Văn nghệ Thứ Bảy : Người Buôn Gió viết về ngôi đền Tiên Hạ ở ngõ Phất Lộc (Hà Nội)
Hiếu Gió, tức Bùi Thanh Hiếu với bút danh Người Buôn Gió, là một cư dân sinh ra và lớn lên ở ngõ Phất Lộc (Hà Nội). Bây giờ, Gió ở bên Đức, buôn bán nhiều mặt hàng (đồng hồ, kính mắt, nồi niêu xoong chảo, thuốc,...) và viết khá nhiều về Việt Nam với đủ thể loại (hồi Gió mới đến Đức và được ở một căn phòng riêng đầu tiên làm bạn ấy vui thích, thì có thể đọc lại trên Giao Blog, ở đây - cũng tới hơn 10 năm trước rồi).
Xưa có cụ Nguyễn Hiến Lê cũng sinh ra và lớn lên ở ngõ Phất Lộc. Đọc cụ, ta thấy thi thoảng cụ nhắc về con ngõ ấy với một hoài niệm xa xôi.
Nhưng chưa thấy Nguyễn Hiến Lê viết về một ngôi đền ở trong con ngõ Hà Nội ấy. Có lẽ thời nhỏ cụ không ấn tượng về ngôi đền, rồi lớn lên vô Nam thì không còn kí ức nữa.
Nói thế, nhưng thật ra, Nguyễn Hiến Lê có viết về ngôi đình ở ngõ Phất Lộc, gọi là "đình Tiên Hạ". Cụ Lê từng có bút danh là Lộc Đình, thì nghĩa của nó là: ngõ Phất Lộc và ngôi đình ! Lộc Đình vậy là "ngôi đình ở ngõ Phất Lộc". Nguyễn Hiến Lê nhớ về ngõ Phất Lộc là nhớ về người bà nội đã từng dẫn cháu vào thăm đình, và nhớ về ngôi đình trong con ngõ nhỏ ấy. Các ngôi nhà cổ trong ngõ, theo kí ức của Nguyễn Hiến Lê là được xây thời Tự Đức.
Nay, vào năm 2025, từ nước Đức, bạn Hiếu Gió viết về ngôi đền khá thú vị ở ngõ Phất Lộc. Anh viết bằng trải nghiệm cá nhân của anh, đan lồng nhiều chi tiết tưởng như vô bổ nhưng lại khá ý nghĩa, nên đọc mà cảm nhận thấy nhiều cái hay hay.
Qua đoạn văn ngắn này, cũng bất giác nhận ra: Hiếu Gió đã bắt đầu già đi một cách đặc biệt rồi. Già đi cũng là qui luật. Già đi để thấy được thật rõ những điều mãi mãi xanh tươi.
Ngõ Phất Lộc mãi mãi xanh tươi, là miền kí ức xanh vĩnh viễn không già đi trong tâm hồn của những con người đã từ ngõ ấy ra đi.
Cái ngõ Phất Lộc ấy, đúng là được người họ Bùi ở tận Thái Bình (giờ là Hưng Yên) lập ra vào thời Lê mạt. Đình Phất Lộc (trong kí ức của Nguyễn Hiến Lê) phải chăng cũng chính là đền Phất Lộc ngày nay. Ở khu vực phố cổ Hà Nội, đình và đền nhiều khi được làm chung ở một chỗ, thông sang nhau.
Ông thủ đền Tiên Hạ sai đệ tử rót cho tôi chén nước. Đệ tử ông là một cô gái khoảng hơn 30 tuổi, ông giới thiệu cô gái là con của anh Hưng Bê.
Anh Hưng Bê là nhân vật trong bài viết Con Gà Xám Chân Chì của tôi viết chục năm trước. Hỏi thăm mới biết anh Hưng bây giờ đã ngoài 70 nhưng vẫn có một cô bồ 45 tuổi.
Ông thủ đền khen anh Hưng cao thủ, con gái anh thì cúi đầu cười thẹn. Tôi chữa quả ông thủ đền tung ra, bằng cách giới thiệu.
- Chú là đàn em của bố cháu đấy.
Cô gái nhìn tôi ngạc nhiên, chắc cô tự hỏi tôi đàn em loại gì của ông bố ba hoa chích choè vô địch ngõ Phất Lộc của cô. Tôi bảo.
- Đàn em gà chọi.
Cô mới à một tiếng, chắc lục trí nhớ khéo năm ấy cô còn chưa sinh ra, vì thời gian đó cách đây đã 40 năm rồi.
Đền Tiên Hạ ở Ngõ Phất Lộc, đền Tiên Hạ thờ danh thần Nguyễn Trung Ngạn do dân họ Bùi lập lên, họ Bùi là những người cách đây 300 năm đến mảnh đất ven sông này lập ra ngõ Phất Lộc.
