Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

31/08/2014

Lại về Nguyễn Trãi đi trước Stalin, sớm hơn và đầy đủ hơn

Không biết là Phan Ngọc gây ảnh hưởng cho Nguyễn Thanh Giang. Hay là ngược lại ? Muốn biết rõ thì phải xem. Nhưng rõ ràng, từ đầu thập niên 1990, cụ Phan Ngọc thì đã phát minh rằng Nguyễn Trãi đưa ra định nghĩa về dân tộc sớm hơn Stalin.

Đại khái Phan Ngọc đã viết: "Nguyễn Trãi…trước Stalin 465 năm đã thấy dân tộc là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố là địa lý (“Núi sông bờ cõi đã chia”), phong tục (“Phong tục Bắc Nam cũng khác”), lịch sử (“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”), chính quyền thống nhất (“Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”)".

Quan điểm trên của Phan Ngọc vào năm 2010 gặp sự phê phán gay gắt của Liam (Lê Minh Khải), đến mức Liam bảo cuốn sách của cụ là "hỏng kinh khủng".

Còn hôm nay, qua bài giới thiệu của cụ Phạm Quế Dương thì biết một cuốn sách của cụ Nguyễn Thanh Giang mới được xuất bản ở nước ngoài, cụ thể như sau:

"Sách “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH” vừa ấn hành ở Mỹ của Nguyễn Thanh Giang là một công trình đồ sộ. Sách viết về 60 nhân vật lịch sử đã có cống hiến lớn cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Trần Độ, Trần Dần … đến Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày, Đỗ thị Minh Hạnh … Không chỉ kể về khối lượng, với 548 trang in khổ A4, tương đương hơn một nghìn trang in khổ thông thường, sách là một biên niên sử mang hơi hướng sử thi vì được viết không chỉ bằng trí tuệ thật uyên thâm và uyên bác mà còn bằng một tấm lòng ưu ái rất đáng trân trọng.

Về mặt trí tuệ, nhiều bài trong “Đêm Dày Lấp Lánh” có giá trị như một bản tóm tắt luận án tiến sỹ với ngồn ngộn tư liệu và những phát hiện mới làm người đọc ngạc nhiên.

Nghiên cứu về Nguyễn Trãi, tác giả đã phát hiện và chứng minh được rằng chính Nguyễn Trãi đã đưa ra một định nghĩa về “dân tộc” sớm hơn, đầy đủ hơn Stalin. Cho đến năm 1913, người ta mới đọc được một định nghĩa được xem là có giá trị đầu tiên trong lịch sử nhân loại của Stalin về dân tộc. Song định nghĩa dân tộc của Stalin chỉ nêu lên bốn yếu tố: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý. Trước đó, Nguyễn Trãi còn nói đến yếu tố thứ năm: nhân dân."

Có lẽ là nghiên cứu về Nguyễn Trãi của cụ Giang, mà như trên, thì chắc là nhắc lại hay sử dụng có chỉnh sửa phát minh của cụ Ngọc. Mà không phải cụ Giang là "đã phát hiện và chứng minh được rằng".

Mà cũng chưa biết chừng, hai cụ tư tưởng lớn thì gặp nhau. Phát minh chung.

Tạm lưu toàn bài giới thiệu của Phạm Quế Dương ở dưới đây.

