(LSVN) - Hình tượng rắn trong tâm thức người Việt chứa đựng ý nghĩa phong phú và đa chiều, phản ánh sự giao thoa giữa tín ngưỡng bản địa, tôn giáo và văn hoá dân gian.
Là biểu tượng của sức mạnh và sự huyền bí, rắn xuất hiện trong các truyền thuyết như vị thần bảo hộ, mang lại nước và mùa màng bội thu, gắn bó chặt chẽ với đời sống nông nghiệp. Trong Phật giáo, hình ảnh rắn được thần Naga che chở Đức Phật thể hiện sự bảo vệ và giác ngộ, được đưa vào kiến trúc chùa chiền qua các hoa văn trang trí rồng rắn. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, rắn đại diện cho Thoải phủ (miền nước) đảm bảo sự cân bằng giữa các yếu tố tự nhiên. Tuy nhiên, rắn cũng gắn liền với sự nguy hiểm, là biểu tượng của hiểm hoạ trong các câu chuyện dân gian, cổ tích và điềm báo tâm linh trong những giấc mơ mang ý nghĩa điềm lành hoặc dữ. Bên cạnh đó, hình tượng rắn còn xuất hiện phong phú trong nghệ thuật ngôn từ như “rắn mất đầu” để nhắc về sự quan trọng của nhà lãnh đạo. Các góc nhìn trên đưa ra đôi điều tản mạn khắc hoạ rắn như một biểu tượng phức tạp nhưng giàu giá trị, góp phần thể hiện thế giới quan hài hoà giữa thiên nhiên và siêu nhiên, giữa thiện và ác trong tâm thức con người Việt Nam.
Ảnh minh họa.
Từ biểu tượng của Phật giáo
Hình tượng rắn trong Phật giáo mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, thể hiện cả việc bảo vệ linh thiêng và những bài học triết lý quan trọng về con đường tu tập và giác ngộ. Trong Phật giáo có hình tượng Naga – sinh vật thần thoại có nguồn gốc từ Ấn độ giáo, được du nhập vào Phật giáo và trở thành một trong những vị thần hộ pháp quan trọng. Naga là biểu tưởng nổi bật đại diện cho quyền lực, sự bảo vệ và lòng trung thành thường được miêu tả là rắn thần có nhiều đầu, sống dưới nước, sở hữu sức mạnh thiên nhiên và trí tuệ phi thường. Theo truyền thuyết, rắn Naga từng bảo vệ Đức Phật Thích ca trong nhiều hoàn cảnh, khi Đức Phật ngồi thiền dưới cội bồ đề, Naga Mucalinda đã hoá thân thành một con rắn khổng lồ, dùng thân quấn quanh ngài và mở rộng chiếc mào để che mưa. Naga cũng từng giữ gìn những kinh điển Phật giáo khi chưa được loài người khám phá, đó là những hành động biểu trưng cho lòng trung thành và vai trò bảo hộ của các thế lực siêu nhiên trong hành trình giác ngộ.
Rắn trong Phật giáo còn tượng trưng cho sự biến đổi và tiến hoá, phản ánh con đường tu tập từ phàm tục đến giác ngộ, đặc tính lột xác của rắn được hiểu như biểu tượng của sự đổi mới và tái sinh trong tâm thức, giống như việc buông bỏ vô minh để đạt được trí tuệ. Sự uốn lượn mềm mại của rắn còn biểu thị cho sự uyển chuyển, linh hoạt trong tư duy, một phẩm chất cần thiết để vượt qua chấp ngã và hướng tới chân lý.
Trong một số kinh điển Phật giáo, rắn cũng được dùng để biểu tượng hoá xung đột giữa các khía cạnh thiện và ác trong con người, ví như rắn độc thường tượng trưng cho lòng tham, sân hận và si mê là ba độc hại dẫn đến khổ đau. Tuy nhiên Phật giáo nhấn mạnh khả năng chuyển hoá các độc tố này, một khi được tu tập và chế ngự thì “nọc độc” của rắn có thể trở thành “thuốc chữa” giống như cách tu sĩ chế ngự lòng tham để biến thành lòng từ bi.
Có thể nói trong Phật giáo rắn là biểu tượng giàu ý nghĩa, vừa đại diện cho sự bảo vệ, trí tuệ và tái sinh, vừa nhấn mạnh bài học về chuyển hoá nội tâm và vượt qua những điều tiêu cực. Sự hiện diện của rắn trong kinh điển, nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo không chỉ mang giá trị tôn giáo mà còn gợi lên triết lý nhân sinh sâu sắc, thể hiện khát vọng hoà hợp và sự giác ngộ của con người.
Đến hình tượng trong văn hoá dân gian
Rắn trong tín ngưỡng dân gian
Trong tín ngưỡng dân gian, hình tượng rắn có một vị trí đặc biệt, gắn liền với thế giới quan, niềm tin và đời sống tâm linh từ bao đời nay, rắn được tôn sùng như một vị thần linh thiêng, biểu tượng của sự phồn thực, tái sinh và sức mạnh siêu nhiên.
Rắn trong tín ngưỡng thờ Mẫu và các thần linh bản địa thì hình tượng rắn thường đại diện cho yếu tố nước (miền Thoải phủ) với ước vọng cầu mong sông nước hiền hoà mùa màng tươi tốt, bội thu. Đây cũng là biểu tượng cho sự tái sinh và luân hồi bởi đặc tính lột xác của loài này được xem là hiện thân của sự đổi mới, một chu kỳ không ngừng của sự sống, trở thành biểu trưng cho vòng tuần hoàn bất tận của tạo hóa, khơi gợi niềm tin vào sự trường tồn và khả năng hồi sinh mãnh liệt. Đây là lý do tại sao nhiều nơi, người dân tin rằng rắn có mối liên hệ mật thiết với con người và thế giới bên kia.
Tục thờ rắn phổ biến nhất của người Việt là ở đồng bằng Bắc bộ. Có thể tìm thấy các đền thờ thần rắn dọc theo sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống… và qua các di tích, lễ hội như: Thần tích và hội làng Linh Đàm thờ vị thủy thần Bảo Ninh. Đây vốn là thần Rồng, hóa thành người học trò để học đạo. Trong lúc trời hạn hán, thiên đình ngưng việc làm mưa, vâng lời thầy, thần đã làm mưa chống hạn và bị thiên đình phạt, nhân dân nhớ ơn nên phụng thờ. Một lễ hội khác có liên quan đến tín ngưỡng thờ rắn là Hội làng Thủ Lệ. Theo thần tích và truyền thuyết nơi đây thì Linh Lang Đại Vương vốn là một rắn thần. Sau khi lập công giúp nước, ngài hoá thành giao long trườn xuống Hồ Tây. Hay Hội làng Nhật Tân (thờ Uy Linh Đại Vương, vốn là anh cả của bảy anh em rắn thần, sau đó đầu thai làm hoàng tử Uy Đô Linh Lang) cũng thể hiện những dấu vết của tín ngưỡng thờ rắn. Ngoài ra, có thể kể đến một số lễ hội khác như Hội làng Yên Nội ở Từ Liêm, Hà Nội thờ Thổ Lệnh Bạch Hạc Tam Giang; Hội làng và truyền thuyết Thánh Tam Giang ở Bắc Ninh…
Tục thờ rắn với tư cách là thủy thần không chỉ phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ mà còn có ở miền Trung, Tây Nguyên và miền Tây Nam bộ. Những cư dân đầu tiên vào khai phá vùng đất Nam bộ phải đối đầu với rất nhiều khó khăn. Nhân dân ở đây vẫn còn lưu truyền câu ca dao : muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh, cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy. Cùng với những con vật như hổ, cá sấu….thì rắn cũng là đối tượng mà con người phải dè chừng, đối phó và chinh phục. Có lẽ vì thế mà ở đồng bằng sông Cửu Long ngày nay vẫn lưu truyền nhiều giai thoại về rắn. Người ta sợ rắn, muốn cầu thân với rắn và thờ rắn. Tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, Bến Tre có một ngôi đình gọi là Đình Rắn, tại đây vẫn lưu truyền về đôi rắn thần khổng lồ, hiền lành. Người dân Rạch Giá, Kiên Giang vẫn kể về đôi rắn thần ở đền Vĩnh Hòa bằng một niềm tin và thái độ tôn kính. Họ cho rằng, đôi rắn thần này từ biển vào, nó không những không làm hại ai mà còn giúp nhân dân khi hoạn nạn. Trong tâm thức của người dân Rạch Giá, khi đôi rắn thần xuất hiện cũng là lúc Ngài báo cho bà con trúng mùa. Hay trong truyền thuyết về Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười cũng nói đến đạo binh rắn giúp vị anh hùng đánh giặc Pháp…Tất nhiên, do xuất hiện trong một điều kiện địa hình tự nhiên khác và lịch sử muộn hơn nên hình tượng rắn ở đây không còn bộ mặt oai vệ, quyền năng của một vị thần nước như ở đồng bắc Bắc bộ. Tính chất thiêng vẫn còn song tính chất thủy thần, thủy quái đã nhạt đi rất nhiều…
Rắn là biểu tượng của sức mạnh và sự huyền bí: trong tín ngưỡng dân gian, rắn thường được xem là loài vật linh thiêng, có khả năng kết nối giữa thế giới con người và thế giới siêu nhiên. Ở nhiều vùng, người dân thờ thần rắn, coi rắn là biểu tượng của sự bảo vệ và quyền năng bởi có quan điểm cho rằng rắn được cho rằng mang đến sự bình yên, bảo hộ cho làng xóm và mùa màng, hoặc có quan điểm cho rằng rắn là hoá thân của các vị thần linh hoặc tổ tiên, được thờ cúng để cầu mong sự an lành và phồn thịnh. Vì vậy các miếu thờ thần rắn hoặc những câu chuyện về thần rắn bảo vệ làng rất phổ biến.
Rắn trong văn học nghệ thuật
Rắn không chỉ hiện diện trong thế giới tâm linh mà còn len lỏi vào văn học nghệ thuật, mang theo muôn vàn sắc thái ý nghĩa. Khi thì là hiện thân của cái ác, sự cám dỗ, xảo quyệt như con rắn trong Kinh Thánh, lúc lại hóa thân thành biểu tượng của trí tuệ, quyền lực và sự khôn ngoan như hình tượng rắn Naga trong Phật giáo. Rắn uốn lượn trong những áng văn chương bất hủ, ẩn mình trong các tác phẩm hội họa, điêu khắc dân gian, khơi gợi những tầng ý nghĩa sâu xa, phản ánh những quan niệm đa dạng về thế giới và con người. Rắn xuất hiện trong nhiều truyền thuyết, thần thoại Việt Nam, thường gắn với các vị thần, nhân vật anh hùng, như truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ kể rằng Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ, mang hình dạng nửa người nửa rắn. Hay trong truyện Thạch Sanh, nhân vật chính đã chiến đấu với trăn tinh để cứu công chúa và bảo vệ đất nước. Những câu chuyện này góp phần xây dựng hình ảnh rắn vừa linh thiêng, vừa gần gũi trong tâm thức người Việt.
Ý nghĩa của năm Rắn trong quan niệm người Việt
Năm Rắn, một mảnh ghép độc đáo trong vòng tuần hoàn 12 con giáp, mang đến những gam màu văn hóa đặc sắc và khơi gợi những suy tư thú vị về thời gian và vận mệnh. Theo quan niệm phương Đông, mỗi con giáp đều gắn liền với những đặc điểm tính cách và vận số riêng. Người tuổi Tỵ, sinh ra trong năm con rắn, thường được miêu tả là những người thông minh, khéo léo, có tài ăn nói, nhưng cũng ẩn chứa nét bí ẩn, khó lường. Như lời cổ nhân từng nói: "Rắn bò quanh núi, khó đoán được hướng", người tuổi Tỵ với bản tính linh hoạt, uyển chuyển, luôn ẩn chứa những điều bất ngờ. Năm Rắn cũng là thời điểm đánh dấu sự thay đổi, chuyển mình mạnh mẽ. Giống như loài rắn lột da để trưởng thành, năm Tỵ mang đến cơ hội để con người rũ bỏ những điều cũ kỹ, hướng tới sự phát triển và hoàn thiện bản thân. Đây là lúc để nhìn lại những gì đã qua, rút ra bài học kinh nghiệm và vạch ra những mục tiêu mới cho tương lai. Hơn nữa, năm Rắn còn là dịp để cộng đồng cùng nhau tham gia vào các sự kiện văn hóa, lễ hội đặc sắc, mang đậm bản sắc dân tộc. Từ những nghi lễ truyền thống cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đến những hoạt động nghệ thuật sôi nổi, tất cả đều góp phần tạo nên không khí náo nhiệt, tươi vui, chào đón một năm mới an khang, thịnh vượng. Có thể nói, năm Rắn mang ý nghĩa biểu tượng đặc biệt, thể hiện sự kết nối giữa thiên nhiên, con người và văn hoá truyền thống.
Năm của sự may mắn và tài lộc, trong văn hoá của các vùng miền khác nhau, rắn được coi là biểu tượng của sự phồn thực, tái sinh và gắn liền với các vị thần bảo hộ mùa màng. Ở Việt Nam, có nhiều nơi thờ cúng thần rắn với mong muốn cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Người dân ở Nam Bộ thờ thần rắn hổ mây, tin rằng thần sẽ bảo vệ mùa màng, che chở cho con người. "Thần rắn hổ mây được thờ cúng ở nhiều nơi, nhất là ở vùng đồng bằng Nam Bộ, với niềm tin rằng thần sẽ bảo vệ mùa màng, che chở cho con người" (2). Người xưa tin rằng, nếu rắn bò vào nhà là điềm báo gia đinh sắp có tin vui, tài lộc (3).
Năm của sự khôn ngoan và bản lĩnh, Rắn là loài vật mềm dẻo, uyển chuyển, mang trong mình vẻ đẹp bí ẩn và sức mạnh tiềm tàng, từ lâu đã được coi là biểu tượng của trí tuệ và sự khôn ngoan. Khả năng thích nghi tuyệt vời của rắn, từ những cánh rừng rậm rạp đến những sa mạc khô cằn, cho thấy sự linh hoạt, khôn khéo trong cách tồn tại và phát triển. Rắn biết cách ẩn mình, quan sát và chờ đợi thời cơ, tượng trưng cho sự nhạy bén, tính toán kỹ lưỡng trước mỗi quyết định. Người tuổi Tỵ, sinh năm Rắn, thường được gắn với những phẩm chất như thông minh, sắc sảo, có tầm nhìn xa trông rộng. Năm Rắn khuyến khích con người không ngừng học hỏi, trau dồi tri thức, mở mang hiểu biết để thích ứng với những thay đổi của cuộc sống và đạt được thành công.
Không chỉ là biểu tượng của trí tuệ, rắn còn là hiện thân của bản lĩnh kiên cường, vượt lên mọi nghịch cảnh. Hình ảnh rắn lột da, thay đổi lớp áo cũ kỹ để tiếp tục hành trình sống, là minh chứng cho sức mạnh nội tại, khả năng vượt qua khó khăn, thử thách để trưởng thành. Năm Rắn mang đến cho con người động lực để đối mặt với những biến cố trong cuộc sống, rèn luyện sự tự tin, quyết đoán và kiên trì theo đuổi mục tiêu. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, giống như loài rắn, con người cần phải không ngừng nỗ lực, vượt qua giới hạn của bản thân để chinh phục những đỉnh cao mới bởi "Rắn là con vật tinh khôn, biết ẩn mình, biết chờ đợi thời cơ" (3). Năm Rắn nhắc nhở con người cần phải trau dồi trí tuệ, rèn luyện sự nhạy bén, bản lĩnh để vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Năm của sự thay đổi và tái sinh, Năm Rắn với hình ảnh loài rắn lột da để trưởng thành, mang đến thông điệp mạnh mẽ về sự thay đổi và phát triển. Giống như con rắn từ bỏ lớp da cũ kỹ để khoác lên mình tấm áo mới, con người cũng cần dám thay đổi, dám bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân. Năm Rắn là thời điểm để nhìn nhận lại những gì đã qua, nhận ra những thiếu sót, khuyết điểm và tìm cách khắc phục. Đây cũng là lúc để vạch ra những mục tiêu mới, những hướng đi mới cho tương lai. Đôi khi, sự thay đổi có thể mang đến những lo lắng, bất an, nhưng nó cũng chính là cơ hội để chúng ta phát triển, hoàn thiện bản thân và vươn tới những điều tốt đẹp hơn "Rắn lột da tượng trưng cho sự tuần hoàn của vũ trụ, sự sống và cái chết luân phiên" (7). Năm Rắn vì thế mang đến cho con người niềm tin vào sự đổi mới, khả năng vượt qua nghịch cảnh, vươn tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Năm của sự gắn kết cộng đồng, Năm Rắn là dịp để người Việt sum vầy, cùng nhau tham gia các lễ hội, hoạt động văn hóa truyền thống "Vào năm Rắn, nhiều lễ hội rước rắn, thờ rắn được tổ chức ở các làng quê, thu hút đông đảo người dân tham gia" (4). Những hoạt động này góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, tạo nên sự gắn kết cộng đồng, cùng nhau hướng đến một năm mới an lành, hạnh phúc.
