Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

09/12/2023

Vấn đề địa giới của "phường Đông Tác" ở Thăng Long thời Lê, thời Tây Sơn, thời Nguyễn

Địa giới "phường Đông Tác" thuộc Thăng Long trong lịch sử, là một vấn đề hóc búa. Sách địa chí ghi chép có nhiều điểm nhầm lần. 

"Đông Tác" đâu đó như ở Kim Liên - Trung Tự.

"Đông Tác" lại đâu đó như ở khu Cửa Nam.

"Đông Tác" lại đâu đó như khu vực gần Hồ Hoàn Kiếm.

Bây giờ, đi một ít thông tin mà ít nhiều đã được biết đến.

Tháng 12 năm 2023,

Giao Blog


---

..


Trần Hoà | 03/05/2023, 18:41

Vị đại khoa Nguyễn Trù là người có công bồi đắp nền văn, đặt nền tảng cho loại hình sách tham khảo dành cho sĩ tử.

Là một vị đại khoa, sau lại lĩnh trách nhiệm Tế tửu Quốc Tử Giám, Nguyễn Trù là người có công bồi đắp nền văn, đặt nền tảng cho loại hình sách tham khảo dành cho sĩ tử.

Nguyễn Trù sinh năm 1668, người phường Đông Tác, huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long (nay thuộc phường Trung Tự, Đống Đa - Hà Nội). Nguyễn Trù là hậu duệ của dòng họ Nguyễn Đông Tác nổi tiếng trong lịch sử Thăng Long.

Dòng họ danh tiếng Thăng Long

Hoàng giáp Nguyễn Trù bồi đắp nền học, khắc đá đề danh ảnh 1
Văn bia hình hộp 'Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt' do Hoàng giáp Nguyễn Trù soạn.

Theo cuốn “Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị Thế phả”, soạn năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) thì dòng họ Nguyễn Đông Tác có nguồn gốc từ Gia Miêu ngoại trang, Thanh Hóa. Cụ sơ tổ của dòng họ là Nguyễn Chính Thiện. Con trai của tổ là Nguyễn Lương Phúc, giữ chức Quang Tiến Phụ quốc Thượng tướng quân.

Đến đời thứ 7, dòng họ Nguyễn Đông Tác có ông Nguyễn Hy Quang đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương khoa Đinh Dậu (1657), vào thi Hội trúng Tam trường, lại đỗ khoa Sĩ vọng (1670), được bổ chức Giáo thụ phủ Thường Tín. Chúa Trịnh Tạc biết tiếng ông, bèn triệu vào phủ làm thầy dạy Trịnh Vĩnh và Trịnh Bính.

Nguyễn Trù chính là cháu của Nguyễn Hy Quang. Năm 1697, Nguyễn Trù ứng thi khoa Đinh Sửu và đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Cùng với Nguyễn Quyền, ông là một trong số hai người đỗ đầu kỳ thi Đình (nhị giáp).

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này ghi rằng: “Mùa Đông năm Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 18, bủa lưới cầu hiền, mở trường thi tài kén kẻ sĩ. Bấy giờ các cống sĩ các nơi dồn về như mây hợp, số ứng thí tới 3.000 người. Qua trường bốn, chọn được hạng ưu tú 10 người.

Tháng Chạp vào thi Đình, Hoàng thượng đích thân ra bài hỏi về môn học tâm tính của con người. Hôm sau, quan Độc quyển nâng quyển lên đọc, Hoàng thượng xem xét, định thứ tự cao thấp. Ban cho bọn Nguyễn Quyền, Nguyễn Trù đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Phạm Quang Huân 8 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân…”.

Cuối bài ký còn ghi: “Kẻ sĩ may mắn sinh ra ở đời này, mừng gặp thời sáng, đội ơn tiên triều vẻ vang cất nhắc ngợi khen, nay lại được biểu dương nồng hậu, vậy phải nghĩ đền đáp thế nào? Ắt phải nguyện làm sao cho danh xứng với thực, nghĩ việc trước lo đến việc sau, giữ lòng trung ái, mài rèn đức hạnh liêm sỉ cho bản thân được như Cao, Tiết; vua mình được như Nghiêu, Thuấn. Nếu được như thế thì bia đá này, tên tuổi này càng lâu càng vẻ vang, càng xa càng nức tiếng vậy.

Còn nếu danh thực trái nhau, trước sau sai lệch, lo bon chen ganh ghét, theo thói dua nịnh, lòng chứa những chuyện tham lam nhũng nhiễu, ngậm miệng như bị đóng hàm, làm cho danh tiết bị nhơ bẩn, danh giáo bị ô nhục thì người đời sau tới xem, ắt sẽ chỉ vào tên mà khinh bỉ đức hạnh, công luận nghiêm buốt khó trốn, há chẳng xấu hổ lắm sao?