---

31/08/2014



NHỚ LẠI VỀ MÌNH

Phạm Quế Dương
Sách “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH” vừa ấn hành ở Mỹ của Nguyễn Thanh Giang là một công trình đồ sộ. Sách viết về 60 nhân vật lịch sử đã có cống hiến lớn cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Trần Độ, Trần Dần … đến Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày, Đỗ thị Minh Hạnh … Không chỉ kể về khối lượng, với 548 trang in khổ A4, tương đương hơn một nghìn trang in khổ thông thường, sách là một biên niên sử mang hơi hướng sử thi vì được viết không chỉ bằng trí tuệ thật uyên thâm và uyên bác mà còn bằng một tấm lòng ưu ái rất đáng trân trọng.
Về mặt trí tuệ, nhiều bài trong “Đêm Dày Lấp Lánh” có giá trị như một bản tóm tắt luận án tiến sỹ với ngồn ngộn tư liệu và những phát hiện mới làm người đọc ngạc nhiên.
Nghiên cứu về Nguyễn Trãi, tác giả đã phát hiện và chứng minh được rằng chính Nguyễn Trãi đã đưa ra một định nghĩa về “dân tộc” sớm hơn, đầy đủ hơn Stalin. Cho đến năm 1913, người ta mới đọc được một định nghĩa được xem là có giá trị đầu tiên trong lịch sử nhân loại của Stalin về dân tộc. Song định nghĩa dân tộc của Stalin chỉ nêu lên bốn yếu tố: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý. Trước đó, Nguyễn Trãi còn nói đến yếu tố thứ năm: nhân dân.
Ông kết thúc bài viết bằng một nhận thức về tầm nhân loại của tư tưởng Nguyễn Trãi:
Các học giả thường nói tới bốn thế hệ nhân quyền :
- thế hệ của những quyền tự do chính trị;
- thế hệ của những quyền lợi kinh tế xã hội;
- thế hệ của các quyền lợi cộng đồng;
- thế hệ của những quyền lợi nhân lọai.
Từ “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” đến “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, từ “yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu” đến “Hòa bình là gốc của nhạc”, “Dập tắt chiến tranh cho muôn đời”, phải chăng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã xuyên suốt bốn thế hệ nhân quyền”.
Các học giả Việt Nam từ xưa đến nay khi nghiên cứu về xã hội Truyện Kiều hoặc chỉ nhìn qua lăng kính định mệnh, hoặc lên án đồng tiền… Nguyễn Thanh Giang, dưới con mắt của nhà dân chủ, đã nhìn ra nguyên nhân tàn hại đời Kiều là do pháp luật không được thượng tôn. Ông dẫn ra đến hơn 30 câu Kiều có chữ “oan” và chữ “oán”.
Bài viết này không dám đảm đương nhiệm vụ giới thiệu cuốn “Đêm dày lấp lánh”. Việc này phải dành cho các học giả xứng tầm. Chỉ xin được “tát nước theo mưa” để tâm sự đôi điều.
Trước hết phải cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã vì quá thương yêu mà đưa tôi vào danh sách những danh nhân trong lịch sử đấu tranh vì tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Phải chăng đây là một-cuốn-sách-bia.
Ngoại tám mươi, nhiều khi lẩn thẩn buồn nghĩ về cái tuổi già vô tích sự, đọc Nguyễn Thanh Giang tự nhiên thấy được an ủi rất nhiều. NTG không chỉ nhắc lại những ngày hào hùng đánh Pháp ở đồn Tu Vũ, đánh Tàu ở biên giới phía Bắc mà còn dẫn ra những câu mình đã từng nói, từng viết mà không còn nhớ: “Góp ý với đại hội IX đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài “Phải cải cách chính trị cùng với cải cách kinh tế” ông (tức là tôi) viết: “…Tình hình đất nước ta ngày càng tụt hậu xa so với thế giới về kinh tế, ngay cả những nước gần cận trong khu vực. Nạn tham nhũng tràn lan không bài thuốc chữa trị, từ người lái xe ôm đến bà bán nước vùng quê đều rõ, sao những người lãnh đạo đảng CSVN không thấy mà lúc nào cũng chỉ muốn người ta tung hô Đảng sáng suốt, Đảng quang vinh, đời đời nhớ ơn Đảng … Muốn cứu vãn tình thế không thể chỉ đổi mới bằng cải cách kinh tế mà phải nhanh chóng triệt để cải cách, đổi mới chính trị. Phải nói thẳng là cải cách-đổi mới chính trị, không thể nói là cải cách-đổi mới hành chính, một kiểu nói lừa dối lương tâm … Người đứng đầu Đảng và Nhà nước (Chủ tịch nước hay Tổng thống) phải là một. Đảng cử ra ba bốn người rồi để dân trực tiếp bỏ phiếu. Không thể như hiện nay, Đảng cử ra Tổng Bí thư thì tự nhiên dân phải nhận là Vua của mình rồi. Sự thật đó là Vua của ĐCSVN chứ có phải của dân đâu…. Phải thật sự bầu cử tự do. Người dân được tự do ứng cử, xoá bỏ việc mọi danh sách phải thông qua Mặt trận Tổ quốc. Đó là một việc làm lùa bịp, trấn áp trắng trợn người tài một cách bẩn thỉu, đáng khinh mà những người cầm đầu Mặt trận Tổ quốc đã có lúc tự nhận mình chỉ là “ cây cảnh” … Quân đội, công an là công cụ vũ trang của Nhà nước, không phải của riêng Đảng. Trả lại câu nói của Bác Hồ :” Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”. Tự sửa câu nói lịch sử của Bác Hồ là bất hiếu, bất trung … ĐCSVN phải xin lỗi vụ Nhân văn-Giai phẩm, vụ Xét lại, vụ Kim Ngọc, vụ án Trường Xuân. Các vụ này xử lý oan bao nhiêu hiền tài của đất nước…”.
