Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

13/06/2017

Thưởng ngoạn một đồ án phương Đông : những con cò trong ao sen

Một con cò, hoặc những con cò, trong hồ sen (hay ao sen). Rút gọn hơn nữa là cò và sen. Có một đồ án phương Đông rất gần gụi, bình dân như vậy.

Lời giải thích chung nhất cho đồ án cò và sen là như sau (dạng bình dân hàng chợ nhất).


1. Giải thích bằng tiếng Trung dạng bình dân.

"

搜集整理:赵浩钧 / 2月7日
由白鹭与莲花组合成的图案,用以祝颂为官清正廉明。

"
http://hty.xinjiangnet.com.cn/View.aspx?id=1940








"

Tranh hạc trắng. Trong tiếng Hán, con hạc có âm là lộ, đồng âm với lộ theo nghĩa con đường. Đó là lý do vì sao tranh vẽ một con hạc trắng đậu trên lá sen lại là Nhất lộ liên khoa, tức công thành danh toại trên con đường khoa cử. Nếu tranh vẽ hai con hạc trắng đậu trên hoa sen sẽ được gọi là Lộ lộ thanh liêm, biểu tượng của sự cao sang, thuần khiết. Chính vì vậy, nhà nào trong năm muốn cầu khoa cử công thành danh toại thường treo tranh hạc trắng đậu cành sen.

"
http://kinhdoanhnet.vn/ngan-hang/nhung-loai-tranh-phong-thuy-giup-mang-lai-tai-loc-trong-nam-moi_t114c9n26195




Dưới là lưu một ít tư liệu, chép vào tháng 6/2017.



----



















TƯ LIỆU
(theo thư tự ngược)

.