Nhưng ông thủ đền lại họ Nguyễn, tên Thắng. Gia đình ông ở cạnh đền, gia đình ông làm nghề rán quẩy, lớn lên lấy vợ thì ông khởi nghiệp làm nghề bán phở xào, mì xào ở cuối ngõ Phất Lộc thuê lại của hợp tác xã, làm ăn đang phất như diều, mua đất đai nọ kia thì đến hồi cái nhà hợp tác xã ấy nhà nước thu lại không cho thuê nữa. Sẵn vốn ông mở hiệu vàng, đi xe ô tô đen bóng. Thỉnh thoảng ông đến nhà tôi ở tạm chỗ khu tập thể quân đội trên đường Hoàng Quốc Việt gọi tôi ra đường làm cốc trà đá vỉa hè.
Ông thủ từ là bạn học, bạn cùng xóm với tôi từ thời học vỡ lòng ở trường Nguyễn Huệ phố Hàng Tre.
Từ khi làm thủ đền , ông có thêm món thầy cúng, hầu đồng. Dường như đây mới là nghiệp, là đam mê của ông. Ông tâm sự.
- Đền vỡ mái hết ông ạ, đợt trước quận đã đồng ý cấp 30 tỷ sửa đền. Xong xuôi hết rồi thì bỗng nhiên xoá quận. Giờ thì lại phải chờ một vài năm nữa, ổn định hành chính mới sửa. Chỗ ngói vỡ tôi xếp gọn kia, sợ lắm, mất cái người ta bảo ngói cổ vài triệu 1 viên thì chết. Đền thuộc nhà nước, tôi làm không lương. Ai vào đền cúng để lại giọt dầu, nén hương thì mình lấy làm công. Đấy, hôm nay rằm mà từ sáng đến giờ có 3 khách lễ, được 200 nghìn. Tôi làm thêm nghề cúng, nhưng mà cúng dương. Mấy chuyện cúng âm được nhiều đấy, nhưng sợ vận ám ông à. Mình cúng ngăn ma quỷ, chúng nó thù không làm gì mình, nó hại người thân. Ông cứ nhìn quanh mấy người cúng âm thì thấy. Tiền nhiều nhưng người thân bệnh tật, ốm đau, tàn tật thì sướng gì đâu. Tôi không giàu nhưng mà con cái tôi học hành, công việc đàng hoàng, thế là được ông ạ.
Tôi bảo.
- Giờ theo lệ làng, thì ông là bậc bề trên của tôi rồi. Ít nhất ông có chức sắc trong làng, còn tôi là thằng phát vãng.
Ông thủ đền cười, ông chợt nhớ tôi về lần này là vì việc gì, và hôm nay đúng là rằm. Ông gọi tôi lên quỳ trước ban thờ của đền, ông gõ chuông thỉnh thánh thần và khấn.
Trong lời khấn xin về tài lộc hanh thông, sức khoẻ an bình, tôi nghe thấy câu khấn.
- Xin cho họ Bùi được xuất nhập cảnh bình an, hanh thông, trôi chảy, được đi đến nơi, về đến chốn...
Tôi cúi đầu rớm nước mắt, trong bóng dáng ông thủ đền, là người bạn thuở ấu thơ. Chúng tôi chẳng gặp nhau bao nhiêu năm, nay gặp cũng không nói gì đến cuộc đời của tôi trước kia và bây giờ. Lời khấn của ông thủ đền là lời của người tri kỷ, không nói mà biết, không nhắc mà làm, không nhờ mà giúp.
Trong cuộc đời ngang dọc ba chìm bảy nổi, tứ xứ tha phương. Ngày trở lại cố hương, nghe lời khấn xin tự nguyện hộ cho mình như thế, cũng cảm thấy kiếp này sống không đến nỗi nào trong mắt bà con, hàng xóm.
Khi tôi chuẩn bị đi, ông thủ đền hối hả tìm lộc, ông có trà ngon, có hương trầm thơm. Tôi nói bên kia tôi có đủ trà uống đến vài năm, ai qua thăm cũng cho trà, trầm hương có người cũng mang cho nhiều, đốt mãi không hết, đó là sự thực không phải tôi khách sáo.
Ông bảo.
- Chán quá, không có quá gì cho bạn. Tôi tiễn bạn đi một đoạn.
Ông tiễn tôi ra đầu ngõ, có vẻ như vẫn lấn cấn khi không có quà gì cho tôi.
Ông không biết, ông đã cho tôi tình cảm của xóm giềng. Thứ quý giá mà bố tôi vẫn dặn dò chúng tôi, sống cả đời với hàng xóm , phải biết giữ gìn để nhìn nhau như người thân.
Anh Hưng con nhà ông Bê ở ngõ nhà mình làm nghề chụp ảnh ở bờ Hồ. Dạo đó máy ảnh hiếm, chụp tráng phim, anh làm cũng khá tiền. Anh Hưng vui tính, mồm miệng hoạt bát, rất tếu táo. Lúc nào anh ngồi ở đâu là chỗ đó ầm ĩ tiếng anh, tuy rằng vóc dáng anh rất còi.
Ông Bê làm nghề sửa giày, đồn rằng ông là cao thủ đánh Chắn, ông đọc vanh vách cây bài nào đang ở trong nọc đến mức người ta thì thầm là ông chôn cây dưới nọc.
