Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

09/07/2014

Sách mới về Trần Đức Thảo : Từ cái bìa sách đã đặt ra nghi vấn về sự trung thực của tư liệu

Sách mới ra, không hẳn là của Trần Đức Thảo, nhưng được xem như là Trần Đức Thảo đã nghĩ và nói như vậy. Bằng chứng là những băng ghi âm nói chuyện với Trần Đức Thảo những ngày tháng cuối đời tại Paris (đầu thập niên 1990), mà đến tận bây giờ, đã là 2014, mới lần đầu được công bố.

Tôi chưa từng đọc gì gắn với tên tác giả "Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê" cả. Chỉ có một nhà nghiên cứu mĩ thuật trùng tên, là Phan Ngọc Khuê, hiện đang ở Hà Nội, là một tác giả quen biết với bạn đọc ngành khoa học xã hội.

Bìa sách (hiện mới chỉ được chiêm ngưỡng bìa):



Ngay cái bìa, theo nhiều người, đã vướng chữ "trăng trối". Chẳng hạn ý kiến của một bạn đọc ở dưới đây.

Tôi không đặt nghi vấn về chuyện chữ nghĩa "trăng" hay "trăn" ở đây. Mà là ở cách làm ra cuốn sách này, và cái bìa này, nếu xem kĩ, đã thấy.




---

LƯU TƯ LIỆU



1. Về chữ "trăng trối" hay "trăn trối": lấy nguyên từ Gió O về.


http://www.gio-o.com/PhanThanhTamTranDucThao.htm

"
Về chữ “trăng trối” thay vì “trăn trối” trên tựa sách, tôi nhận được lá thư này của tác giả chuyển qua tác giả Phan Thanh Tâm. Vì chữ “trăn trối” phổ biến hơn là “trăng trối”, nên tôi đưa thư của tác giả lên đây để độc giả có thể tham khảo (lth, chủ biên gio-o.com)

On Tuesday, June 17, 2014 8:04 AM, long <….nguyen@aol.com> wrote:

Thân gởi Anh Phan Thanh Tâm
(và xin nhờ Anh chuyển đến cho những ai thắc mắc),

Về vấn-đề chữ "trăng trối" trên bìa sách TRẦN ĐỨC THẢO thì tôi xin thưa như sau:

Có một ngộ-nhận khá phổ-biến là chữ "trăng trối" phải viết là "trăn trối," nghĩa là chữ "trăng" không có "g."  Có lẽ ngộ-nhận này xuất phát từ sự gần như đồng-hóa "trăng trối" với "trăn trở," một chuyện khác hoàn-toàn.

Nếu chúng ta giở từ-điển ra xem, chúng ta sẽ thấy hầu hết các từ-điển đều ghi là "trăng trối," thí dụ:

Việt-nam Tự-điển của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ, trang 1656.
Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, ấn-bản 1992, trang 1008.
Tự Điển Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội, trang 754.
Từ Điển Tiếng Việt của Văn Tân không có "trăng trối" nhưng có "trối trăng," trang 1259.
Vietnamese-English Student Dictionary của Nguyễn Đình Hòa cũng không có "trăng trối" nhưng ở trang 613 có "trối trăng" và nói "xem giối giăng."
Và hầu hết các từ-điển chính-tả Việt-ngữ cũng đều viết "trăng trối."

Không hiểu sao ngộ-nhận "trăng trối" phải viết không "g" có thể phổ-biến đến như thế!

Có hai cách để ta xác-định "trăng trối" bắt buộc phải có "g."  Đó là:

Thứ nhất, có lẽ ai cũng dễ dàng đồng-ý "trăng trối" là đảo ngược của "trối trăng,"
mà "trối trăng" thì không ai viết thành "trối trăn" cả.

Thứ hai, trong tiếng Việt lịch-sử có một sự tương-đồng giữa "tr" và "gi":
trời - giời
trăng - giăng
trả - giả
trao - giao v.v.

Và như vậy thì:
trăng trối    tương-đồng với    giăng giối
cũng như
trối trăng    tương-đồng với    giối giăng  (không ai nói hay viết "giối giăn" cả)

Mong là các bạn nào thắc mắc đồng-ý với sự phân-tích nói trên.

Và cũng xin Anh Phan Thanh Tâm chuyển giùm giải thích của tôi đến các anh chị em ở Gió O, nhất là nếu Gió O còn muốn giữ sự trong sáng của tiếng Việt! Và có lẽ cũng nên xin Gió O tôn trọng cách viết của tác giả và nhà xuất bản!

Cười nhất là nhiều độc-giả đến Little Saigon Radio (ở Quận Cam) mua cuốn sách xong gọi vào phản-đối chữ "trăng" có "g" trong "trăng trối."  Có người còn đi xa đến chỗ đòi trả lại sách và đòi tiền lại!  Tôi nói đùa: "Nếu họ đòi thì cứ hoàn trả tiền họ, và để cho họ giữ cái dốt, cái sai của họ."