7. Vinhhuy Lê đi một tút mới trên Fb (chép về đây vào chiều tối ngày 16/6/2017)

Vinhhuy Leさんが写真6件を追加しました。

LƯU Ý: Đây là công trình giải mã các loại đồ án chạm khắc đá cổ trong dân gian, khắp mặt sách báo chưa từng ai thực hiện được công trình này. Tùy ý share, copy + paste. Tôi tặng sì-ta-tút này cho các bạn!
MƯỠU
Có thể gọi nghệ thuật chạm khắc đá của Trung Hoa là cái Sở thú, đúng như nhận xét của Trang tử trong thiên “Mã đề”: “Cầm thú đa nhi nhân thiểu” 「禽獸多而人少」(Tạm dịch: Loài cầm thú chó đẻ trâu sanh bò nứng ngựa đụ đông đảo quá cha loài người).
NHẬP ĐỀ
Sở dĩ có hiện tượng thú đông người vắng này trong tranh tượng chạm khắc có lẽ vì thuở xa xưa đó loài người chưa đủ sức chống trả thú dữ, nên mới phải chạm khắc hình dạng chúng để thờ phụng, mong hổ báo để mình được yên ổn mần ăn. Cho nên ban sơ, chạm khắc đá là hình thức sùng bái thế lực siêu nhiên.
Rồi sau đó, cầm thú các loại dần trở thành thực phẩm, sản vật để cung đốn cho loài người, tiết vịt thịt cầy dái dê pín bò bắt đầu xuất hiện thường xuyên trên menu của quán nhậu thì hình tượng thú chạm dần trở thành hiền hòa, gần gũi hơn.
Khi bọn Tàu man di mọi rợ kia từ bỏ nếp sống du mục để chuyển sang kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa lấy bốc hửi làm mũi nhọn; thêm vào đó, Phật giáo được du nhập đã phổ biến tư tưởng nhân ái chung sống hòa bình, không thèm chấp bọn phản động, sẵn sàng diễn biến theo Việt Tân, nên đã khiến cho hình tượng cầm thú trong tranh tượng dần dà được dùng để gửi gắm những ước vọng an bình, tốt đẹp. Và những đồ án ý nhị ý tam ý tứ, với gà trống biết gáy gà mái biết cục tác đã được tạo tác, bao hàm đủ thứ triết lý vừa sâu vừa cao vừa tào lao bí đao.
Nghệ thuật chạm khắc cổ truyền của Trung Hoa đã lưu lại trên đá trên ngói trên gạch, và luôn cả trên ngọc trên vàng 9999. Sự sáng tạo của người xưa đã biến các tranh tượng thành đồ án tốt lành, các tác phẩm chạm khắc từ đây vương mang bàng bạc những ngụ ý lý tưởng hóa hiện thực, với những hình tượng phù hợp ý đảng lòng dân ăn quần cả đám. Trong đó, nổi bật nhất là hình tượng tứ linh: Long Lân Quy Phụng.
KHỔ ĐẦU: THỜI KỲ NGUYÊN THỦY
Thuở còn ăn lông ở lỗ, tụi Tàu đã biết rảnh rỗi sinh nông nỗi, chạm khắc lung tung. Trong các hiện vật tìm thấy được ở các di chỉ của thời kỳ du mục, vì thời kỳ này chưa có các loại tiến sĩ củ nừng, nên tranh tượng chỉ có thể lấy cầm thú làm đề tài, he he thiệt là xỏ lá mà!
Những hình tượng được miêu tả này đa phần là động vật, họa hoằn lắm mới thấy tranh tượng cỏ cây hoa lá, và tập trung thể hiện thú dữ như cọp beo rắn rít… Càng về sau, tần suất các loài đã được thuần hóa như heo gà dê chó xuất hiện nhiều hơn.
Nói chung, đồ án cầm thú thời kỳ này vừa đơn giản với những phác họa khái quát, vừa cho thấy ý niệm sùng bái mãnh thú.
KHỔ ĐAN: THỜI ĐẠI ĐỒ ĐỒNG
Đây là thời kỳ Hoa Hạ chuyển sang chế độ nô lệ, mà sử mệnh danh là Tam đại Hạ-Thương-Chu.
Các tác phẩm thời kỳ này mỉa mai thay, chủ yếu lại do nô lệ chế tác, và chúng mang ý nghĩa tượng trưng cho uy quyền của quý tộc/ chủ nô, để phục vụ trong việc cúng tế ta bà. Có lẽ do đời sống khổ cực ê chề không nơi phát tiết, nên bọn nô lệ đã trút trọn tâm tư tình cảm của mình vào những tác phẩm này, khiến chúng trở nên tinh xảo, đẹp đẽ lạ thường.
Tứ linh bắt đầu hình thành là vào thời kỳ này, những giống ôn dịch nhe nanh múa vuốt đã quật cường giao phối tạp chủng để cho ra các loại totem của các bộ tộc. Sự giao thoa văn hóa bằng đầu mũi giáo của các bộ tộc khiến các totem pha trộn búa xua: cái thì trầm mặc lạnh lùng, cái thì “dân chủ” mất dạy, cái lại cộng quân cà nứng khủng bố… trăm hình vạn trạng hết chỗ nói hằm bà lằng sắn cấu.
KHỔ XUYÊN TÂM: THỜI KỲ PHONG KIẾN
Từ Xuân Thu - Chiến quốc dần lân qua tới Tần - Hán, các đồ án động vật ngày càng xa lánh xu hướng tượng trưng để đi vào tả thực, với chi tiết cụ thể, và khuynh hướng thẩm mỹ hùng tráng đã làm chủ đạo bắt nhịp bài ca… khí tồn.
Các tranh tượng bặm trợn, sinh động của thời kỳ này, chủ yếu vẫn để sử dụng vào mục đích thờ cúng, nhưng đối tượng không chỉ là thần tiên thượng giới nữa, mà tập trung nhiều hơn cho thờ phụng các con trời. Trong lăng mộ các bậc đế vương cà chớn của thời này, các đồ chạm khắc mang đủ hình thù cầm thú được tùy táng cách hào phóng, đại trà. Và không chỉ thế, ở bên ngoài cũng như chung quanh lăng mộ, cũng bắt đầu xuất hiện đông đảo những tranh tượng quây quần, chầu hầu, canh giữ cho giấc thiu thiu muôn năm của mấy con thím hoặc thằng bác.
Sang đời Đường - Tống, các đồ án thể hiện thêm hoành tráng đường bệ, với những phượng bay rồng lộn tưởng muốn xé mây rách trời mà ra, đến từng ngọn cỏ cành cây cũng như khua động ngọ nguậy để thành nghìn tên mũi giáo hù dọa quần chúng nhân dân.
Thời kỳ này, tất cả động vật được chạm khắc, từ các loài bay, bò, chạy, nhảy, bơi, lặn, lông mao lông vũ, lông hở lông kín, chí đến côn trùng sâu bọ; hoặc ở trên rừng trên núi, hoặc rúc trong suối trong khe, đầu gành cuối bãi, đứng đái ỉa ngồi… Nghĩa là hết thảy bọn hội đủ tư cách đến điểm danh trong cái cây lẩu tươi thập cẩm, tiếng Anh gọi “Phylogenic tree-củ từ” ấy, toàn bộ đều được tranh tượng dành cho không gian rộng rãi để thoải mái tung hoành. Quỷ thần ơi, đó quả là một cảnh tượng kiêu hùng đáng nứng nhất trần đời! Và Tứ linh cũng đã nhờ đó mà định hình…
Quả vậy, bọn Ba Tàu tuy ba xí ba tú nhưng không hề “nổ” chút nào khi tự hào về nền văn hóa thâm hậu hàm dưỡng tu vi trời bể của chúng. Từ đời Thương, chúng đã biết phân loại động vật thành 4 nhóm lớn, là ngư, trùng, điểu, thú; và mỗi nhóm này được tượng trưng bằng một linh thú. Phối hợp địa lý với thiên văn, Tàu nheo mắt nhìn về phương Nam: Kia kìa, tổ con bà nó! Phía đó có con chim lớn xoãi cánh bồng bềnh mổ trời gáy trăng, đó chính là Chu Tước (Con Chu Thị Tước này, sau đó sẽ bị một tụi mọi đóng khố lá tre lá mía copy vụng về, kêu thành… chim Lạc. Lạc má nó chứ lạc, nhưng thôi kệ, cái này để dành khi hưỡn sẽ bàn sau). Bầu trời phương Đông, quần tinh đông đúc lan tràn, mà trông thây lẩy mà ngoe nguẩy như con rắn hẩy, nên Tàu gọi phương Thanh Long, cho sang lỗ miệng. Phía Tây chồm chồm hình con chó nứng thì gọi phương Bạch Hổ. Đám sao ở Hướng Bắc khum khum đong vừa một bụm ngưng hương thùi lùi thì là Huyền Vũ.
Qua tới đời Hán, do ảnh hưởng của Lão giáo, Tứ linh trở thành điềm lành phù hộ thế gian khỏi những hung hiểm tai ương, là 4 đồ án quan trọng trong tranh tượng.
Người đời Hán cho rồng có uy lực thay trời làm mưa, giúp cho nông nghiệp, nên đặt rồng đứng đầu Tứ linh, biểu hiện oai trời. Rồng vốn xây sào huyệt ở phía mặt trời mọc, đáng lẽ phải có màu đỏ hoặc hồng, nhưng lý luận loanh quanh duy vật khúc chiết một hồi, Tàu cho hướng Đông có màu xanh, thành thử gọi Rồng là Thanh Long. Thanh Long 青龍 đây là một tổ hợp đúc thành danh từ, là nickname hoàn chỉnh của rồng, sau này nếu có đứa ngu muội nào hỏi xàm xí mứng rằng sao rồng không có màu xanh, thì cứ vặn cổ bẻ họng quân chó đẻ ngu muội thúi tha bà cố bắt kia đi cho anh, nha Rồng!