Mấy bạn cựu chiến binh cổ lai hy đọc những đoạn ấy ngỏ lời khích lệ tôi: “Cách đây hơn chục năm mà đã dám viết được như thế thì NTG xếp ông vào hàng “Chiến sỹ dân chủ” không sai đâu”.
Thật ra, NTG không chỉ biểu dương mà đã từng thẳng thắn phê phán tôi. Thấy tôi bị bắt, bị đưa ra tòa xử tội và bị tống vào tù, như là vừa thương vừa giận NTG đã trách móc tôi ăn nói bỗ bã đốp chát quá với tổng bí thư Nông Đức Mạnh, chủ tịch nước Lê Đức Anh. Xin lỗi NTG, cho đến bây giờ tôi vẫn không ân hận, sám hối gì. Với cái tội đưa Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nói Nông Đếch Mạnh như tôi còn quá nhẹ. Bỏ vợ ốm chết để hú hý với người tình của con thì thật là Nông-Đức-nông-tài. Thời Mạnh làm Tổng bí thư đã dấy lên phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Hẳn là ông ta thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh sâu sắc lắm nên mới như thế.
Về ông Lê Đức Anh thì xin kể thêm câu cuyện sau:
Hồi làm Tổng biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự tôi thường tiếp xúc trực tiếp để lấy tài liệu viết về các vị tướng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà … Thấy vậy, cậu Ngọc - thư ký riêng của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh – bốn lần mời tôi đến gặp Đại tướng nhưng tôi đều tìm cớ đánh lảng. Lúc ấy Lê Đức Anh có tiếng xấu về vụ thảm sát tướng Nguyễn Bình và vụ Năm Châu Sáu Sứ, bây giờ lại lộ thêm vụ Thỏa ước Thành Đô 1990 thì tôi khẳng định rằng nặng lời như vậy vẫn còn quá nhẹ.
Sau khi Đại tướng Văn Tiến Dũng thôi chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1986), Tết tôi theo một số tướng lĩnh đến nhà riêng chúc Tết. Các tướng lĩnh chúc tết Đại tướng, nhưng tôi thì ngồi yên. Khi phu nhân Đại tướng bước vào tôi mới đứng dậy: “Cháu xin chúc Tết cô khỏe mạnh, bình an, mọi sự may mắn”. Phu nhân của Đại tướng là bà Tám Kỳ. Bà hỏi: “Anh là ai?”. “Cháu là Phạm Quế Dương là cháu của ông Sung” (Ông Sung là bác của bà Tám Kỳ). Bà cười rất vui: “Thế à”. Quay lại, tôi mới chúc tết Đại tướng Văn Tiến Dũng. Khi ra về, vài vị tướng hỏi tôi khi Đại tướng còn đương chức sao không đến thăm và chúc tết Đại tướng. Tôi trả lời: “Em không đến, vì sợ người ta cho là có ý đồ cậy cục”.
Không biết Nguyễn Thanh Giang lấy tài liệu từ đâu mà đã viết như sau:
Bà Đỗ thị Cư – nguyên phó giám đốc Lâm trường Yên Bái, đảng uỷ viên đảng bộ Bộ Lâm nghiệp– đã viết về chồng mình – đại tá Phạm Quế Dương – như sau: “ Gia đình tôi tự hào có người chồng chung thuỷ, người cha mẫu mực, người ông hiền hoà. Đối với họ tộc giữ được nếp gia phong, kính trên nhường dưới. Đối với bạn bè chân thành cởi mở. Đối với cấp dưới khoan dung độ lượng. Không ỷ quyền nạt nộ kẻ dưới. Biết thương yêu đồng đội lúc khó khăn. Không phân biệt kẻ sang người hèn. Đối với cấp trên, anh Dương có cá tính đặc biệt, không cơ hội, khom lưng, nịnh hót, cầu lợi cá nhân, chỉ phục tùng người thực sự có tài và rất tôn trọng người tài. Nếu như ai đó bất tài, thất đức thì dù ở cấp cao đến mấy cũng không thần phục được anh Dương. Chính vì thế mà anh luôn bị thiệt thòi và gặp rất nhiều gian truân trong suốt quá trình công tác của mình … Anh là người dám nói trước những điều nhiều người biết nhưng không dám nói, dám làm những việc nhiều người thấy cần phải làm nhưng không dám làm…”.
Rất cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã gợi lại cái quá khứ không đến nỗi đáng chê trách để tôi được an ủi phần nào trong những ngày cuối đời buồn tủi. Hy vọng rằng con cháu của 60 vị được tôn vinh trong cuốn “Đêm dày lấp lánh” cũng sẽ được tự hào về cha ông mình mà noi gương sáng dấn thân mạnh mẽ cho tiến trình dân chủ hóa nước nhà.