Anh Hưng không giỏi đánh chắn, anh đam mê chơi gà chọi.
Câu chuyện này là cách đây 30 năm. Hồi đó mình mới mười mấy tuổi, ham xem đánh gà lắm, ngày nào cũng phải chầu hẫu chuồng gà nhà anh Hưng ngắm. Thích nhất là nghe anh ba hoa về gà.
Một lần anh về quê, mang ra một con gà ô chân chì. Con gà ô lông xỉn không bóng, đuôi như gà mái, chẳng phải loại gà đuôi tôm cong vút dũng mãnh. Cặp chân của nó đã màu chì thì chớ, lại bị hủi trắng, vảy chân dày cộp như sắp bong ra. Một con gà xấu mã đủ đường. Mình hỏi anh mua làm gì, anh bảo mua về làm gà phu.
Gà phu là gà để gà khác tập luyện, như dạng võ sĩ quyền anh phải có bạn tập cùng. Gà phu để chạy hơi, chạy lồng với gà chiến. Thỉnh thoảng lại bị buộc mỏ để gà chiến đánh vài phút lấy gân.
Ở Lò Sũ có con gà tía mơ chân vàng rất đẹp, đợt đó cánh gà chọi quanh đó hay tụ tập ở quán nước trà của mẹ mình. Câu ra, cầu vào kích bác nhau là thành cuộc chọi gà. Chủ gà tía mơ chân vàng thách gà tía chân xanh chiến kê của anh Hưng đá. Nhưng con tía chân xanh lại đang bị xưng cục bàn. Anh Hưng khoác lác.
- Loại gà này chỉ đá với gà phu của tôi thôi.
Bên kia tức khí , bảo đánh thì cược tiền, anh Hưng bĩu môi.
- Gì chứ, tiền thằng này để trong tủ, mở ra là phải đứng né một bên , không tiền chả may nó đổ ra đè chết người.
Thế là cộp tiền, hai bên mang gà lên bờ đê sông Hồng chiến.
Con tía mơ chân vàng nổi tiếng về đánh mau, một lần nhấc chân nó có thể đánh tới hai ba cái đòn. Đã thế nó chí mỏ là đá được ngay. Nó ăn hai trận, chả trận nào quá bốn hồ. Trước khi thả gà, mọi người đều đặt cược về phe gà tía mơ. Bên gà ô chân chì đúng ông chủ của nó là anh Hưng cược lại với mọi người. Mình để ý hầu như anh Hưng mang gà ra đánh, toàn một mình một chiến tuyến.
Mình làm chân phục vụ chạy nước cho anh Hưng chữa gà. Mỗi hiệp đấu 15 phút, người ta cho gà nghỉ, xoa bóp, uống nước, ăn cơm, cà chua. Vì thời gian ngắn thế, nên việc phục vụ gà rất khẩn trương. Người chạy nước như một y tá mổ, người chữa gà hô kim chỉ là phải có kim chỉ xâu sẵn đưa ra, kêu nước sôi, cơm, khăn...gì đó là có ngay lập tức.
Hai gà thả vào đá giao nhau, gà tía mơ nhảy cao, chân tanh tách. Người ta chấp tám luôn. Lúc sau hết giao vào díu, gà tía mơ chồng trên hai mang đánh vùi dập gà ô chân chì trong tầm 4 phút. Người ta theo gà tía chấp ô xuống 6.
Lúc sau gà ô đánh mấy cái nhìn thấy nhẹ hều vào người gà tía. Hai con bắt đầu quần nhau, từ lúc này trở đi thấy con gà tía đánh thưa dần rồi chậm hẳn. Đến mấy hồ đấu sau thế trận thành bỉ bo, nhìn nhàm chán. Mỗi con đá đi đá lại vài cái rồi quần nhau, rồi lại đứng thở. Qua bốn hồ mà gà ô chân chì vẫn ngang cơ khiến bên gà tía mơ ngạc nhiên hoài nghi. Họ cho rằng con gà tía mơ có khi bị mất gân.
Mất gân là trường hợp chả may, thỉnh thoảng có gà đang đá tự nhiên hẫng hụt như mất hồn, lờ vờ không hăng hái chiến đấu mau lẹ như ngày thường.
Đến hồ thứ 9 thì tía mơ có vẻ không muốn đá nữa, nó đã nhìn ra ngoài. Nhìn tổng thế trận suốt 9 hồ chỉ có hồ đầu gà tía mơ đánh như vũ bão, sau đó thì tự nhiên hai con bằng đòn nhau, rồi cứ mỗi hồ gà tía mơ xuống sắc, tuy nhìn thì gà ô chân chì đánh nó không đau lắm. Cuối hồ 9 tía mơ dợm chân bước ra cót. Bên chủ tía mơ bưng gà lên xin thua.
Ai cũng nói gà anh Hưng gặp may, chứ nhìn phò thế, lẽ ra phải chạy kêu quang quác trong 3 hồ rồi. Anh Hưng chỉ cười hềnh hệch ngửa tay lấy tiền miệng nói.