Cọp là vua các loài 4 hoặc... 5 cẳng, ban ngày ngủ trong núi, đợi mặt trời lặn mới ra kiếm mồi nhậu, nên thuộc hướng Tây. Cọp vị thành niên thì tứ túc huyền đề, lông vằn tam khoanh tứ đốm, chừng đủ tuổi thi bằng lái, tức tròn ngũ bách tuế, thì lông đổi ra sắc trắng, hiện thân thần thú, đó gọi Bạch Hổ 白虎.
Chu Tước 朱雀 còn gọi Chu Điểu, hay Thanh Điểu. Con trống gọi là Phụng, con mái là Hoàng. Phụng Hoàng xuất hiện thiên hạ thái bình. Khi chim Phụng bay liệng trời cao, chiếc bóng in xuống mặt đất, chỉ cần bóng đó lướt qua ai, kẻ đó được điềm đại cát ăn chắc nắc bền, tái nhiệm bí thư hai lần chưa đã nứng. Phụng Hoàng vốn cũng dòng dõi của rồng, cũng là totem của Hoa Hạ.
Huyền Vũ 玄武 tức con rùa. “Huyền” là màu đen, bởi nó thuộc phương Bắc thâm nghiêm là xứ sở của thần linh; “Vũ” chỉ bộ giáp của rùa, được xem như một thứ vũ khí. Theo truyền thuyết, rùa sống dai ngàn vạn năm. Khi Hạ Võ trị thủy thì bắt được con rùa, trên lưng có đồ hình ma phương tối giản, đó là Lạc thư góp phần tạo nên kinh Dịch. Mu rùa còn được người xưa dùng để khắc chữ ghi chép, hoặc đốt lên rồi xem vết nứt trên đó mà luận cát hung họa phúc trong đời, nên rùa được xếp vào Tứ linh. Hình tượng rùa ở Tàu xui thay lại ngày càng rớt giá hỡi ôi, dù gì cũng đại tướng, sugar sugar a hero man (đường đường một đấng anh hào  ) mà đến Minh - Thanh thì bị cho đội bia đá[1]. Nguyên nhân khiến rùa bị thất sủng, theo suy đoán của người gõ bài, rất có thể là tại cái... đầu rùa (Quy đầu) rất ư đòng đưa gợi đòn, cứ cà thụt cà lõ mắc nhột, quỷ sứ thấy ghét gì đâu[2]!
KHỔ RẢI: CÁC ĐỒ ÁN THÔNG DỤNG – GIẢI MÃ ĐỒNG ÂM VÀ Ý NGHĨA
Ở khổ trên có bàn sơ Tứ linh, nhưng thiệt ra có tới Ngũ linh, vì còn một con đáng gọi... sky down no enemy, là Kỳ Lân, hay còn gọi... Cu Ly. Đồn rằng Kỳ Lân xuất thế cũng thiên hạ thái bình. Có tích lúc Khổng Khâu vừa được sinh ra thì có con Kỳ Lân tới dâng quyển thư bằng ngọc, trên có dòng chữ: “Con của Thủy Tinh, nối tiếp nhà Chu làm vua không ngai”.
“Thuyết văn giải tự” định nghĩa Lân là nhân thú (仁獸, loài thú tượng trưng từ bi, nhân ái), có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng ếch, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Kỳ Lân dâng Hà Đồ, Huyền Vũ nộp Lạc Thư mà hình thành kinh Dịch, làm nên triết học Trung Hoa.
Từ đời Tống, Cu Ly được xem là biến thể khác của rồng, tượng trưng chân mệnh đế vương. Qua Nguyên-Thanh thì có lẽ do ứng nghiệm bởi lời than của Khâu mà Lân bị rớt level thê thảm, trở thành con thú canh cửa y như chó, he he xui! Số là trong kinh Xuân Thu, có đoạn chép là ở mé Tây nước Lỗ bỗng xuất hiện con Kỳ lân bị què. Khâu thấy vậy than rằng: “Ối làng nước ôi, đạo ta vậy là đã kiệt!” Cái chân cà nhắc của Kỳ Lân chẳng biết thiệt giả, nhưng kinh Thi cũng có bài “Lân chỉ” (麟趾, cẳng Kỳ Lân) với ý tương tự: “Lân chi chỉ/ Chấn chấn công tử/ Hu ta lân hề!” 麟之趾、振振公子。于嗟麟兮。 (Tạm dịch: Ui da cái cẳng giữa của ta/ Gật gù ngó ngoáy ngóc lên thiệt là công tử nhân hậu/ Thiệt là cưng quá cẳng giữa Kỳ Lân!)
Từ sự tích cái cẳng Kỳ Lân này mà có những đồ án chúc mừng, như với hôn sự thì có hình Kỳ Lân chìa một chân ra, kêu bằng “Lân chỉ trình tường” 麟趾呈祥 (Kỳ Lân giơ cẳng trình chuyện tốt lành, là tách... mà thôi đi!). Mừng sinh con trai thì có “Dục lân hữu khánh” 育麟有慶 (Chúc mừng Lân đẻ). Đời Hán, Lưu Bang cho dựng Kỳ Lân các để kỷ công các bậc hiền thần giúp mình khai quốc, nên ở trước cửa các nhà võ tướng thường đặt Kỳ Lân trợn mắt nhe nanh như Phùng Há.
LIÊN SINH QUÝ TỬ: Trong dân gian, có một đồ án tranh/ tượng mừng sinh quý tử nổi tiếng, gọi “Kỳ Lân tống tử đồ” 麒麟送子圖. Đó là tổng hợp nhiều đồ án, trong đó có hoa sen (Liên 蓮) đồng âm với chữ “Liên” 連 (liên tiếp), lại có thằng nhỏ, tức “Đồng tử” 童子 (với chữ “Tử” lấy nghĩa là con trai), đang thổi ống sênh (Sênh, chữ Tàu là “Sinh” 笙, đồng âm với Sinh 生 là sinh đẻ). Thằng nhỏ đó tóc để trái đào, lại vận phẩm phục triều đình. Ở phía trên cùng là con Kỳ Lân nhả ra cuộn giấy. Tranh tượng “Kỳ Lân tống tử” này có nhiều kiểu trình bày, nhưng tựu chung luôn phải có thằng nhỏ thổi ống sênh bên hoa sen, thành ra 4 chữ “Liên sinh quý tử” 連生貴子. Tập tục này đến nay bên Tàu vẫn còn lưu hành.
Kỳ Lân sau này lại biến thể ra sư tử (cũng như ở xứ An Nam, ngày Tết, trong Nam có “múa lân” thì ngoài Bắc gọi “múa sư tử”). Loài này vốn không phải sinh ở bản địa mà do Tây Vực tiến cống hồi trào Đông Hán, dáng vẻ oai phong nên được tôn làm bách thú chi vương. Bởi vậy tượng sư tử không thể thiếu chữ “Vương” 王 trên trán. Và giống như Kỳ Lân, sư tử rồi cũng phải thành chó giữ nhà.
Sư tử trấn cổng là loại thần thú phổ biến, từng có thời du nhập ồ ạt vào Bắc Việt, khiến chúng la hoảng rằng là bị “thú lạ” xâm nhập. Tượng sư tử đều có bờm uy phong như nhau, nên khi đặt nó giữ cửa cần chú ý phân biệt: con nào đặt chân lên quả cầu/ hòn ngọc thì là sư tử đực, đặt ở bên trái (tính theo hướng trong nhà ngó ra); còn con kia đặt chân lên sư tử con, chính là sư tử cái, thì đặt bên phải. An Nam bắt chước người ta làm tượng sư tử nhưng không biết lẽ đực cái này, có khi chúng còn chạm luôn con kẹc cho sư tử đực, thiệt là thông minh đố ai bằng! Chọn sư tử nên lấy con bờm rậm, ngẩng đầu nhe răng, đầy đủ nanh vuốt, phong độ đường bệ uy nghi; bằng không thì cũng chỉ như thứ có văn bằng học vị tiến sĩ kỹ sư mà bạc hạnh vô lương, dốt đặc trực tràng, lưu manh quen nết, mất dạy gia truyền thì cầm bằng loài chó má, đặt thứ đó giữ cửa khác nào hú trộm rình nhà?
Truyền thuyết kể rằng Phật Thích Ca khi mới đản sinh liền bước 7 bước, mỗi bước mỗi nở hoa sen, rồi ngài tay trái chỉ trời tay mặt chỉ đất, vận công phu Sư Tử Hống gầm lên vang dội 9 tầng mây: “Trên trời dưới đất chỉ có ngộ là dzách lầu!” Nên sư tử còn tượng trưng oai lực Phật pháp vô biên, thường được đặt ở cổng chùa.
Đồ án sư tử cũng hay dùng lối chơi chữ, với chữ “Sư” 獅 của “Sư tử” đồng âm với chữ “Sư” 師, vừa có nghĩa là Thái sư 太師 (chức quan lớn trong Tam công), vừa có nghĩa là ông thầy. Loại này có các dạng sau (có ghi kèm nguyên văn chữ Hán, ai quan tâm thì lấy đó làm từ khóa đặng tra hình mà nghía):
1/. Song sư hý cầu 雙獅戲球: hình hai con sư tử vờn quả cầu. Như đã nói, “Sư” ở đây phải hiểu là quan lớn (muốn biết vì sao có tới hai con Sư, mời xem bức kế), và quả Cầu đồng âm với chữ Cầu 求 là “mong cầu”. Cả câu có ý chúc leo cao theo đà danh vọng.
2/. Đại sư tiểu sư 大獅小獅: có hai sư tử, 1 lớn 1 nhỏ. Sư tử nhỏ tức chức Thiếu sư 少師, Sư tử lớn là Thái sư太師. Ví dụ như anh Phúc tao, chả tài cán mẹ gì, cứ ỳ ra mà bám càng thằng lú, rồi thì mặt trơ trán bóng cũng leo từ Phó lên Thủ như ai, đụ con sư tử!
3/- Hình thằng nhóc cầm cái lồng đèn (đèn là “Đăng” 燈, đồng âm với Đăng 登 có nghĩa là lên cao), lồng đèn này có hình hoa sen (Liên), dưới chân thằng nhỏ là con sư tử. Đây là bức “Liên đăng thái sư” 連登太師: chúc bí thư giữ ghế cho bền nha, lêu lêu!
4/- Hai con sư tử vờn bình bông: trường hợp này, chữ “Sư” sẽ đọc thành chữ “Sự” 事 là sự việc, hai Sư tử đọc thành “Sự sự”, tức mọi sự; không được hiểu là “Thái Sư” nữa nha nha! Cái bình là chữ “Bình” 瓶, đồng âm với Bình 平 là “bình yên”. Để “giải mã” bức này, ta đọc mẹ nó ra là: “Sự sự bình an” 事事平安. Có người rảnh quá, còn tạo dáng cho sư tử và bình bông thành ra như chữ “Hảo” 好, sẽ thành “Sự sự hảo bình an” 事事好平安.