Thế thì bia đá này dựng lên thật có ý sâu sắc, sẽ làm cho rõ ràng xấu tốt, nêu cao sừng sững trước tai mắt mọi người, mài rèn danh tiết cho sĩ tử, bồi đắp nguyên khí của nước nhà, có quan hệ đến thế đạo, há phải nhỏ đâu!”.

Hoàng giáp Nguyễn Trù bồi đắp nền học, khắc đá đề danh ảnh 2
Gia phả dòng họ Nguyễn Đông Tác (bản sao chép năm 1932).

Bồi đắp nền học

Sau khi đỗ đại khoa, Nguyễn Trù được triều đình bổ dụng làm Đốc trấn Cao Bằng. Tại đây, ông nhận thấy việc phiên viễn có phần lơi lỏng nên đề xuất một số cải cách bằng việc cho phiên thần Thái Nguyên đem quân bản thổ luân chuyển đi thú.

Sách “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục” ghi rằng, trước đây lính thổ ở Thái Nguyên hàng năm luân chuyển nhau đi thú thủ Cao Bằng nhưng đến năm Bảo Thái thứ 2 (1721), chúa Trịnh Cương cho rằng đất nước thừa hưởng thái bình đã lâu, cõi biên vô sự, quân lính ở tại (thổ trước) cũng đủ sức chống cự, bèn sai bỏ việc đồn thú... Chỉ trong vòng chưa đầy ba năm, tình hình nơi đây lại trở nên nóng bỏng. Theo lời đề xuất của Nguyễn Trù, việc này được nối lại, định lệ cứ mỗi năm một lần thay đổi.

Năm 1728, niên hiệu Bảo Thái thứ 9, Nguyễn Trù được triều đình bổ dụng giữ chức Hữu Thị lang bộ Hình, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Ông đã đào tạo được nhiều học trò xuất sắc, như Tiến sĩ Nguyễn Công Thể - người từng giữ cương vị Tể tướng và Tế tửu Quốc Tử Giám. Ông được xem là một trong những “người thầy một đời, muôn đời”.

Năm Vĩnh Thịnh 9 (1713), ông đã chú thích và cho in cuốn “Sách học đề cương” của Chúc Nghiêu (Trung Quốc) gồm 10 quyển, 124 bài văn sách, đề tài lấy từ Kinh, Sử - bàn về tấm lòng vua, nhân đức, hiếu liêm, nho thuật hình pháp. Mục đích của sách này là để cho các sĩ tử tham khảo các đề tài và các cách làm bài luận khi thi Hội.

Trong lời bạt, Nguyễn Trù viết: “Sách này của Chúc Nghiêu tiên sinh là chính tông của môn sách học, lưu hành khắp nơi đã lâu năm. Hiềm vì sách thì có mà chú thích còn thiếu, tôi không tự lượng kiến thức hẹp hòi, kính đem những điều được biết chép ra để cho người mới học được tiện tra cứu”.

Các chú thích của Nguyễn Trù không tách ra phần riêng mà bám sát nguyên văn, gặp chữ khó, điển lạ thì chú giải bằng chữ nhỏ bên cạnh để giải thích. Những chú thích như vậy rất cần thiết để người đọc dễ lĩnh hội ý nghĩa và phương pháp của bài sách luận. Bàn về tác phẩm này, Phan Huy Chú đã đánh giá “chú thích rất kĩ lưỡng, xác đáng”.

Năm 1728, Nguyễn Trù cho hiệu đính và in lại tập sách “Quần hiền phú tập”, gồm 30 tác giả từ thế kỉ 14 - 18 như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn. Đây là tập phú cổ nhất của nước ta còn giữ được cho đến ngày nay.

Tập phú không những có giá trị cho việc dạy học, mà còn là một bộ sưu tập giữ lại được những tác phẩm phú chữ Hán trong thời kỳ thịnh đạt của thể loại, mà nhà bác học Lê Quý Đôn đã khen là “khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ”.

Danh sĩ thời Lê là Nguyễn Công Cơ cũng khen: “Bộ tuyển tập phú này nếu không có các bậc hiền xưa thì không có nghệ thuật thần diệu; nhưng các bậc hiền triết đó nếu không có ông Nguyễn (Nguyễn Trù) thì không để được văn phú cho đời sau”.

Ngoài ra, ông còn cho in sách “Truyền kỳ lục” - một tác phẩm thuộc thể loại hiếm quý của văn học Việt Nam. Nhận xét về Nguyễn Trù, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” viết: “Trù là người học hỏi rộng rãi, thường sửa định, chú giải các sách học đề cương và Quần hiền phú... lưu hành ở đời”.

Di sản làng Trung Tự

Hoàng giáp Nguyễn Trù bồi đắp nền học, khắc đá đề danh ảnh 3
Cửa Ngưỡng Chỉ đình Trung Tự.

