Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

24/04/2019

Nhà in Việt Nam hồi thế kỉ 19 : hiệu "Hải Học Đường" của trấn thủ Trần Công Hiến ở Thành Đông (Hải Dương)

Vẫn thấy một số bản in khắc gỗ có ghi "Hải Học Đường", cũng nghe loáng thoáng "Hải Học Đường" ở chỗ này chỗ kia, nhưng quả thực là chưa rõ lắm về nội dung cụ thể của danh xưng ấy.

Theo nghiên cứu của Lưu Y Đức đã công bố mấy năm trước, thì tạm hiểu được rằng, đó là một nhà in sách ở vùng Hải Dương (tức Thành Đông hay Xứ Đông nhìn từ Hà Nội) do quan trấn thủ Trần Công Hiến sáng lập. 

Hải Học Đường có thể ra đời vào thập niên 1810, thời vua Gia Long (bản thân Trần Công Hiến thì mất năm 1817, nên nhà in này hoạt động được khoảng 10 năm). 

Mà ông quan trấn thủ ấy lại là người Quảng Ngãi, được triều đình nhà Nguyễn cử ra trông coi Thành Đông. Ông cũng tự trở thành người trông coi nhà in Hải Học Đường.

Sau này, Phạm Phú Thứ có dựng lại Hải Học Đường vào thập niên 1870 khi họ Phạm được cử giữ chức tổng đốc Hải Dương.

Dưới là bài của Lưu Y Đức, lấy về từ Xưa & Nay.

---

Trần Công Hiến – người khởi dựng thành Đông

Tháng 6 năm 1802 (tháng 7 năm Nhâm Tuất), một tháng sau khi Gia Long chiếm Bắc Hà, Phạm Đình Hổ có tới Mao Điền. Ông viết: “Năm Nhâm Tut (1802) có quan Ngô Hu người Thanh Chương làm hip trn  đó, ta mi t kinh đô v yếtkiến. Ta có đi chơi xem xung quanh trn thành…” và ông phê phán: Đinh đô đặttrn mà ch ly cho gn nơi thanh viên, tin vic chy trm, không để ý đến viccông th sau này thì sao có th khng chế được sơn hi, bo v cho chn bang k được ?”
Tháng 8 năm Quý Hợi (9/1803) vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ hai, đi kinh lý qua Hải Dương, trấn phên đậu của Thăng Long, cũng sớm nhận ra sự bất hợp lý của việc đặt trấn sở Hải Dương tại Mao Điền. Năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long ra Bắc Hà lần thứ ba để tiếp sứ nhà Thanh ở Thăng Long đã quyết định di trấn sở Hải Dương về phía Đông 15 km trên ngã ba sông Kẻ Sặt và sông Hàm Giang (nay là sông Thái Bình).
Trấn thủ Hải Dương đương nhiệm Trần Công Hiến là người thực thi lệnh di trấn sở từ Mao Điền về địa phận Bình Lao trang, Hàn Giang, Hàn Thượng. Vì thế trấn Hải Dương còn được gọi là trấn Hàn. Hải Dương ở phía đông của Thăng Long nên được gọi là tỉnh Đông. Và “Hi Dương tnh thành” – thành  Hải Dương – được gọi là Thành Đông.