5/- Hai con sư tử vọc cái que gãi lưng. Que gãi này thời xưa, trong các nhà quyền quý thường được làm bằng ngọc Như Ý. Thành ra đây là lời chúc “Sự sự như ý” 事事如意.
6/- Năm con sư tử bu vô cây đèn: cây đèn, như đã “giải mã” ở trên, là chữ “Đăng khoa”; sư tử mà cả bầy 5 con thì không tính chữ “Sư” nữa, mà phải lấy chữ “Tử” làm chủ ngữ, với nghĩa là con cái. Bức tranh thành ra “Ngũ tử đăng khoa” 五子登科, cả bầy con cái nheo nhóc đều đỗ đạt, đọ bù![3]
Nếu sư tử là thứ ngoại lai nhảy vô xứ Tàu làm vương tướng, thì ở bản thổ cũng có sẵn “Sơn trung chi vương”, tức là con cọp. Từ ngàn xưa, cọp đã là ám ảnh kinh hoàng, dân gian sợ thứ ôn dịch này trời thần mụ nội. Tuy căm giận nhưng cứ phải tôn thờ, tâm trạng mâu thuẫn xé gan này duy có tụi Bắc cộng thờ Tàu là thấu hiểu hơn ai hết.
Cọp được xem là thần lực tịch tà, vừa có thể giữ nhà lại vừa giữ mả tổ. Riết rồi hình tượng giống quái này trở nên thông dụng, được hiểu thành đức tánh can đảm dũng mãnh. Làm tướng mà anh dũng thiện chiến thì phong “Hổ tướng”, thiếu niên mà nứng cặc sớm, thành dũng sĩ diệt Mỹ, thì kêu là “Hổ tử”, đù má giống súc sinh man rợ he he! Rồi võ quan bày đặt ngồi ghế lót da cọp, kêu “Hổ tọa”; thậm chí lều trại của anh ta cũng được tâng lên, kêu “Hổ trướng”. Hình tượng con cọp tràn lan khắp chợ cùng quê, rất ư xôm tụ. Đồ án chạm khắc cọp có rất nhiều, nhưng ít khi dùng lối chơi chữ là chủ đề bài viết này, nên tạm cho qua để dành khi khác[4].
Ngoài sư tử và cọp là mãnh thú, các loài thú hiền lành (thụy thú 瑞獸) cũng xuất hiện đông đảo trong tranh khắc chạm, mang ý nghĩa đưa dẫn điều lành lánh xa tai nạn.
Đứng đầu “Thụy thú” phải kể đến nai. Con nai, Tàu gọi là “Lộc” 鹿, đồng âm với chữ “Lộc” 祿 là phước lộc, bổng lộc, nên càng được dân gian ưa chuộng. Do đồng âm với Phước Lộc, nai tượng trưng thăng quan phát tài. Truyền thuyết đồn rằng nai sống ngàn năm gọi “Thương Lộc” 蒼鹿, 2.000 tuổi là “Huyền Lộc”, từ đó nai trở thành tiên thú trường sinh.
Tàu cho là nai có thân thể tráng kiện, bản tính hiền lành, vó chạy như bay, dáng đẹp như lụa nên đặc biệt ưa thích loài thú này. Trong tạo hình, nai thường có tư thế ngoái đầu trông lại lưu luyến không rời, nên có tranh vẽ cả bầy 10 con nai, trong đó hết 9 con ngoảnh lại, kêu bằng “Thập lộc cửu hồi đầu” 十鹿九回頭. Ý nghĩa bức này uyên áo, tùy theo tâm trạng và trải nghiệm của mỗi ngưởi. Kẻ ham danh lợi thì cho đó là bổng lộc dồi dào, thế gian có 10 phần thì hết 9 phần quy về túi mình. Bậc thức giả thâm trầm thì lấy đó dặn lòng phải luôn đắn đo cân nhắc khi hành sự. Với người xa quê thì đó là mối hoài hương da diết khôn nguôi...
Cạnh nai người ta thường đặt thêm con chim sẻ, cũng là loài chim hiền lành. Chim sẻ là “Ma tước” 麻雀, thường gọi tắt là Tước, đồng âm với “Tước” 爵 trong chức tước. Ghép hai giống chim bay thú chạy này sẽ thành “Tước Lộc” 爵祿, là chức tước kiêm bổng lộc. Tranh/ tượng Tước Lộc có khi được chen thêm trái lựu. Chỗ trái lựu này, có đứa âm binh vịt lộn “giải mã” là: “Lựu nhiều hạt tượng trưng cho sự sinh sôi đông đúc chen chúc”[4]. Đã “đông đúc” lại thêm “chen chúc” thì bao nhiêu tước lộc cho đủ? Biểu tía má mầy xách bị đi ăn mày luôn nha, thằng ngu học! Trái lựu này, Tàu kêu “Thạch lựu tử” 石榴籽, đây là mượn chữ “Lựu” đồng âm với “Lưu” 留 là truyền lại, lại thêm chữ “Tử” 籽 đồng âm với Tử 子 (là con trai). Nên đồ án này đọc là “Tước lộc lưu tử” 爵祿留子 (Tước lộc truyền tới đời con). Đồng bào cần phải biết ơn thằng ngu kia lắm, là nó đã không “giải Hoa” cho chữ Lựu thành... Lựu Đạn, không thôi banh xác cả lò, hơ hơ!
Ngoài ra, còn một con “Tước” khác cũng được phối với nai, là Khổng tước 孔雀, tức chim công. Đây lại là từ một chuyện có thật trong lịch sử: Thượng trụ quốc Đại tư mã nhà Tùy là Đậu Nghị kén rể, cho vẽ hai con công trên bức bình phong, giao hẹn ai bắn trúng mắt Khổng tước thì được chọn. Có đứa du côn nọ tên Lý Uyên hăng hái bước ra, nó bắn tưởng khơi khơi ai dè trúng phóc hột nhãn chim công. Thằng Uyên đó sau này là Cao tổ lập ra nhà Đường. Nên dân gian thường khắc chạm một người cưỡi nai bắn chim công, gọi là “Lộc khai kim Khổng tước” 鹿開金孔雀 (Con nai mở mắt cho chim công vàng), để mừng chọn được rể quý.
Sau nai là khỉ, cũng tượng trưng quan chức, bởi khỉ gọi là “Hầu” 猴 đồng âm với “Hầu” 侯 là một trong Ngũ tước thời xưa (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam). Con khỉ rình bắt con ong, sẽ thành “Phong hầu” 封侯, vì con ong, Tàu gọi là “Phong” 蜂 đồng âm với chữ “Phong” 封 là ban tặng cho.
Ngoài ra, “Phong hầu đồ” còn các dạng con khỉ cưỡi ngựa, hai tay nâng cao cái ấn vuông (lúc này không cần phải có con ong nữa), sẽ là “Mã thượng phong hầu” 馬上封侯 (Lập tức nên danh vọng). Hoặc khỉ cưỡi ông voi, hai tay chắp lại giơ cao quả ấn: con voi, tức là “Tượng” 象, được đọc thành chữ “Tướng” 相, là chức đứng đầu bá quan. “Giải mã” sẽ là “Phong hầu bái tướng” 封侯拜相.
Đồ án tranh tượng của Trung Hoa bao la vạn trạng, kể hoài không hết chim cá lá hoa, tôi xin tạm dừng vì bài đã dài như trâu đái đêm. Trước khi xốc lại xà-lỏn, dừng tay gõ phím đặng ngủ sớm cho mau lớn, Cu Ly tôi mong bạn đọc cùng nhau ta thành kính đảnh lễ đón chào đồ án hàng sư phụ thượng thừa, tức... con dê.
Dê gọi là Dương 羊, đồng âm với chữ “Dương” 陽 trong Âm Dương. Tranh tượng 3 con dê kêu bằng “Tam Dương khai Thái” 三陽開泰, vì đó là biểu thị hình tượng của quẻ “Thái” trong kinh Dịch (với ba hào Dương mở ra tháng Giêng đầu năm mới). Đây là đồ hình cát tường cầu được quanh năm tốt lành[6].
KHỔ KẾT
Nói ra cũng ngại ngùng vì sẽ động chạm tự hào của giống Tiên Rồng mắc dịch, mà không nói thì sẽ ấm ách bàng quang, thôi thì, tôi trút ra đại vậy:
Các đồ án chạm khắc, như đã tường thuật ở trên, đều là bắt nguồn từ Trung Hoa. Mà ngộ lắm nha, nói nhỏ tụi mình biết với nhau thôi, kẻo tụi giáo sư tiến sĩ bành sạch quần què mà nghe được thì chúng sẽ nhảy nhổm như nước sôi đổ háng. Rằng thì là, thưa các vị, các đồ án “giải Hoa” của chùa Bút Tháp linh thiêng hột đậu kia, thiệt ra đều là những thứ mà tụi Tàu bày chơi bên ngạch cửa xó nhà. Lượm miễng dùa rồi khua lên chén kiểu, bộ khùng hả mậy?
_______
[1] Ở An Nam cũng bắt chước y chang, nhưng tại có câu ca dao: “Thương thay thân phận con gùa/ Trên đình đội hạc dưới chùa đội bia”, nên chúng lầm tưởng đây là mô-típ độc đáo do ông bà chúng chế ra, lêu lêu!
[2] Nói rùa bị thất sủng, ấy là chuyện bên Tàu, chứ ở An Nam thì vẫn được tôn làm... cu nặng, rất ư thành kính.
[3] “Ngũ tử đăng khoa” có khi được chạm/ khắc/ vẽ 5 chú bé thay cho sư tử, nghĩa cũng tương tự, tuy rõ ràng hơn nhưng không sang chảnh bằng.
[4] Có một bức kêu bằng “Hổ báo sư tượng” 虎豹獅象, tuy tập hợp toàn thứ dữ: cọp, beo, sư tử, voi, lại là đồ án đại cát tường có diệu dụng tịch tà.
[6] Ngoài ra còn có đồ án “Ngũ dương khai thái” 五羊開泰, “Dương” này không phải Âm Dương nữa, mà đích thị ông dê. Năm con dê đực nồng nỗng, đó là biểu tượng của thành phố Quảng Châu thuộc Quảng Đông, Trung quốc.
いいね!他のリアクションを見る
コメントする

