong đó không thể không nhắc tới nền văn hóa của nước bạn láng giềng gần gũi là Trung Hoa. Mối liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nền văn hóa Trung Hoa khẳng định sự gặp gỡ và tiếp biến của tinh hoa nhân loại để làm phong phú thêm vốn văn hóa dân tộc vốn rất bền chặt, sâu sắc trong con người Hồ Chí Minh.
Mối liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đất nước và văn hóa Trung Hoa
Ngay từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống trong môi trường giáo dục của Nho giáo du nhập vào Việt Nam. Người được sinh ra trên quê hương xứ Nghệ - mảnh đất địa linh nhân kiệt vốn nổi tiếng về nho học, trong gia đình mà cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc là nhà khoa bảng được đào tạo nơi "cửa Khổng sân Trình". Người đã được cha dạy những bài học đầu tiên về chữ Hán. Thời gian học tại trường Quốc học (Huế), Người tiếp tục được truyền thụ sách vở Nho giáo. Sự gặp gỡ, tiếp xúc với những nhà nho - bạn bè cùng chí hướng của cha cũng để lại ảnh hưởng về cốt cách, tư tưởng đến Người. Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã tự giới thiệu: “Tôi xuất thân trong một gia đình nhà nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc cũng ghi trong lý lịch: “Thành phần gia đình nhà nho” (1). Có thể nói tinh thần Nho giáo đã để lại dấu ấn đầu tiên, sâu sắc trong tâm hồn người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc.
Trong cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những giai đoạn hoạt động ở Trung Quốc, Người có nhiều điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn. Tháng 9/1924, văn phòng Ban Bí thư quốc tế cộng sản ra quyết định điều động Nguyễn Ái Quốc đi Quảng Châu. Người tìm đến làm phiên dịch cho ông Bôrôđin, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và của Chính phủ Quảng Châu. Thời gian này, Người trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận Mác - Lênin vào trong nước và đến năm 1930, chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam. Cuối nǎm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông, trở lại Liên Xô. Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Cuối nǎm 1940, Nguyễn Ái Quốc về sát biên giới Việt - Trung, bắt liên lạc với tổ chức Đảng và sau 30 năm bôn ba xứ người, mùa xuân Tân Tỵ (năm 1941), Người đã trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Ngày 13/5/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai và tháng 8/1942 bị bắt giữ ở Túc Vinh. Kể từ đó, Người bị giải qua 18 nhà tù của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây. Nhờ sự giúp đỡ can thiệp từ nhiều phía, ngày 10/9/1943, Người được đưa ra khỏi nhà tù nhưng vẫn bị quản thúc. Trong thời gian này, Tư lệnh chiến khu IV Trương Phát Khuê đã yêu cầu Người hợp tác với tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Người đã đồng ý. Ngày 23/11/1943, Người được đón về trụ sở của Việt Nam cách mạng đồng minh hội ở Liễu Châu để nhận công tác. Sau đại hội cách mạng hải ngoại ngày 28/3/1944, Người đã làm kế hoạch về Việt Nam công tác để phát triển tổ chức. Ngày 9/8/1944, Người được chính thức tự do và được cấp phép trở về Việt Nam. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh nhiều lần sang thăm hữu nghị Trung Quốc để thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa hai nước Việt - Trung.
Xuất phát từ quan hệ lịch sử mật thiết trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của hai nước Việt - Trung mà mối liên hệ với đất nước và nền văn hóa Trung Hoa của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thêm gắn bó. Những năm 1920, Quảng Châu được coi là “Mạc Tư Khoa của phương Đông”, với sự giúp đỡ đắc lực của Chính phủ cách mạng Tôn Trung Sơn, Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa đã được thành lập mà Lý Thụy là nhân vật chủ chốt. Sau này, trong bài Tôn Dật Tiên tạ thế, Người không quên “nhắc nhở người Việt Nam cần nhớ rằng trên mảnh đất Hoa Nam những người yêu nước Việt Nam sống trong cảnh lưu vong, hy sinh mọi hưởng thụ để lo việc cứu giống nòi, đã tìm thấy nơi quê hương Tôn Dật Tiên một sự che chở, một lò rèn luyện để giữ vững niềm tin và ý chí cứu nước” (2). Trong thời gian cả nước kháng chiến chống Pháp, tháng 1/1950, với mong muốn phát triển mối quan hệ ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế nhằm đẩy nhanh kháng chiến đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị chuyến công du ngoại giao bí mật thăm Trung Quốc, Liên Xô. Trong chuyến đi này, với nhãn quan chính trị sắc bén và tài ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho bạn hiểu rõ cách mạng Việt Nam, từ đó thiết lập được mối quan hệ chiến lược Việt - Xô - Trung, mang tầm ảnh hưởng to lớn và thường xuyên đến cách mạng Việt Nam trong nhiều thập niên sau đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tinh hoa triết học Trung Hoa để hình thành tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đậm đà bản sắc phương Đông và tinh thần thời đại.
Nền văn hóa Trung Quốc là một di sản đồ sộ, có nhiều giai đoạn với những nhà văn hóa lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần xã hội. Trong hàng loạt những nhân vật ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nhiều hơn cả đến Khổng Tử, Tôn Tử thời cổ đại, đến các nhà thơ Đường thời trung đại, đến Tôn Trung Sơn và Lỗ Tấn thời hiện đại. Ở các nhân vật lịch sử này, Người tìm thấy sự gặp gỡ về lí tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức và nghệ thuật.