Hình tượng rắn, với vẻ đẹp huyền bí và sức mạnh tiềm ẩn, đã len lỏi vào đời sống văn hóa tinh thần của người Việt từ thuở xa xưa, để lại những dấu ấn đậm nét và đa dạng. Rắn vừa là biểu tượng linh thiêng trong tín ngưỡng dân gian, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu trưng phong phú trong văn học, nghệ thuật và đời sống thường nhật. Trong tín ngưỡng, rắn được tôn sùng như một vị thần linh, gắn liền với sự phồn thực, tái sinh và sức mạnh siêu nhiên. Hình ảnh rắn lột da, vòng tuần hoàn 12 con giáp với năm Tỵ, đều khơi gợi những liên tưởng về sự thay đổi, cơ hội để con người "lột xác", hướng đến sự phát triển và hoàn thiện bản thân. Rắn cũng là biểu tượng của trí tuệ, sự khôn ngoan, nhắc nhở con người trau dồi kiến thức, rèn luyện bản lĩnh để vượt qua những thử thách trong cuộc sống.
Tuy nhiên, hình tượng rắn cũng mang những ý nghĩa đối lập. Bên cạnh sự linh thiêng, rắn cũng được gắn với sự nguy hiểm, xảo quyệt, thể hiện qua những câu chuyện dân gian, thành ngữ, tục ngữ. Sự đối lập này phản ánh cái nhìn đa chiều, phong phú của người Việt về thế giới tự nhiên. Năm Rắn, trong quan niệm của người Việt, là năm của sự may mắn, tài lộc, cơ hội để con người thay đổi và vươn lên. Đây cũng là dịp để cộng đồng sum vầy, tham gia các hoạt động văn hóa, gắn kết tình cảm và cùng nhau hướng đến một năm mới an lành, hạnh phúc. Tóm lại, hình tượng con rắn với những ý nghĩa biểu tượng đa dạng đã góp phần làm nên bức tranh văn hóa đặc sắc của người Việt. Nó không chỉ phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa con người và thiên nhiên mà còn thể hiện những quan niệm sâu sắc về cuộc sống, về con người và những khát vọng vươn tới sự hoàn thiện.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Lâm Biền (2018), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Hồng Đức.
2. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, NXB Văn hoá dân tộc,.
GS.TS Cao Ngọc Lân, NCS Cao Vũ Minh (2013), Tìm hiểu Văn hóa tâm linh người Việt, Nxb Lao động.
3. Vũ Văn Lân (2015), Văn hoá dân gian về 12 con giáp, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
4. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 Lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
5. Bùi Thiết (1993), Từ điển Hội Lễ Việt Nam, Nxb Văn hoá.
6. Trần Quốc Vượng (2018), Theo dòng lịch sử, Nxb Hồng Đức
7. Trần Quốc Vượng (2010), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
TS LÝ THỊ NGỌC DUNG
Giảng viên Khoa Di sản văn hoá, Trường Đại học Văn
Biểu tượng của năm Ất Tỵ 2025 là Rắn. Con vật đứng thứ sáu trong 12 con giáp, theo lịch pháp cổ truyền của Đông Á, có lẽ là biểu tượng chứa đựng nhiều giá trị tương phản nhất. Đại diện cho sự khôn ngoan, lanh lẹn, được kính nể, rắn cũng bị coi là loài phản trắc, nham hiểm. Rắn có nơi được giao phó trọng trách bảo vệ đền, chùa…, nhưng Rắn nhiều khi cũng là kẻ độc ác cần diệt trừ. Song biểu tượng rắn không dừng ở tính chất nhị nguyên đó…
Đi sắm Tết năm Rắn tại một chợ Tết ở Hà Nội, Việt Nam, ngày 27/01/2024. AP - Hau Dinh
Chương trình Tạp chí đầu Xuân ngày mùng Hai Tết mời quý vị ngược dòng lịch sử trở về với một số trầm tích của biểu tượng Rắn ở Việt Nam, mảnh đất giao lưu của nhiều nền văn hóa, cùng với hai nhà nghiên cứu, chuyên gia về văn hóa Huế, tiến sĩ sử học Trần Đức Anh Sơn và phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thơ, chuyên gia về văn hóa dân gian Đông Á và Đông Nam Á.
Tâm lý ghét và sợ Rắn
Nhưng trước hết, mời quý vị nghe cảm nhận của chị Loan (Sài Gòn) về con Rắn ở người Việt: “Nếu nói theo dân gian, con rắn là thông minh sắc sảo. Nhưng nếu thông minh đó là tốt thì giúp người. Còn nếu thông minh lươn lẹo thì hại người thôi. Nói chung là nó có hai mặt. Về con rắn, người ta nghĩ về cái xấu nhiều hơn là cái tốt.”
Đối với rất nhiều người Việt Nam nói chung, rắn không phải là loài vật thân thiện. Nghĩ tới rắn, nhiều người liên tưởng đến nọc độc nguy hiểm chết người, loài vật hình thù trơn trượt, không chân. Người Việt có nhiều câu nói để chỉ tính xấu của con người với hình ảnh rắn như “Khẩu Phật tâm xà”, “đồ rắn độc”, rồi “Cõng rắn cắn gà nhà” hay “Đánh rắn là phải đánh dập đầu”. Nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn ghi nhận sự vắng mặt của biểu tượng Rắn trong lăng Vua Khải Định:
“Ở trong Thiên Định Cung, nơi an táng vua Khải Định, vị vua thứ 12 của nhà Nguyễn, thì ở Khải Thành Điện, phía trước, nơi thiết trí một án thờ, bây giờ có chân dung vua Khải Định, vua cho trang trí 11 con linh vật, biểu tượng cho các con vật cầm tinh các năm âm lịch. Riêng con Rắn thì không có. Ở vị trí con Rắn, nhà vua thay vào biểu tượng khác. Hoặc có thể các nghệ nhân làm việc vào thời đó, cho đó là một điềm xấu, nếu đưa vô lăng tẩm của một vị vua thì không hay. Tôi đã thống kê các ô trang trí này, thấy có đủ các con vật cầm tinh các năm, tức là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn…, đến năm Tỵ thì trống.
Cũng cùng một triều đại của nhà Nguyễn chúng ta thấy đầu triều, vua thứ nhì của nhà Nguyễn là Minh Mạng cho khắc đến hai lần, Nhiễm xà (một lần) và Mãng xà (một lần) trên Cửu Đỉnh. Như vậy, trở lại câu chuyện đầu tiên, trong tâm thức của người Việt, Rắn vừa là Tốt, vừa là Xấu. Rắn vừa mang biểu tượng cho sự sinh sôi nẩy nở, mùa màng, nhưng cũng là biểu tượng cho nhục dục, tội lỗi, nham hiểm, và vì vậy có người thích, có người không thích.”
Thủy Thần/Thủy Quái: Tính nhị nguyên của “Rắn”
Nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn nêu bật tính hai mặt của biểu tượng Rắn: “Đối với văn hóa của người Việt, con Rắn không phải là biểu tượng đồng nhất, giống như các biểu tượng khác. Khi nói về con Rồng thì để chỉ sự linh thiêng, sự bay lên, sự phát triển. Hay khi nói về Trâu thì là con vật hiền lành, cần mẫn, con vật giúp ích cho đời. Trong lịch sử Việt Nam, con Rắn mang hai yếu tính: tốt và xấu. Chúng ta thấy trong bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm và biên soạn lại, có 200 truyện, trong đó có tới 11 truyện có liên quan đến con Rắn.
Chúng ta thấy hình tượng Rắn nổi tiếng nhất là trong câu chuyện Thạch Sanh. Trong câu chuyện đó, con Rắn đã biến thành một con Chằn tinh hay con Trăn tinh, tu luyện lâu năm, và đi hại người. Và rồi chúng ta thấy trong câu chuyện về thần Núi Tản Viên, con Rắn được coi là con trai của vua Thủy Tề, bị bọn trẻ chăn trâu đánh chết. Sau này, con Rắn nhiều lần là hiện thân cho thế lực dưới nước, biểu tượng cho các thế lực bên dưới, thế lực âm, tấn công con người. Có rất nhiều trường hợp, người ta coi con Rắn là con vật xấu xí, hung ác. Tính của nó rất nham hiểm, hay xúc giục, hoặc là có nọc độc, có thể giết người, và thứ ba là rất tráo trở. Đó là những yếu tính xấu.
Ở một khía cạnh thứ hai, con Rắn được coi là yếu tính tốt, biểu tượng của nước, biểu tượng của sự mềm mại, uyển chuyển. Đối với tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, con Rắn được coi là biểu tượng cho nguồn gốc của các dòng chảy. Con Rắn chính là hình tượng của các dòng sông, hình tượng của nước, của mùa màng, của sinh sôi, nẩy nở. Đó là lý do mà người ta thờ cúng con Rắn. Nó cũng là Vật Tổ trong truyền thuyết Lạc Long Quân – huyền thoại Linh Lang Vương. Giao long là một con Rắn Thần, rất to, biểu tượng cho sự uy nghiêm, sự oai phong. Đó là biểu tượng đang từng bước “rồng hóa”, tức là từ con Giao long phát triển thành Rồng. Người ta cho rằng đây là các huyền thoại do các sử gia người Việt sưu tầm được, sáng tác thêm. Trong giai đoạn này, hình ảnh con Rắn mang mầu sắc phong kiến, được đồng nhất với vương quyền. Nhiều người cho Rồng là từ Rắn mà phát triển nên.”
Trong tâm thức của cư dân nông nghiệp thời cổ đại, Rắn là biểu tượng của thủy thần, sức mạnh các dòng sông, thế lực ban phúc và giáng họa. Tục thờ rắn hiện diện phổ biến ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, đặc biệt dọc các con sông lớn ở hạ lưu, như sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu. Theo hai nhà khảo cứu địa phương, Đổng Đức Khiêm và Nguyễn Hữu Bình, trong hiện tại, chỉ riêng dọc khu vực sông Cầu, xứ Kinh Bắc, đã có tới 316 ngôi đền thờ cặp thần rắn “Ông Dài, Ông Cụt”, mà một số nhà nghiên cứu coi như là cặp rắn thần có mặt sớm nhất trong thần điện của người Việt cổ. Rắn cũng hiện diện qua hình tượng ông Lốt, hay Thanh xà – Bạch xà, trong các đền phủ của đạo Mẫu (hay đạo Tứ phủ), tín ngưỡng dân gian phổ biến bậc nhất ở miền Bắc Việt Nam.
“Rồng là chính, Rắn là tà”: Sản phẩm của văn hóa chuyên chế Trung Hoa
Quan niệm Rồng là chính thống, còn Rắn thì hèn kém, thậm chí là biểu tượng cho sự độc ác, là sản phẩm của văn hóa chuyên chế Trung Hoa, theo ghi nhận của nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ :
“Văn hóa Trung Hoa, trải dài theo lịch sử thời quân chủ của họ, đã xây dựng nên một biểu tượng Rồng là chúa tể của vạn vật. Biểu tượng Rồng lấy cái thân của con Rắn, và thậm chí một vài bộ phận khác, ví dụ đầu hoặc vẩy, vẩy cá hay vẩy rắn nói chung. Và khi nó đã tích lũy những điểm tốt đẹp nhất của loài rắn và muôn loài, thì đương nhiên nó sẽ đẩy các loài vật như loài rắn xuống hàng thứ cấp. Một cặp cấu trúc, Rồng – Rắn, được dựng nên. Theo đó, Rồng là biểu trưng của Hoàng gia, của giới quý tộc, của quyền uy, của tính dương, của cái được cho là tính chính thống.
Đối lập với nó là biểu tượng được cho là của cái gian ác, của âm tính, của một cái gì đó rất hạ cấp, nhưng lại gắn chặt với đời sống dân gian. Dù dân gian người Trung Hoa vẫn coi rắn là biểu trưng của sự mắn đẻ, và sự trường sinh, vì rắn lột xác để sống tiếp, và một vài khía cạnh mang lại may mắn. Nhưng khi đặt trong tương quan với Rồng, thì rõ ràng có sự thua thiệt. Bởi vậy mới có câu : ‘‘trứng Rồng lại nở ra Rồng, liu điu lại nở ra bầy liu điu’’. Chúng ta thấy một cặp cấu trúc thượng/hạ rất rõ ràng. Giới nho sĩ xưa và những người chịu ảnh hưởng của nhãn quan Nho giáo ngày nay vẫn còn giữ ở một mức độ nhất định rằng Rắn là biểu trưng của sự hung ác, của sự tàn bạo, nói chung là đối lập với sự thiện lành.”
Đông đảo người Việt đều biết đến bi kịch “Lệ Chi Viên” đầu thế kỷ 15 của đại công thần nhà Lê Nguyễn Trãi, tác giả “Bình Ngô đại cáo”, bị tru di tam tộc, với lý do người vợ Nguyễn Thị Lộ sát hại nhà vua. Trong xã hội Việt Nam, câu chuyện về người vợ tài năng của Nguyễn Trãi, bị coi là hóa thân của loài rắn, để báo thù vẫn ám ảnh người đời gần 6 thế kỷ sau, đến mức cuối thế kỷ 20, có cả một cuộc “vận động minh oan cho Nguyễn Thị Lộ”. Ảnh hưởng của văn hóa chuyên chế Trung Hoa dường như ăn sâu trong xã hội Việt Nam đến mức khó tin.
Ảnh hưởng Ấn Độ: Rắn Naga học Phật
Trái ngược với ảnh hưởng chuyên chế phương Bắc, hình tượng rắn đến từ văn minh Ấn Độ có những điểm tương đồng với văn hóa bản địa, đặc biệt với rắn thần Naga học Phật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ cho biết:
“Người Ấn Độ, hay các dân tộc Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đều coi Rắn trước hết là biểu trưng của những dòng sông. Trong các tương tác với truyền thống Ấn Độ ở Việt Nam, chúng ta thấy có người Chăm ở Trung Bộ, và người Khmer ở Nam Bộ, hiện diện trong truyền thuyết của họ, trong kiến trúc, mỹ thuật, thí dụ như đền tháp Chăm, trong các tượng thần thánh, chúng ta vẫn thấy biểu tượng Rắn Naga 5 đầu, xòe ra để che chở hay bảo vệ thần Vishnu. Chuyển hóa thành tượng Rắn 5 đầu, hay 7 đầu, bảo hộ Đức Phật, là chuyện về sau.
Trong nhiều chuyến đi công tác, khảo sát ở các ngôi chùa Khmer, Nam Bộ, tôi được nghe người Khmer Nam Bộ ở Sóc Trăng hay Trà Vinh kể rằng khi Đức Phập thuyết pháp, người dân rất hăm hở, nhiệt huyết đến chùa, ngồi lặng lẽ nghe Đức Phật giảng. Trong số các loài vật cũng mong muốn được tu theo Đức Phật, có một con Rắn. Con Rắn biết rằng, nếu để nguyên thân hình rắn để vào chính điện thì không hay, nên nó hóa phép thành một người đàn ông chỉnh tề, mặc trang phục trắng. Nhưng mà vì cốt của nó là loài vật, nên nghe chữ được chữ mất. Nghe một thời gian thì nó buồn ngủ quá. Khi nó ngủ thì ngáy. Mọi người mới nhìn quanh mới thấy nó hoàn nguyên trở lại hình ảnh của một con rắn. Người ta bỏ chạy hết…. Cuối cùng nó mới nảy ra một cái ý là xin phép Đức Phật không vào chính điện, để không làm kinh hãi những người xung quanh. Đứng ở bên ngoài, hai bên bậc thềm, hoặc là ngồi bên trên nóc chùa, để mỗi ngày, có thể nghe được tiếng kinh của Đức Phật.