https://www.facebook.com/vinhhuy.le/posts/1316873618409772





6. Sau khi có trả lời của Vinhhuy Le (14/6), thì Nguyễn Xuân Diện thêm một chút nữa 

"
Nguyễn Xuân Diện:

1- Tôi bàn về một đồ án mỹ thuật mang tính nho giáo ở chùa Bút Tháp mà ông kia lại bảo tôi giảng Phật. Đó là ông đánh tráo câu chuyện.

2- Dẫn chứng mà ông kia đưa ra là "Nhất lộ liên khoa" thì chỉ có hình một con cò. Chứ ko phải 2 con cò. Hai con cò thì là lộ lộ chứ không phải nhất lộ !

Những bức tranh Tàu mà ông kia đưa ra nếu có chữ "Nhất lộ liên hoa" thì chỉ có một con cò. Bức nào có hai con cò thì không có chữ "Nhất lộ liên hoa", hoặc "Nhất lộ thanh liêm". Thế đó! Đọc sách Tàu nhưng ko hiểu khi nó đến Việt Nam đã được các cụ ta "giải Hoa " rồi!

3- Đúng là thi cử xưa có thi Hương, thi Hội, thi Đình. Nhưng mỗi cuộc thi vậy có nhiều "trường"(có người chỉ độc nhị trường hoặc tam trường) vì vậy "lộ lộ" là mỗi chặng nhỏ ,chứ ko phải chỉ ba kỳ thi lớn kia.

Cu Ly đọc sách Tàu nhưng chưa tiêu hoá hết. 1- Không biết cách các cụ ta giải hoa, nên chỉ cãi cố; 2- Lộ lộ Thanh liêm là nói chuyện khác, không thuộc tổng thể tất cả các biểu tượng ở lan can đá Chùa Bút Tháp.

Bổ sung hình ảnh: TƯỚC LỘC PHONG HẦU (đều ở chùa Bút Tháp):

.

Bức chạm ở lan can tòa thượng điện chùa Bút Tháp.
.
Bức chạm đá ở tháp Báo Nghiêm chùa Bút Tháp. 

"
https://xuandienhannom.blogspot.com/2017/06/ngam-nghia-va-giai-ma-vai-buc-cham-chua.html