Tư tưởng Mác-xít – Lê-nin-nít của Chủ tịch Hồ Chí Minh sở dĩ có sắc thái độc đáo bởi tư tưởng Mác-xít – Lê-nin-nít đã được xây dựng và phát triển trên mảnh đất truyền thống dân tộc, mà trong những truyền thống tốt đẹp ấy, yếu tố Nho giáo chiếm một vị trí không nhỏ. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có những nét của con người lý tưởng Nho giáo. Người khẳng định: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”(3). Nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến những giá trị đạo đức của Nho giáo một cách trân trọng. Người nhắc đến vế thứ nhất trong bốn vế liên hoàn của đạo đức chính trị Nho gia (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) và đặc biệt đề cao sự tu dưỡng đạo đức cách mạng theo nhiều khái niệm rút trong kho tàng đạo đức của Nho giáo nhưng đã được suy rộng thêm cho phù hợp với thời đại. Có lẽ bởi Nho giáo nguyên thủy mang nhiều yếu tố nhân văn và dân chủ nhất, có thể xem như một lý thuyết về luân lý của phương Đông, răn dạy con người sống đúng đạo, có trách nhiệm - những tín điều rất gần gũi với văn hóa bản địa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo các ý niệm và mệnh đề của Khổng Mạnh vốn rất quen thuộc, lồng ghép vào những khái niệm cũ tinh thần của thời đại để giáo dục đạo đức cách mạng. Người đã phát triển hàm nghĩa Trung, Hiếu – phạm trù cốt lõi của đạo đức Nho giáo: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua sai khiến bề tôi bằng lễ, bề tôi phụng vua bằng trung - sách Luận Ngữ); “Hiếu sự thân; thân dĩ thính mệnh” (Hiếu để phụng thờ song thân, thuận để vâng lời người trên - sách Lễ ký), thành phạm trù của đạo đức cách mạng với một ý nghĩa hợp thời đại là “Trung với nước, Hiếu với dân”, “Trung với Đảng, Hiếu với dân”. Ngày 3/3/1951, trong lời kết thúc lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Các đảng viên cộng sản phải là những người mà giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đó tức là câu của Mạnh Tử nói về phẩm cách của người đại trượng phu: “Phú bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Am hiểu binh pháp Tôn Tử, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vận dụng tư tưởng quân sự này vào chiến tranh du kích ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phép dùng binh của ông Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng những nguyên tắc của ông đến nay vẫn còn rất đúng. Những nguyên tắc dùng binh của Tôn Tử chẳng những đúng về quân sự, mà dùng về chính trị cũng rất hay” (4). Người biên soạn cuốn Chiến thuật du kích trong những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền và đầu năm 1945, Người lại viết 13 bài đăng trên báo Cứu quốc về cách dùng binh của Tôn Tử để huấn luyện cho nhân dân và bộ đội.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm tòi nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các học thuyết trong đó có chủ nghĩa Tam dân với đường lối chính trị: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc của Tôn Trung Sơn và tìm thấy sự gặp gỡ về tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc: “Trong tất cả các lý luận cách mạng, ông Nguyễn cảm thấy chủ nghĩa Tôn Văn là thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam… Đây là cái mà Nguyễn Ái Quốc tìm kiếm”(5). Ba nguyên tắc “thích hợp nhất với hoàn cảnh Việt Nam” này cũng chính là ba mặt cấu thành tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đồng thời nhiều lần Người nhấn mạnh: có độc lập tự do mà dân không hạnh phúc thì tự do ấy cũng không có nghĩa lý gì.
Bên cạnh tư tưởng chủ đạo về giải phóng dân tộc và tu dưỡng đạo đức cách mạng đã nói ở trên, còn nhiều tư tưởng và nguyên tắc ứng xử của cổ nhân Trung Hoa được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt, sáng tạo trong những hoàn cảnh khác nhau. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, trước khi đi Người dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy sự không thay đổi để đối phó với mọi sự thay đổi). Đây là một mệnh đề tinh túy trong triết học nhân sinh của Kinh Dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững nguyên tắc lấy điều không thể thay đổi là chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc để ứng phó với muôn sự đổi thay trong quá trình đi lên của cách mạng để lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, từng bước đi tới thắng lợi. Hay như đề cập đến vấn đề giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dùng câu nói của Quản Trọng trong sách Quản tử “Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc/ Thập niên chi kế mạc như thụ mộc/ Chung thân chi kế mạc như thụ nhơn” (Kế một năm, chi bằng trồng lúa/ Kế 10 năm, chi bằng trồng cây/ Kế trọn đời, chi bằng trồng người) và Việt hóa theo cách của mình để nhắc nhở về tầm quan trọng của sự nghiệp trồng người: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích và tìm hiểu về lịch sử, văn hóa nghệ thuật Trung Hoa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích nền văn hóa Trung Hoa nên nhiều nhân vật lịch sử và nhà tư tưởng để lại dấu ấn đậm nét trong trí nhớ của Người. Người nhắc tới những ấn tượng sâu sắc về các tín điều Nho giáo: “Bác gần 80 tuổi rồi mà vẫn còn nhớ hình ảnh ông Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ trong sách giáo khoa ngày xưa”. Có lần, Bác hỏi một cán bộ chính trị: “Chú còn nhớ những chuyện Nhị thập tứ hiếu không? Bác gần 80 tuổi rồi mà vẫn nhớ chuyện ông Lão Lai, vợ chồng Quách Cự, chú bé Hán Lục Tích hiếu thảo với cha mẹ như thế nào” (6).
Về văn học Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích thơ Đường và các tác phẩm của nhà văn Lỗ Tấn. Người “thích đọc Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Quốc” vì sự gần gũi trong quan niệm văn chương phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người đã trích dẫn câu nói của Lỗ Tấn để nói về người cách mạng và đảng cách mạng: “Nói về người cách mạng và đảng cách mạng, nhà đại văn hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ: “Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ/Phú thủ cam vi nhũ tử ngưu” (Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng). Nghìn lực sĩ có nghĩa là những địch mạnh, thí dụ lũ thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Cũng có nghĩa là sự khó khăn gian khổ. Các nhi đồng nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích quốc lợi dân” (7).
Trong thời gian thăm ngoại giao, đi nghỉ, hoặc chữa bệnh ở Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành thời gian đi thăm di tích lịch sử, thắng cảnh và tìm hiểu nghệ thuật truyền thống của nước bạn. Năm 1955, lần đầu tiên thăm chính thức Trung Quốc, đúng vào tết đoan ngọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm nhà lưu niệm Khuất Nguyên. Đến thăm Vạn Lý Trường Thành lúc trời rất nắng, Người vẫn hăng hái bước lên tận tầng lầu của phong hỏa đài trên đỉnh núi. Người thăm tháp Đại Nhạn ở Tây An, thăm mộ Tần Thủy Hoàng, thăm đền thờ Đỗ Phủ, thăm quê hương và đền thờ Khổng Tử. Người đến viếng lăng Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh, thăm ngôi nhà cũ của Chủ tịch Mao Trạch Đông ở Hồ Nam, thăm tất cả những nơi gắn bó với hoạt động cách mạng của Mao Trạch Đông lúc còn trẻ ở thành phố Trường Sa.