Đó là lý do tại sao mà khi đến chùa người Khmer ở Nam Bộ, hoặc là người Campuchia trên đất Campuchia hay Thái Lan, hay Miến Điện, chúng ta thấy trong kiến trúc mỹ thuật, đầu rắn Naga vươn lên ở đầu hồi, ngẩng cao. Hình thái chế tác mỹ thuật tạo hình rất đẹp, tượng trưng cho sự hướng thượng, hướng về hướng Thái dương, hướng Mặt Trời. Đồng thời nó cũng thể hiện sự thị uy. Khi đến chùa, người ta thì bỏ hết mọi dục vọng, mọi tà niệm ở bên ngoài. Khi hiện diện ở bên trong khuôn viên chùa, đứng trước Đức Phật phải là những cá thể với lòng chân thành nhất, hướng thiện nhất.”
Liên quan đến rắn, trong dân gian Việt Nam có một trò chơi của trẻ nhỏ nổi tiếng lâu đời, thường được gọi là trò “ Rồng rắn lên mây “, đi kèm bài hát đồng dao : “ Rồng rắn lên mây, Có cái cây lúc lắc (hay núc nác), Có nhà điểm binh, Hỏi thăm thầy thuốc, Có nhà hay không? … “
Thầy Thuốc: “Cho xin khúc đầu.”
Rồng rắn: “Những xương cùng xẩu.”
Thầy Thuốc: “Cho xin khúc giữa.”
Rồng rắn: “Những máu cùng me.”
Thầy Thuốc: “Cho xin khúc đuôi.”
Rồng rắn: “Tha hồ Thầy đuổi.”…
Về nguồn gốc của trò chơi rất phổ biến một thời này, có nhiều cách giải thích hoàn toàn khác nhau. Có người coi đây là một nghi lễ tránh trùng tang, có người coi trò chơi này ngụ ý nói đến đất nước Việt Nam vào cái thời ba miền bị chia cắt… Dù nguồn gốc và ý nghĩa ra sao, ý thức thực tế và trực tiếp của trò chơi này rõ ràng là thúc đẩy hoạt động hướng đến một mục tiêu chung, giúp những người tham gia luyện rèn tinh thần đoàn kết, gắn bó. Trò chơi gắn chặt Rồng với Rắn bất chấp bao nỗ lực chia lìa...
Về trò chơi Rồng rắn lên mây, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ nhận định : “Phải có sự kết hợp của cả hai, của cái văn hóa tinh hoa và văn hóa dân gian thì mới có thể phát triển. Chính vì thế mới có câu ‘‘Rồng rắn lên mây’’. Một mình Rồng thì chưa chắc đã lên mây, còn mình Rắn thì đương nhiên không thể. Nếu chúng ta biết kết hợp một cách hài hòa và xử lý những khoảng cách, nếu có, giữa biểu tượng Rồng và Rắn, có nghĩa là giữa ý niệm của tầng lớp tinh hoa và những nguyện ước của bình dân thì dân tộc có thể phát triển. Rồng Rắn có thể lên mây.”
Thìn rồi đến Tỵ và “Rồng Rắn lên mây”
Con Rồng chuyên chế trong văn hóa Trung Hoa hút lấy những nét tốt của loài rắn, nhưng trong lịch pháp cổ truyền 12 con giáp, năm Thìn đi trước rồi mới đến năm Tỵ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ suy ngẫm:
“Ngày nay khi mà tất cả các dân tộc, tất cả các quốc gia đều phải mở cửa, phải tiến hành giao lưu, về kinh tế, về văn hóa, và đặc biệt là chào đón sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, thành ra ranh giới giữa những định kiến hoặc những khác biệt trong văn hóa, đặc biệt trong thế giới biểu tượng, giữa các nước với nhau và giữa các biểu tượng trong cùng một nền văn hóa cũng bắt đầu mờ nhạt dần. Cái này phản ánh đúng cái gọi là ‘‘Tương đối luận văn hóa’’, mọi thứ đều có giá trị tương đối. Thành ra khi mà nhãn quan Nho giáo đã phai nhạt dần, thì những ranh giới của cái được cho là quý tộc, cái được cho là bình dân, giữa Rồng và Rắn cũng mờ nhạt dần. Thành ra ngày nay, về biểu tượng Rồng người ta cũng đánh giá lại. Chưa chắc gì rồng đã là cao sang, quyền quý [bởi trên thực tế, trong thời quân chủ, chúng được sử dụng như các công cụ]. Biểu tượng Rắn chưa chắc gì hoàn toàn là biểu trưng của cái Ác. Mọi thứ mang tính hai mặt hết.
Khi đi vào thế giới biểu tượng người ta có xu hướng mỹ hóa, hoặc triết lý hóa các bình diện được cho là tích cực của các loài, để khuếch trương nó lên, và người ta cố gắng để hạn chế đến mức tối đa những phần phiến diện còn lại của biểu tượng đó (cái “ phiến diện “ trong diễn đạt của tác giả một phần đáng kể hàm nghĩa là những gì tiêu cực). Hoặc là người ta đơn giản là không nói về nó [cái phiến diện]. Chính vì thế mà bây giờ khi chúng ta đang chào đón năm Tỵ, năm Rắn, người ta thường nhấn mạnh đến tính tích cực của nó, và kèm theo đó là những gửi gắm, mong ước sự hòa bình, hạnh phúc hoặc thịnh vượng và đặc biệt là theo nguyên tắc Rồng rồi mới đến Rắn, và cuối cùng ‘‘lên mây’’. Thành ra là Rồng dù có sang, nhưng Rồng vẫn phải đi trước và làm nền cho Rắn. Rồng với Rắn thì mới lên mây được, phải không ạ? Theo trật tự, thì sau năm Thìn rồi mới đến năm Tỵ. Năm Tỵ muốn phát triển phải đứng trên vai năm Thìn. Khi năm Tỵ đứng trên vai năm Thìn, thì chưa chắc con Rồng đã cao hơn Rắn. Thành ra có nhiều cách để thấy là trong thế giới đương đại, cái tính tôn ti trật tự cao thấp, nếu có, của thời quân chủ, sẽ bị giải cấu trúc. Và các biểu tượng bây giờ đứng thành hàng, hàng dọc – hàng ngang, như nhau. Cách mà chúng ta diễn giải đều phụ thuộc vào việc chúng ta mong muốn gửi gắm mong ước điều gì. Bởi biểu tượng là kết tinh của những mong ước.”
Rắn: “Sinh lực nguyên thủy”
Hình tượng con rắn mang ý nghĩa muôn mặt trong văn hóa Việt Nam. Rắn là dòng sông mang lại màu mỡ, thịnh vượng, nhưng cũng có thể là dòng sông cuồng nộ... Nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Huỳnh Ngọc Trảng nhìn thấy trong con Rắn biểu trưng của “ năng lượng sống nguyên thủy “, điều mà ông rút ra qua quan sát và đúc kết thành tựu của giới khoa học phương Tây:
“Con Rắn là biểu trưng cho cái bản năng, mà người ta gọi là năng lượng sống nguyên sơ. Cái đó biểu tượng ra là nước, rồi ra dòng sông. Nước cũng biểu tượng cho sự Sống. Nó là sự chuyển động. Thay đổi không ngừng. Nó là sức mạnh hủy diệt nữa. Nhưng sự hủy diệt nó dẫn đến tái sinh. Nhiều thứ lắm. Và nước cũng giúp phục hồi”.
Rắn được coi là loài vật vừa sống trên cạn, vừa có thể sống dưới nước. Trong lịch sử Trái đất, sự sống từ các đại dương đi lên. Biểu tượng rắn gắn liền với suối nguồn kỳ diệu của sự sống.
Thách thức Sinh Tử: “Rắn” và việc xây dựng một “Ý thức về toàn thể”
Sự bùng nổ của công nghệ - kỹ thuật và sự thịnh vượng kinh tế đưa nhân loại hiện nay đạt đến “ cảnh giới tiến bộ “ chưa từng có. Tuy nhiên, cũng chính tham vọng phát triển vô hạn, bất chấp các giới hạn về môi trường và khí hậu, đang đặt thế giới trước hiểm họa “ đại tuyệt chủng sinh giới lần thứ sáu “. Nhiệt độ Trái đất tăng quá mức 1,5°C (so với thời tiền công nghiệp), do năng lượng hóa thạch, đang khiến Trái đất ngày càng trở nên khó sống nổi với chính loài người.
Nhiều nhà khoa học phương Tây, như nhà nhân chủng học Pháp Philip Descola, nhìn thấy cội nguồn sâu xa của xu thế hủy diệt nói trên trong chính “ vũ trụ quan “ (cosmologie) của con người hiện đại (với nòng cốt là tư tưởng phương Tây), coi Thiên nhiên là cái bên ngoài con người, và là đối tượng để khai thác triệt để. Chính “ Vũ trụ quan “ đó đang “ tàn phá mối quan hệ của con người với sinh giới “, và “ không cho phép xã hội đương đại ý thức được rõ “ đại thảm họa đang diễn ra (phỏng vấn của Đài Radio France : L'anthropologue Philippe Descola : "Notre cosmologie moderne altère notre rapport au vivant" “ / Nhà nhân chủng học Philippe Descola "Vũ trụ quan hiện đại của chúng ta tán phá mối quan hệ con người với sinh giới").
Năm Rắn có thể chỉ đơn thuần được coi như một biểu tượng năm thông thường theo truyền thống. Biểu tượng Rắn có thể chỉ được gắn vào các niềm tin vào số mạng, vận hạn… Ất Tỵ có thể được nhiều người chú ý đến như một năm rủi ro. Nhưng năm Rắn cũng có thể là một dịp để trở về với những minh triết ngàn đời: Rắn có thể là cơ hội để khắc phục tầm nhìn chỉ thấy cây mà không thấy rừng, để hướng đến một “ Ý thức về toàn thể “, để nhận ra những hiểm họa và cội nguồn của những hiểm họa đe dọa sự sống của toàn thể nhân loại hiện nay.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ, trong cuộc trả lời phỏng vấn, đã nhắc đến “ Báu vật phương Nam “ của văn hóa Việt Nam : Cụm tượng độc nhất vô nhị Rắn 7 đầu bảo vệ Đức Phật bốn tay trong một ngôi chùa ở tỉnh An Giang. Cụm tượng này nguyên ủy là di vật của nền văn minh Ốc Eo, có tuổi đời ít nhất hơn một ngàn năm trước. Tượng Phật bốn tay này nguyên là tượng thần Bảo tồn sự sống Vishnu, của nền văn minh Ấn Độ cổ. Rắn thần cuộn tròn là hiện thân cho nền tảng của “ vũ trụ “, của sự sống, gắn bó mật thiết với thần Bảo tồn. Rắn thần vươn cao hiện thân cho “tư duy hướng thượng” và “sức sáng tạo của con người”.
Vươn cao nhưng không đoạn tuyệt với những cội rễ: Phải chăng là bài học minh triết căn bản nhất, đã được các thế hệ đi trước gởi gắm qua hình tượng rắn? Bài học từ đây có thể giúp gì cho nhân loại trong tình thế nguy nan hiện nay?
RẮN 7 ĐẦU BẢO VỆ PHẬT và TƯỢNG "THẦN BẢO TỒN" VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ
(Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thơ)
“Theo quan niệm triết lý của người Bà La Môn xưa và Hindu ngày nay, thế cuộn tròn của loài rắn là thế vững chắc của nền tảng ‘‘vũ trụ’’, mà trên đó con người được sinh sống, được sinh hoạt, được sáng tạo, được xây dựng cuộc sống của mình…. Thân rắn cuộn tròn, nhiều vòng, rất bề thế, hình ảnh của một ‘‘đại ngã’’ đã được cụ thể hóa, bằng vòng tròn con rắn cuộn. Cái đầu của nó ngẩng lên, vươn rất cao. Thể hiện tư duy hướng thượng, nhưng đồng thời thể hiện sức sáng tạo của con người. Sáng tạo này được xây dựng trên bản thể của vũ trụ, chứ không phải từ không trung rơi xuống, mà không có nền tảng nào cả.
Và đồng thời khi đi vào trong tôn giáo, trong nghệ thuật tôn giáo, rắn trong truyền thống Bà La Môn thường gắn với thần Vishnu, tức thần Bảo tồn. Thường có những truyện như lúc thần Vishnu phải chống chọi với những lũ ma vương, từ giông bão đến các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Con rắn nó xòe 5 cái đầu bên trên thần Vishnu để che chở cho Thần. Cái này xuất hiện trong bức tượng ở di chỉ khảo cổ Ba Thê, thị trấn Ốc Eo, ở tỉnh An Giang, có từ hơn một ngàn năm. Người Việt ở đó vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đã tiếp nhận bức tượng này, chuyển đổi cái vỏ hình dáng vật lý bên ngoài để trở thành tượng Đức Phật, có bốn tay. Trên bốn tay cầm các vật thể, được cho là cấu tạo nên vũ trụ, theo quan niệm của Bà La Môn giáo của người Ấn. Trên đầu Đức Phật, có hình ảnh con rắn xòe 7 đầu. Con rắn trở thành Đức Hộ Pháp cho Đức Phật, theo quan điểm của cư dân địa phương.
Bức tượng Phật bốn tay này khác biệt hoàn toàn về phong cách của các bức tượng khác trên lãnh thổ Việt Nam. Khi nhắc đến Phật giáo, người ta nhắc đến bể khổ và sự giải thoát, từ bi. Cái nét chung của các tượng Phật thường là trầm tư, dịu dàng, nhìn chúng sinh ngụp lặn trong bể khổ và cứu khổ. Không thể nào có được nét mặt tươi sáng, hoặc rất sinh động. Tượng Phật bốn tay thực chất là tượng thần Vishnu (Bảo tồn) … Tượng Phật bốn tay này và tượng Bà Chúa Xứ, nguyên là tượng thần Shiva (thần Hủy diệt), là hai báu vật của vùng đất phương Nam.”
Năm Ất Tỵ 2025, mang theo sự chuyển mình của thời gian, đánh dấu những cơ hội và thách thức mới trong cuộc sống.
Thời gian không chỉ là dòng chảy bất tận, mà còn là dịp để con người nhìn lại, chiêm nghiệm và thực hành những lời dạy của đức Phật, nhằm hướng đến đời sống an lạc và giác ngộ.
Rắn là con giáp thứ sáu trong 12 con giáp, mang trong mình nhiều ý nghĩa, đặc biệt, không chỉ là một biểu tượng đơn thuần, mà còn chứa đựng những bài học sâu sắc về nhân sinh và tâm linh.
Từ góc độ nhân sinh, rắn đại diện cho những bài học quý giá về trí tuệ, sự thích nghi và cách vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Vì vậy, chúng ta cần học hỏi từ rắn, cách giữ vững sự bình tĩnh, vượt qua khó khăn và làm mới bản thân, để đạt được sự phát triển bền vững.
Trong lịch sử, rắn đại diện cho sự uyển chuyển, tái sinh, nguy hiểm nhưng cũng là sự khôn ngoan và giác ngộ. Trong Phật giáo, rắn có ý nghĩa hai chiều: vừa biểu trưng cho những độc tố tâm lý như tham lam, sân hận, si mê, và phiền não, vừa thể hiện sự bảo vệ và tái sinh, vừa là hình ảnh bảo hộ, từ bi và trí tuệ, cũng là bài học về cách chuyển hoá khổ đau, nguy hiểm thành sự bảo hộ và giác ngộ. Những ý nghĩa này không chỉ hữu ích trong tu tập mà còn rất thiết thực trong đời sống xã hội hiện đại.