Thân,

BÍCH
6/17/2014


© gio-o.com 2014 "



2. Bài giới thiệu của Bùi Tín

http://m.voatiengviet.com/a/1949529.html




Một cuốn sách rất cần tìm đọc

Bùi Tín



Cuốn Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một nhà báo sống Pháp được Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành hơn 1 tháng nay. Sách in đẹp, dày 428 trang, gồm16 phần, thêm phụ lục.
Tôi đã đọc cuốn sách này một mạch trong 2 ngày. Rồi đọc lại 1 lần nữa, để rồi suốt 1 tuần lễ ngẫm nghĩ về nội dung của nó.
Trần Đức Thảo (1917 – 1993), con một nhà tư sản Phố Cổ đất Hà Thành, là một trí thức được đào tạo tại Pháp và cũng là một triết gia trẻ uyên bác khá nổi tiếng, từng tranh luận tay đôi với nhà triết học Jean Paul Sartre.
Năm 1951, khi 34 tuổi, Trần Đức Thảo tự nguyện về nước qua con đường Moscow với thiện chí “mang hiểu biết của mình về góp phần xây dựng đất nước”. Nhưng tai họa đã sớm đến với ông. Lãnh đạo VN, từ Hồ Chí Minh đến Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng lúc bấy giờ) đều tỏ ý không cần đến “một anh trí thức mọt sách do đế quốc đào tạo”, còn coi ông là một kẻ reo rắc tư tưởng phản động nguy hiểm. Ông suýt chết 2 lần, một lần khi tham gia đội cải cách ruộng đất ở Chiêm Hóa đã nói lên nhận xét là tòa án nhân dân trong xét xử địa chủ là không ổn, mang tính cưỡng bức phi pháp, làm cho cố vấn Trung Quốc phật lòng và ông suýt toi mạng về chuyện này; hai là khi Hà Nội được giải phóng, ông tham gia bằng 2 bài viết trên báo Nhân Văn cùng Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, bị coi là “tên đầu sỏ nguy hiểm”. Từ đó ông bị giám sát, bỏ rơi trong cuộc sống, mất việc, mất vợ, sống lay lắt, lập dị, đi đôi guốc mộc, nói, khóc và cười một mình, cưỡi chiếc xe đạp trẻ con mang nhãn hiệu nước Nga giữa phố phường Hà Nội.
Đến nay, khi cuốn sách ra rồi, mọi bí ẩn, đồn đoán nhiều khi sai lạc về con người ông mới được giải mã khá là đầy đủ.
Thì ra sau khi bị đe dọa, trù úm, cô lập, đầy ải về cả tinh thần và vật chất, triết gia sinh bất phùng thời này quyết sống một cuộc sống 2 mặt, một mình mình biết một mình mình hay, cảnh giác cao, và nhiều khi phải đóng kịch với mọi người để tồn tại. Cái con người mà thiên hạ cho là lẩn thẩn, có khi như mất trí ấy thật ra vẫn cực kỳ minh mẫn, ghi nhớ, nghiền ngẫm, suy tư, với chủ tâm sẽ có ngày được phơi bày mọi sự ra ánh sáng, khi bản thân được tự do.
Và cái ngày tự do ấy đã đến, khi người ta muốn đuổi ông già 74 tuổi vô tích sự - và có thể là vô hại cho họ - ấy đi xa cho khỏi vướng víu. Tháng 3 năm 1991, ông được cấp một vé máy bay một đi không trở lại để sống nốt những ngày cuối đời trên đất Pháp.
Năm đầu trên đất Pháp, ông sống trong cơ sở của sứ quán đầy công an, an ninh, mật vụ CS, nên vẫn phải mang “mặt nạ”, cả khi họ cho phép ông nói chuyện về triết học, về phép biện chứng duy vật, về chủ nghĩa Mác. Để giữ mạng sống, ông vẫn phải đóng kịch, như một anh trí thức sơ cấp mụ mị, dở hơi, làm cho những anh chị em trí thức chờ đợi ở ông những phản biện sâu sắc đều ngỡ ngàng thất vọng, trong đó có chính người viết bài này (vào tháng 6/1992).
Một điều may mắn là anh Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một người Hà Nội du học ở Pháp, vốn có cảm tình với triết gia Trần Đức Thảo, đã cùng giáo sư toán học Bùi Doãn Khanh thăm dò được mong muốn thầm kín của ông, và được ông cho biết ý định viết một cuốn sách trong vòng 6 tháng nhằm trình bày tất cả những suy nghĩ chân thực của ông suốt 40 năm qua để cống hiến cho nhân dân VN đau khổ, lầm than. Khi ông đột ngột qua đời ngày 23 tháng 4 năm 1993 trong nhà khách sứ quán CS, cuốn sách tâm huyết ông chưa viết xong, mới chỉ là những ghi chép, phác thảo, dàn bài, ý vụt đến… đã bị an ninh sứ quán thu lượm sạch. Nhưng họ đã bỏ sót một kho tư liệu quan trọng: những cuốn băng ghi âm của ông Thảo.
Suốt trong gần 6 tháng, cứ đến cuối tuần, khi an ninh và viên chức sứ quán lo vui gia đình, hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh lại lặng lẽ đón ông Thảo đến một quán cà phê kín đáo, đặt ra những câu hỏi và ghi âm những câu trả lời của ông. Ngay sau khi ông Thảo đột ngột từ trần - một cái chết vẫn còn nhiều nghi vấn – hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn Khanh đã bỏ công ghi lại thành 16 đoạn trên máy điện toán, rồi biên soạn lại thành cuốn sách Trần Đức Thảo - Những lời trăng trối.
Cuốn sách đã giải mã đầy đủ con người và nhân cách Trần Đức Thảo. Cho đến khi gần vĩnh biệt chúng ta ông đã dùng tư duy bén nhạy của một học giả và triết gia để soi sáng một đoạn hệ trọng của lịch sử dân tộc, thay thế cho những trang lịch sử chính thống trong đó con người và sự kiện đã bị xuyên tạc, bóp méo.