- Đấy, các cụ bảo cờ bạc ăn nhau về sáng mà.
Con gà anh Hưng về cũng chả đau lắm, lẽ ra nó phải được nghỉ một tháng, sau đó vần hơi kiểm tra sức khoẻ, vần đòn kiểm tra chân đánh. Nhưng chỉ 20 ngày sau nó đã phải ra trận vì chủ của nó vốn là một kẻ bốc đồng, hay nói thánh tướng. Vảy đòn trận trước bong ra để lại vết sẹo trắng chưa lành. Ô chân chì lại phải đối đầu với một con bịp chân trắng.
Con bịp chân trắng đẹp như tranh, bịp mã mái lông mượt bóng, mắt trắng, mỏ trắng, móng trắng. Hai hàng vẩy đan nhau mỏng tang, rõ nét, hậu độ nổi tròn thẳng tắp đều như hạt cườm.
Người ta nói nó có những đòn bất ngờ khiến gà khác vùng lên kêu quang quác, hoảng loạn thần kinh, hoặc mất mắt, mất mỏ. Bip chân trăng ăn bốn trận, trận nào nó cũng có những đòn độc địa như thế.
Hai bên thả gà, lại chấp tám, rồi chấp sáu, lại mỗi mình anh Hưng một cửa. Sang đến hồ thứ hai trở đi trận đấu lại thành chậm rãi, bỉ bo như mấy ông thợ xẻ. Cứ đều đều tà tà đưa đẩy lưỡi cưa. Mỗi con đánh một vài đòn rồi lại quấn, lại thở. Bên gà bịp chân trăng hồ nào cũng gào hét trông đợi đòn '' cáo '' khiến con ô ngu ngơ kia kêu quang quác. Nhưng cứ kẽo kẹt hồ này sang hồ khác chả thấy đòn đấy đâu. Gà bịp thở dốc, chân đánh đàn run lẩy bẩy. Đến hồ tám có lúc mỏi quá nằm bệt dưới đất. Nước da bip xám ngoét không đỏ au nữa. Còn con gà ô khi sắc nó vẫn nhợt nhạt như lúc đầu. Bên gà bịp lại trách nhau là nuôi nấng thế nào để gà bị ốm trong, gặp con gà '' phở '' mà không ăn được. Hồ thứ mười thì gà bịp mỏi quá xoã cánh chạm đất trước, sau đó từ từ nằm uỵnh xuống, mặc kệ con gà ô nó bới lông gà bịp như bới đất tìm thức ăn. Chốc bịp nhô đầu lên, gà ô lại mổ cho vài cái hoặc đá một cái.
Sang hồ 11 chạy chữa xong, mang vào sới, gà bịp nằm ệch luôn. Chủ gà bịp chán quá xin thua.
Mọi người ai cũng bực tức, nói con gà ô mã xấu, đánh thì chả có đòn nào ra hồn, cứ toàn gặp may lúc gà khác nó bị mất gân, ốm trong. Rồi lằng nhằng từ hồ này sang hồ khác, ăn được đoạn gà khác mất sức.
Anh Hưng vẫn cười hềnh hệch ngửa tay lấy tiền cược.
Từ đó anh đi hạ nhục đối thủ là chỉ cần gà phu của anh ấy cũng làm cho gà chiến người khác thất bại. Anh tả lại thì oanh liệt lắm, người ta nghe như hai con gà đấu nhau long trời lở đất, cuối cùng gà anh ấy dũng mãnh, tài hoa hơn đã khiến chủ gà khác sợ mà phải bê gà xin thua, trước khi gà chạy kêu như gà mái bị ngỗng sư tử hiếp. Anh tả trận thứ nhất gà anh đánh một đòn, con gà tía mơ rung phao câu, rụng luôn hai hòn dái, nằm quay lơ. Chủ gà tía mơ mang về đến nhà thì gà chết, mổ ra làm thịt thấy hai hòn dái bên trong ( ngọc kê ) đã bị rời ra từ lúc nào. Trân thứ hai anh tả gà ô của anh đánh con bịp chân trắng một đòn kêu to như gõ trống vào mu lưng, đúng chỗ phổi. Ngay lập tức phổi tụ máu đông đặc, gà bịp sau trận về chết, mổ ra y như rằng phổi tụ máu đông lại như bát tiết canh.
Mình thì biết hai con gà tía mơ và bịp sau trận về nó chả sao, thậm chí trận sau này con bịp nó còn thắng phủ đầu gà khác bởi những đòn đặc trưng hiểm hóc của nó.
Con gà ô lại đấu tiếp trận thứ ba, nó vẫn thế, lông xỉn xơ xác, da dẻ nhợt nhạt, chân hủi. Mặt mũi buồn rười rượi khi thấy đối thủ. Lần này nó gặp con gà ô chân vàng khét tiếng. Gà ô mới đánh hai trận ăn cả hai. Trận thứ nhất nó đánh đòn mé rút gáy làm đối thủ xoè cánh giẫy đành đạch chết luôn tại hồ ba. Trận thứ hai nó buông đòn dọc gà đối thủ gãy cổ , mất kiểm soát chạy loăng quoăng đầu cứ vung vẩy như trẻ con cầm cái đoạn lốp cao su vẫy giả làm mình rắn, thần kinh tức thì ở hồ thứ tư. Anh Hưng cũng sợ tiếng gà ô chân vàng, nhưng trót nói phét, lại bị người ta muốn sửa cho anh ấy bài học về tôi ba hoa , nên họ hùa nhau khích bác.