Đến công viên Tửu Tuyền, nghe giới thiệu về chén dạ quang bôi để uống rượu nho, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngâm bài thơ Lương châu khúc của nhà thơ đời Đường Vương Hàn “Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tỳ bà thượng mã thôi” (Rượu nho và chén dạ quang bôi/ Muốn uống nhưng tiếng tỳ bà giục giã lên đường). Người lại hỏi ở Tửu Tuyền có tỳ bà không, dạ quang bôi ở Tửu Tuyền có đặc điểm gì, và lúc rời Tửu Tuyền, trên xe lửa Người đã thưởng thức một ít rượu nho trong chén dạ quang bôi. Yêu thích phong cảnh đẹp, đến thăm nơi nào Người cũng yêu cầu được nghe giới thiệu về lịch sử, về truyền thuyết ở đó. Đầu tháng 10/1960, nghỉ ở Hải Nam, Người hỏi về truyền thuyết Lộ Hồi Đầu và lắng nghe một cách chăm chú. Người nói: “Ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam cũng có những truyền thuyết đẹp đẽ và cảm động như thế. Những truyền thuyết như thế phản ánh tâm hồn đẹp và ước mơ về cuộc sống tự do hạnh phúc của người lao động” (8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích nghệ thuật thư pháp và nhiều lần đề thơ trên giấy quyến lớn dùng cho thư họa. Người còn làm câu đối, viết thơ tặng bạn bè, đề chữ tặng khách sạn nơi Người nghỉ lại. Ở Hoàng Sơn, thấy đỉnh núi hình bảo tháp chưa có tên, Người nói: “Ta gọi nó là Luyện Đan tháp”. Người cầm bút viết năm chữ Hán “Hoàng Sơn phong cảnh hảo” và đề biển cho Quan Bộc Đình. Lúc rời Hoàng Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chùm thơ chữ Hán “Nhật ký Hoàng Sơn” tặng Phó Chủ tịch Đặng Tất Vũ, lời thơ thể hiện tình cảm chân thực, giản dị, không hào nhoáng, từng ý thấm đượm tình hữu nghị đậm đà dành cho nhân dân Trung Quốc. Những lúc thư giãn, Người xem hý kịch, ngâm thơ, xem văn nghệ, thăm triển lãm tranh sơn dầu của các họa sĩ ở Bắc Kinh. Thăm Diên An, nghe các nghệ sĩ biểu diễn bài ca của Thiểm Bắc, Người vui vẻ nói: “Dân ca Thiểm Bắc và những điệu múa Ương Ca càng nghe càng thích, càng xem càng say sưa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt nhịp và cùng hát vang những bài dân ca với nhân dân địa phương. Đây là những minh chứng sinh động về sự hiểu biết sâu sắc nền văn hóa Trung Hoa của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu ngôn ngữ Trung Hoa và sử dụng nhuần nhuyễn các hình thức nghệ thuật Trung Hoa trong các sáng tác văn thơ.
Tiếp xúc với Hán tự từ nhỏ lại hoạt động cách mạng ở Trung Quốc nhiều năm nên Chủ tịch Hồ Chí Minh rất am hiểu ngôn ngữ nước bạn. Trong mỗi hoàn cảnh, Bác đều có cách sử dụng tiếng Trung phù hợp. Nhận lời mời của Đài Phát thanh nhân dân Trung ương Trung Quốc, Người bày tỏ niềm vui mừng được nói chuyện với 600 triệu nhân dân nước bạn bằng tiếng phổ thông Trung Quốc. Người dùng giọng Tứ Xuyên để đọc lời bài dân ca Cô gái Tứ Xuyên đảm đang. Gặp nông dân ở Tùng Hóa, Người lại dùng tiếng Quảng Đông chào hỏi họ. Khả năng sử dụng thành thạo ngôn ngữ này được bộc lộ rõ nét hơn cả trong thơ chữ Hán của Người. Trong bài thơ Mộ chỉ với một chữ hồng ở câu thơ cuối “Xay hết lò than đã rực hồng”, tứ thơ đã sáng bừng. Trong nghệ thuật Đường thi, người ta gọi đây là “nhãn tự”, nó làm cân lại hai mươi bảy chữ khác chất chứa nỗi niềm tâm sự lúc chiều hôm.
Sinh thời, dù không bao giờ tự nhận là nghệ sĩ nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau những tác phẩm giữ vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Nói đến thơ Hồ Chí Minh không thể không nhắc đến mối liên hệ với thơ Đường. Nếu Lỗ Tấn và Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của tâm hồn nghệ sĩ luôn ấp ủ lý tưởng giải phóng dân tộc thì thơ chữ Hán Hồ Chí Minh và thơ Đường là sự gặp gỡ của thi pháp cổ điển. Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác nhiều thơ chữ Hán theo thể tứ tuyệt, thất ngôn hoặc ngũ ngôn – thể thơ phổ biến nhất trong thơ luật Đường. Các đề tài xuất hiện trong thơ Người như Thượng sơn, Nguyên tiêu, Đối nguyệt, Đăng sơn… cũng là đề tài quen thuộc trong thơ Đường. Đó đều là những sáng tác thể hiện mối giao cảm giữa con người và thiên nhiên bằng bút pháp gợi mà không tả, thoáng nhẹ, sâu lắng đầy âm vang thường thấy trong thơ Đường. Tìm hiểu về âm vang thơ Đường trong tập thơ Nhật ký trong tù, nhà thơ Quách Mạt Nhược nhận xét: “Có một số bài đặt lẫn vào thơ Đường Tống cũng không phân biệt được”. Tuy nhiên, thơ Hồ Chí Minh rất Đường ở bút pháp mà không Đường về tư tưởng. Bác mang lại cho phong thái bình tĩnh ung dung của thơ xưa một tinh thần thời đại. Nếu như thi nhân xưa ung dung vì ngộ đạo, nhập thiền, xa lánh cuộc đời thì người chiến sĩ Hồ Chí Minh lại ung dung vì nắm vững quy luật vận động đi lên của cuộc sống, luôn chủ động trong mọi hoàn cảnh. Đó là sức mạnh bình tĩnh, không khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử. Tinh thần này thể hiện rất rõ trong những sáng tác của Hồ Chí Minh mà tập thơ Nhật ký trong tù là điển hình. Cách sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển, đậm đà bút pháp Đường thi trong văn thơ như thế cho thấy văn hóa Trung Hoa từ chỗ là vốn tiếp thu từ bên ngoài đã ngấm vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, không cần gò ép, đối cảnh là sinh tình, là “thơ bay cánh hạc ung dung”. Thế nhưng dù với hình thức hoàn toàn Trung Hoa như thế, vẫn dễ dàng nhận thấy dấu ấn cá tính sáng tạo Hồ Chí Minh trong nhãn quan biện chứng của người nghệ sĩ chiến sĩ khi nói về sự chuyển mình, vận động của cảnh, của tình từ bóng tối ra ánh sáng. Nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: “Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng… Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng những nhà tư tưởng lỗi lạc và luôn yêu mến, quan tâm, động viên đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa của Trung Hoa.