Trong sách, Trần Đức Thảo có nhắc đến ông Hồ vài chục lần, kể từ cuộc gặp ở Pháp, đến cuộc gặp ở chiến khu Việt Bắc, khi quy định phải đứng xa Bác 3 mét, khi được hỏi mới được nói, phải gọi ông Hồ là Bác và nhiều lần gặp sau ở Hà Nội, khi ông chỉ còn là một bóng người vật vờ, tồn tại mà như không tồn tại.
Xin mời bạn đọc thưởng thức vài đoạn ngắn trong cuốn sách nói đến “ông Cụ”, để thấy nhà triết học vẫn minh mẫn sâu sắc tinh anh đến mức nào.
… “ Đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành(1911) (với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ thành đạt…) rồi cho đến sau này bỏ hẳn họ Nguyễn, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc CHÍ MINH (1945)… Nói chung tên giả thường là rất tiêu biểu
tâm thức như thế đã phản ánh chân thực những bước chuyển biến trong đầu óc của ‘ông Cụ’. Mỗi lần thay tên đổi họ là một bước có ý nghĩa trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đây là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chi mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (‘Ái Quốc’), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (CHÍ MINH)! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tỉnh táo, có liêm sỷ, một bộ não minh triết không bao giờ tự ý xưng mình là ‘Vương’, là ‘Ái Quốc’, là ‘CHÍ MINH’ như thế…”.
Và đây là một đọan trích nữa nhận định tổng hợp về “ông Cụ” của triết gia họ Trần:
“Cụ Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng thông minh, rất mưu trí, một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy là một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc một cuồng vọng, với một ưu tư duy nhất là phải leo lên đến tột đỉnh quyền lực đê đạt tới mục tiêu của mình… Vì thế ông Cụ không chấp nhận một ai trong đám chung quanh là ngang mình. Vì thế mà không cần trợ lý, cố vấn, vì thế không lắng nghe một ai. Bởi lãnh tụ chỉ chăm chú tìm chiến thắng vinh quang, của giấc mơ thế giới đại đồng, chứ không cảm nhận được nỗi đau đầy máu và nước mắt của dân trong thực tại. Một con người chỉ nghĩ và sống với khát vọng chiến thắng, chứ không muốn sống bình thường như mọi người. Riêng đối với tôi, cái nhìn đầu tiên của lãnh tụ là để đánh giá tôi trong tương quan chiến thắng ấy, và cách đánh giá ấy là một bản án không nơi kháng cáo. Vì thế tôi đã suy nghĩ nhiều về nhân vật lịch sử này! Bởi Người là một cái bóng ma quyền lực đã đè nặng lên thân phận tôi.
“Những điều tôi nói đây không phải để oán trách ‘ông Cụ’, bởi tôi biết đây là một nhân vật bi thảm, luôn bị chi phối bởi nhiều thế lực trong và ngoài. Nào là cuồng vọng của một lãnh tụ chính trị, nào là sức ép của Mao, nào là những ý đồ phức tạp trong Bộ Chính trị với nhiều phe phái kình chống nhau. Những sức ép ấy đã tiêu diệt hết tình cảm của con người bình thường nơi ‘ông Cụ’ và ‘ông Cụ’ bị đưa vào thế phải chấp nhận sống cô đơn, phải thủ vai ông thánh, ông thần, giữa bao thế lực quỷ quái, quá khích, lúc tả khuynh, lúc hữu khuynh… để đạt tới, để nắm vững đỉnh cao quyền lực…”.
Còn có rất nhiều đoạn lý thú độc đáo khác nói về “Hà Nội giải phóng” năm 1955 và “Miền Nam giải phóng” năm 1975, về những buổi dự “hát cô đầu” cùng nhà văn Nguyễn Tuân, nhận xét về lực lượng Công an là bạn dân ra sao dưới một chế độ CS cảnh sát trị.Trong đọan kết, triết gia Trần Đức Thảo bộc bạch rằng vào lúc cuối đời ông đã nhận rõ chủ nghĩa Mác là một học thuyết sai lầm từ gốc, chứ không phải là nó đúng nhưng đã bị vận dụng sai, và nó sai cả về vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan do cổ vũ đấu tranh giai cấp, bạo lực, chiến tranh, sai cả về phương pháp luận lô gích biện chứng duy vật - hiện tượng học. Theo ông, Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên đều là nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa Mác. Rất tiếc là ông đang say mê lý giải thì tai họa ập đến. Người ta thoáng biết ý định thâm sâu của ông cùng bè bạn thân thiết, và ông đã bị họ bịt mồm khi đang thổ lộ tâm tình thầm kín nhất. Dù sao ông đã mãn nguyện phần lớn khi đã trút gần hết bầu tâm sự giữ kín 40 năm ròng.
Chính do những lẽ ấy mà cuốn Trần Đức Thảo - Những lời trăn trối là cuốn sách quý, rất nên tìm đọc, phổ biến rộng và bàn luận để tăng thêm hiểu biết về lịch sử và những nhân vật nước ta. Tuy tác phẩm này đã ra đời chậm hơn 20 năm, nhưng dù sao nó vẫn là một cuốn sách rất có giá trị với thời cuộc hiện tại.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Ðọc thêm Blog / Bùi Tín