- Tiền đè chết người mà phải sợ à?
- Gà đánh rụng dái, vỡ phổi gà khác mà sợ à.?
- À, gà nó không sợ, nhưn chủ gà dái bé nên sợ, có khi hòn dái chủ gà bé hơn dái gà.
- Nói phét gặp thời, ai đánh thuế thằng nói phét, ăn may hai trận thôi.
- Trận này mà đá xong, thì úp mo vào mặt, bảo đảm thay lông ba vụ.
Anh Hưng nghe điên lên, thế là giao hẹn ngày đá, cộp tiền trước. Không đá là mất tiền.
Không ầm ĩ, gào hét hùng hổ như những người bên ngoài. Hai con gà chỉ được hiệp đầu, các hiệp sau lại chậm rãi, quần nhau, đòn đi, đòn lại mươi cái trong một hồ. Cũng chả thấy đòn gẫy cổ của gà ô chân vàng. Đến hồ mười thả vào là gà ô chân vàng đi ra khỏi sới, nó còn khoẻ đến mức nhảy cả qua cót. Bắt nó thả vào nó lại bỏ ra, không hề kêu, không hề có vẻ sợ, kiểu như nó chán chơi. Nó nhảy đến ba lần, anh Hưng bảo theo luật nhảy cót ba lần không đánh là thua. Bên kia kêu là gà mày phải đuổi, nó nhảy cót mới là thua. Gà mày có đuổi đâu. Hai bên ngừng lại bắt gà ra xoa, dỗ dành rồi đẩy sát vai nhau. Gà ô chân chì mổ cái, gà ô chân vàng quay đầu đi ra cót nhảy ra ngoài. Thế là bên ô chân vàng phải nhận thua trong tức tối. Họ bảo chắc đợt trước vần hơi sâu, gà họ mất hơi nên bỏ đá.
Con gà ô chân chì ăn hai trận nữa, những với gà xoàng. Nhưng dù là hai đối thủ sau này xoàng xoàng, gà ô cũng chả đánh đòn nào đẹp mắt hay hiểm độc, cứ loàng xoàng như nhau, gà ô chân chì nhỉnh hơn tí, rồi khuya hồ gà kia chạy.
Thế là nó ăn 5 trận, gài tà danh hay gà phò phạch nó đều chiến thắng. Chả chiến thắng nào thuyết phục, gà khác đỏ khoẻ cứ đá với nó một lúc là xuống sắc như bị bệnh sẵn trong người. Trận đấu cứ lê thê mười hồ đổ ra , gà tài danh hay bún phở đều thua như nhau. Thua trong thế trận mệt mỏi, chán chường.
Con gà ô ốm không cứu nổi, anh Hưng thịt làm món giả cầy, xào lăn với sả ớt. Anh chẳng hề tiếc nuối, có lẽ anh nghĩ nó quá may mắn trong cuộc đời chính chiến. Nhiều con gà chết đi, danh tiếng của nó vẫn nhắc đến với những trận đánh oai hùng, oanh liệt và hấp dẫn. Riêng gà ô chân chì chết trong lãng quên. Những trận nó đánh chả có ấn tượng gì ngoài sự nhàm chán.
Hơn hai mươi năm qua đi, tôi xem nhiều trận bóng đá của các đội đỉnh cao nhiều khi diễn ra trong nhàm chán vì tính chặt chẽ chiến thuật hết hiệp chính, hiệp phụ rồi đá luân lưu, hoặc những trận quyền anh của các võ sĩ từng có thành tích mười mấy trận nốc ao đối thủ, cũng diễn ra bỉ bo hết mười mấy hiệp rồi tính điểm. Cảm giác xem cũng thất vọng vì không có những pha bóng hào hoa, những cú đấm hiểm hóc.
Ngày nọ tôi gặp một ông cụ già chơi gà chọi, vui miêng kể câu chuyện con gà ô chân chì. Cụ già sững người rồi trầm ngâm nói.
- Đó là một con gà quỷ. Những con gà quỷ nó khiến gà khác hay đến đâu khi gặp nó cũng trở thành tầm thường. Những con gà hay nó chiến thắng đẹp, vì gà khác hay nó đánh hay hơn. Con gà quỷ nó không thế, nó khiến đối thủ trở nên tầm thường hơn nó để nó thắng. Những con gà hay thì dễ thấy. Còn con gà quỷ đã rất hiếm, mà có khi nó xuất hiện người ta cũng không biết, nhìn nó đánh đấy, chiến thắng đấy những vẫn nghĩ nó ăn may. Nói là quỷ, nhưng nó là thần kê đấy cháu ạ. Mắt thường không thấy nổi đâu. Chỉ có linh cảm mới hiểu được nó. Nó mã đã xấu, nhìn không thấy rồi, kể cả được xem nó đánh nữa cũng chả thấy hay gì, nên khó biết là phải.