Tại sao Rắn được lấy làm biểu tượng trong Phật giáo
Trong Phật giáo, rắn được dùng làm biểu tượng của những trạng thái tâm bất thiện, đặc biệt là sân hận. Trong kinh Pháp Cú, phẩm người ngu, câu 103-105 đức Phật dạy: “Hãy tránh sân hận như tránh nọc độc của rắn độc. Nếu không chế ngự sân hận, nó sẽ phá hủy cả thân tâm.”[1] Đức Phật nhắc nhở rằng sân hận cũng như nọc độc của rắn, nó phá hủy tâm hồn và ngăn cản con người đạt được giải thoát. Ngài khuyến khích hàng đệ tử tránh xa sân hận như tránh xa rắn độc.
Rắn có bản năng tấn công khi bị kích động, giống như tâm sân của con người. Trong Kinh Pháp Cú, câu 222, đức Phật dạy: “Hãy chế ngự sân hận, không để sân làm tổn hại tâm trí, như con người chế ngự rắn độc.”[2] Bởi vì, sân hận được ví như rắn độc, ám chỉ rằng nếu không chế ngự, cảm xúc sẽ làm tổn thương bản thân và mọi người xung quanh. Như đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Người ôm giữ sân hận, như cầm than hồng ném người khác, chính mình là người bỏng tay.”[3] Lời dạy này đặc biệt quan trọng trong xã hội ngày nay, khi con người đối mặt với áp lực và dễ dàng mất kiểm soát cảm xúc.
Cho nên, hình ảnh rắn độc, nhắc nhở con người cần kiểm soát và chế ngự cảm xúc tiêu cực, tránh để nó hủy hoại bản thân của chính mình và người khác. Với ý nghĩa đa dạng, vừa tích cực vừa tiêu cực. Rắn được nhắc đến như:
Biểu tượng của độc tố tâm lý: Sân hận, si mê, và tham ái.
Biểu tượng của sự bảo vệ và hộ trì: Điển hình là câu chuyện rắn thần Mucalinda.
Biểu tượng của sự chuyển hóa và tái sinh: Liên quan đến khả năng lột xác của rắn.
Trong Phật giáo, rắn xuất hiện trong nhiều kinh điển với vai trò là biểu tượng, bài học, hoặc thậm chí là nhân vật trong các tiền thân của đức Phật. Rắn có thể đại diện cho những phiền não như tham, sân, si mà người tu hành cần vượt qua, nhưng đôi khi cũng được miêu tả như một loài bảo vệ giáo pháp và người tu hành.
Trong Kinh Trường Bộ, bài Kinh Mucalinda nói rằng:“Rắn thần Mucalinda xuất hiện khi đức Phật đang thiền định dưới cội bồ đề. Lúc trời mưa to, rắn thần đã quấn thân mình bảy vòng quanh đức Phật, dùng đầu để che mưa cho Ngài”.[4] Đây là biểu tượng của sự bảo vệ, hộ trì dành cho những ai sống trong chính pháp. Câu chuyện này khẳng định rằng vũ trụ và tự nhiên sẽ bảo vệ những ai thực hành chính pháp và sống với tâm từ bi, trí tuệ.
Đức Phật sử dụng hình ảnh rắn để minh họa cách tiếp cận giáo pháp. Ngài dạy rằng, giáo pháp giống như một con rắn độc. Nếu cầm đúng cách (nắm ở cổ), nó sẽ không gây hại; nhưng nếu cầm sai cách (nắm ở đuôi), nó sẽ quay lại làm hại người cầm. Đây là lời nhắc nhở rằng người học đạo cần hiểu đúng và thực hành đúng, không nên chấp thủ hoặc áp dụng sai lệch.
Trong kinh Trung Bộ, tập 1, đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, người học giáo pháp mà không hiểu đúng giống như người cầm rắn sai cách. Họ sẽ bị tổn hại thay vì đạt được lợi ích.”[5] Do đó, giáo pháp không phải để chấp thủ vào ngôn từ, lý thuyết, mà là để thực hành, chuyển hóa tâm thức, đạt đến sự giải thoát thực sự.
Giáo pháp là phương tiện mạnh mẽ, nhưng phải tiếp cận đúng cách, với trí tuệ và tâm buông bỏ. Ngược lại, nếu sử dụng sai lầm, nó không chỉ không giúp ích mà còn gây hại. Lời dạy này khuyến khích người học thực hành với sự cẩn trọng, tinh tấn và chính niệm.
Ảnh sưu tầm
Rắn và sự chuyển hóa, tái sinh
Rắn có khả năng lột xác, điều này biểu trưng cho sự đổi mới và tái sinh. Trong giáo lý Phật giáo, điều này liên quan đến nguyên lý vô thường. Con người cũng cần buông bỏ những chấp chước và nghiệp xấu, để đạt được sự an lạc. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, điều thứ hai, đức Phật dạy: “Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, bốn đại khổ không, năm ấm vô ngã.”[6] Rắn lột xác để phát triển, giống như con người phải buông bỏ chấp thủ để tiến tới giác ngộ. Hình ảnh này nhắc nhở chúng ta về tính vô thường, một trong ba đặc tính căn bản của vạn pháp được đức Phật giảng dạy. Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật nói: “Vạn vật trên đời đều sinh rồi diệt, chỉ có người trí nhận ra vô thường mà không đau khổ.”[7] Đây là dịp để mỗi người nhìn nhận lại chính mình, học hỏi từ những lời dạy của đức Phật và ứng dụng vào trong cuộc sống.
Hiểu rõ định luật vô thường, thực hành chính niệm, buông bỏ sân hận, và phát triển trí tuệ, sẽ giúp chúng ta sống ý nghĩa và an lạc hơn. Dù xã hội ngày nay có nhiều biến động, những giá trị cốt lõi từ phật pháp, là kim chỉ nam, giúp con người vượt qua khổ đau để tiến đến hạnh phúc bền vững. Ngoài ra, rắn còn được xem là biểu tượng của sự chuyển hóa do khả năng lột da, tượng trưng cho việc loại bỏ những điều cũ kỹ để tái sinh và đổi mới. Quá trình lột da của rắn phản ánh hành trình tu tập của con người, nơi mà chúng ta buông bỏ những thói hư tật xấu, và tư duy tiêu cực, dẫn đến sự tái sinh trong tâm hồn, hướng tới sự giác ngộ.
Rắn còn được gắn với si mê và ngu muội, biểu hiện của tâm thức không tỉnh thức. Trong Kinh Trung Bộ, bài kinh “Tiểu nghiệp phân biệt”, đức Phật giải thích rằng “Hành động dựa trên si mê sẽ dẫn đến đau khổ và tái sinh bất thiện”.[8] Kinh Trung Bộ, tập 1, có đề cập:“Chính nghiệp là tài sản của chúng sinh, là hạt giống gieo trồng nơi ruộng phúc hay tội lỗi, dẫn đến các quả báo thiện ác.”[9] Điều này khẳng định rằng mọi hành động từ thân, khẩu, ý của con người đều tạo nên nghiệp. Nghiệp thiện dẫn đến phúc báu, hạnh phúc, trong khi nghiệp ác là nguồn gốc của khổ đau, bất an. Để tránh xa nghiệp ác, con người cần thực hành chính niệm và tỉnh giác trong đời sống hàng ngày. Chính niệm giúp nhận biết rõ mọi hành động, còn tỉnh giác giúp phân biệt đâu là thiện, đâu là bất thiện.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, tập 3, đức Phật nhấn mạnh: “Ai thực hành bố thí, trì giới, tu tập tâm ý trong sạch sẽ gặt hái được phước báu lớn lao.”[10] Đức Phật thường nhắc nhở rằng, nghiệp ác không chỉ gây đau khổ cho bản thân mà còn lan tỏa khổ đau đến xã hội. Do đó, việc tu tập không chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn mang ý nghĩa cộng đồng. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng: “Người sống trong chính pháp, tự giữ mình và giúp người khác giữ mình, sẽ đem lại an lạc và hòa hợp cho nhân sinh.”[11]
Trong đời sống tu tập hàng ngày, hướng đến nghiệp thiện và tránh xa nghiệp ác, chúng ta không chỉ tạo nền tảng cho hạnh phúc hiện tại, mà còn góp phần vào sự an vui lâu dài trong luân hồi. Hãy nhớ rằng mỗi ngày là một cơ hội để gieo trồng hạt giống thiện lành, và chính chúng ta là người quyết định con đường mình đi. Như lời đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy nương tựa vào chính mình, chớ nương tưa vào một ai khác.”[12] Người tu tập cần học cách linh hoạt chuyển hóa tâm thức, giữ tâm bất động trước cám dỗ, và hướng về điều thiện. Kinh Pháp Cú, câu 183, dạy: “Không làm các điều ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời chư Phật dạy.”[13] Lời dạy này nhấn mạnh rằng, mỗi hành động của chúng ta trong hiện tại sẽ tạo ra kết quả trong tương lai. Đây là lời nhắc, để mỗi cá nhân sống có trách nhiệm hơn với chính mình, và cộng đồng.
Khéo léo ứng xử trong đời sống
Trong xã hội hiện đại, khi con người phải đối mặt với những thay đổi và thách thức không ngừng, rắn trở thành biểu tượng nhắc nhở chúng ta, biết cách điều chỉnh bản thân, cư xử tinh tế và sống hài hòa với mọi người xung quanh, phải biết ứng xử linh hoạt, thích nghi với những biến động, khéo léo trong ứng xử và hành động một cách tinh tế, hợp tình hợp lý, không gây tổn thương hoặc làm mất lòng người khác. Biết linh hoạt thích nghi, kiên nhẫn lắng nghe và từ bỏ cái xấu, để phát triển chính là cách giúp con người sống hạnh phúc và thành công hơn. Như lời đức Phật dạy: “Hãy sống như người trí, biết chọn lọc lời nói và hành động để mang lại an lạc cho mình và người.”[14] Cho nên, đức Phật đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nói lời khéo léo, trong Kinh Pháp Cú câu 223, có dạy rằng: “Lấy từ bi thắng sân hận, lấy thiện thắng ác, lấy bố thí thắng xan tham, lấy chân thật thắng hư dối.”[15] Cho nên, chúng ta cần phải có khả năng thay đổi hành vi để phù hợp với môi trường.
Tương tự, trong cuộc sống hiện đại, con người cần biết cách điều chỉnh bản thân trước những hoàn cảnh khác nhau, tránh cứng nhắc hay bảo thủ. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng trong giao tiếp, việc lựa chọn thời điểm và cách tiếp cận phù hợp sẽ tạo hiệu quả tốt hơn. Sự khéo léo giúp duy trì hòa khí và giải quyết mâu thuẫn một cách nhẹ nhàng. Biết lắng nghe và thấu hiểu là chìa khóa để xây dựng hạnh phúc gia đình.
Trong công việc: Sự khéo léo trong giao tiếp giúp xây dựng mối quan hệ tốt với đồng nghiệp và đối tác. Trong Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, đức Phật dạy rằng: “Người khôn ngoan biết cách nói những lời đem lại lợi ích và an lạc.”[16] Đối với xã hội, khéo léo giúp chúng ta sống hòa hợp, tạo dựng lòng tin và giải quyết xung đột mà không làm tổn thương người khác.
Trong đời sống hiện đại, rắn là hình tượng truyền cảm hứng về sự khéo léo, nhạy bén và trí tuệ trong ứng xử. Biết linh hoạt thích nghi, kiên nhẫn lắng nghe và từ bỏ cái xấu để phát triển cái tốt, chính là cách giúp con người sống hạnh phúc và thành công hơn. Như lời đức Phật dạy: “Nói một lời chân thật, đầy ý nghĩa và lợi ích còn hơn ngàn lời vô ích.”[17] Vậy, chúng ta khéo léo trong lời nói, biết nói năng đúng lúc, đúng chỗ, không làm tổn thương người khác, nhưng vẫn đạt được mục đích. Đây là cách để đối mặt với những thử thách mà không để lòng sân si che mờ trí tuệ, giúp con người chúng ta giữ vững tâm bình an và sáng suốt.
Ảnh sưu tầm
Chuyển hóa nội tâm
Chuyển hóa nội tâm, trong Phật giáo lấy hình ảnh rắn nhắc nhở chúng ta buông bỏ những chấp trước, tham sân si, để đạt được sự thanh tịnh trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, sự phát triển vượt bậc về công nghệ và kinh tế, đã mang lại nhiều tiện ích cho con người, nhưng cũng không ít áp lực từ công việc, gia đình và xã hội, thường bám víu vào vật chất, danh vọng.., rơi vào trạng thái căng thẳng, lo âu, thậm chí trầm cảm, do những giá trị tạm thời, dẫn đến khổ đau khi mất mát. Cho nên, đức Phật khuyên: “Hãy sống tỉnh thức, như người đi trên dây, luôn giữ tâm vững chãi.”[18] Tỉnh thức không chỉ giúp chúng ta làm chủ cảm xúc, mà còn đối diện với những thử thách một cách sáng suốt.
Trước tình hình đó, việc chuyển hóa thân tâm, tức là thay đổi cách nhìn nhận và ứng xử với cuộc sống, hiểu rõ vô thường giúp chúng ta buông bỏ những chấp trước, sống tự tại và an nhiên giữa dòng đời, để duy trì sự cân bằng và an lạc trong tinh thần. Đây cũng chính là con đường đức Phật đã chỉ dạy trong nhiều kinh điển, giúp chúng ta vượt qua khổ đau và đạt được trạng thái tĩnh lặng nội tâm.
Như vậy, sự an lạc không nằm ở những điều kiện bên ngoài mà bắt nguồn từ chính nội tâm của mỗi người. Chúng ta muốn được điều này trước hết cần phải học cách lắng nghe chính mình, nhận diện và kiểm soát những cảm xúc như giận dữ, sợ hãi, hay lo âu. Ví dụ, trong một ngày làm việc căng thẳng, chỉ cần dành vài phút để tập trung vào hơi thở, thì chúng ta có thể giải tỏa căng thẳng và lấy lại sự bình tĩnh.
Sống trong chính niệm
Xã hội ngày nay, đầy những cám dỗ và phân tâm, khiến chúng ta dễ mất chính niệm, khi đối diện với mâu thuẫn hoặc khó khăn trong các mối quan hệ, đầy cạnh tranh và bất công, tác động lớn đến con người, tâm lý và đạo đức. Đứng trước thách thức đó, những lời dạy của đức Phật về con người, và cách quản trị thân tâm, mang lại nguồn cảm hứng, để chúng ta hành xử và đối diện với thực tế một cách trí tuệ và nhân ái.
Trí tuệ giúp chúng ta phân biệt thiện ác, đúng sai, và chọn con đường phù hợp với chính pháp. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật dạy: “Người có trí tuệ sống trong giới đức, tự mình tỏa sáng như mặt trời giữa bầu trời trong sáng.”[19] Thực hành lòng từ bi và xây dựng cộng đồng hòa hợp, như đức Phật dạy trong Kinh Từ Bi: “Người trí cần phát triển lòng từ bi không ngừng đối với tất cả chúng sinh.”[20] Đạo đức và lòng từ bi là những giá trị bất biến. Bằng cách thực hành chính niệm, buông bỏ và sống vì lợi ích chung, chúng ta có thể vượt qua những thử thách hiện tại và xây dựng một cộng đồng hài hòa và bền vững. Đây là lời dạy của đức Phật mang đến ánh sáng trí tuệ và sự an lạc.
Lòng từ bi không chỉ giúp chuyển hóa những cảm xúc tiêu cực, mà còn xây dựng mối quan hệ hòa hợp với những người xung quanh. Trong Kinh Từ Bi, đức Phật dạy: “Hãy thương yêu tất cả chúng sinh như mẹ thương con, dù phải hy sinh mạng sống cũng không bỏ rơi con mình.”[21] Trí tuệ và lòng từ bi, mọi sự thay đổi sẽ mang lại lợi ích cho tập thể.