3 nhận xét:

  1. Bác Giao mới nhì thấy cái bìa sách đã đặt ra nghi vấn về sự trung thực của tư liệu.

    Còn tôi, thấy ông Bùi Tín giới thiệu thì tôi lại càng nghi hơn, giá ông ấy đừng giới thiệu thì tốt hơn (cho cuốn sách, nếu nó là hàng thật). Thậm chí, tôi nghĩ nếu cụ Thảo còn sống và có ý định xuất bản gì đó thì cũng không bao giờ mượn ông Tín.

    Thêm nữa, bài viết cuối cùng của cụ Thảo, viết trước khi mất đúng 12 ngày, có trên mạng, mang nội dung triết học 100%, nghĩa là cả cuộc đời cụ, đến lúc đó, vẫn là Triết, không rảnh.

    Và, nếu đã cố "phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh" của Cụ Hồ "như là một dấu hiệu tâm lý chính trị", thì biệt danh "Già Vương" thể hiện ý muốn làm "vua" (?). Thế còn biệt danh "Ông Trần" (gần như có cùng một thời điểm với "Già Vương") thể hiện ý muốn gì, cũng phải phân tích ra chứ nhỉ? Rồi có Tất Thành, nhưng cũng lại có anh Ba (tại sao không anh Cả hay anh Hai cho nó "hoành" mà lại là anh Ba?).

    Mà hai chữ "Ái Quốc" thì có tội tình gì nhỉ, mà phải chịu quy kết: "Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tỉnh táo, có liêm sỷ, một bộ não minh triết không bao giờ tự ý xưng mình là .. (Ái Quốc)... như thế…" . Không lẽ một Triết gia nổi tiếng như ông Thảo (?) lại viết lẩm cẩm đến vậy. (Trong cuộc sống cụ Thảo có thể "lẩm cẩm" (bệnh phổ biến của các triết gia), chứ nếu cụ viết ra, thì chưa bao giờ, (xem bài viết cuối, trước khi mất 12 ngày).

    Cái tayTri Vũ này, (và Bùi Tín) làm cái việc "Trăng trối" hộ cụ Thảo rồi.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Sẽ cần trở lại ở một vài entry phân tích chi tiết hơn nữa bác ạ. Cứ để cụ Bùi Tín, và nhiều cụ khác nữa, luận giải và bổ sung chú giải đã.

      Xóa
  2. Băng ghi âm cụ Trần Đức Thảo trăng trối, có thể truy cập ở địa chỉ sau:
    https://www.dropbox.com/s/2kc2kjsmn7opbu5/Tran%20Duc%20Thao's%20voice%20-%20Enhanced.mp3

    Không biết ai đưa lên. Và không biết có đúng là cụ Thảo hay không.

    Trả lờiXóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.