Chợ – Hải Dương – Marché (Ngày Xửa Ngày Xưa – 1911)
Thành Đông được xây dựng theo kiểu Vauban là kiểu thành phòng ngự rất hiệu quả ở Châu Âu thế kỷ 17 – 18. Các thành lớn như thành Hà Nội, thành Nam Định… đều xây dựng theo kiểu này. Thành Đông buổi đầu đắp bằng đất. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) gia cố thêm bằng đá ong lấy từ thành nhà Mạc ở Đồ Sơn. Thành có hình lục giác đều, trung tâm ở vào khoảng ngã tư Máy xay hiện nay. Từ trung tâm đến các góc thành dài chừng 500 m. Ngoài thành có hào sâu bao quanh. Hào thành qua cống Ba cửa (hiện nay vẫn còn, trên đường An Ninh) nối với sông Kẻ Sặt thông tới sông Thái Bình. Đây chính là đường thủy quan trọng tiếp tế lương thực vũ khí cho binh sĩ trong thành và là đường liên lạc với Thăng Long và các trấn thành khác.
Trần Công Hiến hiệu là Vạn An – quê làng Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, sinh trưởng trong một gia đình nho học, thuở nhỏ có theo đuổi việc bút nghiên đèn sách. Ông học giỏi song đất nước có chiến tranh nên không thể xuất chính bằng con đường khoa cử. Ông theo đuổi nghề võ, có quân công được phong là Trung quân chính thng hu đồn, kiêm lý Ngũ đồn, Khâm sai Chưởng cơ. Năm 1802, được phong làm Trấn thủ Hải Dương, tước Ân Quang hầu. Ông có nhiều tác phẩm hiện còn lưu giữ ở thư viện quốc gia Hà Nội.
Là vị trấn thủ đầu tiên của Hải Dương, ở vị trí này, hơn một chục năm liền “ông đã ly kinh s làm búa rìu cai tr muôn dân phiên trn“. Ca ngợi công đức của ông, một văn quan đương thời đã hạ bút viết những lời như sau: “May có v trnthn min Đông (quan trn th Hi Dương) bng d bc công hu, tài ví nghìn dm trường thành và thi thư thánh hin thì sut đời yêu thích. Nếu các quan trnhết thy đều như quan trn min Đông thì thiên h s không có sách gì là không được đọc“.
Ông thực sự là nhà nghiên cứu về Hải Dương. Trong buổi đầu triều mới, lòng người còn ly tán, ông chú trọng khuyến khích dân chúng khôi phục các nghề nông tang, mở mang việc học hành. Ông từng cấp đất công cho dân nghèo ở làng Đôn Thư (tên nôm là Cáy, Tháng) xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, gần bến đò Tràng Thưa và còn cấp thêm một vạn quan tiền để mở mang sản xuất. Ông mất năm 1917 khi giữ chức trấn thủ Hải Dương được 15 năm. Sau khi ông mất dân làng Đôn Thư nhớ ơn ông, đã lập đền thờ, hàng năm làm lễ vào ngày sinh (21/4) và ngày mất (12/9) âm lịch. (Theo Di tích lch s văn hóa Vit Nam tr.255 – 256).
Hải Dương là một vùng đất văn hiến lâu đời, nổi tiếng trong việc học hành thi cử. Với tầm nhìn xa trông rộng của một vị quan đầu trấn, giàu nhiệt huyết với nền văn chương thư tịch nước nhà, Trần Công Hiến từng bước ổn định đời sống dân lành, đồng thời lưu tâm tới việc học hành. Bản thân ông là người ham học, yêu thích thơ văn “c đời nghin ngp thi ca” nên ông đã dấn thân vào công việc sưu tầm, trước tác. Điều đó thúc đẩy quá trình hình thành Hải Học Đường. Hải Học Đường là một nhà in sách Hán Nôm do trấn thủ Trần Công Hiến sáng lập, tồn tại ở bên cạnh, phía trái của Thành Đông hồi đầu thế kỷ XIX. Ông vừa là người chủ xướng, vừa là một thành viên tích cực làm sống dậy vùng đất văn hiến Hải Dương xưa, tạo điều kiện truyền bá di sản văn hoá thành văn của dân tộc.
Qua những ấn phẩm của Hải Học Đường, ta thấy ngoài Trần Công Hiến còn các thành viên tích cực khác như trợ giáo Trần Đạm Trai, đốc học Trung Chính Bá, trợ giáo Thời Bình Nam, phong cốc giám sinh Bùi Dã Sỹ. Trần Huy Phác hiệu Đạm Trai biên soạn và đề tựa cuốn sách Hi Dương phong vt chí. Đây là tập sách đầu tiên do Hải Học Đường biên soạn. Ông được Trần Công Hiến đánh giá cao và cho là “Tp đại thành chi huyn“. Cuốn sách được Bùi Dã Sỹ viết lời bạt. Ân Quang Hầu Trần Công Hiến trông coi việc khắc in. Cuốn sách Hi Dương phong vt chí có hai bài thơ nôm song thất lục bát: Hi Dương phong vt khúcdài 604 câu tóm lược các nội dung trình bày trong phần Hán Văn, được coi là của Trần Huy Phác và một bài nữa là Hi Dương thu trình lược ký dài 188 câu được coi của Trần Công Hiến bởi trong đoạn mở đầu, tác giả có nói về việc được giao sứ mệnh nắm giữ trấn Hải Dương và ông đã rất thông thuộc miền đất ấy.