Với lòng kính trọng sâu sắc và nguyện trở thành người học trò trung thực của Tôn Trung Sơn, trong bài Tôn Dật Tiên tạ thế gửi sang Paris đăng báo Người cùng khổ nhân ngày mất của ông (12/3/1925), Người bày tỏ tình cảm thương tiếc: “Chúng ta nghiêng mình trước thi hài một con người đã giải phóng 400 triệu đồng bào của mình khỏi ách chuyên chế phong kiến từ bao thế kỷ và bảo vệ đất nước của mình trước cuộc xâu xé của bọn đế quốc. Các dân tộc châu Á mất một người bạn. Cách mạng Nga mất một người đồng tình ủng hộ… Bản Di chúc của ông là lời kêu gọi đấu tranh chống kẻ thù…” (10). Tại Đại hội Quốc dân Đảng năm 1926 ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc với cái tên Vương Thành Đạt tham dự với tư cách Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản đã một lần nữa khẳng định tư tưởng và công lao của Tôn Trung Sơn.
Đối với văn nghệ sĩ Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi những lời ca, tiếng hát, vở kịch hay bức ảnh mà anh chị em tặng Người là món quà tinh thần đáng quý. Với thái độ trân trọng nghệ thuật và đóng góp của nghệ sĩ, Người xem các chương trình biểu diễn một cách say sưa và thích thú, Người cổ vũ, động viên nghệ sĩ trên sân khấu và quan tâm đến cuộc sống đời thường của anh chị em. Cuối năm 1961, sau khi xem đoàn ca múa tỉnh Vân Nam biểu diễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi diễn viên Đỗ Lệ Hoa lên sân khấu đứng giữa Người và Chủ tịch Mao Trạch Đông chụp một bức ảnh. Tháng 8/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời gia đình Đỗ Lệ Hoa cùng đi với Người thăm rừng đá Lộ Nam. Khi Đỗ Lệ Hoa tới, Người đã đợi sẵn ở cửa và gọi: “Cháu Đỗ Lệ Hoa, hoan nghênh cháu, cháu vẫn nhớ lần gặp đầu tiên của Bác cháu ta ở Bắc Kinh chứ?”. Người xem ảnh Đỗ Lệ Hoa rồi quay sang nhìn khuôn mặt Đỗ Lệ Hoa, ôn tồn hỏi: “Cháu ốm hay sao? Sắc mặt cháu hơi xanh”. Với giọng hiền từ, Người nói: “Diễn viên như các cháu là tài sản quý của đất nước, phải hết sức giữ gìn sức khỏe đấy”. Năm 1964, nhận bức ảnh chân dung do đồng chí Lục Văn Tuấn, phóng viên của báo ảnh Quảng Đông chụp, Người xem xong tỏ ý hài lòng và nói với Lục Văn Tuấn: “Cảm ơn đồng chí”. Sau khi về nước, Người gửi Lục Văn Tuấn tập thơ của mình với dòng chữ Hán đề phía ngoài “Hồ bá bá tặng” (Bác Hồ tặng). Ở Tùng Hóa, sau khi nghe diễn viên nổi tiếng Nghiêm Phượng Anh của đoàn kịch Mai Vàng tỉnh An Huy hát tặng bài dân ca, Người khen hay và ân cần hỏi thăm, rồi nói: “Đem nghệ thuật cống hiến cho nhân dân, động viên nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều đó tuyệt diệu biết bao” (11). Với phong cách quần chúng giản dị, cởi mở đôi khi, Người còn đề nghị các bạn Trung Quốc phổ thơ của Người.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhiều đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang thăm và biểu diễn tại Việt Nam như đoàn xiếc Chiến sĩ nhân dân giải phóng quân Trung Quốc, đoàn nghệ thuật ca múa Phương Đông... Ghi nhận tình cảm và sự đóng góp của văn nghệ sĩ Trung Quốc với Việt Nam, nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký lệnh tặng các bạn những danh hiệu cao quý. Những tình cảm yêu mến của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ làm công tác văn hóa Trung Quốc bắt nguồn từ tình thương yêu và quan tâm đến con người nói chung và thái độ trân trọng văn nghệ nói riêng. Lối cư xử gần gũi này không chỉ thắt chặt tình cảm giữa Người và văn nghệ sĩ Trung Quốc mà còn củng cố mối quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai nước Việt – Trung.
Trong hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trên nền tảng truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa để hình thành tư tưởng giải phóng dân tộc, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh vừa mang tinh thần thời đại, vừa đậm đà bản sắc Việt Nam. Cũng giống như sự gặp gỡ với văn hóa Pháp, văn hóa Xô viết, mối liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nền văn hóa Trung Hoa làm phong phú thêm vốn văn hóa dân tộc vốn rất bền chặt, sâu sắc trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh. Tuy rằng sinh thời Bác nói một cách khiêm tốn: “Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ” (12) nhưng đến nay thế giới đều chung nhận định rằng “người học trò nhỏ” này đã làm rạng danh quê hương đất nước và văn hóa dân tộc trong hành trình tìm tòi, sàng lọc, điều chỉnh và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại nói chung, văn hóa Trung Hoa nói riêng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chú thích:
(1), (2), (3), (7), (10) Lương Duy Thứ, Bác Hồ với văn hóa Trung Quốc, NXB Trẻ, tr30; tr55; tr10; tr59; tr55.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr 513.
(5), (12) Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh truyện, NXB Tam Liên, tháng 6/1949, tr 81; tr91.
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 15, tr.661.
(8) Đặng Quang Huy (biên soạn) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, tr 58.
(9) Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, tập 9, tr109.
(11) Đặng Quang Huy (biên soạn), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, tr 77.