Hà Nội 30 tháng 8 năm 2014

P.Q.D.

Tác giả gửi BVN

http://boxitvn.blogspot.jp/2014/08/nho-lai-ve-minh.html

3 nhận xét:

  1. Đã thấy toàn văn bài của cụ Nguyễn Thanh Giang. Trích đoạn liên quan đến Nguyễn Trãi và Stalin:

    "Vương quốc Nam Việt do Triệu Đà thành lập gồm miền bắc Việt Nam ngày nay và Quảng Đông, Quảng Tây. Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược, sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Nước Nam Việt bị đổi thành Giao Chỉ bộ và bị chia nhỏ thành 9 quận. Lúc đầu các vị tướng dòng dõi Lạc Việt vẫn còn được giữ chức tước. Nhưng cùng với sưu cao thuế nặng, khi chủ trương đồng hóa được tiến hành qua việc cải tổ luật hôn nhân, xóa bỏ chế độ mẫu hệ, biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ … ,một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra và được coi là sự kiện đấu tranh giành độc lập đầu tiên ở Việt Nam.

    Trước Ngô Quyền, dù các chính quyền họ Khúc, họ Dương đã xây dựng nền tự chủ nhưng trên danh nghĩa, chức Tiết độ sứ vẫn bao hàm nghĩa là một phiên trấn của "thiên triều" phương Bắc,

    Thế kỷ thứ VI, Lý Bí vứt bỏ các tên gọi mà Trung Quốc áp đặt cho nước ta như Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ phủ… và đặt tên nước là Vạn Xuân (sau này nhà Đinh gọi là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt) để chứng tỏ sự cùng tồn tại ngang hàng với các nước lớn ở Trung Hoa.

    Đến Lý Thường Kiệt, sau khi đánh tan quân Tống và thừa thắng giải phóng cả Quảng Đông, Quảng Tây (chiếm giữ được một tháng mới đành rút về bên này sông Như Nguyệt), chủ quyền lãnh thổ lần đầu tiên được tuyên bố thật lẫm liệt:

    "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư".

    Trong Lễ hiến phù ở Chiêu Lăng, lời Trần Nhân Tông cũng đã sang sảng:

    “Xã tắc hai phen phiền ngựa đá.
    Non sông ngàn thuở vững âu vàng".