Tôi về nghĩ mãi, có thể con gà ô chân chì không phải thần kê. Nhưng nó ăn năm trận kiểu như thế thì khó là may mắn, gà hay gà dở nó đều chiến thắng cách như vậy cả. Đó là điều tôi băn khoăn.
Trong cuộc đời mình, làm nhiều nghề khác nhau. Tự dưng tôi nhớ đến những người thợ lặng lẽ, cần cù. Chả thấy họ có gì nổi bật, nhưng phần việc nào họ nhận làm, họ làm cần mẫn, chăm chỉ và hoàn thành. Những việc tưởng khó khăn, trắc trở nhưng vào tay họ, mọi việc cứ trở thành dơn giản. Khiến nhiều khi tôi hoài nghi không phải việc khó khăn gì như mình tưởng, mà chẳng qua mình cảm giác là nó khó khăn thế thôi. Nhất là khi làm xong, thái độ họ dửng dưng, thản nhiên như không phải làm xong một việc khó khăn nữa.
Có lẽ bây giờ tôi phải nghĩ lại nhiều thứ đã chứng kiến, lúc tóc tôi đã rụng và bạc nhiều.
1. Sớm chót Thu, tôi theo mấy ông bên ngành văn hóa Hà Nội xuyên vào ngõ Phất Lộc. Chẳng phải là cuộc đi suông, dạo phố cổ, mà là có việc cả đấy. Xin được nói ở phần sau.
Cả bọn ghé vào quán bún riêu nghe đồn nổi tiếng phố cổ. Quán ngay trước cửa đền Tiên Hạ.
Cô hàng bún nhác bộ dạng tôi cứ loay hoay, một nhoáng đã thẩy ra một chiếc ghế cao kèm cái xuýt xoa: "Bác phải ngồi ghế này chứ đâu có bệt như đám trẻ được"! Chửa được xơi bún mà đã mát cả dạ trước cử chỉ của người phố cổ.
Ngõ Phất Lộc.
Bên tôi, ông bạn văn hóa chưa vướng chút gia vị bún riêu nào mà đã nổi cơn xuýt xoa. Ấy là ông đương khen cái thế đắc địa của con ngõ Phất Lộc này. Rằng cái quán ta ngồi đây là nơi hội tụ của cái ngõ gồm ba nhánh nhỏ có lối vào từ ba con phố khác nhau: cuối phố Hàng Mắm và đầu các phố Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Hữu Huân. Ba nhánh này lại hội tụ ở cổng ngôi đền Tiên Hạ này. Mà nữa, tên Phất Lộc là cái tên làng mãi tít dưới huyện Đông Quan của tỉnh Thái Bình thiên di lên Thăng Long đấy nhé!
Rồi đương cơn thuận mồm, ông rành rẽ. Ấy là năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) có anh chàng thư sinh họ Bùi quê Thái Bình đến Thăng Long học trường Quốc Tử Giám rồi lập nghiệp tại thôn Tiên Hạ chính là cái làng của thành Thăng Long đây. Sau đó người làng dưới Thái Bình cũng theo lên, dần dần dân Phất Lộc chiếm đa số và hình thành tên ngõ. Người Phất Lộc dựng đình riêng của làng ở số nhà 46 chính là đình Tiên Hạ này. Còn phía ngách kia, số nhà 30 là nhà thờ họ Bùi, hàng năm con cháu vẫn tới giỗ tổ. Bùi Tú Lĩnh người soạn văn bia đình Thanh Hà cũng thuộc dòng họ này.
Chợt nhớ đến động thái kéo ghế của chị chủ quán. Chẳng hay chị bán hàng mau mắn thảo lão ấy, chị có phải con cháu nào của dòng, của chi họ Bùi nào không? Dưng dứt khoát động thái ấy, phản xạ ấy phải xuất phát từ cái gene lành của người quê hòa nhập hòa hợp với dân Kẻ Chợ? Như ngôi đền Tiên Hạ kia, ngôi đình làng của dân Tiên Hạ Phất Lộc thờ Nguyễn Trung Ngạn, nhà chính trị, một đại thần có tài của nước Đại Việt thời nhà Trần từng làm đến chức Kinh sư đại doãn trực tiếp cai quản kinh thành. Thăng Long có tận bảy nơi thờ Ngài, trong đó có Đền Tiên Hạ ở ngõ Phất Lộc này. Nhớ thêm ông thầy Mai Cao Chương, giáo sư dạy văn học cổ Khoa Văn chúng tôi.
Bên cạnh những trước tác uẩn súc hàn lâm của vị đại thần Nguyễn Trung Ngạn, thầy dành hẳn một buổi để phân tích cái chất dung dị dân dã trong văn thơ của ngài. Như cái câu tả nỗi nhớ quê khi ngài đi sứ Bắc phương "Dâu già lá rụng tằm vừa chín/ Lúa sớm đương nở hoa thơm, cua đang lúc béo. Ở Giang Nam tuy vui cũng không bằng về nhà…". Mà cũng lạ, vị thần Thành hoàng dân Tiên Hạ, dân Phất Lộc thờ, lại là ông quan uyên bác, dân dã này?