Mối liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đất nước và văn hóa Trung Hoa
Ngay từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống trong môi trường giáo dục của Nho giáo du nhập vào Việt Nam. Người được sinh ra trên quê hương xứ Nghệ - mảnh đất địa linh nhân kiệt vốn nổi tiếng về nho học, trong gia đình mà cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc là nhà khoa bảng được đào tạo nơi "cửa Khổng sân Trình". Người đã được cha dạy những bài học đầu tiên về chữ Hán. Thời gian học tại trường Quốc học (Huế), Người tiếp tục được truyền thụ sách vở Nho giáo. Sự gặp gỡ, tiếp xúc với những nhà nho - bạn bè cùng chí hướng của cha cũng để lại ảnh hưởng về cốt cách, tư tưởng đến Người. Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã tự giới thiệu: “Tôi xuất thân trong một gia đình nhà nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng”. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc cũng ghi trong lý lịch: “Thành phần gia đình nhà nho” (1). Có thể nói tinh thần Nho giáo đã để lại dấu ấn đầu tiên, sâu sắc trong tâm hồn người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc.
Trong cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những giai đoạn hoạt động ở Trung Quốc, Người có nhiều điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa nước bạn. Tháng 9/1924, văn phòng Ban Bí thư quốc tế cộng sản ra quyết định điều động Nguyễn Ái Quốc đi Quảng Châu. Người tìm đến làm phiên dịch cho ông Bôrôđin, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và của Chính phủ Quảng Châu. Thời gian này, Người trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận Mác - Lênin vào trong nước và đến năm 1930, chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam. Cuối nǎm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông, trở lại Liên Xô. Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Cuối nǎm 1940, Nguyễn Ái Quốc về sát biên giới Việt - Trung, bắt liên lạc với tổ chức Đảng và sau 30 năm bôn ba xứ người, mùa xuân Tân Tỵ (năm 1941), Người đã trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Ngày 13/5/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai và tháng 8/1942 bị bắt giữ ở Túc Vinh. Kể từ đó, Người bị giải qua 18 nhà tù của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây. Nhờ sự giúp đỡ can thiệp từ nhiều phía, ngày 10/9/1943, Người được đưa ra khỏi nhà tù nhưng vẫn bị quản thúc. Trong thời gian này, Tư lệnh chiến khu IV Trương Phát Khuê đã yêu cầu Người hợp tác với tổ chức Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Người đã đồng ý. Ngày 23/11/1943, Người được đón về trụ sở của Việt Nam cách mạng đồng minh hội ở Liễu Châu để nhận công tác. Sau đại hội cách mạng hải ngoại ngày 28/3/1944, Người đã làm kế hoạch về Việt Nam công tác để phát triển tổ chức. Ngày 9/8/1944, Người được chính thức tự do và được cấp phép trở về Việt Nam. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh nhiều lần sang thăm hữu nghị Trung Quốc để thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa hai nước Việt - Trung.
Xuất phát từ quan hệ lịch sử mật thiết trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của hai nước Việt - Trung mà mối liên hệ với đất nước và nền văn hóa Trung Hoa của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thêm gắn bó. Những năm 1920, Quảng Châu được coi là “Mạc Tư Khoa của phương Đông”, với sự giúp đỡ đắc lực của Chính phủ cách mạng Tôn Trung Sơn, Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa đã được thành lập mà Lý Thụy là nhân vật chủ chốt. Sau này, trong bài Tôn Dật Tiên tạ thế, Người không quên “nhắc nhở người Việt Nam cần nhớ rằng trên mảnh đất Hoa Nam những người yêu nước Việt Nam sống trong cảnh lưu vong, hy sinh mọi hưởng thụ để lo việc cứu giống nòi, đã tìm thấy nơi quê hương Tôn Dật Tiên một sự che chở, một lò rèn luyện để giữ vững niềm tin và ý chí cứu nước” (2). Trong thời gian cả nước kháng chiến chống Pháp, tháng 1/1950, với mong muốn phát triển mối quan hệ ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế nhằm đẩy nhanh kháng chiến đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị chuyến công du ngoại giao bí mật thăm Trung Quốc, Liên Xô. Trong chuyến đi này, với nhãn quan chính trị sắc bén và tài ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho bạn hiểu rõ cách mạng Việt Nam, từ đó thiết lập được mối quan hệ chiến lược Việt - Xô - Trung, mang tầm ảnh hưởng to lớn và thường xuyên đến cách mạng Việt Nam trong nhiều thập niên sau đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tinh hoa triết học Trung Hoa để hình thành tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đậm đà bản sắc phương Đông và tinh thần thời đại.
Nền văn hóa Trung Quốc là một di sản đồ sộ, có nhiều giai đoạn với những nhà văn hóa lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần xã hội. Trong hàng loạt những nhân vật ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nhiều hơn cả đến Khổng Tử, Tôn Tử thời cổ đại, đến các nhà thơ Đường thời trung đại, đến Tôn Trung Sơn và Lỗ Tấn thời hiện đại. Ở các nhân vật lịch sử này, Người tìm thấy sự gặp gỡ về lí tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức và nghệ thuật.
Tư tưởng Mác-xít – Lê-nin-nít của Chủ tịch Hồ Chí Minh sở dĩ có sắc thái độc đáo bởi tư tưởng Mác-xít – Lê-nin-nít đã được xây dựng và phát triển trên mảnh đất truyền thống dân tộc, mà trong những truyền thống tốt đẹp ấy, yếu tố Nho giáo chiếm một vị trí không nhỏ. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có những nét của con người lý tưởng Nho giáo. Người khẳng định: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”(3). Nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến những giá trị đạo đức của Nho giáo một cách trân trọng. Người nhắc đến vế thứ nhất trong bốn vế liên hoàn của đạo đức chính trị Nho gia (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) và đặc biệt đề cao sự tu dưỡng đạo đức cách mạng theo nhiều khái niệm rút trong kho tàng đạo đức của Nho giáo nhưng đã được suy rộng thêm cho phù hợp với thời đại. Có lẽ bởi Nho giáo nguyên thủy mang nhiều yếu tố nhân văn và dân chủ nhất, có thể xem như một lý thuyết về luân lý của phương Đông, răn dạy con người sống đúng đạo, có trách nhiệm - những tín điều rất gần gũi với văn hóa bản địa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo các ý niệm và mệnh đề của Khổng Mạnh vốn rất quen thuộc, lồng ghép vào những khái niệm cũ tinh thần của thời đại để giáo dục đạo đức cách mạng. Người đã phát triển hàm nghĩa Trung, Hiếu – phạm trù cốt lõi của đạo đức Nho giáo: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua sai khiến bề tôi bằng lễ, bề tôi phụng vua bằng trung - sách Luận Ngữ); “Hiếu sự thân; thân dĩ thính mệnh” (Hiếu để phụng thờ song thân, thuận để vâng lời người trên - sách Lễ ký), thành phạm trù của đạo đức cách mạng với một ý nghĩa hợp thời đại là “Trung với nước, Hiếu với dân”, “Trung với Đảng, Hiếu với dân”. Ngày 3/3/1951, trong lời kết thúc lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Các đảng viên cộng sản phải là những người mà giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đó tức là câu của Mạnh Tử nói về phẩm cách của người đại trượng phu: “Phú bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Am hiểu binh pháp Tôn Tử, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vận dụng tư tưởng quân sự này vào chiến tranh du kích ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phép dùng binh của ông Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng những nguyên tắc của ông đến nay vẫn còn rất đúng. Những nguyên tắc dùng binh của Tôn Tử chẳng những đúng về quân sự, mà dùng về chính trị cũng rất hay” (4). Người biên soạn cuốn Chiến thuật du kích trong những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền và đầu năm 1945, Người lại viết 13 bài đăng trên báo Cứu quốc về cách dùng binh của Tôn Tử để huấn luyện cho nhân dân và bộ đội.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm tòi nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các học thuyết trong đó có chủ nghĩa Tam dân với đường lối chính trị: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc của Tôn Trung Sơn và tìm thấy sự gặp gỡ về tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc: “Trong tất cả các lý luận cách mạng, ông Nguyễn cảm thấy chủ nghĩa Tôn Văn là thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam… Đây là cái mà Nguyễn Ái Quốc tìm kiếm”(5). Ba nguyên tắc “thích hợp nhất với hoàn cảnh Việt Nam” này cũng chính là ba mặt cấu thành tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu nổi tiếng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đồng thời nhiều lần Người nhấn mạnh: có độc lập tự do mà dân không hạnh phúc thì tự do ấy cũng không có nghĩa lý gì.
