Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

20/06/2013

Ghi chép 2013 về Phan Bội Châu và Asaba (bài Phạm Xanh)

Lời dẫn: Bài viết của bác Phạm Xanh ở dưới đây lấy về từ báo Quân đội Nhân dân (12/6/2013). Cách phiên âm tiếng nước ngoài của tờ QĐND thực sự khó chịu. Không biết tại sao báo ấy chưa đổi qui tắc chính tả trong phiên âm cho kịp với thời cuộc. Asaba Sakitaro là cái tên rất đỗi quen, nhưng được viết thành A-xa-ba Xa-ki-ta-ro thì tôi không hiểu là ai nếu vô tình thấy !
Tác giả bên tấm bia

Bài của bác Phạm Xanh chỉ có một điểm duy nhất mới, là: có thấy hình năm 2013 của ông Amma (một người bạn chung của nhiều người Việt Nam có quan tâm đến phong trào Đông Du) ! 

Từ đây trở xuống là bài của bác Phạm Xanh.
---
 Thứ Tư, 12/06/2013, 9:22 (GMT+7)
Hành trình về nơi dựng bia tri ân của Phan Bội Châu trên đất Nhật


QĐND Là người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử cận đại Việt Nam tại một trường đại học, từ lâu tôi đã biết Phan Bội Châu dựng một tấm bia trong khuôn viên chùa Giô-rin (Jorin) thuộc làng U-mê-gia-ma (Umeyama), thành phố Phu-cư-rôi (Fukuroi), tỉnh Si-dư-ô-ka (Shizuoka), Nhật Bản để tri ân tấm lòng nghĩa hiệp của bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô (Asaba Sakitaro) đối với Phong trào Đông Du. Tôi cũng được biết, ngày 5-11-2010, nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của cụ Phan Bội Châu, 100 năm ngày mất của bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô, 105 năm Phong trào Đông Du, Hiệp hội A-xa-ba Việt Nam do ngài Am-ma Yu-ki-hô (Amma Yukiho) làm đại diện và ngài Mi-chi-ô Tô-gô (Michio Togo), Tổng giám đốc Công ty Công nghệ thông tin đã sang Nghệ An trao bản dập tấm bia của Phan Bội Châu tri ân bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô cho Khu Di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại thị trấn Sa Nam, Nam Đàn. Tại sao một nhà sử học Việt Nam lại không thể đến tận đó lấy nguồn cảm hứng cho công việc của mình nhỉ? Câu hỏi đó đã theo tôi nhiều năm tháng và day dứt tôi…
Gia đình tác giả (giữa) và ông Am-ma Yu-ki-hô, ông Tô-mi-ô U-ê-nô bên khu tưởng niệm.

Một vài lần tôi đã qua Nhật dự hội thảo, nhưng chỉ quanh quẩn ở Tô-ki-ô (Tokyo), không có điều kiện đến tận nơi, vì tôi được biết nơi dựng tấm bia đá tri ân của Phan Bội Châu cách Tô-ki-ô về phía Nam khá xa, khoảng trên dưới 250km. Chuyến đến Nhật năm nay, tôi quyết tâm thực hiện bằng được ý định đã theo đuổi nhiều năm. Chuyến đi lần này, tôi có nhiều thuận lợi, đáng kể nhất là nhiều thời gian, con trai tôi đang làm việc tại Tô-ki-ô và hơn thế nữa, tôi có một người bạn vong niên Nhật Bản đã kết thân với gia đình tôi từ nhiều năm nay. Ông tên là Tô-mi-ô U-ê-nô (Tomio Ueno), trước đây sống trên Phu-cư-si-ma (Fukushima), nhưng nay đã chuyển đến Ka-ma-ga-oa. Prép (Kamagawa.Pref), cách Tô-ki-ô trên dưới 70km. Các điều kiện “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” đã hội đủ. Cuộc hành trình của một phần gia đình tôi (vợ là Hoàng Minh Tâm, con trai đầu là Phạm Hoàng Sâm và tôi) được người bạn Nhật lái xe và hướng đạo đưa đến tận nơi mà Phan Bội Châu đã dựng bia đá tri ân bác sĩ nghĩa hiệp A-xa-ba Xa-ki-ta-rô.
Trên đường đi, tôi được biết thêm, để cho chuyến đi đạt kết quả như mong muốn, ông Tô-mi-ô U-ê-nô đã lấy từ mạng Google Map bản đồ con đường dẫn đến làng U-mê-gia-ma và gọi điện tới tận nơi để bố trí người tiếp đón. Qua chuyến đi này, một lần nữa chúng tôi hiểu thêm cung cách làm việc của người Nhật không chỉ tận tình, mà còn thật chu đáo. Vì biết tôi là người nghiên cứu lịch sử nên trên đường đi, người bạn Nhật đưa chúng tôi vào một quán ăn ven đường rất cổ kính để nghỉ ngơi và thưởng thức bữa cơm lịch sử thời Êđô. So với những bữa nhậu bây giờ, bữa cơm thời Êđô thật sự đạm bạc. Món chủ đạo là một bát canh khoai như khoai sọ bên ta nghiền nhuyễn chan vào bát cơm trắng nhấm nháp một ít rong biển. Thế là xong. Có lẽ, đây là bữa cơm phổ biến ở nông thôn Nhật thời Ê-đô. Hương vị trong không gian lịch sử thời Ê-đô của quán ăn với những hiện vật trưng bày, trong đó có một chiếc áo tơi kiểu như áo tơi Nghệ-Tĩnh, làm tôi xúc động thực sự. Rời quán ăn mà lòng vẫn bâng khuâng…
Xe dừng trước cổng chùa Giô-rin. Xuống xe, tôi đã nhìn thấy bên trái chùa nổi lên trên vòm trời mùa hè Nhật Bản nắng chói chang tấm bia của cụ Phan Bội Châu trong khuôn viên nghĩa địa. Người đón tiếp và hướng dẫn chúng tôi đi thăm chính là ông Am-ma Yu-ki-hô, Chủ tịch Hiệp hội A-xa-ba Việt Nam, đã nhiều lần là khách quý của Việt Nam và Nghệ An.
 