Ngô Thì Nhậm khi làm Đốc đồng – một chức quan tương đương với Trấn thủ – ở Hải Dương trước đây đã từng viết Hi Dương chí lược ghi chép tóm tắt về miền đất Hải Dương. Đến Hi Dương phong vt chí của Hải Học Đường thì vùng đất văn hiến này đã được ghi chép đầy đủ hơn “t núi sông nhân vt, phong tc thnghi, cho đến bách công k ngh đều mô t k càng.”
Ngoài việc biên soạn sách mới, Hải Học Đường còn tiến hành sưu tầm các văn bản cổ, rồi cho in lại. Hải Dương tuy là miền đất văn hiến, nhưng khối thư tịch cổ phần lớn do chép tay, lại trải qua chiến tranh liên miên thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, và khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt nên đã bị thất tán hoặc mai một đi nhiều. Hải Học Đường đã cất công sưu tầm trong dân gian, huy động các thuộc quan trong nội trấn và các trí thức địa phương cùng tham gia. “Mi khi vic công nhàn ri, hi thăm khp các thuc quan ph huyn cùng các v hương cng mi cũtrong trn xem có nhng di co còn sót li “ (Danh thi hợp tuyển). Nhờ vậy trong khoảng thời gian ngắn, Hải Học Đường đã sưu tầm được nhiều tư liệu có giá trị về thơ văn của các danh nhân và tài liệu tham khảo có giá trị, dùng cho học tập của các nho sinh.
Về thơ văn đã sưu tầm được những tác giả nổi tiếng từ thời Trần, Lê đến thời Nguyễn như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Phạm Quý Thích… Có tác giả chỉ tuyển chọn được một phần: có tác giả lại sưu tầm được gần như toàn bộ tác phẩm như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Nguyễn Du…
Về tài liệu tham khảo cho giảng dạy học tập, Hải Học Đường đã sưu tầm được khá nhiều sách như: ng chế t lc tuyn, Hoàng lê ng chế thi, Lch khoa sách lược, Danh phú hp tuyn, Danh văn tinh tuyn… trong đó gồm nhiều thể loại dùng làm mẫu để giảng dạy phục vụ cho thi cử, từ thơ, phú, dụ, minh, luận, tụng đến tứ lục văn sách những tài liệu không thể thiếu của các môn sinh.
Sau khi sưu tầm văn bản, phần tiếp theo của Hải Học Đường là chỉnh lý biên tập, viết lời tựa, lời bạt giới thiệu sách – việc này đòi hỏi phải có trình độ hiểu biết, tri thức sâu rộng để có thể “ch rườm rà thì bt b, ch thiếu sót thì b sung” (Stp toát yếu). Điều rất quan trọng là thái độ làm vịêc nghiêm túc, khoa học “phàm nhng gì có liên quan ti vic làm sáng t văn nghĩa phân bit đúng sai, đềuchng dám b qua”.
Khâu cuối cùng là khắc ván in sách. Những người thợ lành nghề nhất của phường khắc gỗ Hồng Lục – Liễu Tràng đã được huy động (giao cho hai xã Hồng Tràng san khắc  Danh phú hp tuyn). Nếu căn cứ vào cuốn sách đầu tiên của Hải Học Đường là Hi Dương phong vt chí in vào năm 1811 – có thể suy ra việc hình thành Hải Học Đường là khoảng vài năm trước đó – tới năm 1817 khi Trần Công Hiến qua đời, thì Hải Học Đường đã tồn tại và hoạt động trong khoảng 10 năm.
Đặc điểm nổi bật của các văn bản in tại đây là tên Hải Học Đường được in ở hầu hết bản tâm các sách và tên Ân Quang hầu Trần Công Hiến, cùng đội ngũ tham gia biên tập cũng được in ngay trang đầu. Tại viện nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ hơn 12 ấn phẩm của Hải Học Đường. Những ấn phẩm này không chỉ có ý nghĩa đối với đương thời chấn hưng Hán học mà còn giúp lưu giữ cho hậu thế những áng văn chương trong nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. Trong số hơn 300 nhà in có tên ghi trong kho sách Hán Nôm thì chưa có một nhà in nào cũng đề cập tới vấn đề này như Hải Học Đường đã làm. Trong tác phẩm Mô hình Vit Nam và Trung Quc do nhà xuất bản Đại học Harvard ấn hành năm 1971, Alexander Woodside sau khi đánh giá tình hình in ấn sách qua các triều đại Việt Nam, đã nhắc đến Trần Công Hiến, vị chủ soái của Hải Học Đường với nhiều ngưỡng vọng. Chúng ta trân trọng công tích của Trần Công Hiến, vị trấn thủ khởi dựng Thành Đông, vị chủ soái của Hải Học Đường, cùng các nhà in khác, đã lưu giữ lại cho đời sau những di sản văn chương Hán Nôm vô giá.
Hơn nửa thế kỷ sau khi Trần Công Hiến qua đời, vào năm 1874 khi Phạm Phú Thứ nhậm chức Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương – Quảng Yên), ông đã  cho dựng lại nhà xuất bản Hải Học Đường ở Hải Dương để khắc in sách nói về công pháp quốc tế, kỹ thuật hàng hải, phương pháp khai thác than đá, khoa học phổ thông… để phổ biến rộng rãi trong nước. Đến đầu thế kỷ XX các nhà yêu nước trong phong trào Đông Du, Duy Tân đã cho in lại các sách loại này tại Hà Nội, coi như là Tân Thư, tồn tại đến ngày nay.
Lưu Y Đức
Xưa & Nay - Số 400 - (03/2012)