Bên cạnh tư tưởng chủ đạo về giải phóng dân tộc và tu dưỡng đạo đức cách mạng đã nói ở trên, còn nhiều tư tưởng và nguyên tắc ứng xử của cổ nhân Trung Hoa được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt, sáng tạo trong những hoàn cảnh khác nhau. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, trước khi đi Người dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy sự không thay đổi để đối phó với mọi sự thay đổi). Đây là một mệnh đề tinh túy trong triết học nhân sinh của Kinh Dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững nguyên tắc lấy điều không thể thay đổi là chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc để ứng phó với muôn sự đổi thay trong quá trình đi lên của cách mạng để lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, từng bước đi tới thắng lợi. Hay như đề cập đến vấn đề giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dùng câu nói của Quản Trọng trong sách Quản tử “Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc/ Thập niên chi kế mạc như thụ mộc/ Chung thân chi kế mạc như thụ nhơn” (Kế một năm, chi bằng trồng lúa/ Kế 10 năm, chi bằng trồng cây/ Kế trọn đời, chi bằng trồng người) và Việt hóa theo cách của mình để nhắc nhở về tầm quan trọng của sự nghiệp trồng người: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích và tìm hiểu về lịch sử, văn hóa nghệ thuật Trung Hoa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích nền văn hóa Trung Hoa nên nhiều nhân vật lịch sử và nhà tư tưởng để lại dấu ấn đậm nét trong trí nhớ của Người. Người nhắc tới những ấn tượng sâu sắc về các tín điều Nho giáo: “Bác gần 80 tuổi rồi mà vẫn còn nhớ hình ảnh ông Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ trong sách giáo khoa ngày xưa”. Có lần, Bác hỏi một cán bộ chính trị: “Chú còn nhớ những chuyện Nhị thập tứ hiếu không? Bác gần 80 tuổi rồi mà vẫn nhớ chuyện ông Lão Lai, vợ chồng Quách Cự, chú bé Hán Lục Tích hiếu thảo với cha mẹ như thế nào” (6).
Về văn học Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích thơ Đường và các tác phẩm của nhà văn Lỗ Tấn. Người “thích đọc Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Quốc” vì sự gần gũi trong quan niệm văn chương phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Người đã trích dẫn câu nói của Lỗ Tấn để nói về người cách mạng và đảng cách mạng: “Nói về người cách mạng và đảng cách mạng, nhà đại văn hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ: “Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ/Phú thủ cam vi nhũ tử ngưu” (Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng). Nghìn lực sĩ có nghĩa là những địch mạnh, thí dụ lũ thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Cũng có nghĩa là sự khó khăn gian khổ. Các nhi đồng nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích quốc lợi dân” (7).
Trong thời gian thăm ngoại giao, đi nghỉ, hoặc chữa bệnh ở Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành thời gian đi thăm di tích lịch sử, thắng cảnh và tìm hiểu nghệ thuật truyền thống của nước bạn. Năm 1955, lần đầu tiên thăm chính thức Trung Quốc, đúng vào tết đoan ngọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm nhà lưu niệm Khuất Nguyên. Đến thăm Vạn Lý Trường Thành lúc trời rất nắng, Người vẫn hăng hái bước lên tận tầng lầu của phong hỏa đài trên đỉnh núi. Người thăm tháp Đại Nhạn ở Tây An, thăm mộ Tần Thủy Hoàng, thăm đền thờ Đỗ Phủ, thăm quê hương và đền thờ Khổng Tử. Người đến viếng lăng Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh, thăm ngôi nhà cũ của Chủ tịch Mao Trạch Đông ở Hồ Nam, thăm tất cả những nơi gắn bó với hoạt động cách mạng của Mao Trạch Đông lúc còn trẻ ở thành phố Trường Sa.