Đứng trước tấm bia đá sừng sững, cao 2,7m, rộng 0,87m được đặt trên một bệ đá cao hơn 1m, ông Y.Am-ma kể với chúng tôi lai lịch của tấm bia. Tháng 5 năm Đại Chính thứ 6 (1917), Phan Bội Châu bí mật trở lại Nhật Bản và được biết bác sĩ A-xa-ba Sa-ki-ta-rô, ân nhân của Phong trào Đông Du, đã mất năm 1910, tức sau khi cụ rời Nhật hơn một năm. Chưa có gì đền đáp lòng nghĩa hiệp của ân nhân, cụ Phan đến tận quê hương, trước nấm mộ thắp nén hương và hứa năm sau quay lại dựng bia tri ân. Năm 1918, Phan Bội Châu cùng Lý Trọng Bá quay lại, trình bày việc làm bia tưởng niệm cho trưởng thôn. Trưởng thôn biết trong túi cụ Phan, kẻ hàn sĩ, không nhiều tiền nên có sáng kiến huy động sức người, sức của trong dân làng giúp cụ Phan thực hiện ý tưởng cao đẹp đó. Trong một cuộc họp với các bậc phụ huynh Trường Tiểu học của làng, ông Ô-ka-mô-tô Xan-gi-rô (Okamoto Sanjiro), trưởng làng nói với các bậc phụ huynh rằng hai người này (chỉ Phan Bội Châu và Lý Trọng Bá) vượt nghìn dặm đến đây để đựng bia cho thầy A-xa-ba Xa-ki-ta-rô, chúng ta nên gúp đỡ hai ông. Tiếng vỗ tay đồng tình vang lên. Công việc tiến hành khẩn trương trong một tháng. Tấm bia đã dựng xong, trong đó có ý tưởng cùng 100 yên của Phan Bội Châu và công sức của dân làng U-mê-gia-ma. Hôm khánh thành bia tưởng niệm, cả dân làng tập trung mở tiệc ăn mừng.
Mặt trước tấm bia khắc chữ Hán (đã được ông Gô-tô Kin-pây (Goto Kinpei) dịch sang tiếng Nhật và ông Chu Xuân Giao dịch sang tiếng Việt) như sau:
Chúng tôi vì nạn nước mà bôn tẩu tới đất Phù Tang, Ngài nể thương cái chí ấy mà cứu giúp trong cơn khốn quẫn chẳng màng đến ơn trả ngày sau, thực là nghĩa hiệp xưa nay hiếm có. Than ôi! Nay chúng tôi sang mà đâu thấy Ngài, trời xanh, biển thẳm, cúi ngưỡng nào biết tỏ cùng ai, đành ghi mối xúc cảm này nơi bia đá. Lời minh rằng:
Hào hiệp chưa từng có xưa nay, nghĩa lớn khắp cả trong ngoài, Ngài ban thời như trời lớn, tôi nhận thời như biển đầy.
Chí tôi chưa thành mà Ngài chẳng đợi, thăm thẳm lòng này, ngàn thu ghi tạc.
Ngày Xuân năm Mậu Ngọ ( Đại Chính năm thứ 7, tức năm 1918)
Việt Nam Quang phục Hội đồng nhân cẩn chí”.
Mặt sau bia ghi:
 “Tháng 3 năm Đại Chính thứ 7 (1918). Người tán thành, Ô-ka-mô-tô Xan-gi-rô, Ô-ka-mô-tô Xê-chư-ta-rô (Okamoto Setsutaro), A-xa-ba Yô-si-ô (Asaba Yoshio)”.