Nguyễn Trù cũng là người dựng văn bia “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” (Bia mốc giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác) được hậu thế xem như một “cuốn sổ đỏ” bằng đá có một không hai ở Việt Nam. Hiện tấm văn bia này vẫn được bảo lưu và gìn giữ tại đình Trung Tự.

Để hiểu ngọn nguồn tấm văn bia này, theo người dân Trung Tự thì phải lần giở lịch sử vào thế kỷ 16, đất Đông Tác bị một số quan lại đương thời chiếm đoạt. Đến đời thứ 7, Nguyễn Hy Quang khi còn đang đi học cũng đã bày mưu kế cho dân làng tranh kiện đòi lại đất đai với các chức dịch.

Hoàng giáp Nguyễn Trù bồi đắp nền học, khắc đá đề danh ảnh 4
Tên Hoàng giáp Nguyễn Trù trên bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1697.

Trải qua 3, 4 lần xét xử, đến năm 1674 sau khoảng 80 năm phải “ở nhờ”, người dân Đông Tác - Trung Tự đã được trở về phục nghiệp trên mảnh đất cũ của tổ tiên. Trong năm này, Nguyễn Hy Quang bỏ tiền cùng dân làng Trung Tự sửa sang làng xóm. Biết đó là nơi nền đất yếu, Trịnh Bính cho quân dẫn theo đàn voi đến khu đất mà dậm nền nhà cho vững để trả ơn thầy.

Vào ngày 2 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức thứ 2 (1733), văn bia này được soạn, trở thành một văn bản chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất của dân làng sau khi dân làng Trung Tự thắng kiện và đòi lại được đất đai bị chiếm dụng trong suốt 80 năm.

Trong lời mở đầu văn bia, Nguyễn Trù viết: “Ngày phục nghiệp của thôn ta, có một đạo “Khải của quan Phụng Sai”, lại thêm một đạo “Phán quyết của quan Cai Khám”.

Đây là những vật báu muôn đời, được cất giữ trong hòm quý đến nay vừa tròn 60 năm. Nay ta muốn truyền lại lâu dài, bèn cùng người làng tìm đá, chọn người để chép lại và khắc sâu, khiến cho trăm đời có bằng chứng, vạn năm không hư hỏng”.

Sau lời mở đầu, văn bia được khắc gồm có hai văn bản. Một là bài Khải soạn ngày 10 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức 2 (1673) của một viên quan phụng sai dâng lên chúa Trịnh trình bày ý kiến của viên quan này đề đạt lên chúa xin công nhận và trả lại cho dân thôn Trung Tự số ruộng đất đã bị chiếm đoạt.

Hai là một văn bản ra đời sau đó 4 năm, đề ngày 19/8, Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị 2 (1677), có tên là “Cai khám quan phó đoạn tích” (Quyết định của quan Cai Khám).

Nội dung là lời quan Cai Khám phán quyết về vụ kiện về tranh chấp đất đai giữa làng Trung Tự và làng láng giềng. Quan Khám phán quyết rằng: Sau khi thẩm tra và đối chiếu địa bạ, thấy làng láng giềng tố cao làng Trung Tự chiếm đất của mình là sai, vì các khu đất có từ lâu đã thuộc về làng Trung Tự. Làng láng giềng này phải nộp phạt 30 quan tiền về tội mạo chiếm.

Theo dân làng Trung Tự, “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” là một loại bia hộp vì có hình thù như một chiếc hộp, gồm hai phiến đá úp vào nhau. Cả hai phiến đều hình vuông kiểu triện vuông 76cm, tấm dưới dày 50cm, tấm trên 18cm. Hồ sơ xếp hạng di tích đình Trung Tự đánh giá: “Khối bia hộp duy nhất tìm thấy ở nội thành, một loại hình di vật độc đáo đặc biệt quý hiếm trong Di sản văn hóa nước nhà” (Quyết định 776/QĐ của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ngày 23/6/1992).

https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/vi-hoang-giap-co-cong-boi-dap-nen-hoc-khac-da-de-danh-48894.html

..

..


Nguyễn Hải Trừng| 12/04/2010 05:50

(HNM) - Trung Tự thuộc phường Đông Tác và Kim Hoa, sau đổi là Kim Liên, là hai làng cổ liền kề nhau thuộc huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên (tức Kinh thành Thăng Long). Ngày nay, Kim Liên và đại bộ phận làng Trung Tự cũ hợp thành một phường là Phương Liên. Từ lâu nhiều nét đẹp truyền thống của cả 2 làng đã được lưu truyền.