Đến công viên Tửu Tuyền, nghe giới thiệu về chén dạ quang bôi để uống rượu nho, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngâm bài thơ Lương châu khúc của nhà thơ đời Đường Vương Hàn “Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi/ Dục ẩm tỳ bà thượng mã thôi” (Rượu nho và chén dạ quang bôi/ Muốn uống nhưng tiếng tỳ bà giục giã lên đường). Người lại hỏi ở Tửu Tuyền có tỳ bà không, dạ quang bôi ở Tửu Tuyền có đặc điểm gì, và lúc rời Tửu Tuyền, trên xe lửa Người đã thưởng thức một ít rượu nho trong chén dạ quang bôi. Yêu thích phong cảnh đẹp, đến thăm nơi nào Người cũng yêu cầu được nghe giới thiệu về lịch sử, về truyền thuyết ở đó. Đầu tháng 10/1960, nghỉ ở Hải Nam, Người hỏi về truyền thuyết Lộ Hồi Đầu và lắng nghe một cách chăm chú. Người nói: “Ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam cũng có những truyền thuyết đẹp đẽ và cảm động như thế. Những truyền thuyết như thế phản ánh tâm hồn đẹp và ước mơ về cuộc sống tự do hạnh phúc của người lao động” (8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu thích nghệ thuật thư pháp và nhiều lần đề thơ trên giấy quyến lớn dùng cho thư họa. Người còn làm câu đối, viết thơ tặng bạn bè, đề chữ tặng khách sạn nơi Người nghỉ lại. Ở Hoàng Sơn, thấy đỉnh núi hình bảo tháp chưa có tên, Người nói: “Ta gọi nó là Luyện Đan tháp”. Người cầm bút viết năm chữ Hán “Hoàng Sơn phong cảnh hảo” và đề biển cho Quan Bộc Đình. Lúc rời Hoàng Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chùm thơ chữ Hán “Nhật ký Hoàng Sơn” tặng Phó Chủ tịch Đặng Tất Vũ, lời thơ thể hiện tình cảm chân thực, giản dị, không hào nhoáng, từng ý thấm đượm tình hữu nghị đậm đà dành cho nhân dân Trung Quốc. Những lúc thư giãn, Người xem hý kịch, ngâm thơ, xem văn nghệ, thăm triển lãm tranh sơn dầu của các họa sĩ ở Bắc Kinh. Thăm Diên An, nghe các nghệ sĩ biểu diễn bài ca của Thiểm Bắc, Người vui vẻ nói: “Dân ca Thiểm Bắc và những điệu múa Ương Ca càng nghe càng thích, càng xem càng say sưa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bắt nhịp và cùng hát vang những bài dân ca với nhân dân địa phương. Đây là những minh chứng sinh động về sự hiểu biết sâu sắc nền văn hóa Trung Hoa của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu ngôn ngữ Trung Hoa và sử dụng nhuần nhuyễn các hình thức nghệ thuật Trung Hoa trong các sáng tác văn thơ.
Tiếp xúc với Hán tự từ nhỏ lại hoạt động cách mạng ở Trung Quốc nhiều năm nên Chủ tịch Hồ Chí Minh rất am hiểu ngôn ngữ nước bạn. Trong mỗi hoàn cảnh, Bác đều có cách sử dụng tiếng Trung phù hợp. Nhận lời mời của Đài Phát thanh nhân dân Trung ương Trung Quốc, Người bày tỏ niềm vui mừng được nói chuyện với 600 triệu nhân dân nước bạn bằng tiếng phổ thông Trung Quốc. Người dùng giọng Tứ Xuyên để đọc lời bài dân ca Cô gái Tứ Xuyên đảm đang. Gặp nông dân ở Tùng Hóa, Người lại dùng tiếng Quảng Đông chào hỏi họ. Khả năng sử dụng thành thạo ngôn ngữ này được bộc lộ rõ nét hơn cả trong thơ chữ Hán của Người. Trong bài thơ Mộ chỉ với một chữ hồng ở câu thơ cuối “Xay hết lò than đã rực hồng”, tứ thơ đã sáng bừng. Trong nghệ thuật Đường thi, người ta gọi đây là “nhãn tự”, nó làm cân lại hai mươi bảy chữ khác chất chứa nỗi niềm tâm sự lúc chiều hôm.
Sinh thời, dù không bao giờ tự nhận là nghệ sĩ nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau những tác phẩm giữ vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Nói đến thơ Hồ Chí Minh không thể không nhắc đến mối liên hệ với thơ Đường. Nếu Lỗ Tấn và Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của tâm hồn nghệ sĩ luôn ấp ủ lý tưởng giải phóng dân tộc thì thơ chữ Hán Hồ Chí Minh và thơ Đường là sự gặp gỡ của thi pháp cổ điển. Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác nhiều thơ chữ Hán theo thể tứ tuyệt, thất ngôn hoặc ngũ ngôn – thể thơ phổ biến nhất trong thơ luật Đường. Các đề tài xuất hiện trong thơ Người như Thượng sơn, Nguyên tiêu, Đối nguyệt, Đăng sơn… cũng là đề tài quen thuộc trong thơ Đường. Đó đều là những sáng tác thể hiện mối giao cảm giữa con người và thiên nhiên bằng bút pháp gợi mà không tả, thoáng nhẹ, sâu lắng đầy âm vang thường thấy trong thơ Đường. Tìm hiểu về âm vang thơ Đường trong tập thơ Nhật ký trong tù, nhà thơ Quách Mạt Nhược nhận xét: “Có một số bài đặt lẫn vào thơ Đường Tống cũng không phân biệt được”. Tuy nhiên, thơ Hồ Chí Minh rất Đường ở bút pháp mà không Đường về tư tưởng. Bác mang lại cho phong thái bình tĩnh ung dung của thơ xưa một tinh thần thời đại. Nếu như thi nhân xưa ung dung vì ngộ đạo, nhập thiền, xa lánh cuộc đời thì người chiến sĩ Hồ Chí Minh lại ung dung vì nắm vững quy luật vận động đi lên của cuộc sống, luôn chủ động trong mọi hoàn cảnh. Đó là sức mạnh bình tĩnh, không khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử. Tinh thần này thể hiện rất rõ trong những sáng tác của Hồ Chí Minh mà tập thơ Nhật ký trong tù là điển hình. Cách sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển, đậm đà bút pháp Đường thi trong văn thơ như thế cho thấy văn hóa Trung Hoa từ chỗ là vốn tiếp thu từ bên ngoài đã ngấm vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, không cần gò ép, đối cảnh là sinh tình, là “thơ bay cánh hạc ung dung”. Thế nhưng dù với hình thức hoàn toàn Trung Hoa như thế, vẫn dễ dàng nhận thấy dấu ấn cá tính sáng tạo Hồ Chí Minh trong nhãn quan biện chứng của người nghệ sĩ chiến sĩ khi nói về sự chuyển mình, vận động của cảnh, của tình từ bóng tối ra ánh sáng. Nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: “Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng… Tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó đã tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng những nhà tư tưởng lỗi lạc và luôn yêu mến, quan tâm, động viên đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa của Trung Hoa.