Sau khi thắp nén hương trước mộ chí bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô, ông Y. Am-ma kể cho chúng tôi nghe câu chuyện đầy cảm động về tấm lòng nghĩa hiệp của người đã khuất. Khi chính quyền Nhật Bản trục xuất Phan Bội Châu và lưu học sinh Việt Nam ra khỏi đất Nhật theo Thỏa ước Pháp-Nhật ký ở Pa-ri năm 1907, tài chính của cụ Phan đã cạn kiệt. Cụ Phan, thông qua Nguyễn Thái Bật, người ốm ngất trên đường đến Tô-ki-ô trong Phong trào Đông Du, đã được bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô cứu chữa năm nào, cậy nhờ sự giúp đỡ bằng một lá thư. Không ngờ, thư gửi đi buổi sáng, buổi chiều đã có hồi âm tốt lành. Bác sĩ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô đã gửi cho cụ Phan món tiền 1.700 yên kèm những lời chứa chan tình cảm: “Nhặt nhạnh trong nhà chỉ còn có thế, tạm thời gửi trước. Lần sau nếu cần, đừng ngại, cứ lên tiếng. Tôi sẽ làm những gì có thể làm được”. Biết rằng tiền lương tháng của Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hi-ga-si-a-xa-ba (Higashiasaba) là 18 yên, món tiền đó to biết nhường nào nhưng cái lớn lao hơn nằm ở tấm lòng của người cho. Trước lá thư ấm áp tình người, Phan Bội Châu không cầm được lòng, rơi lệ. Mấy hôm sau, Phan Bội Châu đến tận gia đình A-xa-ba Xa-ki-ta-rô ở Kô-dư (Kozu), Ô-da-oa-ra (Odawara) để cảm ơn sự giúp đỡ. Chủ khách nâng chén rượu mừng, hẹn ngày tái ngộ, rồi chia tay trong vội vã. Nhưng ông trời không để con người nghĩa hiệp đó sống đến ngày tái ngộ với Phan Bội Châu. Không bao lâu sau khi nâng chén rượu chia tay với cụ Phan, ngày 25-9-1910, A-xa-ba Xa-ki-ta-rô bất ngờ đi về cõi vĩnh hằng khi mới 43 tuổi, cái tuổi đang muốn và có nhiều năng lực đóng góp nhiều hơn nữa cho nước Nhật Bản hiện đại.
Gia đình chúng tôi đứng lặng hồi lâu trước mộ chí cụ A-xa-ba Xa-ki-ta-rô mà cụ Phan Bội Châu đã cho xây lại. Lòng tôi thầm hỏi không biết nhân duyên gì đã dẫn hai con người ở hai nước xa nhau vạn dặm đến với nhau, giúp nhau trong hoạn nạn và rồi suốt đời nghĩ về nhau như vậy? Có phải hai con người này-Phan Bội Châu, người Việt Nam sinh năm 1867 và A-xa-ba Xa-ki-ta-rô, người Nhật Bản cũng sinh cùng năm đó, chỉ khác ngày, khác tháng-là những người khởi đầu xây đắp tòa lâu đài vĩnh cửu đề dòng chữ vàng Tình hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản?
Năm nay, năm 2013, hai nước Việt Nam và Nhật Bản sẽ long trọng tổ chức kỷ niệm 40 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản bằng những hoạt động thiết thực, sôi nổi, trong đó sẽ có những cuộc hội thảo khoa học của các học giả hai nước. Trong tâm tưởng của tôi và nhiều người khác, tình hữu nghị Việt-Nhật đã được gieo trồng từ những ngày đầu của thập niên đầu thế kỷ XX trong Phong trào Đông Du. Hai con người gieo trồng tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản là Phan Bội Châu và A-xa-ba Xa-ki-ta-rô.
Chúng tôi lên xe rời làng U-mê-gia-ma trong nắng chiều dịu mát, mang theo về Việt Nam những tình cảm nồng hậu của người dân Nhật Bản và hy vọng tốt đẹp về sự hợp tác mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn nữa giữa hai nước trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
 PGS, TS PHẠM XANH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.