Đường Xã Đàn ngày nay thuộc địa phận làng Trung Tự cũ. Ảnh: Bảo Kha


Rồi bỗng xuất hiện thông tin trong một bài báo: “Kim Liên có một ông trạng. Một lần qua cổng làng, ông không hạ mã, dân không nhận là người làng nữa. Ông bèn cùng họ hàng ra ngoài thành Đại La, lập làng mới là Trung Tự. Hai làng cắt quan hệ với nhau với những lời thề độc…”. Điều này làm nảy sinh những phiền toái không đáng có và cái chính là nó không đúng. Là anh bộ đội rời quê Trung Tự đi chiến đấu từ trẻ, khi nghỉ hưu thi thoảng có dịp về làng, tôi tự nhủ phải cố tìm chứng cứ để đính chính, giải tỏa định kiến cũ giữa hai làng - vốn đều có truyền thống đẹp đẽ đáng nhắc ở mảnh đất nghìn năm.

Tư liệu dần dần đã tìm được nhưng chưa đủ thuyết phục với một vấn đề phức tạp như thế. May sao vào một ngày đầu xuân ấm áp về dự lễ hội làng, tôi bỗng chú ý đến hai phiến đá lớn úp lên nhau trông như cái hộp, cao hơn nửa mét nằm ở góc sân đình. Một vị cao tuổi cho biết đây là tấm bia hộp rất quý, khắp nội thành, chỉ Trung Tự có thôi.

Được sự giúp đỡ của Tiểu ban Bảo vệ di tích và cậy người khỏe lật phiến đá ở trên lên, tôi thấy mỗi phiến là một mặt bia hình vuông, cạnh gần 80cm. Nói sao hết nỗi vui mừng khi đọc những lời thiết tha mở đầu:

“Ngày phục nghiệp của thôn ta, có một đạo “Khải của quan Phụng Sai”, lại thêm một đạo “Phán quyết của quan Cai Khám (quan tra xét)”. Đây là những vật báu muôn đời, được cất giữ trong hòm quý đến nay vừa tròn 60 năm. Nay ta muốn truyền lại lâu dài, bèn cùng người làng tìm đá, chọn người để chép lại và khắc sâu, khiến cho trăm đời có bằng chứng, vạn năm không hư hỏng...

Kẻ hậu sinh là Hữu thị lang bộ Hình, Xương Phái hầu Nguyễn Trù vái lạy kính ghi…”.

Tiếp đó là họ tên chức tước 3 quan lãnh đạo hàng đầu của kinh thành cùng tham dự. Bia khắc ngày 2 tháng Sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức 2 (1733).

Hai văn bản pháp quy đó gần 1.500 chữ được dịch và hiệu đính rất cẩn trọng. Thấy bia viết nhiều về các khoảnh đất, tên bia thì ghi là “Đông Tác phường, Trung Tự thôn địa giới kiệt” (bia đá mốc giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác) tôi tưởng đây chủ yếu là chuyện đất đai. Nhưng nghiên cứu kỹ bia, sách sử và phả ở hai làng, dần dần chuyện lịch sử đặc biệt của làng cổ Trung Tự đã hiện lên khá rõ.

                                                                            *
                                                                      *         *
Văn bản pháp quy thứ nhất là “Khải của quan Phụng Sai” đề ngày 10 tháng Sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức 2 (1673) mở đầu bằng bản sao “Tờ trình của thôn Trung Tự, Đông Tác” có họ tên của 14 quan viên hương trưởng thay mặt:

“Nguyên đất thổ trạch của thôn chúng tôi, Đông…, Tây…, Nam…, Bắc giáp… Trước đây bị Quân Phòng chiếm ở, chỉ còn đền, chùa và vài nhà dân ở ven hồ (tức hồ Ba Mẫu). Tuy dân phải dời đi ở nơi khác nhưng hộ tịch, việc thi, tuyển mộ vẫn theo lệ cũ… Thiết tha kính mong quan trên nghĩ đến tình cảnh dân làng, trả lại các đất đã bị chiếm, giúp cho dân chúng tôi được an cư phục nghiệp”.

Quan Phụng Sai đã nhận xét về từng khoảnh đất rồi kết luận:

“… Các khu trên cộng là 3 mẫu 5 sào… Nguyên là đất cũ của tổ tông dân Trung Tự, Đông Tác dưới triều đại trước. Một thời bị Quân Phòng chiếm ở, về sau Quân Doanh ở… Xem kỹ địa bạ thôn Trung Tự, thấy địa phận các khu y hệt như đơn đã trình bày… Kính xin lệnh chỉ chuẩn trả lại đất cho dân Trung Tự để trở về an cư phục nghiệp như trước kia”.

Như vậy, Khải đã khẳng định 3 điều: Một, làng Trung Tự gặp tai họa bị chiếm hết đất thổ trạch đã có từ triều đại trước. Lúc đầu Quân Phòng chiếm, về sau Quân Doanh ở. Hai, Trung Tự đã và luôn luôn thuộc phường Đông Tác, dân tuy dời đi nhưng hộ tịch và việc thi, tuyển mộ vẫn giữ như lệ cũ. Cũng tức chưa bao giờ thuộc Kim Hoa. Ba, kính xin trả lại cho Trung Tự đất cũ để trở về phục nghiệp. Không hề có chuyện đi lập làng mới.