5. Vinhhuy Le trả lời tiếp (14/6/2017)

"
Vinhhuy Leさんが写真2件を追加しました。
2時間前
Chuyện về bức phù điêu 2 con cò ở chùa Bút Tháp đó, vốn chỉ là từ một thành ngữ của Tàu vận dụng lối "đồng âm" đơn giản mà thôi. Ý nghĩa khi xuất hiện hai con cò được ông Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện hiểu cũng y như khi chỉ có một con, nên Diện đã giải thích trúc trắc gượng ép: "Hình ảnh này ẩn dụ bốn chữ: Lộ lộ liên hoa 鷺鷺蓮花 = Con cò, con cò và hoa sen".
Tôi khẳng định lần nữa: trong hình tượng con cò của văn hóa dân gian Trung Hoa, là phải có phân biệt giữa một cò và hai cò. Khi có một cò với hoa sen, nó là "Nhất lộ liên khoa"; khi hai cò, sẽ là "Lộ lộ thanh liêm". Quy ước là vậy, để người ta theo đó mà vận dụng, trang trí tương ứng với ý định của mình, vậy thôi.
Hai ngày trước, tôi đã post một stt với tít là "Tiến sĩ giảng Phật". Tại sao lại đặt tít như vậy? Vì chỉ một thành ngữ giản đơn, anh Tiến sĩ còn không rõ ngọn ngành, vậy mà dám từ đó luận Thiền môn, cuối bài lại niệm A Di Đà Phật nữa mới ghê, he he! Tật tôi cà chớn làm vậy, nhưng như đã nói trong tút đó, tôi chỉ chờ anh ta điều chỉnh lại cho đúng chuẩn theo quy ước là xong, tôi sẽ hạ tút êm ru. Bởi vì thành ngữ "Lộ lộ thanh liêm" quá là đơn giản, giải nghĩa được nó thì có gì đáng phải lên mặt đâu.
Nhưng khi bạn hữu tag Tiến sĩ vào, Diện có thái độ lạ lùng, bàn luận thì ít công kích châm chọt thì nhiều, chẳng đâu vào đâu. Sau đó anh Tiến sĩ block tôi, dù trước đó đã xin tôi chớ block anh ta.
Block nhau thì thôi, tôi còn nhiều đề tài để quan tâm hơn là một anh Tiến sĩ Hán-Nôm dốt chữ. Nhưng Diện một mặt block tôi trên Facebook, mặt khác lại đăng lại tút của tôi trên blog mà anh ta hiến tặng cho cả thế gian[1].
Ngộ một điều, trong bài đăng bên blog này, Diện không hề đả động đến cuộc trao đổi tôi và anh ta trong Facebook, mà trích đăng phát biểu của một nick khác là Chang Feng. Nay tôi xin đăng lại đây những gì tôi và Diện đã thảo luận, sau đó sẽ phản hồi luôn cho nhận định của Chang Feng.
* * *
Diện: Vinhhuy Le đọc sách Tàu nhưng chưa tiêu hoá hết. 1- Không biết cách các cụ ta giải Hoa, nên chỉ cãi cố; 2- Lộ lộ thanh liêm là nói chuyện khác, không thuộc tổng thể tất cả các biểu tượng ở lan can đá chùa Bút Tháp. Vì thế ông Vinhhuy Le này giỏi nhưng chết đuối ở ao sen chùa Bút Tháp! Tôi viết văn không sắc không xảo nhưng bao giờ cũng "phục bút". Kẻ nào hợm hĩnh, vô hạnh thì ngã chỏng vó liền! Hết chuyện!
Tôi: Anh biết các cụ ta "giải Hoa" à, anh Diện? Cái từ "giải Hoa" này tôi mới nghe, thiệt là phục anh lắm. Nhưng khoan nói chi chuyện vĩ mô, chỉ bàn về tấm phù điêu kia thôi, nó rõ ràng có nghĩa "Lộ lộ thanh liêm", vẫn hoàn toàn ăn khớp phù hợp với tổng thể các phù điêu khác. Rõ ràng anh chỉ hiểu tới chỗ "Liên khoa" mà chưa nhìn ra chữ "Thanh liêm", vậy mà vẫn cố cãi? Anh nói thiệt đi, có phải nhờ tôi giải mà anh mới được tiếp xúc với 4 chữ "Lộ lộ thanh liêm", chứ trước đó anh chưa từng ngớ tới nên đã giải ẩu, khiến người ta hiểu lầm ý nghĩa, từ 1 bức phù điêu đề cao đức thanh liêm thành ra dục cầu danh vọng hay không?
Diện: Nếu anh nghĩ tôi chưa biết đến Nhất lộ liên khoa, Lộ lộ thanh liêm thì anh rất nhầm! Tôi viết vài dòng stt đó sau khi đã mở nhiều bộ sách của Tàu và xem nhiều vựng tập. Giờ thì tôi ghi vài ý kiến gọi là trao đổi với anh đây.
Tôi: Anh nói láo, he he thưa tiến sĩ! Bởi vì nếu anh thật có khả năng tra từ vựng Tàu thì tất anh đã phát hiện "Lộ lộ liên khoa" là trật lất.
Diện: 1- Tôi bàn về một đồ án mỹ thuật mang tính nho giáo ở chùa Bút Tháp mà anh lại bảo tôi giảng Phật. Đó là đánh tráo câu chuyện.
Tôi: Anh bàn mỹ thuật Nho giáo mà lại nêu triết lý Thiền môn, xong rồi mô Phật, còn chối ư?
Diện: 2- Những bức tranh Tàu mà anh đưa ra nếu có chữ "Nhất lộ liên hoa" thì chỉ có một con cò. Bức nào có hai con cò thì không có chữ "Nhất lộ liên hoa". Thế đó! Đọc sách Tàu nhưng không hiểu khi nó đến Việt Nam đã được các cụ ta "giải Hoa " rồi!
(Ở ý này thì thú thực tôi chả biết Diện muốn nói giống gì, với lại nghe cái từ "giải Hoa" là tôi tắt kinh chẳng dám ho he luôn, thiệt là nhục quá lắm!)
Diện: 3- Đúng là thi cử xưa có thi Hương, thi Hội, thi Đình. Nhưng mỗi cuộc thi vậy có nhiều "trường" (có người chỉ độc nhị trường hoặc tam trường) vì vậy "lộ lộ" là mỗi chặng nhỏ, chứ không phải chỉ ba kỳ thi lớn kia.
Tôi: Anh biến báo rồi nói cùn, chữ "Lộ" 路 nó nghĩa là con đường lớn, xe ngựa có thể bon bon. Còn "Trường" lại là 1 khoảnh đọng lại, khác xa. Huống chi Lộ càng không thể hiểu là chặng. "Nhất lộ liên khoa", đó mới là thẳng đường thênh thang tiến 1 mạch, chúc vậy mới đáng chúc, chứ ai è ạch chia ra 3 chặng đặng khuyên người ta cố lên, ráng mà vượt qua... 3 chặng? Anh vẫn cứ cố bám vào chỗ sai hoài. Tôi lấy làm lạ lắm, he he!
Diện: Anh đọc nhiều, biết rộng, anh thấy khắp mặt sách báo đã có ai giải mã đồ án chạm khắc đá chùa Bút Tháp chưa?
(Câu này làm tôi rùng mình sửng sốt: anh ta tự cho việc phân tích lối chơi chữ đồng âm đơn giản kia là một công trình to tát, và anh ta là người tiên phong! "Giải mã đồ án chạm khắc đá chùa Bút Tháp", đọc lên nghe sướng và sang cả mồm! Nhưng tôi là kẻ... nham hiểm, nên ghim ý này trong dạ, dặn lòng sẽ đợi sau này, khi anh ta công bố hoàn chỉnh công trình nghiên cứu "giải Hoa", thì sẽ quẳng vào mặt anh ta sự thật phũ phàng là: những người tôn tạo chùa Bút Tháp vốn chả có ý tứ gì cao xa cả, bất quá chỉ bê những tranh họa có sẵn của Tàu đặt vô lấp đầy mấy chỗ kiểng chùa, vậy thôi!)
... Cuộc trao đổi còn dài dòng, ai tò mò muốn hóng thì vào ngách @Thành Nikon ở tút "Tiến sĩ giảng Phật" mà đọc.
Cuối cùng, Diện khoe:
- Anh nói anh đã xem đủ toàn bộ các bức chạm trên lan can đá chùa Bút Tháp, mà tôi thấy anh như chưa xem bức nào ngoài bức anh đưa vào stt này. Vì nếu anh xem hết hoặc một nửa số đó, anh sẽ thấy Lộ lộ thanh liêm của anh là nhầm! He he...
Tôi: Thưa anh tiến sĩ Hán Nôm, tôi chẳng những đã xem qua các phù điêu đó, mà còn đã đối chiếu với các bức tương tự bên Tàu. Anh xem cái ảnh 3 trong tút [Tiến sĩ giảng Phật], đó chính là bản gốc mà chùa Bút Tháp đã nhái theo đó, he he! Anh hết thuốc chữa, bất phân thị phi chỉ lăm lăm bảo vệ sỉ diện hão. Tôi cạn lời với anh rồi, kệ anh cà nứng "Lộ lộ liền liền" vậy!
Tới đây thì tôi bị Diện block!
* * *
Còn sau đây là lời bàn của nick Chang Feng:
Con cò trong chữ Hán là “Lộ 鷺”, hoa sen là “Liên hoa 蓮花”, hai con còn với hoa sen là “Lộ lộ liên hoa 鷺鷺蓮花”. Có hai cách diễn giải, một là chơi đồng âm với “Lộ lộ liên khoa 路路連科”, chỉ sự thi đạt thông thuận như ý, đỗ liền tù tì, tương tự như một cò và hoa sen, tức “Nhất lộ liên khoa 一路連科”; thứ hai hiểu là chơi đồng âm với “Lộ lộ thanh liêm 路路清廉”, chỉ việc làm quan luôn giữ mình thanh liêm. Đều được cả. Trường hợp thứ hai thì phải tự “đổ màu” vào để hiểu đây là sen xanh - “Thanh liên 青蓮”, để đồng âm sang “Thanh liêm 清廉”.
Như thế, bác Diện diễn giải đâu có sai; hơn nữa đây là tranh khắc đá, đâu gợi cảm quan về màu “thanh 青”, nên diễn giải theo cách thứ nhất là “Lộ lộ liên hoa” là rất chuẩn rồi, còn phê gì nữa. Rõ là vừa rỗi hơi vừa dở hơi.
- Tầu ghi Hai cò và sen đây: Lộ lộ liên khoa - http://www.dajiamazu.org.tw/content/art/art05_06.aspx
- Tầu ghi Một cò và sen đây: Nhất lộ liên khoa - http://www.jxsfgz.com/jcs/info/1137/1135.htm
* Cái ý này của Chang Feng đã được một nick khác là 玉東陳 bê vào để mắng tôi:
- Đục nước thả câu, theo voi ăn bã mía. Rặt giống Dư luận viên 3 củ ăn theo nói leo. Không xét đến phường mù chữ, thử xem giúp bức [ảnh] sau nó bảo gì?
Tôi đã phản hồi (có kiểm duyệt và edit vài chỗ... nhạy cảm, he he):
Cái link dẫn đó là từ Trấn Lan cung, là một... ngôi chùa thờ bà Mã Tổ ở Đài Trung. Cái đó có được xem là nguồn khả tín không ạ? Vì không phải cứ hễ dân Tàu thì đều tỏ tường mọi thành ngữ chữ Hán ạ. Tàu ngu thiếu mẹ gì, phải không? Cái hình link đưa ra đó rất có thể chỉ là 1 phù điêu mới làm ở Trấn Lan cung nhân dịp tân tạo hồi 1987. "Lộ lộ liên khoa" là vậy đó ư? Bông sen đâu sao chẳng thấy? Trong bức phù điêu không có sen, vậy còn gì để bàn?
Sau đó, tôi trình ra link của Học viện Sư phạm Giang Tây[2], và một trang của bộ sách nghiên cứu "Cổ đại văn hóa tập toái tùng thư" có nói về "Lộ lộ thanh liêm"[3], đồng thời trình ra những đồ án "Lộ lộ thanh liêm" thông dụng[4].
Tại sao tôi cứ khẳng định hoa sen trong tranh/tượng hai cò phải là "Thanh liên"? Bởi vì:
Sen có nhiều tên gọi: Liên hoa 蓮花, Thủy chi 水芝, Phù cừ 芙蕖, Thủy hoa 水華, Thủy phù 水芙, Thủy đán 水旦, Hạm đạm 菡萏, Thủy phù dung 水芙蓉, Trạch Chi 澤芝, Ngọc hoàn 玉環 (Dương quý phi đời Đường có tiểu tự Ngọc Hoàn chính là từ tên gọi này của hoa sen)...
Trong đó, 2 tên gọi thông dụng nhất là "Thanh liên" 青蓮 (nhà thơ Lý Bạch tự cho là mình có khí chất của hoa sen, gần bùn chẳng nhuốm bùn nên đã lấy hiệu là "Thanh Liên cư sĩ", đừng có vì chữ "Thanh" này mà tưởng mặt mày ổng xanh xao như đàn bà đẻ nha nha!)
Tên thông dụng khác là "Hà hoa" 荷花 (vd ở phủ Gia Hưng tỉnh Giang Tây, ngàn năm nay có tục đến ngày 24 tháng 6 âm lịch lại tổ chức sinh nhật cho hoa sen, gọi ngày "Hà hoa sinh nhật". Vì ngày đó, ở đấy, sen trong hồ đều nở rộ).
Về chữ "Liên" 蓮, có 3 nghĩa, đều là danh từ:
1. Hoa sen.
2. Bàn chân người đẹp (còn gọi "Kim liên" 金蓮. Cô vợ của Võ đại lang, tức chị dâu Võ Tòng được gọi Phan Kim Liên là vì nàng có bàn chân nhỏ tí xinh đẹp - theo quan niệm thẩm mỹ thời xưa. Đừng có vì gọi vậy mà tưởng bàn chân nàng quả thiệt đúc bằng vàng nha nha!)
3. Biểu tượng Phật giáo, tịnh độ, cõi Phật.