Chúng ta cần nhớ rằng thay đổi là bản chất của cuộc sống, mở lòng để tiếp nhận những thay đổi tích cực và sẵn sàng thích nghi với bối cảnh mới. Đức Phật dạy rằng: con người không chỉ là một phần của xã hội mà còn là nhân tố quyết định sự thịnh suy của cộng đồng, từ sự buông bỏ là cần thiết để đạt được sự thanh tịnh và tự do.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật dạy rằng: “Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh, như sương mai và điện chớp, nên quán chiếu như thế.”[22] Trong Kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật nêu lên: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hay làm với tâm thanh tịnh, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng không rời hình.”[23] Chúng ta sẽ tiếp nhận sự thay đổi một cách bình thản, không bám víu vào quyền lực hay địa vị, đồng thời luôn sẵn sàng thích nghi và cống hiến trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đức Phật chia sẻ: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.”[24] Vậy đạo đức và trí tuệ là hai yếu tố quan trọng giúp con người cảm thấy thanh thản, mà còn góp phần tạo nên một cộng đồng bền vững.
Con người là trung tâm của mọi sự chuyển đổi
Tư tưởng “Con người là trung tâm của mọi sự chuyển đổi” trong giáo lý của đức Phật, không chỉ là một triết lý mang tính tâm linh, mà còn là kim chỉ nam thực tiễn cho cuộc sống hiện đại. Đức Phật dạy rằng mọi sự thay đổi bắt đầu từ tâm thức và hành động của con người. Bất kỳ trong lĩnh vực nào, từ quản lý đất nước, đến quản lý con người, nếu con người ý thức được vai trò của mình và hành động đúng đắn, sự chuyển đổi tích cực sẽ lan tỏa, mang lại hòa bình và hạnh phúc cho xã hội.
Trong cuộc sống, từ tốt đến xấu, đều xuất phát từ tâm thức của con người. Khi con người thay đổi cách suy nghĩ, hành động, thì mọi lĩnh vực trong đời sống, từ gia đình đến xã hội, đều sẽ chuyển đổi tương ứng. Đức Phật khẳng định rằng con người không phải là nạn nhân của hoàn cảnh, mà là chủ thể của sự thay đổi và chuyển hóa, trong xã hội hiện đại, sự quản lý đất nước phụ thuộc vào con người, đặt biệt là những nhà lãnh đạo có trí tuệ và đạo đức. Đức Phật dạy về Đức vua Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống.[25] Một hình mẫu lãnh đạo lý tưởng, dựa nguyên tắc:
Trong quản lý đất nước: Các nhà lãnh đạo cần thực hành đạo đức, lấy người dân làm trọng tâm và phát triển xã hội bền vững trên cơ sở công bằng và lòng từ bi.
Trong quản lý tổ chức: Người quản lý nên thúc đẩy môi trường làm việc dân chủ, nơi mỗi cá nhân được phát huy năng lực và đóng góp vào sự phát triển chung.
Trong đời sống cá nhân: Mỗi người cần tu dưỡng trí tuệ và đạo đức, vì sự thay đổi bên ngoài chỉ có thể đến từ sự chuyển hóa bên trong.
Những nguyên tắc này là kim chỉ nam để con người hiện đại quản lý đất nước trong sự hài hoà giữa phát triển vật chất và an lạc tinh thần. Đức Phật cũng dạy rằng, việc quản lý con người không thể dựa vào sự áp đặt hay mệnh lệnh, mà phải khơi dậy nhận thức và sự tự giác. Đức Phật khẳng định rằng mọi chuyển hoá, dù là trong nội tâm hay xã hội, đều bắt từ nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, Ngài dạy: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm là chủ, tâm tạo tác mọi sự”[26] Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Ngài khuyên rằng: “Không ai có thể cứu chúng ta ngoài chính chúng ta. Cho nên, chúng ta phải tự bước đi trên con đường giải thoát.”[27] Đức Phật nhấn mạnh rằng sự hưng thịnh hay suy tàn của một quốc gia không phụ thuộc vào ngoại cảnh, mà vào đạo đức và năng lực của từng người.
Điều này phản ánh rõ triết lý quản lý hiện đại, người lãnh đạo không chỉ ra lệnh mà phải truyền cảm hứng, giúp mỗi cá nhân nhận thức được giá trị của mình, và phát huy tối đa tiềm năng. Trong các tổ chức, thay vì kiểm soát, người quản lý cần đặt niềm tin vào đội ngũ, xây dựng tinh thần hợp tác và khuyến khích sáng tạo.
Trong giáo lý của đức Phật, con người luôn được coi là trung tâm của mọi sự chuyển đổi và tiến hoá. Đức Phật nhấn mạnh rằng mọi thay đổi trong đời sống cá nhân hay xã hội đều bắt nguồn từ ý thức, trí tuệ và hành động của chính con người. Tư tưởng này không chỉ quan trọng trong thời kỳ của Ngài, mà còn có giá trị sâu sắc trong bối cảnh xã hội ngày nay, đặt biệt là trong lĩnh vực quản lý đất nước và con người.
Kết luận
Năm Ất Tỵ (2025) không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng, mà còn gợi mở nhiều bài học thực tế cho con người hiện đại. Hình ảnh rắn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của việc chuyển hóa tâm thức, sống trách nhiệm và xây dựng một cuộc đời hướng thiện. Việc áp dụng giáo lý Phật giáo vào thực tiễn, sẽ giúp mỗi người tìm thấy sự an lạc và hài hòa trong cuộc sống đầy biến động này.
Trong cuộc sống hiện đại, sự bình an không đến từ vật chất, mà từ chính nội tâm mỗi người. Bằng cách thực hành chính niệm, nuôi dưỡng lòng từ bi và sống đạo đức, chúng ta có thể chuyển hóa thân tâm, tìm thấy sự an lạc giữa những biến động của cuộc đời. Điều quan trọng là hãy bắt đầu từ những bước nhỏ, như quan sát hơi thở, đối xử tử tế với mọi người và sống chân thành trong từng khoảnh khắc.
Đây chính là con đường dẫn đến hạnh phúc bền vững, không chỉ cho chính mình mà còn cho toàn xã hội, không ngừng thay đổi và phát triển, giúp chúng ta định hướng và làm chủ cuộc sống trong bát kỳ hoàn cảnh nào, tạo dựng giá trị xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Kinh sách và tài liệu tham khảo:
Kinh Pháp Cú, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2000
Kinh Trường Bộ, bài kinh “Kinh Mucalinda”, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2001
Trường Bộ Kinh – Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, NXB Tôn Giáo, 2021
Kinh Bát Đại Nhân Giác, Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 1998
Kinh Trung Bộ, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2000.
Kinh Pháp Cú, Thích Thiện Siêu dịch, NXB Tôn Giáo, 2002.
Kinh Tăng Chi Bộ, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2000.
Kinh Kim Cang, Thích Trí Quang dịch, NXB Tôn Giáo, 2001.
Chú thích
[1] Kinh Pháp Cú, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn giáo, 2000, tr 50 đến 55.
[2] Kinh Pháp Cú, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2000, tr 83.
[3] Kinh Pháp Cú, Thích Thiện Siêu dịch, NXB Tôn Giáo, 2002, trang 52
[4] Kinh Trường Bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2001, tr 192.
[5] Kinh Trung Bộ, tập 1, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Giáo, 2001, tr 285- 295.
[6] Kinh Bát Đại Nhân Giác, Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch, NXB Tôn Giáo, 1998, tr 14.
[7] Kinh Tăng Chi Bộ, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2000, trang 87
[8] Kinh Trung Bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, 2001, tr 249
[9] Kinh Trung Bộ, tập 1, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 158
[10] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 3, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 204
[11] Kinh Đại Bát Niết Bàn, Thích Nữ Trí Hải dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 312
[12] Kinh Đại Bát Niết Bàn,Thích Nữ Trí Hải dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 319
[13] Kinh Pháp Cú, câu 183, Thích Thiện Siêu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 45
[14] Kinh Pháp Cú, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 78
[15] Kinh Pháp Cú câu 223, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 76
[16] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 312
[17] Kinh Pháp Cú, câu 100, dịch bởi Thích Thiện Siêu dịch, NXB Tôn Giáo, tr. 34
Từ lâu, biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy đã trở thành hình ảnh “nhận diện” của y học. Tuy có vẻ ngoài đáng sợ nhưng loài rắn cũng có nhiều ý nghĩa trong điều trị bệnh của ngành y tế.
Current Time0:37
/
Duration25:02
Loaded: 3.88%
Khám phá trại rắn Đồng Tâm
Tọa lạc tại huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, trại rắn Đồng Tâm được mệnh danh là trại nuôi rắn lớn nhất và lâu đời nhất tại Việt Nam. Đây không chỉ là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc các loài rắn mà còn là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, thu hút rất nhiều du khách đến tham quan và tìm hiểu về các loại rắn.
Trại rắn Đồng Tâm được thành lập vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước với mục đích lấy nọc rắn sản xuất huyết thanh và trồng các loại cây dược liệu để lưu trữ, nhân giống, phục vụ việc chữa bệnh.
Ban đầu, trại chỉ có một số ít loài rắn được nuôi để phục vụ cho mục đích nghiên cứu và bảo tồn. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng, trại rắn Đồng Tâm hiện nay đã trở thành một mô hình nuôi rắn quy mô lớn, phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng lớn đến ngành nuôi trồng động vật hoang dã tại Việt Nam.
Với diện tích khoảng 20ha, trại rắn Đồng Tâm có hệ thống chuồng trại và khu vực sinh trưởng cho các loài rắn được bố trí khoa học, tạo ra môi trường sống tự nhiên và thuận lợi cho sự phát triển của chúng. Hiện nay, trại nuôi hơn 40 loài rắn, bao gồm nhiều loài quý hiếm và có giá trị kinh tế cao, như rắn hổ mang, rắn nước, rắn lục… Chính từ sự đa dạng loài cùng hệ sinh thái độc đáo đã khiến nơi đây trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với nhiều du khách trong và ngoài nước.
Ông Alex Sasa, du khách Nga, chia sẻ: "Đất nước chúng tôi rất lạnh nên có ít loài rắn. Vì vậy hôm nay đi tham quan tại đây, tôi cảm thấy rất thú vị bởi nhiều loại rắn ở đây. Tuy nhiên, tôi thực sự không dám sờ vào chúng vì sợ."
Trại rắn Đồng Tâm, Tiền Giang là một mô hình thành công trong việc kết hợp nuôi dưỡng, bảo tồn động vật hoang dã và phát triển du lịch sinh thái. Trại không chỉ giúp bảo tồn các loài rắn quý hiếm mà còn mang lại giá trị kinh tế và y học quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ loài động vật đáng sợ nhưng cũng thú vị này.
Đến năm 2025, trại rắn Đồng Tâm không chỉ tiếp tục phát triển quy mô, mà còn trở thành một địa chỉ uy tín trong việc nghiên cứu và bảo tồn động vật hoang dã. Trại dự định mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng dịch vụ, kết hợp phát triển du lịch sinh thái, đồng thời tăng cường hợp tác với các tổ chức bảo tồn động vật hoang dã trong và ngoài nước. Với những nỗ lực không ngừng, trại rắn Đồng Tâm hứa hẹn sẽ tiếp tục là điểm sáng trong ngành nuôi trồng và bảo tồn động vật tại Việt Nam. Và trước hết, sẽ là điểm du lịch hấp dẫn và ấn tượng trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025.
Bác sĩ Lê Văn Tâm, Phó Trưởng khoa điều trị rắn cắn, Trại rắn Đồng Tâm cho biết: "Theo tôi nghĩ, rắn được chọn làm biểu tượng của năm Ất Tỵ vì thứ nhất, theo quan niệm dân gian, rắn là loài đặc trưng cho biểu hiện của sự linh hoạt, sự nhanh nhẹ và trí tuệ. Về mặt sinh học, chúng tôi nhận thấy trong quá trình di chuyển, rắn rất uyển chuyển; trong động tác bắt mồi của rắn thể hiện sự hùng mạnh; trong đời sống sinh lý của rắn thì có thời gian lột xác, đó là một sự tái sinh; đặc biệt nọc rắn có thể giết con người. Trong truyền thống văn hóa, rắn đã nằm trong truyền thuyết thần thoại của con người và hiện nay nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về giá trị y học của rắn trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân. Tôi thấy con rắn là biểu tưởng của năm rất là đúng."
Câu chuyện chăm sóc và bảo tồn
Không phải du khách đến tham quan du lịch nhưng anh Huỳnh Thiện Nhân (phường Phú Tân, tỉnh Bến Tre) đến trại rắn Đồng Tâm để bàn giao lại cho trại một chú trăn vừa được anh mua với giá gần 7 triệu đồng từ người dân. Trong những năm qua, anh và nhóm bạn tình nguyện của mình đã cứu hộ và bàn giao gần 20 con rắn và trăn cho những cán bộ, nhân viên tại trại rắn Đồng Tâm nuôi dưỡng và bảo tồn.
Với anh Thiện Nhân, việc bảo tồn những loài động vật bò sát, hoang dã như rắn, trăn là một điều rất ý nghĩa và cần thiết.
Với nỗ lực bảo tồn hệ sinh thái hoang dã, Trại rắn Đồng Tâm đã trở thành nơi chăm sóc, bảo tồn và tiếp nhận hơn 1.000 cá thể rắn với hơn 40 loài khác nhau. Công tác chăm sóc rắn tại đây được thực hiện theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhằm đảm bảo sức khỏe và sự phát triển tối ưu của từng loài. Theo đó, trại rắn được chia thành ba khu vực chăm sóc rắn gồm: khu vực hồ nước, khu nuôi rắn độc và khu nuôi trăn. Mỗi khu vực đều có một mục đích riêng nhằm tạo nên một môi trường nuôi dưỡng và phát triển rắn tốt nhất.
Các nhân viên của trại thường xuyên kiểm tra sức khỏe của rắn, đảm bảo chế độ ăn uống hợp lý và môi trường sống sạch sẽ, thoáng mát. Thức ăn chủ yếu của rắn là các loài động vật nhỏ như chuột, gà, lươn, ếch, các loài cá… Đặc biệt, trại cũng chú trọng đến việc nghiên cứu về khả năng sinh sản của các loài rắn, giúp nhân giống và bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Mỗi ngày, một con rắn hổ chúa ăn khoảng 1,5kg rắn nhỏ một lần. Trong khi đó, các loài rắn hổ chỉ ăn cóc, nhái và chuột là chủ yếu. Với khẩu phần ăn đầy dinh dưỡng như vậy, các loài rắn ở đây đều phát triển bình thường và vô cùng khỏe mạnh.
Anh Nguyễn Văn Hiếu, nhân viên trại rắn Đồng Tâm, chia sẻ: "Công tác của tôi là chăm sóc đàn rắn cho đơn vị. Công việc hằng ngày của tôi gồm kiểm tra lồng chuồng, đảm bảo an toàn mọi mặt, kiểm tra sức khỏe đàn rắn. Trung tâm nuôi nhiều loại rắn độc như hổ chúa, hổ mang, hổ mèo, rắn lục đuôi đỏ,... cùng những loài rắn không độc. Đối với những loài rắn độc thì việc chăm sóc phải đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho người chăm sóc và du khách. Để chăm sóc như thế thì phải hiểu biết từng loại, từng con. Để làm được công việc đó, tôi phải học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước."
Công tác chăm sóc và bảo tồn đã và đang được trại rắn Đồng Tâm thực hiện nghiêm ngặt mỗi ngày. Từ đó, mang đến một hệ sinh thái du lịch thiên nhiên hấp dẫn, trở thành điểm đến tham quan và khám phá cho mọi người dân.
Kỳ vọng rằng nỗ lực chăm sóc và bảo tồn của trại rắn Đồng Tâm nói riêng và các tổ chức, đơn vị bảo tồn thiên nhiên Việt Nam sẽ luôn được duy trì, góp phần phát triển du lịch sinh thái của đất nước, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn động vật hoang dã và sự quan trọng của việc duy trì đa dạng sinh học.