https://xuanay.vn/tran-cong-hien-nguoi-khoi-dung-thanh-dong/



---

BỔ SUNG


1. Bài Lê Hồng Khánh ở Quảng Ngãi

Cập nhật lúc: 16:19, 05/11/2013 [GMT+7]


Trần Công Hiến (? – 1817)


(Baoquangngai.vn)- Trần Công Hiến sinh quán ở làng Vạn An (tổng Trung, huyện Chương Nghĩa), nay thuộc xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa. Khi cha mất ông theo mẹ về sống ở quê ngoại, thôn Mỹ Huệ (tổng Trung, huyện Bình Sơn), nay thuộc xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Sinh ra và lớn lên trong môi trường gia đình có truyền thống học hành, được tiếng là người thông minh, hay chữ, nhưng vì người cha mất sớm, lại gặp thời buổi lắm can qua nên Trần Công Hiến đành dang dở nghiệp sách đèn.

Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột qua đời, người kế vị là Cảnh Thịnh vừa nhỏ tuổi, vừa thiếu tài năng, đức độ. Nhà Tây Sơn nhanh chóng rơi vào giai đoạn suy vi, quan tướng trừ khử nhau vì tranh quyền đoạt lợi, dân tình ngao ngán, người hiền tài trong nước nghiêng dần theo Nguyễn Ánh.

Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Ánh đưa đại quân từ trong Nam ra đánh chiếm Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên, công phá thành Quy Nhơn, thủ phủ của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc. Liệu thế chống đỡ không lại, Nguyễn Nhạc cầu cứu Cảnh Thịnh (con Nguyễn Huệ, gọi Nguyễn Nhạc là bác ruột) đem quân Phú Xuân vào tiếp cứu.

Nhận lời, ông “vua cháu” sai các tướng lãnh đưa lực lượng hùng hậu gồm cả bộ binh, thủy binh, tượng binh tiến vào Quy Nhơn, đẩy lùi quân Nguyễn Ánh, nhưng rồi nhân đó cướp luôn đất đai, kho tàng của “vua bác”.
Nguyễn Nhạc uất ức thổ huyết qua đời, con trai là Quang Bảo bị quân Cảnh Thịnh đưa đi an trí ở Phù Ly. Một trang sử bi đát của nhà Tây Sơn bắt đầu với cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Trần Công Hiến gia nhập lực lượng Nguyễn Ánh trong hoàn cảnh đó và ông nhanh chóng được trọng dụng, lập nhiều quân công, thăng đến chức Tổng nhung Cai cơ.