_______
Các bạn hữu nào còn mắc mứu gì về thành ngữ "Lộ lộ thanh liêm" xin cứ chất vấn trong tút này, tôi biết tới đâu sẽ trình bày tới đó. Và nhất là xin dừng inbox thông báo về vụ Diện post bài bên blog của anh ta.
Qua sự việc đơn giản, chỉ cần có chút vốn liếng Hán tự là có thể nhận ra "Lộ lộ thanh liêm" mới chính xác. Nhưng với chi tiết khi chống chế, Diện đã cố lòe tôi là "đã mở nhiều bộ sách của Tàu và xem nhiều vựng tập", thì tôi đoan chắc anh ta không có khả năng đọc/hiểu chữ Hán.
Nhân đây, tôi thông báo luôn: sau khi anh ta hoàn tất công trình "giải mã 12 đồ án chạm khắc đá chùa Bút Tháp" xàm-xí-đú kia, tôi sẽ trình ra và chứng minh các phù điêu ở chùa Bút Tháp thật ra chỉ là bê lại nguyên xi từ những bản gốc bên Tàu. Cái mà Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện bảo "các cụ nhà ta đã giải Hoa" là lời nói láo!





"
https://www.facebook.com/vinhhuy.le/posts/1315083541922113





4. Nguyễn Xuân Diện bổ sung

"
Tiến sĩ giảng xong rồi, giờ tới Cu Ly tôi xin có lời bình:

"Liên hoa" đúng là chơi chữ đồng âm với "liên khoa", tức đậu liên tiếp mấy khoa thi. Nguyên khoa cử thời xưa tổ chức làm tam khoa: Hương thí, Hội thí và Đình thí. Đó là 3 chặng của con đường tiến thân. Trước hết phải dự kỳ thi Hương tổ chức ở địa phương, nếu đậu mới đủ tư cách dự thi Hội tổ chức ở kinh đô; thi Hội mà trúng mới được gọi vào trước điện vua để thi Đình, lần này may phước ông bà ông vải mà đậu nữa mới gọi là có chút danh vọng ông nghè ông cử với trong làng ngoài xóm. Tạch tạch đùng, nổ liền 3 phát ngay hồng tâm, đó gọi "liên khoa" vậy!

Còn "lộ" 鷺 (con cò) đồng âm với lộ 路 (con đường) cũng đúng luôn. Ông Tiến sĩ thiệt là hay chữ quá, đề nghị đồng bào vỗ tay.

Nhưng tới chừng ông giảng: "Lộ lộ liên hoa" 鷺鷺蓮花 thành... "Con cò, con cò và hoa sen" thì xảy ra trục trặc. Con cò, con cò, hai con cò liên tiếp thì là nhảy lò cò, cái đó giống nhịp điệu cò trống đạp cò mái hơn là một lời chúc.

Té ra thành ngữ xưa chỉ có "Nhất lộ liên khoa" 一路連科 tức thẳng đường một mạch mà tiến tới đỗ đạt. Để diễn ý câu này, người ta vẽ con cò nghênh mỏ bên cạnh đóa hoa sen, và chỉ MỘT con mà thôi.

Khi có HAI con cò thì sẽ là thành ngữ khác. Lúc này hoa sen trong đó không đọc "Liên hoa" nữa, mà đọc "Thanh liên". Cả câu sẽ là "Lộ lộ thanh liên" 鹭鹭青蓮, ý này gợi từ đồng âm được hiểu là "Lộ lộ thanh liêm" 路路清廉, tức lời nhắc đức thanh liêm của người làm quan.

* * *

Ông Tiến sĩ biết một [con chim] mà không biết hai [con chim] là sự thường, chẳng ai có quyền buộc ông quái gì cũng rành. Cái đáng lo là từ chỗ biết chưa tới lại xăm mình liều mạng tán sang Phật pháp, về "điều ý nhị và triết lý nhân sinh".

Nam mô A Di Đà Phật, sách giáo khoa và sách báo sau này có trích dẫn ông Diện thì nhớ chừa cái vụ cà nhắc này ra nghen. Lạy cả xàm xí mứng!

Con cò rồi lại con còHai con cà nứng nó mò em Sen.

--------------------------------- Bác Chang Feng trao đổi về ý kiến của anh Cu Ly:

"
https://xuandienhannom.blogspot.com/2017/06/ngam-nghia-va-giai-ma-vai-buc-cham-chua.html



3. Tranh luận của hai bên ở đây hoặc ở đây


https://www.facebook.com/vinhhuy.le/posts/1312790808818053

https://www.facebook.com/vinhhuy.le/posts/1312790808818053?pnref=story



2. Vinhhuy Le trên Fb

"

Vinhhuy Leさんが写真3件を追加しました。
9時間前
Ông Tiến sĩ Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện nhân bức phù điêu chim cò ngoài hành lang chùa Bút Tháp bèn cao hứng mượn đó làm đề tài giảng đạo, ông giảng vầy:
_______
Bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp này rất đẹp, được sách giáo khoa và sách báo trích dẫn, sử dụng trong minh họa.
Bức chạm hình hai con cò (chữ Hán là Lộ 鷺) và hoa sen (liên hoa 蓮花). Hình ảnh này ẩn dụ bốn chữ: "Lộ lộ liên hoa" 鷺鷺蓮花 = Con cò, con cò và hoa sen. Lộ là cò, đồng âm với lộ 路 là con đường; "liên hoa" 蓮花 là hoa sen, đồng âm với chữ "Liên khoa" 連科 (liền khoa thi này đến khoa thi khác, không bị rớt khoa). Lộ lộ liên hoa 鷺鷺蓮花 đồng âm với Lộ lộ liên khoa 路路連科.
Bức chạm là ẩn dụ lời chúc: Đường khoa cử chặng nào cũng thuận, tiếp liền thi và đỗ. Đây là lời cầu mong bên cạnh Tước Lộc Phong Hầu ở bức chạm bên cạnh.
Tuy nhiên những giấc mơ trần thế, những ẩn dụ về mong cầu của nhân gian chỉ được khắc chạm ở lan can mà thôi. Trong nội tự những biểu tượng mang tính ẩn dụ ảnh hưởng của Nho giáo và đời sống trần tục không còn. Chùa hoàng gia Bút Tháp tuy vẫn nhắc đến biểu tượng và mong cầu đời thường, hoặc vẫn ca ngợi tước lộc, phong hầu, đăng khoa... nhưng dứt khoát chỉ coi đó là ngoại cảnh, ngoại vật trong chốn Thiền môn. Đó là điều ý nhị và triết lý nhân sinh của những người của hoàng gia tu tập và hưng công chùa Bút Tháp, Xứ Kinh Bắc. A di đà Phật!
_______
Tiến sĩ giảng xong rồi, giờ tới Cu Ly tôi xin có lời bình:
"Liên hoa" đúng là chơi chữ đồng âm với "liên khoa", tức đậu liên tiếp mấy khoa thi. Nguyên khoa cử thời xưa tổ chức làm tam khoa: Hương thí, Hội thí và Đình thí. Đó là 3 chặng của con đường tiến thân. Trước hết phải dự kỳ thi Hương tổ chức ở địa phương, nếu đậu mới đủ tư cách dự thi Hội tổ chức ở kinh đô; thi Hội mà trúng mới được gọi vào trước điện vua để thi Đình, lần này may phước ông bà ông vải mà đậu nữa mới gọi là có chút danh vọng ông nghè ông cử với trong làng ngoài xóm. Tạch tạch đùng, nổ liền 3 phát ngay hồng tâm, đó gọi "liên khoa" vậy!
Còn "lộ" 鷺 (con cò) đồng âm với lộ 路 (con đường) cũng đúng luôn. Ông Tiến sĩ thiệt là hay chữ quá, đề nghị đồng bào vỗ tay.
Nhưng tới chừng ông giảng: "Lộ lộ liên hoa" 鷺鷺蓮花 thành... "Con cò, con cò và hoa sen" thì xảy ra trục trặc. Con cò, con cò, hai con cò liên tiếp thì là nhảy lò cò, cái đó giống nhịp điệu cò trống đạp cò mái hơn là một lời chúc.
Té ra thành ngữ xưa chỉ có "Nhất lộ liên khoa" 一路連科 tức thẳng đường một mạch mà tiến tới đỗ đạt. Để diễn ý câu này, người ta vẽ con cò nghênh mỏ bên cạnh đóa hoa sen, và chỉ MỘT con mà thôi.
Khi có HAI con cò thì sẽ là thành ngữ khác. Lúc này hoa sen trong đó không đọc "Liên hoa" nữa, mà đọc "Thanh liên". Cả câu sẽ là "Lộ lộ thanh liên" 鹭鹭青蓮, ý này gợi từ đồng âm được hiểu là "Lộ lộ thanh liêm" 路路清廉, tức lời nhắc đức thanh liêm của người làm quan.
* * *
Ông Tiến sĩ biết một [con chim] mà không biết hai [con chim] là sự thường, chẳng ai có quyền buộc ông quái gì cũng rành. Cái đáng lo là từ chỗ biết chưa tới lại xăm mình liều mạng tán sang Phật pháp, về "điều ý nhị và triết lý nhân sinh".
Nam mô A Di Đà Phật, sách giáo khoa và sách báo sau này có trích dẫn ông Diện thì nhớ chừa cái vụ cà nhắc này ra nghen. Lạy cả xàm xí mứng!
Con cò rồi lại con cò
Hai con cà nứng nó mò em Sen