2. Thời khắc cuộc tụ bún riêu ở Ngõ Phất Lộc, tôi bỗng thân ái xích lại gần, chạm khẽ vào bờ vai của ông bạn thạo sử. Bờ vai ấy như đương rung lên những âm thanh của một quá vãng. Như lây, như xao xuyến thêm những trang hồi ký của học giả Nguyễn Hiến Lê. Hóa ra cụ sinh ở Ngõ Phất Lộc này. Trước khi được tiếp cận với cuốn hồi ký của cụ, cứ đinh ninh (qua nhiều tài liệu) Nguyễn Hiến Lê quê tổ đình mãi tận Phương Khê, Ba Vì, lớn lên mới xuống Hà thành học. Nhưng cái ngõ này không những sinh ra mà cả tuổi thơ cậu bé Nguyễn Hiến Lê đều loanh quanh ở Phất Lộc này.
Tác giả bên quán ăn vỉa hè ngõ Phất Lộc
"… Nằm sau lưng phố Bờ Sông (Quai du Commerce - nay là phố Trần Nhật Duật) đầu trông ra Cột đồng hồ bờ sông Nhị, đuôi trở ra phố Hàng Mắm, ngõ Phất Lộc hẹp độ 2 thước (mét) dài hơn 200 thước (địa bạ thời mới ghi chính xác là gần 300 thước) lát đá gồ ghề chỉ có một dãy nhà nhìn ra phía trước. Nhà nào cũng xây cất từ thời Tự Đức. Nhà đa số hẹp chỉ hai, ba thước và sâu có chỗ hơn 30 thước. Trước năm 1930 có vài nhà ông Phán hay ông Đồ. Khá phong lưu. Nhà có sân nhỏ ở trong.
Hai căn nhà số Hai và số Bốn ở đầu ngõ do các cụ tôi cất trong thời Tự Đức (chưa rõ năm nào) tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ phong lưu ở Hà Nội. Mái ngói, tường gạch, rui, cột, xà đều bằng danh mộc, mọt khó đục. Ngôi nhà số Hai, chiều ngang ba thước sâu 32 thước. Ngoài đường bước vào là một căn bếp thấp hơn mặt đường ba, bốn tấc. Qua nhà bếp xuống ba bốn bực nữa tới nhà trong thông thống từ trước đến sau không ngăn từng phòng. Tiếp là cái sân gạch mỗi chiều hai thước cho nhà khỏi tối. Tiến vô sâu nữa, gặp một sân dài bốn thước choán hết chiều ngang. Sân có bể con chứa nước mưa. Gần cuối nhà có khúc quẹo qua bên trái thuộc về nhà số Bốn rộng hai thước rưỡi, sâu mười thước gồm 2 phòng mỗi phòng 2,5 x 3 thước. Lại cách nhau một cái sân dài bốn thước.
Nội thất ngôi nhà thực là một mê thất không tiện cho người thường ở mà rất tiện dụng cho các nhà cách mạng. Thì ra hai ông bác tôi (đều là yếu nhân trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục) dùng ngôi nhà làm chỗ tiếp các đồng chí của mình suốt từ năm 1906-1910. Cụ Lương Văn Can đã từng họp hành ẩn náu ở nhà này. Mật thám Pháp tới xét thì còn đang lần mò ở nhà ngoài thì các cụ nhà trong đã kịp ẩn thoát qua nhà số Bốn hoặc leo qua tường nhà bên cạnh". (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2001. Trang 22, 23).
Giữa chừng chầu bún riêu, cả đám chúng tôi không ai bảo ai mà như cùng thở than cho một sự. Ấy là ai đó như thốt chung cho cả bọn, rằng gắn bó với Hà Nội đến như Nguyễn Hiến Lê, nhất là Vũ Bằng mà lạ, cả hai không một lần trở lại Hà Nội - Thăng Long sau thời điểm 30/4/1975? Nào đâu phải mắc, vướng phe này phe nọ vì cụ Nguyễn Hiến Lê là một học giả, nhà biên khảo nổi tiếng thuần văn hóa xã hội học. Còn nhà văn Vũ Bằng vốn là tình báo phe ta. Chả biết có phải như một ông đương thốt lên cái duyên do là nhị vị ấy đều so súi tiền eo hẹp thì Bắc tiến hơi bị khó (?)
3. Xin trở lại cuộc ngồi của mấy ông chức việc bên ngành văn hóa.
Họ đương làm cái việc điều nghiên, khảo sát để cho dựng một tấm biển Kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến. Cụ thể là cuộc rút quân ngoạn mục của Trung đoàn Thủ đô!