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn, lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, lập ra triều Nguyễn, Trần Công Hiến được bổ chức Trấn thủ Hải Dương, đến năm Quý Hợi (1803), kiêm luôn chức Khâm sai Chưởng cơ. Vào cuối đời, ông được nhà vua phong tước Ấn Quang hầu.
Đền thờ Trần Công Hiến trong khuôn viên đình Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa.
Đền thờ Trần Công Hiến trong khuôn viên đình Vạn An, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa.


Trần Công Hiến nổi tiếng là một quan lại ái quốc ưu dân, giàu tài năng và tâm huyết. Được giao trọng trách ở một vùng biên trấn, cùng chịu chung hoàn cảnh đất nước vừa phải gánh chịu 3 thế kỷ chiến cuộc triền miên, lại thêm thiên tai mất mùa, ruộng đồng hoang hóa, giặc cướp bên trong, giặc Tàu ô ngoài biển, quả thật là một thách thức lớn đối với vị võ quan vừa từ trận tiền trở lại, nhung y còn vương mùi thuốc súng.

Không phụ lòng tin của triều đình và bá tánh, Trần Công Hiến đã nhanh chóng đề ra các giải pháp nhằm cấp thời ổn định đời sống người dân, khuyến khích sản xuất, dẹp yên nạn trộm cướp, kiềm phòng giặc Tàu ô. Công lao rất lớn của ông, có ý nghĩa lâu dài về dân kế, dân sinh là việc huy động nhân lực đắp đê lấn biển, biến hơn 8 ngàn mẫu ruộng ngập mặn ở 2 huyện Vĩnh Lại và Tứ Kỳ thành ruộng thuần để dân nông cày cấy. Người Hải Dương nhớ ơn ông, gọi tên con đê ấy là đê Trần Công.

Năm Quý Hợi (1803) vua Gia Long ra Bắc lần thứ 2, kinh lý qua vùng Hải Dương, phên dậu phía đông thành Thăng Long kịp nhận thấy sự bất lợi của vị trí thành Hải Dương (lúc bấy giờ đóng ở Mao Điền) trong việc công thủ khi có biến. Nhãn quan quân sự sắc bén của ông vua vốn nhiều năm vào sinh ra tử ở chiến trường cũng phù hợp với ý kiến của nhiều nhân sỹ đất Bắc và cả Trấn thủ Trần Công Hiến.

Vì vậy, đến lần ra Bắc thứ 3, năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long đã hạ chỉ di dời trấn sở từ Mao Điền về vùng ngã ba sông Kẻ Sặt và sông Hàm Giang (sông Thái Bình), cách trấn sở cũ 15 km, về phía Đông.

Trấn thủ Hải Dương Trần Công Hiến là người được đích thân nhà vua giao nhiệm vụ đốc thúc thực hiện chủ trương của triều đình và ông đã hoàn thành nghiêm lệnh một cách xuất sắc. Thành Hải Dương mới (thành Đông) vừa là trấn thành, vừa là căn cứ quân sự hùng mạnh án ngữ mặt đông thành Thăng Long, trở thành một trong số các công trình kiến trúc quân sự quy mô, bề thế, giữ vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ đất nước thời nhà Nguyễn.

 Năm Ất Sửu (1805) Trần Công Hiến cho đo vẽ bản đồ hình thế núi sông, bến đò, chợ quán, đường sá ở Hải Dương dâng về kinh đô. Cùng thời gian này, ông trực tiếp cầm quân dẹp tan bọn giặc cướp quấy phá vùng cửa biển, giữ cho người dân cuộc sống yên bình.

Là một võ quan thao lược, lại có tài kinh bang tế thế, Trần Công Hiến dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục, thi cử và di sản văn chương của cha ông. Chiến tranh, loạn lạc, khí hậu ẩm thấp đã khiến cho rất nhiều trước tác có giá trị của người xưa bị thất tán đó đây, một số không nhỏ đang trong tình trạng làm  mồi cho mối mọt…

Xót xa trước tình cảnh này, Trần Công Hiến tập hợp một số người cùng chí hướng xây dựng nên cơ sở ấn loát quy mô, bề thế, lấy tên là Hải Học đường.