Sách sử có ghi thời Lê Trung Hưng để thưởng công, một số ít công thần hoặc người thân trong họ Chúa được lập Quân Doanh và sử dụng quân thuộc hạ phục dịch mình. Sách phả ở 2 làng, đặc biệt là bộ Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị tông phả (ký hiệu VH v 2136 ở Thư viện - Viện Hán Nôm) của TS Nguyễn Văn Lý được nhiều người đọc đánh giá là biên soạn chặt chẽ, khách quan cho thêm nhiều thông tin cụ thể:

Cuối thế kỷ XVI, một Thái Phó là Việt Quận công được lập Quân Doanh ở tây bắc Trung Tự đã ỷ thế tranh đất làm cho dân phải sang trú nhờ Kim Hoa. Một người Trung Tự ở thế hệ trú nhờ thứ tư là Nguyễn Hy Quang quyết vượt lên nghèo khó để học và sau khi đỗ Giải Nguyên năm 1657 đã vận động đoàn kết các dòng họ trong làng, tìm cách đòi lại đất cũ. Khoảng 8 chục năm sau khi mất đất, nửa năm sau khi được quan xét xử, tức năm Giáp Dần 1674, dân Trung Tự vui mừng trở về phục nghiệp.

Đây quả là một chuyện hiếm thấy! Điều mừng nữa là theo gương Nguyễn Hy Quang, các dòng họ tiếp tục đoàn kết phấn đấu nên không lâu sau Trung Tự đất hẹp dân ít dần trở thành làng giàu truyền thống văn hóa của Thăng Long - Hà Nội với nhiều người con ưu tú đã có hành trạng được ghi sử sách. Danh sư Nguyễn Hy Quang được phong phúc thần, xuân thu được tế theo nghi thức quốc gia, với lời ghi trên sắc: đã bồi giảng nền học thánh hiền, góp nhiều ý hay vào mưu lược quốc gia, ngày ngày lo nghĩ giúp triều đình hoàn thành nền thịnh trị. Hoàng Giáp Nguyễn Trù, Tế tửu Quốc Tử Giám, có 2 tác phẩm đóng góp vào nền giáo dục và văn học đất nước. Thượng Tướng Quân Nguyễn Hữu Dụng có công được phối thờ ở đình làng. TS Đốc học Nguyễn Văn Lý tâm huyết cống hiến cho nền giáo dục và văn hóa dân tộc. Cử nhân Nguyễn Hữu Cầu chí sỹ yêu nước Đông kinh Nghĩa thục bị Pháp đày ở Côn Đảo. GS Nguyễn Hữu Tảo, “một người thầy mẫu mực, một nhà giáo dục tài năng, một con người nhân hậu đức độ, qua đời đã gần nửa thế kỷ vẫn được nhiều người kính nhớ”. Cư sỹ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha nổi tiếng đức độ, uyên thâm Nho học và Phật học, có gần 100 đầu sách, trong đó có bộ Hán Việt tự điển nổi tiếng...
                                                                            *
                                                                      *         *
Văn bản thứ hai đề ngày 19-8, Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị 2 (1677), nội dung là “Phán quyết của quan Hy Sát Ngự Sử đạo Thanh Hoa, phụ trách tra xét vụ Kim Hoa kiện Đông Tác”, nhưng thực tế còn thêm mấy vụ nữa. Phán quyết có đoạn: “(trước hết) nói về vụ Kim Hoa tố cáo Đông Tác chiếm đất chùa Phúc Lâm của Kim Hoa và chiếm đất trước và sau Tam Bảo: sau khi tra cứu địa bạ phường Kim Hoa, thấy chỉ có khoảnh đất gọi là đất Tam Bảo nhưng không có chùa Phúc Lâm, cũng không có đất trước và sau Tam Bảo. Còn khu đất được gọi là trước Tam Bảo ở ngoài thành Đại La (mà Kim Hoa đã cắm tiêu) thì điều tra thấy trước đây Mỹ Quận Công đã hứa cho bọn Đinh Tiến Phú xây nhà ở. Đinh Tiến Phú khai rằng năm Quý Sửu (tức năm xử cho Trung Tự trở về đất cũ), quan Phụng Sai đã về cho đo đất ấy và trả cho phường Đông Tác, nên y đã dời đi nơi khác. Qua đó rõ ràng đất này thuộc địa phận phường Đông Tác, phải trả lại cho Đông Tác theo đúng số liệu đo đạc”…

Khi tra xét vụ kiện trên, quan phát hiện thêm 3 vụ phạm pháp, cho thấy công việc tra xét công phu. Văn bản thứ hai này còn soi sáng thêm một điều rất quan trọng nữa. Bên nguyên đơn tưởng đã thắng trong hai lần sơ thẩm, đến chung thẩm bị thua và thiệt nặng. Mặt khác, phân tích việc đặt điều thêm trong đơn tố cáo Đông Tác và các việc làm sai trái khác, có thể hiểu chỉ những kẻ tham nhũng nắm quyền mới làm được, dùng cách thề nguyền đánh vào tâm linh để dân cắt quan hệ với Trung Tự. Trên thực tế, dân Kim Hoa đã giúp nhiều thế hệ dân Trung Tự trú nhờ, rõ ràng là rất có tình nghĩa.