Các nhà của ngõ Phất Lộc hoặc là châu tuần hoặc là thông thương với đền Tiên Hạ. Thời gian năm 1946, đầu năm 1947, các nhà đều đục tường thông với nhau để tự vệ quân dễ dàng lưu thông chống Pháp. Sự kiện đục tường, nối thông các nhà ở nội đô Hà Nội trong những ngày toàn quốc kháng chiến đã trở thành phương thức chiến đấu sáng tạo của quân ta. Vì đặc điểm kiến trúc của mỗi nhà khác nhau, nên những bức tường đục đã tạo nên ma trận với quân Pháp.
Sử nước còn ghi đậm một sự kiện. "Đầu năm 1947, kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp vào nội thành và các cửa ô thành phố Hà Nội đã không đạt được mục đích, phải chờ quân chi viện từ Pháp sang. Giữa lúc đó, lãnh sự Trung Hoa đề nghị Pháp và Việt Minh tạm ngừng bắn để Hoa Kiều rút khỏi thành phố. Tại một địa điểm gần Ô Chợ Dừa, các ông: Nguyễn Văn Trân - Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hà Nội, Bí thư Đảng ủy Mặt trận kiêm Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hà Nội; Hoàng Minh Giám - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Hoàng Hữu Nam - Thứ trưởng Bộ Nội vụ đã hội đàm với Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân quốc, Tổng lãnh sự Anh, Tổng lãnh sự Mỹ bàn về các vấn đề cụ thể và đi đến thỏa thuận ngừng bắn để Hoa kiều rút lui ra ngoài. Ngày 16/2/1947, theo đề nghị của Lãnh sự quán Trung Quốc, ta và Pháp đồng ý tạm ngừng bắn một ngày (18/2/1947) để Hoa kiều phố Hàng Buồm đi tản cư công khai ra khỏi Hà Nội. Chớp lấy thời cơ, Trung đoàn Thủ đô quyết định vượt vòng vây rút ngay trong đêm bằng cách vượt sông Hồng!
Đêm 17/2/1947, đại bộ phận của Trung đoàn Thủ đô đã nhanh chóng bí mật tập kết tại đền Tiên Hạ và ngõ Phất Lộc.
Ngõ Phất Lộc được coi là căn cứ hiểm yếu lối ra bí mật, đoạn đường ngắn nhất và cũng là cần thời gian ngắn nhất để toàn bộ lực lượng Trung đoàn Thủ đô băng qua phố Trần Nhật Duật khi ấy trống trải thoát lên bờ đê sông Hồng. Những chiến sĩ tiểu đoàn 103 của Trung đoàn Thủ đô làm nhiệm vụ tập hậu băng qua con đê, đi trong sương mù dày đặc qua cầu Long Biên ngay dưới ánh đèn gác của kẻ thù. Đoàn quân lặng lẽ xuyên đêm, tay mỗi người cầm chặt vào một sợi dây tết bằng vải để anh em không lạc nhau. Để tránh Việt gian trà trộn, trên vai mỗi người lúc đó, thấp thoáng tấm băng in đậm TĐTĐ (Trung đoàn Thủ đô)
Chỉ trong vòng 1 tiếng, từ khi có lệnh của cấp trên, Ban Chỉ huy Trung đội tự vệ xã Tứ Liên đã huy động được 44 thuyền gỗ để làm nhiệm vụ đặc biệt chở Trung đoàn Thủ đô qua sông Hồng.
Trời đã sáng bạch của ngày 18/2/1946. Quân Pháp chờ mãi không thấy Hoa kiều tản cư (từ chặp tối khi biết Trung đoàn Thủ đô đã rút, bà con Hoa Kiều cũng dừng lại việc tản cư) thời điểm ấy mới ngã bổ chửng khi biết Trung đoàn Thủ đô đã thoát ra qua ngõ Phất Lộc từ hồi đêm.
Quân Pháp vội vã truy kích. Nhưng có lẽ đã quá muộn. Từ Gia Lâm, chúng đưa xe tăng thọc sâu lên Cơ Xá trên bờ Bắc sông Hồng. Từ bến Phà Đen, Pháp huy động chiến thuyền ngược sông tìm quân ta. Đến khoảng 8h30 vẫn mất dạng quân của Trung đoàn Thủ đô, chúng hèn hạ trả thù dân Tứ Liên và dân bãi giữa sông Hồng. Giặc Pháp đã gây tội ác bắn chết 27 người, bắt đi 70 người, đốt trụi 196 ngôi nhà, phá sập đình Vạn, đình Xuyên, phá nát 44 thuyền…". (Hết trích).
Chưa ấn định cụ thể, nhưng tấm biển có thể dựng bên đền Tiên Hạ hoặc đâu đó đầu con ngõ Phất Lộc sắp tới sẽ có những dòng đại loại như này: Nơi đây, tại ngõ Phất Lộc, đêm 17/2/1947, toàn bộ lực lượng của Trung đoàn Thủ đô đã bí mật tập kết và rút lui an toàn lên chiến khu và tỏa ra tham gia chiến đấu trên các mặt trận. Để đến sáng 10/10/1954, đại quân của Trung đoàn trở về tiếp quản từ 5 cửa ô Hà Nội!
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.