Huyết thanh rắn độc: Sự kết hợp giữa thiên nhiên và y học
Rắn không chỉ là những sinh vật huyền bí trong thế giới tự nhiên, mà còn là đối tượng nghiên cứu quan trọng trong y học. Tại trại rắn Đồng Tâm, tỉnh Tiền Giang, có hàng ngàn cá thể rắn đang được nuôi nhốt để phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khoa học. Nọc rắn độc được thu hoạch tại đây được xem là nguồn nguyên liệu chính để cung cấp cho viện vắc-xin Nha Trang nhằm sản xuất huyết thanh kháng độc, giúp điều trị và cứu sống hàng nghìn bệnh nhân mỗi năm.
Tại đây, mỗi loài rắn đều được nuôi dưỡng trong điều kiện nghiêm ngặt, đảm bảo sức khỏe và môi trường sống phù hợp để thu được nguồn nọc rắn đạt chất lượng cao. Điển hình trong số đó là loài rắn lục đuôi đỏ, với vẻ ngoài xanh rực rỡ nhưng ẩn chứa nọc độc nguy hiểm chết người, là mối đe dọa tiềm tàng và thường xuyên ở nhiều vùng quê Việt Nam.
Nạn nhân bị rắn lục đuôi đỏ cắn đều gặp phải tình trạng sưng tấy nghiêm trọng, đau đớn dữ dội, thậm chí có thể dẫn đến hoại tử hoặc tử vong nếu không được xử lý kịp thời.
Huyết thanh kháng độc rắn đã trở thành "vị cứu tinh" cho những người không may bị rắn độc cắn, đặc biệt ở những vùng nông thôn, nơi điều kiện tiếp cận y tế còn hạn chế. Mỗi liều huyết thanh không chỉ là thành quả của khoa học hiện đại mà còn là minh chứng cho sự kết hợp giữa trí tuệ và lòng nhân ái của con người.
Bài đã đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 595/Tháng 1 năm 2025 (kì 3 - Thế giới Nghệ thuật).
Hiện nay, mỗi số VHNT có 3 kì, trong đó kì 3 thì dành cho Thế giới Nghệ thuật. Nhóm Nam Dương thường cộng tác với kì 3.
Nhóm tác giả đầu tư thời gian và tâm huyết, trong đó có tới phỏng vấn trực tiếp phía học giả rồi có thể tham chiếu thêm các nghiên cứu đã công bố của họ. Trong bài, nhóm có truyền tải một số ý tưởng của chủ nhân Giao Blog.
Trân trọng giới thiệu.
Tháng 1 năm 2025,
Giao Blog
Rắn trong dòng chảy văn hóa Việt Nam
NAM DƯƠNG - NGỌC DIỆP
Tuy không phải biểu tượng được sử dụng
phổ biến trong văn hóa truyền thống, nhưng không thể phủ nhận, sự xuất hiện của
hình tượng rắn càng góp thêm nhiều ý nghĩa phong phú cho kho tàng văn hóa nước nhà.
Truy nguyên dáng hình loài rắn
Không như con giáp ở vị trí đằng trước,
sự xuất hiện của rắn trong mỹ thuật từ truyền thống đến hiện đại vốn không phổ biến,
theo ghi nhận của họa sỹ Lê Thiết Cương. Họa sỹ nói thêm, tìm kiếm những cái
tên tiêu biểu thể hiện hình tượng rắn trong hội họa hiện đại, có lẽ nổi bật nhất
chỉ có cố họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm. Bởi ít xuất hiện, nên rắn không có đặc trưng
về tạo hình trong mỹ thuật truyền thống. Trong khi đó, rồng là hình tượng xuất
hiện tương đối phổ biến trong văn hóa của nhiều cộng đồng dân tộc ở nước ta.
Hơn thế, rồng trở thành loài vật gắn chặt với uy quyền của nhà vua, nên được
đưa vào trong điển chế của triều đình phong kiến.
Thế nhưng, để rồng được định hình với những
tạo hình riêng biệtgắn với từng thời đại, từng cộng đồng, loài vật này
đã phải trải qua một quá trình biến đổi lâu dài trong lịch sử. Mà sớm hơn là biến
đổi từ loài rắn, cho tới giao long. Rồng là loài vật xuất hiện trong truyền
thuyết, trong giai thoại, không giống như loài rắn có thể bắt gặp trong môi trường
tự nhiên. Dĩ nhiên, tạo hình của rồng cũng phải được cấu thành bởi những hình ảnh
được người xưa tiếp thu từ thế giới tự nhiên. Rồng tụ hội các đặc điểm được cho
là đẹp nhất của 9 con vật có thật như: đầu lạc đà, sừng hươu, tai bò, mũi và bờm
sư tử, chân hổ, móng vuốt đại bàng, đuôi gà trống, và đặc biệt là thân dài, uốn
cong như rắn. Tùy thuộc vào tư duy thẩm mỹ của từng giai đoạn, từng cộng đồng
thụ hưởng văn hóa, các hình tượng rồng được xây dựng có đôi chút khác biệt
nhau. Song, nhìn chung, xuyên suốt trong lịch sử, loài vật thiêng này đều mang
dáng dấp thuôn, dài giống rắn. TS. Chu Xuân Giao, Viện Nghiên cứu Văn hóa (Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) chỉ ra, dưới triều đại Lý, Trần, hình tượng rồng
mang nhiều nét tương đồng với hình tượng rắn thần Naga trong Phật giáo Tiểu thừa
ở nhiều quốc gia khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là thể hiện ở phần đầu.
Trong nghiên cứu của TS Võ Thị Hoàng
Lan, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam đã dẫn từ thần tích trại Thủ Lệ,
cho hay, Linh Lang Đại vương – vị thần được thờ phụng ở Trấn Tây Kinh thành
Thăng Long, đền Voi Phục, vốn là con trai Long thần ở Hồ Tây, giáng trần lần thứ
nhất vào năm 1054, thác sinh làm con trai của Hạo Nương – vợ Vua Lý Thánh Tông.
Sau khi giúp nước dẹp giặc Tống, hoàng tử đổ bệnh đậu mùa mà qua đời. Sau khi
qua đời, ngài hóa thành giao long, rồi trường xuống Hồ Tây mà lặn đi mất. (1)
Rắn về với sự gần gũi trong dân gian
Sau khi rắn chuyển hóa thành rồng, hình
tượng rồng bước vào chốn cung đình, còn rắn nguyên mẫu trở về gắn gũi với dân
gian. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt ở Bắc Bộ, rắn thường xuất
hiện thành cặp, với vị trí đầy tôn nghiêm trong không gian điện thờ. Dân gian gọi
rắn là Ông Lốt. Theo TS Chu Xuân Giao, điện thờ tùy vào diện tích mà có thể bề
thế, đôi khi lại rất khiêm tốn. Nhưng, nhìn chung, Ông Lốt đi cùng với tướng
Ngũ Hổ, như tạo cho không gian thờ cúng thêm phần rộng lớn, khoáng đạt. Hình tượng
5 Ông Hổ đại diện cho rừng núi hoang sơ. Còn 2 Ông Lốt đại diện cho trời và
sông nước. Điều này khiến ta cảm tưởng không gian thờ tự vốn hữu hạn, bỗng có sự
kết nối với các không gian tự nhiên bao la: trời, đất, nước. Trong không gian
điện thờ, thường chỉ xuất hiện 2 Ông Lốt với 2 màu xanh lá (gọi Thanh Xà) và trắng
(gọi Bạch Xà). Tuy nhiên, có điện thờ lại bày trí 2 Ông Lốt màu trắng, cũng có
khi lại có sự xuất hiện của rắn màu vàng trong 2 Ông Lốt. Việc rắn mang màu sắc
gì, đôi khi xuất phát ở nhu cầu thẩm mỹ của cộng đồng bảo tồn di sản. Còn trong
tranh dân gian Hàng Trống, có bức vẽ 3 Ông Lốt, có bức lại vẽ Ông Lốt mang hình
dạng tam đầu cửu vĩ (3 đầu, 9 đuôi). Từ trong Phật giáo, rắn Naga đã là vị thần
coi giữ kinh Phật, bảo vệ Phật pháp. Đi vào tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa, rắn tiếp
tục là vị thần mang sứ mệnh hộ vệ, trông coi thần điện, nên thường được đặt ở
ban Công đồng, mà không đi sâu vào hậu cung. 3 đầu cho phép thần nghe thấu tiếng
kêu cầu của khắp chúng sinh đến bái yết cửa Mẫu. Điều này đã giúp cho TS Chu
Xuân Giao đi đến nhận định, rắn là hiện thân cho sự tỉnh thức, giác ngộ.
Qua những nghiên cứu thú vị về hình tượng
rắn, TS Chu Xuân Giao liên hệ đến một giả thuyết cho rằng, đạo Phật đến với
chúng ta trước khi vào Trung Quốc. Khảo sát mộ Triệu Hồ – cháu Triệu Đà ở Quảng
Châu (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), ông cho biết, chưa tìm thấy dấu vết Phật
giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào thời kỳ đó. Mà chủ yếu dấu vết Đạo giáo thể hiện
rất rõ, thông qua ngũ sắc thạch (đá 5 màu) và những công cụ luyện đan được tìm
thấy trong khai quật khảo cổ.
TS Chu Xuân Giao tiếp nối dòng lịch sử,
về với những giai thoại dưới thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Tương truyền, vào thời
điểm đầu công nguyên, nhiều nữ tướng khi tham gia vào nghĩa quân của Hai Bà
Trưng đã là Phật tử. Tiêu biểu phải kể đến Sư bà Phương Dung. Tên tuổi của bà gắn
với chùa Yên Phú (xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội). TS Chu Xuân Giao kể lại
truyền thuyết rằng, Sư bà Phương Dung thấy 2 quả trứng, mang về ấp, và rồi nở
ra 2 con rắn. 2 người con do bà nuôi dưỡng ấy được gọi là Ông Cộc và Ông Dài.
Sau đó, 2 người con ấy theo bà đi đánh trận.
Thiện và ác linh hoạt trong hình tượng rắn
Từ tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ và truyền
thuyết về Sư bà Phương Dung, có thể thấy mô-típ rắn đi theo, bảo vệ cho con người
dường như dễ dàng bắt gặp trong Phật giáo. Không chỉ dừng lại ở Phật giáo, mà dòng
chảy văn hóa Ấn Độ đã đưa hình tượng rắn vào văn hóa nước ta thông qua Ấn Độ
giáo. Chi tiết này được TS Chu Xuân Giao chia sẻ là do cố GS. TS Phan Đăng Nhật
có công lao phát hiện ra. Sử thi Ramayana được rút ngắn thành Truyện
Dạ Xoa, biên trong tập Lĩnh Nam chích quái. Theo đó, Vua Dạ Xoa (hay
Thập Đầu Vương) ở nước Diệu Nghiêm đem quân vây đánh nước Hồ Tôn Tinh, để cướp
lấy nàng Bạch Tịnh – vợ của thái tử Vi Tư. Sau đó, thái tử đem quân đi đánh và
đòi lại vợ mình về. Vua Dạ Xoa chính là đại diện cho loài rắn trong văn hóa Ấn
Độ.
Hình tượng rắn trong văn hóa quả thật đa
nghĩa! Thường trực một câu hỏi trong nỗi băn khoăn của hậu thế, rốt cục rắn là
loài vật thiện hay ác. Tập tính sinh học của loài rắn trong tự nhiên vốn rất
linh hoạt. Nên ta cũng có thể liên tưởng, biểu tượng rắn trong văn hóa truyền
thống cũng linh hoạt không kém. Có khi đại diện cho chính nghĩa, có khi lại là
hiện thân của phi nghĩa. Lúc thì đem đến cho ta sự gần gũi, song đôi lúc tiềm ẩn
vẻ bí hiểm đầy đáng sợ.
TS Chu Xuân Giao phát hiện thêm, trong văn
hóa của đồng bào Tày, Nùng, dáng dấp của rắn thể hiện qua tên gọi thuồng luồng.
Loài vật hung tợn này thường sống ở mỏ nước, đây cũng là nơi đám trẻ con tụ tập
nhau vui chơi. Chính bởi vậy, đám trẻ luôn cần phải đề phòng trước sự rình bắt,
ăn thịt của loài ác thú này. Để bảo vệ cho sự an nguy của con cái mình, cộng đồng
cư dân ở nhiều địa phương có tục thờ cúng thuồng luồng, để xin nó không bắt trẻ
con. Nhưng, chính thuồng luồng cũng gắn với nguồn nước. Nó đi đến đâu, nước chảy
đến đấy. Bởi vậy, người dân cũng thờ cúng loài này như mong cầu nguồn nước dồi
dào đến với quê hương, bản quán mình.
Về chức năng gắn liền với yếu tổ thủy,
nghiên cứu nói trên của TS Võ Thị Hoàng Lan cũng chỉ ra, trong sách Hà Nội địa
dư (soạn năm 1851) đã đề cập tới việc Linh Lang Đại vương có công trạng làm
mưa, chống hạn. Cũng trong thần tích của nhiều làng thờ phụng Linh Lang, có nhắc
đến khả năng trị thủy của ngài. Theo đó, ngài “âm phù”, giúp dân hộ đê. (2)
Kế thừa những ý nghĩa giàu giá trị nhân
văn, thế hệ những nghệ sỹ hiện nay đang tiếp tục bồi đắp, hoàn thiện hơn nữa
cho tạo hình rắn trong nền nghệ thuật hiện đại. Tất nhiên, trên hành trình sáng
tạo ấy, không chỉ học hỏi từ chất liệu nội sinh, những người làm nghệ thuật
không ngừng tiếp thu có chọn lọc từ chất liệu ngoại lai, để hình tượng rắn thêm
sinh động, hấp dẫn thị giác công chúng yêu nghệ thuật.
Chú thích:
(1) (2) Võ Thị Hoàng Lan, Về vị thần trấn
phía Tây kinh thành Thăng Long, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3(32)–2010
Chiều ngày 18/1/2025, tại Hồ Văn, di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Trung tâm Hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám phối hợp với doanh nghiệp sáng tạo TiredCity, cộng đồng Vietnam Local Artist (VLAG) tổ chức lễ khai mạc Triển lãm tranh “VẼ CON RẮN”.
Du khách tham quan di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng 77 TÁC PHẨM TRANH MINH HỌA con rắn với nhiều câu chuyện thú vị, tích cực về biểu tượng này.
Là con giáp thứ 6 của văn hóa Việt Nam, Rắn đại diện cho tính khôn ngoan, uyển chuyển, sự tái sinh, và đã xuất hiện nhiều lần trong kho tàng truyện cổ tích, huyền thoại, hay các phong tục tập quán, lễ hội lâu đời. Qua góc nhìn và nét vẽ của các nghệ sĩ trẻ, triển lãm hứa hẹn đem đến nhiều góc nhìn đa dạng về Rắn – linh vật của năm mới Ất Tỵ cho cộng đồng người yêu sáng tạo trước thềm Tết đến Xuân về.
Triển lãm diễn ra từ ngày 18/1/2025 đến ngày 28/2/2025.
Trong mười hai con giáp, Rắn đứng thứ sáu và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục của dân tộc. Hình tượng Rắn xuất hiện phổ biến trong các đồ án trang trí mỹ thuật, kiến trúc truyền thống.
Theo các chuyên gia nghiên cứu văn hóa, nếu Rồng là biểu tượng gắn liền với vương quyền thì Rắn dường như gần gũi hơn với đời sống con người: Vừa mang ý nghĩa tốt lành, may mắn, sinh sôi; vừa có tính uy nghiêm, linh thiêng, khiến người ta kinh sợ. Ở Rắn có sự hài hòa âm-dương, thiện-ác, là biểu tượng vừa trần thế vừa tâm linh.
Ở góc độ nghiên cứu, Tiến sỹ Nguyễn Văn Đoàn, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cho hay tại Việt Nam, ngoài hình tượng Rắn thần Naga xuất hiện nhiều trong tín ngưỡng và văn hóa Champa, hình tượng Rắn còn được phát hiện trên trống đồng Ngọc Lũ (văn hóa Đông Sơn), cách nay khoảng 2000 năm.