Dẫn ra những điều trên, tôi có lòng mong đính chính lại chỗ sai trong thông tin đã đưa. Và cái đích cuối cùng là để hai ngôi làng cổ đầy truyền thống tốt đẹp sẽ hiểu nhau hơn và càng đoàn kết thân thiết, cùng nhau xây dựng phường mới Phương Liên ngày nay phát triển.

Về cuộc thi viết "Cả nước hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội"

Cuộc thi còn một đợt chấm giải vào tháng 10 năm 2010, với 1 giải nhất 10 triệu đồng, 2 giải nhì mỗi giải 5 triệu đồng, 3 giải ba mỗi giải 3 triệu đồng, 10 giải khuyến khích mỗi giải 1 triệu đồng. Chủ đề: Truyền thống Thăng Long - Hà Nội, kỷ niệm sâu sắc qua các thời kỳ, khuyến khích giai đoạn hiện tại, với những con người, sự kiện mới tiêu biểu cho sự nghiệp CNH-HĐH. Để nâng cao chất lượng, BTC quyết định điều chỉnh dung lượng bài dự thi: dài nhất được 2 kỳ, mỗi kỳ 2.000 từ; dùng cả những bài nêu vấn đề nhưng có hệ thống, không sa vào vụ việc cụ thể.

Địa chỉ thư điện tử: thi1000nam@hanoimoi.com.vn. Rất mong sự hưởng ứng của bạn viết xa gần.

BTC

https://hanoimoi.vn/cau-chuyen-lang-co-236232.html


..


MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ NHỮNG THÔNG TIN TRÊN TẤM BIA HỘP VÀ SÁCH PHẢ CỔ Ở LÀNG TRUNG TỰ, HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI TRỪNG

Phố Đông Tác - Hà Nội

Một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Vĩnh Phúc, Vũ Tuấn Sán... đã viết về truyền thống văn hoá tốt đẹp của làng cổ Trung Tự, phường Đông Tác, Thăng Long. Đầu thế kỷ XX, khi bỏ cấp phường, làng Trung Tự có một thời gian được gọi là làng Đông Tác nay nằm trong địa bàn 3 phường Phương Liên, Kim Liên và Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội. Thế nhưng, trên báo Hà Nội Mới Chủ nhật, số 313, ngày 19/3/1995, trong bài "Phương Liên, hôm qua - hôm nay", Lê Duy Quang đã viết rằng trước đây chỉ có một làng mang tên Kim Liên (KL). KL có một ông trạng do khúc mắc với dân làng nên đưa bà con thân thuộc sang bên kia thành Đại La lập làng mới là Trung Tự (TT). Sau đó dân 2 làng cắt quan hệ với nhau. Ngoài ra có người còn đưa ra một thông tin không rõ xuất xứ cho rằng TT là một giáp của KL tách ra. Những việc trên chứng tỏ có sự hiểu không thống nhất về lịch sử của TT và KL. Vì vậy, việc tìm ra các chứng cứ có độ tin cậy cao để giải quyết là điều nên làm, và cũng là để góp phần nhỏ bé vào việc chuẩn bị cho kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Trong các tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được, có 2 di vật đáng chú ý là tấm bia hộp và một cuốn phả cổ 418 trang. Bia hiện nay được lưu giữ ở đình Trung Tự, cách ngã tư Kim Liên - Đại Cồ Việt 500m về phía Tây Bắc, rất gần đình Kim Liên. Sở dĩ gọi là bia hộp vì đó là hai phiến đá vuông vắn úp lên nhau trông như một cái hộp, phiến dưới dày 31cm, phiến trên làm nắp dày 19cm. Mỗi phiến đã tạo thành một mặt bia, hình vuông, mỗi chiều gần 80 cm. Bia có tên là Đông Tác phường, Trung Tự thôn, địa giới kiệt (mốc giới đất đai thôn Trung Tự, phường Đông Tác) nên thoạt đầu tôi tưởng đơn thuần là nói về vấn đề đất đai. Sau khi nghiên cứu kỹ trên thác bản, tôi mới từng bước nhận thấy 2 văn bản pháp quy khô khan khắc trên bia chứa đựng nhiều thông tin quý. Kết hợp với tư liệu trong cuốn phả nói trên và các tư liệu khác, chúng tôi đã hiểu đúng hơn về lịch sử một làng khá cổ của Việt Nam, nhất là về việc vượt qua tai họa để trở thành một trong những đất học của Thăng Long, trong đó có dòng họ đã giữ được truyền thống đó hơn 300 năm nay.