Dưới sự bảo trợ, khuyến khích và trực tiếp tham gia của Trần Công Hiến, đồng thời được giới nhân sĩ, khoa bảng ủng hộ nhiệt thành, Hải Học đường đã sưu tầm, khảo cứu và khắc in nhiều bản văn quý, đáng phải kể đến là: Danh thi hợp tuyển, Lịch đại sách lược, Danh văn tinh tuyển, Ứng chế tứ lục tuyển, Hải Dương phong vật chí…  Nhiều tác phẩm của Dương Bật Trạc, Đồng Doãn Giai, Phạm Quý Thích, Phan Huy Ích, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Bình Khiêm, Ngô Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm… còn lưu lại đến ngày nay là nhờ công rất lớn của nhóm sưu tầm, biên khảo Hải Học đường.

Đóng góp của Hải Học đường vào đời sống văn hóa Việt Nam  đầu thế kỷ XIX là rất đáng ghi nhận. Hải Dương phong vật chí (do Trần Huy Phác soạn theo chủ trương của Trần Công Hiến) là một tác phẩm giá trị, ghi chép công phu, tỉ mỉ về vùng đất Hải Dương, từ hình sông, thế núi đến đường sá, dịch quán; từ nhân vật, phong tục đến thổ ngơi, bách nghệ đều được mô tả, khảo cứu cẩn thận, kèm theo đó là những nhận định sâu sắc, uyên thâm.

Danh thi hợp tuyển (12 quyển) là một tuyển tập văn học đồ sộ, sưu tầm và khắc in 1669 bài thơ của các danh sĩ từ đời Gia Long trở về trước, nhiều nhất là các danh sĩ cuối thời nhà Lê.

Tháng chạp năm Bính Tý (đầu năm 1817) Trần Công Hiến qua đời tại trấn sở trong niềm thương tiếc của triều đình, thuộc lại, bằng hữu và dân chúng Hải Dương. Di hài ông được đưa về Quảng Ngãi, an táng ở quê ngoại, làng Mỹ Huệ, phủ Bình Sơn. Người dân ở đây kính trọng gọi ngôi mộ Trần Công Hiến là “Mộ Ông lấp biển”, vừa nhắc đến công lao lấn biển, mở đất ở Hải Dương lúc sinh thời, vừa ngụ ý xem ông như một vị lương thần, uy đức “vá trời, lấp biển”.
Mộ Trần Công Hiến ở Mỹ Huệ, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn.
Mộ Trần Công Hiến ở Mỹ Huệ, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn.

Về sau, tại làng Vạn An (quê nội), người dân lập ngôi đền thờ ông trong khuôn viên đình làng, mặt tiền hướng ra phía bến đò sông Kinh, nơi ngày trước là một bến thuyền mà ông nội Trần Công Hiến là Trần Hữu Dũng – một bộ tướng trong đoàn quân Nam chinh của vua Lê Thánh Tông đã dừng chèo, hạ buồm, cùng thuộc hạ và gia quyến chọn làm nơi lập nghiệp lâu dài.

Các nhà viết sử triều Nguyễn khen Trần Công Hiến là người “thờ mẹ rất hiếu”, “tính thích văn học”, “làm quan thanh liêm, công bằng”. Một văn quan đương thời đã viết: “May nhờ có vị trấn thần miền Đông bụng dạ bậc công hầu, tài ví nghìn dặm trường thành và thi thư thánh hiền thì suốt đời yêu thích. Nếu quan trấn hết thảy mà như quan trấn miền Đông thì thiên hạ sẽ không có sách gì là không được đọc”. Miền Đông là tên gọi chỉ trấn Hải Dương, vì nằm về phía đông thành Thăng Long, còn vị trấn thần tài đức ấy chính là Trần Công Hiến.

Trần Công Hiến là người có công lớn trong việc ổn định vùng đất Hải Dương vào thời kỳ đầu nhà Nguyễn, khi công cuộc thống nhất đất nước còn gặp nhiều thách thức. Ông cũng là một quan lại nặng lòng với di sản văn hóa của tiền nhân, có những chủ trương, việc làm thiết thực để những di sản đó đến với hậu thế.

Lê Hồng Khánh

http://baoquangngai.vn/channel/2047/201311/tran-cong-hien-1817-2273391/
..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.