Với lòng kính trọng sâu sắc và nguyện trở thành người học trò trung thực của Tôn Trung Sơn, trong bài Tôn Dật Tiên tạ thế gửi sang Paris đăng báo Người cùng khổ nhân ngày mất của ông (12/3/1925), Người bày tỏ tình cảm thương tiếc: “Chúng ta nghiêng mình trước thi hài một con người đã giải phóng 400 triệu đồng bào của mình khỏi ách chuyên chế phong kiến từ bao thế kỷ và bảo vệ đất nước của mình trước cuộc xâu xé của bọn đế quốc. Các dân tộc châu Á mất một người bạn. Cách mạng Nga mất một người đồng tình ủng hộ… Bản Di chúc của ông là lời kêu gọi đấu tranh chống kẻ thù…” (10). Tại Đại hội Quốc dân Đảng năm 1926 ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc với cái tên Vương Thành Đạt tham dự với tư cách Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản đã một lần nữa khẳng định tư tưởng và công lao của Tôn Trung Sơn.
Đối với văn nghệ sĩ Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi những lời ca, tiếng hát, vở kịch hay bức ảnh mà anh chị em tặng Người là món quà tinh thần đáng quý. Với thái độ trân trọng nghệ thuật và đóng góp của nghệ sĩ, Người xem các chương trình biểu diễn một cách say sưa và thích thú, Người cổ vũ, động viên nghệ sĩ trên sân khấu và quan tâm đến cuộc sống đời thường của anh chị em. Cuối năm 1961, sau khi xem đoàn ca múa tỉnh Vân Nam biểu diễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi diễn viên Đỗ Lệ Hoa lên sân khấu đứng giữa Người và Chủ tịch Mao Trạch Đông chụp một bức ảnh. Tháng 8/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời gia đình Đỗ Lệ Hoa cùng đi với Người thăm rừng đá Lộ Nam. Khi Đỗ Lệ Hoa tới, Người đã đợi sẵn ở cửa và gọi: “Cháu Đỗ Lệ Hoa, hoan nghênh cháu, cháu vẫn nhớ lần gặp đầu tiên của Bác cháu ta ở Bắc Kinh chứ?”. Người xem ảnh Đỗ Lệ Hoa rồi quay sang nhìn khuôn mặt Đỗ Lệ Hoa, ôn tồn hỏi: “Cháu ốm hay sao? Sắc mặt cháu hơi xanh”. Với giọng hiền từ, Người nói: “Diễn viên như các cháu là tài sản quý của đất nước, phải hết sức giữ gìn sức khỏe đấy”. Năm 1964, nhận bức ảnh chân dung do đồng chí Lục Văn Tuấn, phóng viên của báo ảnh Quảng Đông chụp, Người xem xong tỏ ý hài lòng và nói với Lục Văn Tuấn: “Cảm ơn đồng chí”. Sau khi về nước, Người gửi Lục Văn Tuấn tập thơ của mình với dòng chữ Hán đề phía ngoài “Hồ bá bá tặng” (Bác Hồ tặng). Ở Tùng Hóa, sau khi nghe diễn viên nổi tiếng Nghiêm Phượng Anh của đoàn kịch Mai Vàng tỉnh An Huy hát tặng bài dân ca, Người khen hay và ân cần hỏi thăm, rồi nói: “Đem nghệ thuật cống hiến cho nhân dân, động viên nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều đó tuyệt diệu biết bao” (11). Với phong cách quần chúng giản dị, cởi mở đôi khi, Người còn đề nghị các bạn Trung Quốc phổ thơ của Người.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhiều đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang thăm và biểu diễn tại Việt Nam như đoàn xiếc Chiến sĩ nhân dân giải phóng quân Trung Quốc, đoàn nghệ thuật ca múa Phương Đông... Ghi nhận tình cảm và sự đóng góp của văn nghệ sĩ Trung Quốc với Việt Nam, nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký lệnh tặng các bạn những danh hiệu cao quý. Những tình cảm yêu mến của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ làm công tác văn hóa Trung Quốc bắt nguồn từ tình thương yêu và quan tâm đến con người nói chung và thái độ trân trọng văn nghệ nói riêng. Lối cư xử gần gũi này không chỉ thắt chặt tình cảm giữa Người và văn nghệ sĩ Trung Quốc mà còn củng cố mối quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai nước Việt – Trung.
Trong hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trên nền tảng truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa để hình thành tư tưởng giải phóng dân tộc, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh vừa mang tinh thần thời đại, vừa đậm đà bản sắc Việt Nam. Cũng giống như sự gặp gỡ với văn hóa Pháp, văn hóa Xô viết, mối liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nền văn hóa Trung Hoa làm phong phú thêm vốn văn hóa dân tộc vốn rất bền chặt, sâu sắc trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh. Tuy rằng sinh thời Bác nói một cách khiêm tốn: “Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ” (12) nhưng đến nay thế giới đều chung nhận định rằng “người học trò nhỏ” này đã làm rạng danh quê hương đất nước và văn hóa dân tộc trong hành trình tìm tòi, sàng lọc, điều chỉnh và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại nói chung, văn hóa Trung Hoa nói riêng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chú thích:
(1), (2), (3), (7), (10) Lương Duy Thứ, Bác Hồ với văn hóa Trung Quốc, NXB Trẻ, tr30; tr55; tr10; tr59; tr55.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr 513.
(5), (12) Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh truyện, NXB Tam Liên, tháng 6/1949, tr 81; tr91.
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H. 2011, tập 15, tr.661.
(8) Đặng Quang Huy (biên soạn) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, tr 58.
(9) Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, tập 9, tr109.
(11) Đặng Quang Huy (biên soạn), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, tr 77.
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=742&sitepageid=424#sthash.7r5dxlai.4yjMtq1k.dpbs
..
---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:
- Khu Di tích Bác Hồ lên tiếng : Tìm hiểu về tác giả Trần Dân Tiên (tháng 5/2014)
- Trước quốc khánh, một bản sao sách của Trần Dân Tiên, và một bản dịch tiếng Việt, vừa được hiến tặng
- Đồi phong Tướng và ATK Định Hóa : Vị trí của Thái Nguyên trong kháng chiến
- Hơn một tuần lễ ở Thái Nguyên : Vai trò trọng yếu của giải phóng Thái Nguyên đối với Cách mạng Tháng Tám
- Hơn một tuần lễ ở Thái Nguyên : Vai trò trọng yếu của giải phóng Thái Nguyên đối với Cách mạng Tháng Tám
- Học theo Lý Thường Kiệt và Nguyễn Trãi, tự truyện của Trần Dân Tiên đáp ứng nhu cầu của đời sống và lịch sử (nhóm Trần Khuê)
Đường link mới ở đây: http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/tim-hieu-ve-tac-gia-tran-dan-tien-594
Trả lờiXóa