Cụ thể, trống đồng Ngọc Lũ (trống đồng phát hiện tại làng Ngọc Lũ, Hà Nam) có hình tượng Rắn nước nằm ngửa há mồm, thân Rắn hình thuyền (đó là hình tượng sớm nhất của thuyền rồng), phía trên là hình tượng con chim cụp cánh lao đầu vào miệng Rắn.
Tiến sỹ Nguyễn Văn Đoàn lý giải: “Hình tượng Rắn nuốt chim là thể hiện sự lưỡng hợp-lưỡng nghi. Rắn là vật dưới nước tượng trưng cho âm, còn chim là vật trên trời tượng trưng cho dương, chim lao đầu vào miệng rắn là sự hòa hợp âm-dương.”
Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, họa sỹ Lê Thiết Cương cho rằng Rắn hay Tỵ là một trong 12 con vật biểu tượng của năm. Dù là năm hay tháng, ngày, giờ thì bốn cữ này cũng nằm trong vòng tuần hoàn thập nhị địa chi. Rắn có nhiều ý nghĩa đặc biệt mà 11 con vật kia không có.
Họa sỹ Lê Thiết Cương phân tích, hình tượng Rắn rất gần với Phật giáo. Khi Đức Phật tọa thiền tại cây Mucalinda, bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến. Vào lúc ấy, mãng xà vương Mucalinda, từ ổ chui ra, uốn mình quấn quanh Đức Phật bảy vòng và dùng bảy chiếc đầu của mình làm thành một chiếc tán che chở cho Đức Phật. Trong Phật giáo, Rắn thần Naga cũng được Đức Phật Thích Ca giao cho việc bảo vệ Kinh Bát nhã.
Cũng từ đó hình tượng Rắn thần Naga chiếm vị trí quan trọng không chỉ trong kinh sách mà còn ảnh hưởng lớn đến kiến trúc, điêu khắc Phật giáo, đặc biệt trong các ngôi chùa Phật giáo Nam tông thì Rắn trở thành một biểu tượng không thể thiếu trong các họa tiết, hoa văn trang trí.
Họa sỹ Lê Thiết Cương và họa sỹ Hoàng Phương Liên trong triển lãm "Tết Tỵ." (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Thêm nữa, tục thờ Rắn là tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt với hai ý nghĩa chính là vật tổ và thủy thần. Chính vì sợ Rắn nên con người đã thần thánh hóa loài Rắn, thờ cúng Rắn để mong Rắn bảo vệ cho mình. Có thể tìm thấy điều này trong các câu chuyện cổ tích, huyền thoại, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, mỹ thuật, tạo hình. Đặc biệt, trong các đền phủ thờ Mẫu luôn phối thờ Rắn, gọi là ông lốt.
Cùng quan điểm đó, Tiến sỹ Chu Xuân Giao (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho hay Rắn là linh vật quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Lối vào chính điện thờ Mẫu luôn có Thanh Xà, Bạch Xà được thờ ở hai bên như vị thần quan sát, hộ vệ cho điện thờ. Ở khu vực đồng bằng Bắc bộ, người dân từ nhiều đời nay đã thờ phụng Ông Cộc-Ông Dài, là cặp Rắn thần bảo hộ cho con người vùng sông nước.
Ông lốt trên cửa vòng đền Lảnh Giang, Hà Nam. (Ảnh: CTV/Vietnam+)
Trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam, hình tượng Rắn còn mang ý nghĩa sinh sôi, nảy nở, dựa trên tập tính lột da của loài Rắn trong tự nhiên.
“Rắn là linh vật cổ xưa của người Việt. Đến với các di tích, di vật càng lâu đời thì càng dễ bắt gặp hình tượng Rắn. Nếu như Rồng là biểu tượng gắn với vương quyền thì Rắn gần gũi, bình dị, gần với dân gian hơn,” Tiến sỹ Chu Xuân Giao cho biết.
Dẫu là một biểu tượng linh thiêng trong tôn giáo, tín ngưỡng thì việc thể hiện hình tượng Rắn trong các tác phẩm mỹ thuật vẫn là một thách thức đối với các nghệ sỹ đương đại.
Nhân Tết Ất Tỵ năm nay, nhiều nghệ sỹ đã tìm cảm hứng sáng tạo từ hình tượng Rắn để cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật mừng Xuân thấm đẫm tinh thần văn hóa dân tộc mà không kém phần hiện đại, hội nhập.
Có thể kể đến tác phẩm tranh sơn mài “Ngũ phúc lâm môn” của họa sỹ Lương Minh Hòa và nhóm cộng sự Latoa Indochine.
Các nghệ sỹ sử dụng nhiều biểu tượng truyền thống của mỹ thuật Việt như ngôi nhà, con rùa, con dơi biểu trưng cho sự ổn định, trường thọ và phúc lành. Những biểu tượng trên được đặt trên mình Rắn uốn thành chữ Phúc. Trên đầu Rắn có họa tiết ngọc như ý, tượng trưng cho sự “cầu được ước thấy.”
(Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
“
Rắn thường có tập tính là lột da để phát triển ngày một lớn hơn, hoàn thiện hơn, vì vậy Rắn là biểu tượng của sự mới mẻ và cũng tượng trưng cho sự mềm dẻo, uyển chuyển trong cuộc sống để vượt qua những chướng ngại vật.
Họa sỹ Lương Minh Hòa
“Rắn thường có tập tính là lột da để phát triển ngày một lớn hơn, hoàn thiện hơn, vì vậy Rắn là biểu tượng của sự mới mẻ và cũng tượng trưng cho sự mềm dẻo, uyển chuyển trong cuộc sống để vượt qua những chướng ngại vật. Bức tranh Rắn uốn mình thành chữ Phúc, trong Phúc lại có nhiều biểu tượng mang ý nghĩa tốt lành sẽ là món quà ý nghĩa trong dịp Xuân mới,” họa sỹ Lương Minh Hòa cho biết.
Cũng chung tình yêu với sơn mài truyền thống, họa sỹ Lê Huy (Lamphong Studio) sáng tạo tác phẩm “TY.” với hình ảnh một đôi Rắn quấn lấy nhau, mang ý nghĩa tròn đầy, sung túc.
Thân Rắn mang dáng hình của tre, dẻo dai, mềm mại mà vững chãi, tượng trưng cho đức tính kiên cường, bển bỉ, dung nhẫn và bất khuất của người Việt. Mình Rắn được khắc chìm và thếp vàng bộ tứ quý “Mai-Liên-Cúc-Trúc” tượng trưng cho bốn mùa, mang tư tưởng trí tuệ và giá trị tinh thần, triết lý sâu sắc: Mai cốt cách, Sen thuần khiết, Cúc nảy nở và Trúc quân tử.
Theo họa sỹ Lê Huy, “TY.” được tạo hình với hai module tùy biến, có thể là một đôi Rắn đan lồng vào nhau như một bản hoan ca tình yêu, cũng có thể xếp thành số 2025 tượng trưng cho năm mới, là lời chúc mọi người một năm tròn đầy, thịnh vượng, ngập tràn tình yêu và hạnh phúc.
Nhận định về sáng tạo của các nghệ sỹ trong năm Rắn, đạo diễn Vương Đức, nguyên Giám đốc Hãng Phim truyện Việt Nam cho rằng họ sáng tạo không chỉ để đón năm mới mà các tác phẩm đều là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi, chiêm nghiệm trong nhiều năm. Họ chỉ “mượn” hình tượng Rắn làm phương thức biểu đạt.
Đạo diễn Vương Đức (phải) thưởng thức tác phẩm “Vòng trường sinh” của họa sỹ Vương Linh. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Đạo diễn Vương Đức đã dành thời gian thưởng thức nhiều tác phẩm nghệ thuật lấy cảm hứng từ Rắn để chào đón Tết Ất Tỵ. Cá nhân ông hứng thú với hình ảnh Rắn tối giản mà triết lý trong tranh của họa sỹ Lê Thiết Cương, gia đình Rắn quây quần trong tranh xé giấy của họa sỹ Hoàng Phương Liên hay đôi Rắn quấn lấy nhau trong tác phẩm “Vòng trường sinh” của họa sỹ Vương Linh.
“Trong hệ sinh thái có Rắn lành, có Rắn độc, cũng như loài người có thiện, có ác. Các họa sỹ không ngại vẽ Rắn, thể hiện Rắn ở góc độ đáng yêu, hiền lành, hướng thiện, thể hiện mong muốn con người luôn hướng thiện, hướng đến những điều tốt đẹp,” đạo diễn Vương Đức nhận định./.
Các tác phẩm lấy cảm hứng từ hình tượng Rắn của họa sỹ Lê Thiết Cương.
(Chuyện cha Phêrô Mễn kể cho các gia đình Bài 318)
Bạn thân mến,
Chúng ta đang tiễn năm con Rồng (năm Giáp Thìn 2024), để bước sang một năm mới, Năm con Rắn Ất Tỵ 2025.
Tuy Rồng và Rắn cùng thuộc loài bò sát, đều có thân dài, nhưng lại có nhiều điểm rất khác nhau:
Trước hết, con Rồng là một con vật huyền thoại, chỉ có trong ca dao tục ngữ, trong các chuyện cổ tích, chứ không có thật.
Còn con Rắn là một con vật có thật, rất phổ biến, có mặt ở khắp mọi nơi trên trái đất này.
Nếu Rồng tượng trưng cho Vương Quyền và sức mạnh, thì Rắn lại tượng trưng cho sự khéo léo, khôn ngoan và hiểm độc.
Tục ngữ dân gian Việt Nam có câu: “Khẩu Phật, tâm xà” là để ám chỉ sự hiểm độc đó.
Chúng ta biết: Năm Âm lịch, đã lấy 12 con Giáp, làm biểu tượng cho từng năm, trong một chu kỳ 12 năm. Đó là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Như vậy Tỵ là chi thứ 6 trong 12 con giáp. Đứng trước nó là Thìn. Đứng sau nó là Ngọ.
Rắn nằm trong tương khắc “tứ hành xung”: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Nhưng tuổi rắn lại hạp với tuổi Sửu và tuổi Dậu.
Ngày xưa rắn còn được xếp hạng thứ ba trong Tứ Đại: Nhất Điểu, Nhì Ngư, Tam Xà, Tứ Tượng.
Chúng ta cũng thường nghe nói: Tháng Tỵ tức là tháng Tư âm lịch. Giờ Tỵ là khoảng thời gian giữa, từ 9 giờ sáng đến 11 giờ trưa. Hướng Tỵ là hướng Đông Nam.
Theo Ngũ Hành, thì Tỵ, tương ứng với Hỏa.
Còn theo thuyết Am Dương, thì Tỵ là Am.
Theo các nhà phong thủy, thì năm Tỵ tượng trưng cho sự lạc quan, sức khỏe, trẻ trung.
Năm Tỵ sẽ phát triển mạnh về Nông Nghiệp, báo chí và nhà đất. Còn ngành tài chánh và ô tô sẽ gặp nhiều khó khăn.
Người ta tin rằng, tuổi con rắn là tuổi hên. Người mang tuổi con rắn thường có tài ngoại giao, rất dễ được nổi tiếng. Tuổi này sẽ gặp được rất nhiều may mắn, nhưng toàn là những thứ bất ngờ. Tiền bạc của họ luôn có dư, nhiều hơn mức cần thiết. Do đó, người mang tuổi này thường chi tiêu rất rộng rãi, cuộc sống rất thoải mái, cho nên thường tạo được một sức quyến rũ, lãng mạng, hấp dẫn, làm cho nhiều kẻ mê mệt chay theo.
Nhưng cũng phải cẩn thận, bởi họ rất bí ẩn, rất khó chinh phục, và thường họ chỉ tin họ, chứ không tin ai khác. Do đó, họ rất dễ phản bạn, phản thầy.
Họ lại có một sự khôn ngoan không ai ngờ, cho nên cũng có phần nguy hiểm.
Rắn, là một loài động vật, có duyên nợ với lịch sử con người từ rất rất sớm, có thể nói là sớm nhất, và được Kinh Thánh nhắc đến khá nhiều.
Chẳng hạn: Cựu Ước nhắc đến có tới 64 lần. Còn trong Tân Ước đếm được 12 lần.
Riêng trong Kinh Thánh Cựu Ước, ở sách Sáng Thế, đoạn 1, câu 27, khi kể lại việc Thiên Chúa tạo dựng ông Ađam và Evà, là nguyên Tổ của loài người, thì lúc bấy giờ rắn đã xuất hiện.
Kinh Thánh kể:
Khi tạo dựng hai ông bà xong, thì Thiên Chúa đã đặt để hai ông bà ở trong vườn Địa Đàng, gọi là Eđen, để hai ông bà trông coi và chăm sóc. Đây là chốn hạnh phúc tuyệt diệu, là nơi có đầy đủ mọi thứ trái cây thơm ngon. Chúa đã ban cho hai ông bà được quyền ăn mọi thứ cây trái trong vườn.
Riêng có một loại cây “biết điều thiện điều ác” ở giữa vườn, thì cần phải tránh xa. Còn những trái của chúng thì không được phép ăn. Chúa cho biết:
“Ngày nào các ngươi ăn trái cấm này, thì các ngươi sẽ phải chết”.
Chúa ra lệnh cấm, nhưng Chúa lại không nói lý do tại sao. Thế là ma quỉ, chộp cơ hội này, mượn hình con rắn, mon men đến gần, làm quen với bà Evà, đang khi bà đi bách bộ trong vườn.
Con rắn lên tiếng trước: Tôi thấy, mọi thứ trái cây trong vườn, bà đều ăn, còn loại trái cây ở giữa vườn, sao không thấy bà ăn?
Bà Evà trả lời: Chớ có nói tới, đừng có nhắc tới, đó là loại trái cây Chúa cấm, không được ăn. Chúa nói: “Ngày nào các ngươi ăn trái cấm đó, thì các ngươi sẽ phải chết” (St 2,17).
Con rắn nhanh miệng trả lời: Chẳng có chết chóc gì đâu. Bà có biết không, Thiên Chúa sợ: ngày nào hai ông bà ăn trái cây đó, thì mắt ông bà sẽ mở ra, ông bà sẽ trở nên những vị thần khôn ngoan, thông minh, biết được mọi điều thiện điều ác, biết được mọi điều lành điều dữ, không thua gì Thiên Chúa. Chỉ có thế thôi.
Nghe con rắn nói có lý, bà liền ngước mắt lên nhìn những trái cấm, thấy sao mà nó bắt mắt quá, sao mà có cảm giác thơm ngon quá. Ưng ý nhất là khi ăn vào, mình sẽ được khôn ngoan, mình sẽ được thông minh bằng Thiên Chúa.
Thế là bà đã hái một trái ăn thử. Ăn rồi, bà thấy có chết chóc gì đâu. Bà thấy con rắn nói đúng. Thế là bà đã hái tiếp, mang về nhà, đưa cho ông chồng cùng ăn nữa.
Khi ăn xong, mắt hai ông bà đã mở ra. Ông bà đã nhìn thấy mình trần truồng, và đã biết xấu hổ, nên đã lấy các thứ lá cây, kết thành khố để che thân, rồi tìm một nơi kín đáo nhất, để ẩn núp, để khỏi phải thấy Thánh Nhan uy nghi của Thiên Chúa.
Chính do tội nguyên tổ này, mà những đau khổ và chết chóc, đã đột nhập vào thế gian, đã gây nên bao đau thương tang tóc cho nhân loại, trải qua mọi thời đại.
Rồi, tự sức riêng, con người không thể nào tự mình cứu lấy mình cho khỏi cái tội tầy trời này, nên Thiên Chúa mới ra tay, đã sai con một của Ngài xuống trần gian, để đền tội thay cho con người, để chuộc lại cái tội này. Khi làm người, Con Một này mang tên là Giêsu.
Từ câu chuyện Kinh Thánh đó, con rắn đã trở thành biểu tượng cho một thế lực đen tối, độc ác, mưu mô, hiểm độc, chuyên đánh lừa con người, chuyên gạt gẫm con người, chuyên mang lại bao tai ương tang tóc cho con nười, luôn mang lại bao thảm họa cho con người.
Từ đó, con rắn, đã đồng nghĩa với quỷ dữ, với Satan, với sự lừa dối, với sự bội bạc, với sự dối trá, với kẻ bị Chúa chúc dữ.