Trước hết xin giới thiệu nội dung mặt bia ở phiến đá lớn nhất (đặt ở dưới). Mở đầu là mấy lời hậu sinh người làng Trung Tự là Hữu thị lang Bộ Hình, Xương Phái Hầu, Hoàng Giáp Nguyễn Trù (1668 - 1736) soạn. Ông cho biết là bia này khắc ngày 2 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức 2 (1733), để lưu truyền 2 văn bản liên quan đến việc phục nghiệp của làng Trung Tự, đã được cất kín trong hòm trước đó vừa tròn 60 năm. Cùng dự việc khắc bia này còn có Quận Công Lê Hữu Vũ là Phụng sai Đề Lĩnh Tú thành Quân vụ cùng Phủ doãn và Thiếu doãn phủ Phụng Thiên.

Tiếp đó là Văn bản pháp quy thứ nhất, tức là tờ Khải của Quan Phụng Sai, hơn 700 chữ, gồm 2 phần:

Phần 1: Là Tờ trình của dân thôn Trung Tự, phường Đông Tác gửi lên cửa quan. Xin dịch như sau:

"Nguyên đất thổ cư (gồm cả ao) của thôn chúng tôi, phía Đông giáp phường Kim Hoa; Đoài Giáp hai giáp Kiều Thượng, Kiều Hạ, Nam giáp hào ngoài thành Đại La; Bắc giáp (?) (trước đây) đã bị quân phòng chiếm ở, chỉ còn lại khu đền, khu chùa và một vài nhà dân làng ở ven hồ. Tuy nhân dân phải dựng nhà ở nơi khác nhưng việc thi cử, tuyển mộ hộ tịch vẫn theo lệ cũ. Nay ngửa trông thánh đức thương dân phiêu bạt thường cho triệu tập về nên dân làng được đội ơn trở về đất cũ khôi phục nghiệp tổ. Sau lời khai các khoảnh đất bị chiếm, tờ khải thiết tha mong được quan trên nghĩ đến tình cảnh dân làng, (cho) trả lại những đất đã bị chiếm cứ, giúp cho dân chúng tôi an cư phục nghiệp" (dịch).

Phần 2: Là ý kiến của Quan Phụng Sai sau khi trực tiếp thẩm tra tại chỗ và xem kỹ địa bạ của thôn TT: Các khu trên cộng là ba mẫu (phong tử), năm sào, hai thước, sáu thốn, nguyên là đất cũ của tổ tông thôn TT phường ĐT, dưới triều đại trước, mấy năm gần đây bị quân phòng chiếm, liền sau đó trở thành nơi ở của Hậu Hoà quân doanh. Hơn nữa xem kỹ địa bạ cũ, thấy địa phận các khu y hệt như đơn của dân phường đã trình... Kính xin chiếu chỉ chuẩn trả lại cho dân phường... trở về an cư phục nghiệp như trước kia.

Ngày 10 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức 2 (1673).

Văn bản pháp quy này có 2 điều đáng chú ý:

a. Đất thổ cư của thôn TT bị chiếm cứ đúng là đất cũ của tổ tông dân làng dưới triều cũ tức triều Mạc - tuy dân phải di dời đi nhưng sổ sách và các việc vẫn theo lệ cũ. Tức là trước khi mất đất, TT đã là một đơn vị hành chính nằm trong phường ĐT và hơn nữa cho đến khi xử kiện chưa lúc nào bị xoá tên.

b. Năm 1673, triều đình xử cho dân làng được lấy lại đất cũ trở về phục nghiệp.

Mặt bia ở phiến đã úp bên trên chép Văn bản pháp quy thứ 2, khoảng 600 chữ. Đó là lời phán quyết của Quan Hi sát Ngự sử đạo Thanh Hoa trong việc xét xử vụ tranh chấp đất đai giữa phường Kim Hoa (Kim Hoa), tên cũ của Kim Liên trước thời Thiệu Trị, với TT Đông Tác (ĐT).

Sau khi tra cứu địa bạ và trực tiếp điều tra, quan Ngự Sử đã phán quyết về từng khoảnh đất tranh chấp. " Xét kỹ thì rõ ràng đất ấy thuộc địa phận phường ĐT. Khu đất và ao ở ngoài hào thành Đại La, phải trả lại cho phường ĐT, đúng như số liệu đã đo đạc... Phường KH đã sai trái bán một số đất thượng hạng cho người ngoài. Theo pháp luật, có thể dung tha không? Phải phạt thường KH 30 quan tiền cổ về tội mạo chiếm.