    Dẫu sao, cho đến như vậy chủ quyền lãnh thổ mới chỉ được xác định qua hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất định rõ nước ta không phải chỉ gồm những quận thuộc hạ của Trung Quốc mà là một nước riêng có “Nam Đế” trị vì. Yếu tố thứ hai phủ định tiềm thức cho rằng chỉ Trung Hoa là tâm điểm hoàn cầu và chỉ ở đấy vua mới là “Thiên tử” (con Trời), được ban cho “thiên mệnh” trị vì bàn dân thiên hạ gồm tất cả các bộ tộc man di khác: rợ hung nô ở phương bắc và các bộ tộc Bách Việt ở phương nam.

    (Trong khoảng một ngàn năm gần như toàn thể các tộc Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử đều đã bị Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ còn lại duy nhất một dân tộc thoát được nạn này là dân tộc Lạc Việt - tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt Nam sau này - không những không bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, còn giành được độc lập, giữ được một phần đất phía Bắc và tiếp tục bành trướng về phía Nam để tạo thành một quốc gia riêng, biệt lập với Trung Quốc).

    Đến Nguyễn Trãi, tinh thần độc lập dân tộc mới được phán đỉnh thật rành rẽ:

    “Xét nước Đại Việt ta từ trước.
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Bờ cõi sông núi đã riêng.
    Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
    Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đều làm đế một phương.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau.
    Song hào kiệt vẫn không hề thiếu”.
    (Bình Ngô đại cáo)

    Để chứng minh chủ quyền, Nguyễn Trãi không chỉ dựa vào sách trời, vào lãnh địa của vua mà đã đưa ra hàng loạt chứng lý về sự dị biệt giữa nước Đại Việt ta với Trung Quốc:

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. (tiếp và hết)
      Không chỉ riêng cõi bờ sông núi mà phong tục cũng khác nhau. Không chỉ có các đời vua Triệu, Đinh, Lý, Trần sánh mặt cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều làm đế một phương mà còn tự hào rằng ta đã có cả nền văn hiến trường tồn độc lập … “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang”.

      Trước đấy Trần Nghệ Tông cũng đã từng ý thức sự dị biệt: “Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải băt chước nhau” song trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi mới ghi rõ thành lệnh cấm người Việt bắt chước phong tục Ngô.

      Càng rành rẽ, hào sảng khi Nguyễn Trãi tung hô:

      "Xã tắc từ đây bền vững.
      Non sông từ đây đổi mới.
      Để mở nền muôn thuở thái bình.
      Để rửa nỗi ngàn thu sỉ nhục".

      Rõ ràng Nguyễn Trãi là người đầu tiên đưa ra được một định nghĩa dân tộc toàn diện và tương đối có hệ thống.

      Thật vậy, cho đến năm 1913, người ta mới đọc được một định nghĩa được xem là có giá trị đầu tiên trong lịch sử nhân loại của Stalin về dân tộc: “Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định được thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hoá".

      Định nghĩa dân tộc của Stalin nêu lên bốn yếu tố: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý.

      Tiếc rằng sách báo quốc tế chưa thống nhất ghi nhận sự thực này: trước Staline mấy thế kỷ, định nghĩa dân tộc của Nguyễn Trãi đã vượt trội không chỉ ở mặt định lượng, năm yếu tố: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, chính quyền, nhân dân.

      Ở đây, yếu tố thứ năm - nhân dân - còn là sự vượt trội về phẩm chất của định nghĩa.

      Đặc biệt, trong yếu tố thứ năm này, đại biểu của nhân dân không phải là một nhóm người nào, một giai cấp nào mà là các anh tài, hào kiệt. "

      Toàn văn thì ở đây:
      YẾU TỐ NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ TRONG TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRÃI
      http://nguyenthanhgiang.com/BaiMoi_80.html

      Xóa
    2. Đọc thêm một chút, thấy cụ viết là Lý Thường Kiệt giải phóng luôn cả hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay, đang uống nước, suýt rơi cốc. Cả đoạn như sau:

      "Đến Lý Thường Kiệt, sau khi đánh tan quân Tống và thừa thắng giải phóng cả Quảng Đông, Quảng Tây (chiếm giữ được một tháng mới đành rút về bên này sông Như Nguyệt), "

      Xóa

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.