Còn theo các nhà nghiên cứu, thì rắn là động vật bò sát, thuộc bộ có vảy, và là một nhánh của nhóm thằn lằn, có thể biến đổi sắc thái, có thể thích nghi dễ dàng với mọi môi trường sinh sống.
Rắn di chuyển bằng bụng. Và nó có thể nuốt con mồi, có kích thước lớn hơn thân của nó.
Hiện nay, người ta tính, có đến trên ba ngàn loài rắn, được phân chia thành 2 nhánh khác nhau: Rắn độc và rắn không độc.
Những loại rắn thường nghe nói nhiều nhất ở Việt Nam, là Trăn, là rắn Mống, là rắn Da cóc, rắn Nước, rắn Biển, rắn Cát, rắn Rào, rắn Ráo, rắn Lục, rắn Râu, rắn Rồng, rắn Trung, rắn Lửa, rắn Hai đầu, rắn Hổ Mang, rắn Hổ Chúa, rắn Hổ Lửa, rắn Hổ Lác, rắn Hổ Hèo, rắn Hổ Hành, rắn Hổ Ngựa, rắn Hổ Sậy, rắn Hổ Mây, rắn Hổ Bướm, rắn Mái Gầm, rắn Chàm Quạp, rắn Bông Súng, rắn Sọc Dưa, rắn Bò Cạp, rắn Cạp Nong, rắn Cạp Nia, rắn Lá Khô, rắn Ngũ Xà, rắn Mãng Xà, rắn Hổ Trấu, rắn Ri Cốc, rắn Liu Điu, rắn Ri Voi, rắn Ri Cá, v..v...
Rắn sống trên đất, trên cây, có khi sống ở đưới nước nữa.
Thức ăn của rắn là các loại thú: như chim, thằn lằn... Rắn biển thì ăn cá. Rắn nước ngọt thì ăn ếch nhái.
Thịt của rắn được kể là một món đặc sản cao cấp. Nhất là từ khi Nhà Nước Ban hành luật cấm chuyên chở các thú hoang dã, những thú rừng quí hiếm, thì rắn đã trở thành những món ăn đắc tiền tại các nhà hàng.
Da của rắn có thể trở thành những món trang sức khá đắc giá dành cho phụ nữ.
Nọc của rắn có khi rất đọc, nhưng lại cũng có thể làm thuốc trị được rất nhiều thứ bệnh.
Rắn sinh sản bằng trứng. Sau khi sinh, rắn gom trứng thành một đống, rồi ấp bằng cách, cuộn tròn mình lại, phủ mình lên trên.
Riêng rắn biển thì đẻ con. Rắn biển, cũng có tên là “đẻn”, cơ thể được cấu tạo đặc biệt, để sống trong nước.
Các thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng thường nói về rắn, như:
- “Len lét như rắn mùng năm”: là ám chỉ những ai đó, đã làm một điều gì không tốt, mà cứ tưởng là ai ai cũng đều hay, đều biết, nên lúc nào cũng sợ đỏ cả mặt.
Bởi theo phong tục dân gian Việt Nam, thì ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch, là ngày giết sâu bọ. Vào ngày này, người ta thường làm cơm rượu, làm bánh trái, nấu xôi, nấu chè, bày hoa quả, để cúng tế, để tảy trừ sâu bọ. Sau đó là đi tìm rắn để giết, bởi rắn bị coi là loài sâu bọ gây ác hại cho con người. Nên rắn rất sợ ngày mồng 5 tháng 5.
- “Thẳng như rắn bò, lò dò như rắn mùng năm”: là ám chỉ đến một tính cách sống, của một con người.
- “Cõng rắn cắn gà nhà”: nhằm lên án những kẻ phản bội Tổ Quốc, vô liêm sỉ, quên mất cội nguồn, xem kẻ thù là bạn, rồi mang bạn về nhà, làm hại Tổ Quốc.
- “Vẽ rồng vẽ rắn”: là nhằm chế giễu những kẻ vô tích sự, đã chẳng làm nên chuyện gì, mà lại còn bày vẽ đủ trò cho lãng phí, vừa phí công, vừa phí sức, vừa phí thời gian, vừa phí tiền của, cuối cùng kết quả chẳng đâu ra đâu.
- “Vẽ rắn thêm chân”: là ám chỉ những kẻ hay đặt điều bịa chuyện, gian dối, hay thêm thắc, nói không bao giờ đúng sự thật.
- “Khẩu Phật tâm xà”: là ám chỉ những kẻ đạo đức giả, hay tráo trở, miệng thì nói đạo đức, nhưng lòng dạ thì hiểm độc vô chừng, luôn nhằm hãm hại người khác.
- “Hang hùm miệng rắn”: là ám chỉ nơi nguy hiểm, có thể chết người, cho nên đừng có bén mãng tới.
- “Miệng hùm, nọc rắn”: là ám chỉ những con người, mà miệng lưỡi rất ác độc, rất thâm hiểm, có thể giết người không cần gươm giáo.
Về chuyện con rắn, thì sử học Việt Nam có ghi lại một truyền thuyết, về con rắn báo oán, đã khiến cho Nguyễn Trãi phải bị tru di tam tộc, như sau:
"Cụ tổ ba đời của ông Nguyễn Trãi, có một khu vườn hoang gần nhà, trong đó có một ổ rắn, mà không ai hay biết.
Một hôm cụ bảo người nhà, ngày mai, mọi người nhớ mà lo thức dậy cho sớm, ra dọn khu vườn đó, để cụ chuẩn bị xây cất một ngôi nhà trong chính khu vườn đó.
Đêm hôm ấy, cụ nằm chiêm bao: thấy một người đàn bà, ôm đứa con nhỏ, đến khẩn khoản xin cụ hoãn lại việc dọn khu vườn ba ngày, để mẹ con bà kịp thời di chuyển đi nơi khác.
Sáng hôm sau, khi thức dậy, cụ được những người nhà cho biết, là đang khi dọn khu vườn, họ đã bắt được 2 con rắn nhỏ. Còn con rắn mẹ, họ đuổi theo không kịp, nhưng cũng đã chặt được khúc đuôi của nó.
Nghe tin này, cụ liên tưởng đến giấc mơ. Cụ rất buồn và rất hối hận, bởi cụ đã không kịp thời ngăn chặn một tội ác.
Thế rồi, tối hôm đó, đang khi ngồi đọc sách dưới ánh đèn dầu, thì cụ bỗng thấy có một giọt máu tươi, từ trên nóc nhà rơi xuống, ngay trên chính trang sách cụ đang đọc.
Khi mở những trang kế tiếp, thì thấy có đến 3 trang giấy bị thấm máu.
Cụ sợ quá. Bởi cụ hiểu ngay, đây là dấu không lành: Rồi đây, con rắn sẽ trở lại, báo oán nhà cụ, và sẽ báo oán cho đến ba đời.
Rồi sau này, đến thời Nguyễn Trãi, khi đi thi ở kinh thành, và đã đỗ đạt trở về. Trên đường, Nguyễn Trãi có ghé qua phố Hàng Chiếu, bỗng ông trông thấy một người con gái, nhan sắc tuyệt trần, đang gánh chiếu đi bán.
Nàng không những đẹp ở dáng vóc, đẹp ở con người, mà lại còn rất giỏi văn chương, đối đáp thơ phú kinh sử rất chuẩn.
Bái phục trước tài năng phi thường và sắc đẹp tuyệt trần của người con gái, Nguyễn Trãi đã ngỏ ý xin cưới cô nàng về làm vợ, để ngày đêm cận kề, mà đối họa thơ phú.
Rồi vào năm Nhâm Tuất (tức là năm 1442 theo công nguyên), khi vua Lê Thái Tôn (con vua Lê Lợi), đi tuần du phương Đông, duyệt binh ở Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ cũng đang an dưỡng tại Côn Sơn, bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua, và cùng với nhà vua đến viếng chùa Côn Sơn, vì ở đây, có ẩn am của Nguyễn Trãi.
Khi nhìn thấy vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ có nhan sắc, lại có biệt tài về văn chương, nên vua Lê Thái Tôn bèn phong cho nàng chức Lễ Nghi Học Sĩ, và cho nàng ngày đêm được hầu cận bên cạnh nhà vua.
Mùa đông năm đó, nhà vua xa giá về Trại Vải ở Lệ Chi Viên, thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, bỗng nhà vua mắc bệnh, lên cơn sốt dữ dội.
Thị Lộ lo hầu hạ, và lo thuốc thang suốt ngày đêm.
Sau đó, nhà vua băng hà.
Các quan hốt hoảng, vội vã một cách bí mật, phụng giá đưa thi hài nhà vua về kinh thành.
Nửa đêm mới làm lễ phát tang.
Tất cả triều thần đều buộc tội cho Thị Lộ, là đã âm mưu giết nhà vua, nên đã lôi nàng ra công đình để giết.
Nhưng khi tới nơi hành quyết, thì nàng hóa thành con rắn, rồi biến mất.
Lúc bấy giờ, trong triều đình, có một quan võ, thuộc nhóm Lê Sát, thấy vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi, người đã dấy lên cuộc Khởi Nghĩa Lam Sơn), thường rất trọng dụng Nguyễn Trãi, nên sinh lòng ghen ghét, ganh tỵ đã từ lâu. Nay nhân cơ hội này, ông liền phán quyết: Chính Nguyễn Trãi mới là kẻ chủ mưu giết vua.
Thế là các quan lại đều thuận ý, nên đã kết án tử hình Nguyễn Trãi với ánh lệnh tru di dòng tộc 3 đời, vì cái tội giết vua.
Cái án oan này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét lại, vì thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một Đại Công Thần, có công khai quốc, liền hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức, và phục hồi danh dự cho Nguyễn Trãi. Đây là một vụ án lịch sử có thật, tên là Lệ Chi Viên.
Trở lại với Kinh Thánh, chúng ta thấy: Tuy con rắn đã trườn bò vào lịch sử của nhân loại, với những dấu vết không đẹp, như là loài bị Chúa chúc dữ, bị đồng hoá với Satan, là thủ lãnh của quỉ dữ, chuyên xô đẩy con người xuống hố diệt vong, với những đức tính xấu xa, như xảo quyệt, hiểm độc, báo thù.
Nhưng cũng với Kinh Thánh, con rắn lại cũng có nhiều nét rất tốt, đã trở thành mẫu mực cho các môn đệ Chúa về một cách sống, và cũng tượng trưng cho uy quyền cứu độ.
Chẳng hạn: Phúc âm thánh Mátthêu, đoạn 10, câu 16 có ghi lại câu nói của Chúa Giêsu, dạy các môn đệ mình như sau: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan như con rắn”.
Rồi chẳng hạn trong sách Xuất Hành, từ đoạn 3 đến đoạn 7, có ghi lại câu chuyện Con rắn như sau:
Lúc bấy giờ, dân Do Thái, đang phải chịu cảnh nô lệ thật tồi tệ ở Đất Ai cập, đã hàng trăm năm rồi.
Trong cảnh cùng cực thê thảm đó, dân Do Thái đã ngước mắt lên kêu cầu đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã nhậm lời họ. Chúa đã chọn ông Môsê, và sai ông đến với đến với Pharaô (vua nước Ai Cập), để xin vua trả tự do cho Dân tộc Do Thái của ông.
Ông Môsê đến nói với nhà Vua:
“Thiên Chúa phán như thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi mở lễ mừng kính Ta trong sa mạc”.
Vua Pharaô trả lời:
“Thiên Chúa của các ông là ai, mà lại khiến Ta phải thả các ông đi? Ta không biết Thiên Chúa nào hết. Ta cũng chẳng thả cho các ông đi đâu hết. Hãy tiếp tục làm các công việc của các ông đi”.
Và để cho nhà vua tin, là ông được Thiên Chúa sai phái tới, Ông Môsê đã làm phép lạ đầu tiên trước mặt vua:
Ông ném cây gậy đang cầm ở tay xuống đất. Bỗng cây gậy trở thành con rắn to.
Nhưng Pharaô cũng lại triệu hồi các pháp sư và các thầy phù thủy đến, họ cũng làm được y như vậy: Họ ném cây gậy của họ xuống đất. Gậy của họ cũng biến thành rắn. Chỉ có khác, là con rắn của Môsê đã đến nuốt sạch tất cả những con rắn của họ.
Tuy thấy thế, nhưng vua Pharaô cũng vẫn cứng lòng, vẫn không tin Thiên Chúa của Môsê. Nhưng dù sao, con rắn cũng đã được Thiên Chúa dùng, để biểu dương quyền năng của Thiên Chúa.
Rồi trong Kinh Thánh, ở sách Dân số đoạn 21, có đề cập đến chuyện con rắn đồng như sau:
Trong cuộc hành trình tiến về Đất Chúa Hứa, Chúa dẫn dân Do Thái không đi qua con đường tắt, mà lại dẫn họ đi qua con đường vòng, từ núi Hebron, vượt qua biển Đỏ, tránh không qua vùng Eđom, để tránh những cuộc chiến đấu không cần thiết. Bởi sợ, khi mới bắt đầu cuộc hành trình, mà gặp khó, gặp khổ, phải đối mặt với chết chóc do chiến tranh, dân chúng đâm ra nản lòng, sẽ rủn chí, rồi quay đầu trở về Đất Ai Cập.
Nhưng con đường vòng này, thì lại quá dài, quá xa, nên dân Do Thái đã mất hết kiên nhẫn. Họ bắt đầu có những lời kêu trách Thiên Chúa và nói xúc phạm đến ông Môsê.
Thế là Chúa đã qui tụ rắn lửa từ khắp các nơi, kéo về các lều trại dân Do Thái, rồi cắn chết rất nhiều người, khiến họ khiếp sợ. Và rồi dân chúng kéo nhau đến năn nỉ van xin ông Môsê:
“Chúng tôi đã có tội, đã xúc phạm đến Chúa và đến ông. Xin ông hãy cầu cùng Chúa, cứu chúng tôi, và xua đuổi rắn ra khỏi chúng tôi”.
Ông Môsê đã khẩn cầu cùng Chúa. Và Chúa đã dạy Môsê như sau:
“Hãy làm một con rắn đồng, rồi treo lên một cây cột trụ thật cao, để tất cả những ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng đó, thì họ sẽ được cứu sống”.
Thế là dân Do thái đã được thoát nạn, nhờ con rắn đồng đó.
Dấu hiệu của “con rắn chữa trị” hay “con rắn leo cây” của Kinh Thánh, vẫn được các lương y thời cổ Hy Lạp, và cả ngành Y Dược thế giới hiện nay, tiếp tục chọn, làm biểu tượng cho ngành Thầy Thuốc của mình.
Rồi khi Thiên Chúa ra tay, tìm cách cứu độ con người khỏi tội nguyên tổ, khỏi hố diệt vong, thì con rắn đã mang một bộ mặt mới, mang một ý nghĩa mới.
Chính Thánh Gioan trong Tin Mừng mang tên ngài, đoạn 3 câu 14, có ghi lại lời Chúa Giêsu nói như sau:
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong Sa mạc thế nào, thì Con Người đây, cũng sẽ được giương cao lên như vậy, để những ai tin vào Người Con này, cũng sẽ được sống muôn đời”.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy con hãy sống khôn ngoan như con rắn, nhưng Chúa cũng dạy con hãy sống hiền lành như chim bồ câu. Nghĩa là sự khôn ngoan của con trong năm mới Ất Tỵ 2025 này, phải được định hướng sao cho thật rõ ràng, sao cho thật chính xác nhất, để biết đâu là điều quan trọng nhất, để biết đâu là điều cần thiết nhất, để lựa chọn điều đúng nhất, để con còn lo tập trung đầu tư thời gian, tiền bạc, của cải, công sức, tài năng vào đó, để đầu tư cho phần rỗi đời đời của con.
Xin Chúa soi sáng cho con. Xin Chúa giúp con lựa chọn. Xin Chúa chúc lành cho con, và xin Chúa cũng chúc lành cho mọi công ăn việc làm của con trong năm mới này, được thuận lợi, và được tiến triển một cách tốt đẹp. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Mễn (GP Long Xuyên)
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.