Về vụ kiện này, nha môn Phủ Doãn cũng biết ĐT là đúng nhưng phán quyết chưa tình lý. Nha môn huyện quan xét đoán chưa triệt lý lẽ, phải chịu phạt tiền cổ 5 quan.

Ngày 19 tháng8 năm Đinh Tỵ, niện hiệu Vĩnh Trị 2 (1677) " (dịch).

Lời phán quyết thật là nghiêm, tuy vậy có một vấn đề nổi lên cần giải đáp trước, đó là cụ thể sự việc mất đất của TT như thế nào, vì Khải của quan Phụng Sai viết quá gọn: "một thời gian bị quân phòng chiếm, về sau quân doanh ở". Rất may sách Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị toàn phả của TS Nguyễn Văn Lý(1795 - 1868) đã cho khá nhiều thông tin. Đây là một bộ sách 3 tập, viết tay, chữ đẹp, tàng bản của dòng họ. Ở thư viện Viện Hán Nôm, sách có tên hơi khác là Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị Tông phả, 276 trang, ký hiệu VHv. 216, tương tự như tập I của bộ sách trên. Những người đã đọc bộ sách này đều nói sách viết công phu, cẩn trọng. Xin trích dẫn một đoạn ở mục nói về tổ đời thứ 3 của dòng họ là Chính Nghị, làm ở Cẩm Y Vệ triều Lê: "... Lúc bấy giờ có Thái Phó Việt Quận Công, đóng doanh ở Tây Bắc làng, hàng ngày hà hiếp chiếm đất. Dân làng phải phiêu dạt... nhưng sổ thi, hộ tịch vẫn giữ theo lệ cũ. (Cụ) sang trú ở quê vợ là phường KH, vào ngôi hương ẩm ở Giáp Đông" (dịch). Cuốn Phả họ Nguyễn Đông Tác, chữ quốc ngữ (xuất bản năm 1940 - trang 9) tác giả là Thiều Chửu (1902 - 1945) có thêm thông tin như sau: "Tập Gia phả nôm của cụ Đại vương chép rằng cụ Phúc Kỳ, con trai thứ 4 của cụ Chính Nghị, làm Lý trưởng gặp hồi Việt Quận công đóng dinh ở Tây Bắc làng, hiếp dân tranh đất, dân không yên ở, cụ thu xếp đem dân vào ở nhờ làng Kim Liên". (Cụ Đại vương tức là Nguyễn Hy Quang (1634 - 1692), cháu gọi cụ Phúc Kỳ là ông nội).

Căn cứ theo tuổi của Chính Nghị và Phúc Kỳ (sinh năm 1545 và 1571) cũng như năm nhà Lê Trung Hưng thắng lợi trở về Thăng Long(1539), có thể đoán định việc làng TT bị chiếm đất xảy ra khoảng cuối thể kỷ 16 đầu 17. Chính sử cũng cung cấp minh chứng khi ghi rõ thời kỳ này một số công thần lớn và thân thích của vua chúa đã được lập quân doanh để thưởng công và có người đã lợi dụng để xâm lấn.

Tóm lại, theo chứng cứ trên bia và tông phả trên, làng TT đã là một đơn vị hành chính từ lâu, ít nhất cũng từ trước cuối thể kỷ 16 (là lúc làng bị chiếm đất phải sang trú ở KH), hơn nữa, Trung Tự thuộc phường Đông Tác. Năm 1673, triều đình xử cho TT được lấy lại đất cũ về phục nghiệp rồi lại xử vụ KH chiếm đất của TT. Điều đó bác bỏ hoàn toàn chuyện TT ra đời là do một số dân KH bỏ làng cũ hoặc do 1 giáp của KH tách ra.

Câu chuyện đất đai của Trung Tự, Kim Hoa là câu chuyện của lịch sử. Sự thật chỉ có một. Tuy nhiên hơn 300 năm đã qua đi. Sự thật lịch sử đó qua "bia miệng" đã mang nhiều sai lệch. Viết về lịch sử địa lý một địa danh như Kim Liên mà chỉ dựa vào lời "Các cụ kể lại" như tác giả bài báo Hà Nội mới chủ nhật ngày 19/3/1995 - Lê Duy Quang - thì sẽ khó mà trở thành một cứ liệu chắc chắn.

Trên cơ sở tấm bia và cuốn gia phả hiện còn chúng tôi viết bài này không ngoài mục đích trở lại sự thực lịch sử cho hai địa danh của Hà Nội là Kim Liên - Kim Hoa mà ở đó từ lâu đời vẫn có mối quan hệ đoàn kết gắn bó với nhau, không hề có sự mâu thuẫn như lời đồn của một bộ phận dân chúng.

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.559-564

http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=272&Catid=374

..



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.