いいね!他のリアクションを見る
コメントする

"
https://www.facebook.com/vinhhuy.le?pnref=story

"




"






1. Lời giải thích của Nguyễn Xuân Diện


Trích đoạn trực tiếp:

"


Bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp này rất đẹp, được SGK và sách báo trích dẫn, sử dụng trong minh hoạ. Bức chạm hình hai con cò (chữ Hán là Lộ ) và hoa sen (liên hoa 蓮). Hình ảnh này ẩn dụ bốn chữ: Lộ Lộ Liên Hoa  鹭 蓮 花 = Con cò, con cò và hoa sen. Lộ là cò, đồng âm với lộ 路 là con đường; liên hoa 蓮 花 là hoa sen, đồng âm với chữ Liên khoa 連 科 (liền khoa thi này đến khoa thi khác, không bị rớt khoa). Lộ lộ liên hoa 鹭 鹭 蓮 花, đồng âm với Lộ Lộ Liên Khoa路 路 連 科. Bức chạm là ẩn dụ lời chúc: Đường khoa cử chặng nào cũng thuận, tiếp liền thi và đỗ. Đây là lời cầu mong bên cạnh Tước Lộc, Phong Hầu ở bức chạm bên cạnh. 

Tuy nhiên những giấc mơ trần thế, những ẩn dụ về mong cầu của nhân gian chỉ được khắc chạm ở lan can mà thôi. Trong nội tự những biểu tượng mang tính ẩn dụ ảnh hưởng của Nho giáo và đời sống trần tục không còn. Chùa hoàng gia Bút Tháp tuy vẫn nhắc đến biểu tượng và mong cầu đời thường, hoặc vẫn ca ngợi tước lộc, phong hầu, đăng khoa... nhưng dứt khoát chỉ coi đó là ngoại cảnh, ngoại vật trong chốn Thiền Môn. Đó là điều ý nhị và triết lý nhân sinh của những người trong hoàng gia thời Lê - Trịnh tu tập và hưng công chùa Bút Tháp, Xứ Kinh Bắc. A di đà Phật! 

N.X.D
Bút Tháp ngày 10 tháng 6 năm 2017.
"





Toàn văn:

"
Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

NGẮM NGHÍA VÀ GIẢI MÃ VÀI BỨC CHẠM ĐÁ CHÙA BÚT THÁP




Nguyễn Xuân Diện

Lời dẫn: Ngày cuối tuần vừa rồi, đi cùng nhóm Chùa Việt (hơn 4.000 thành viên) đi thăm Chùa Bút Tháp, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, được thêm một lần nữa chiêm ngưỡng kiến trúc, điêu khắc (gỗ, đá), tượng Phật Bà Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, lòng càng thêm xúc động vô bờ bến.

Xin cùng quý vị ngắm nghía mấy bức chạm đá ở lan can tòa Thượng điện Chùa Bút Tháp, để cùng thưởng thức những điều ý vị của cha ông ta:





Hình ảnh bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp: Khỉ đang trêu ong. Hình ảnh vui tươi ngộ nghĩnh. Khỉ tên chữ Hán là Hầu ; ong là Phong ; đồng âm với hai chữ Phong Hầu 封 侯. Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được Phong hầu.

Cầu mong phong hầu nhưng còn cầu được sống lâu để hưởng nên có chạm cây đào đang cho chùm quả, để biểu thị cầu thêm thọ. Thọ lâu để hưởng phong hầu!
.

Hình ảnh bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp: Chim sẻ và Hươu. Hình ảnh vui tươi ngộ nghĩnh. Chim sẻ tên chữ Hán là Tước ; Hươu là Lộc 鹿, đồng âm với Tước Lộc 爵  祿. Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được Tước lộc. Bức chạm còn khắc hình cành lựu trĩu quả , lựu nhiều hạt tượng trưng cho sự sinh sôi đông đúc chen chúc, cũng là biểu tượng phụ hoạ cho biểu tượng chính để cầu mong tước lộc nhiều.
.


Bức chạm đá lan can chùa Bút Tháp này rất đẹp, được SGK và sách báo trích dẫn, sử dụng trong minh hoạ. Bức chạm hình hai con cò (chữ Hán là Lộ ) và hoa sen (liên hoa 蓮). Hình ảnh này ẩn dụ bốn chữ: Lộ Lộ Liên Hoa  鹭 蓮 花 = Con cò, con cò và hoa sen. Lộ là cò, đồng âm với lộ 路 là con đường; liên hoa 蓮 花 là hoa sen, đồng âm với chữ Liên khoa 連 科 (liền khoa thi này đến khoa thi khác, không bị rớt khoa). Lộ lộ liên hoa 鹭 鹭 蓮 花, đồng âm với Lộ Lộ Liên Khoa路 路 連 科. Bức chạm là ẩn dụ lời chúc: Đường khoa cử chặng nào cũng thuận, tiếp liền thi và đỗ. Đây là lời cầu mong bên cạnh Tước Lộc, Phong Hầu ở bức chạm bên cạnh. 

Tuy nhiên những giấc mơ trần thế, những ẩn dụ về mong cầu của nhân gian chỉ được khắc chạm ở lan can mà thôi. Trong nội tự những biểu tượng mang tính ẩn dụ ảnh hưởng của Nho giáo và đời sống trần tục không còn. Chùa hoàng gia Bút Tháp tuy vẫn nhắc đến biểu tượng và mong cầu đời thường, hoặc vẫn ca ngợi tước lộc, phong hầu, đăng khoa... nhưng dứt khoát chỉ coi đó là ngoại cảnh, ngoại vật trong chốn Thiền Môn. Đó là điều ý nhị và triết lý nhân sinh của những người trong hoàng gia thời Lê - Trịnh tu tập và hưng công chùa Bút Tháp, Xứ Kinh Bắc. A di đà Phật! 

N.X.D
Bút Tháp ngày 10 tháng 6 năm 2017.
"
https://xuandienhannom.blogspot.com/2017/06/ngam-nghia-va-giai-ma-vai-buc-cham-chua.html


"




"

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.