Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

13/05/2025

Doanh nhân Việt Nam và kinh tế tư nhân - nghị quyết 68 (tháng 5 năm 2025)

Nghị quyết 68 (tên viết đầy đủ là Nghị quyết 68-NQ/TW) vừa được ban hành đầu tháng 5 năm 2025.

Dưới đây là toàn văn (bản PDF và bản word).

Tháng 5 năm 2025,

Giao Blog


---


















...

Toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân

Kinhtedothi - Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Báo Kinh tế & Đô thị trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết này.

NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

về phát triển kinh tế tư nhân

-----

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới.

Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do: Tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức; quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. Kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận; chi phí kinh doanh còn cao.

Nhằm hiện thực hoá mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra và đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách.

Từ tình hình trên, Bộ Chính trị yêu cầu tập trung quán triệt, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nội dung sau:

I- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

1. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.

2. Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hoá trong các chiến lược, chính sách phát triển của đất nước; nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế.

3. Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam; đánh giá đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với phát triển đất nước; nuôi dưỡng, khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của người dân, doanh nghiệp, tôn trọng doanh nghiệp, doanh nhân, xác định doanh nhân là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế; bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, được tự do kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cẩm; tạo dựng, củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nhân; bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác của đất nước theo quy định của pháp luật.

4. Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu. Kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong những lĩnh vực ưu tiên, đầu tư nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tham gia vào các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược của quốc gia và vươn tầm khu vực, thế giới; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và làm giàu hợp pháp, chính đáng.

5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hoá kinh doanh, bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo, nỗ lực vươn lên; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội.

II- MỤC TIÊU

1. Đến năm 2030

- Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.

- Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

- Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm.

- Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

2. Tầm nhìn đến năm 2045

Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.

III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1. Đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân

- Nhất quán nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân; củng cố niềm tin, khát vọng vươn lên và hành động mạnh mẽ của kinh tế tư nhân Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Nhà nước kiến tạo, phục vụ, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, không can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trái với nguyên tắc thị trường; xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp cởi mở, thân thiện, đồng hành, liêm chính phục vụ, kiến tạo phát triển.

- Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động, khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, sự tự tin, tự cường, tự hào dân tộc của mọi người dân để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân. Các cơ quan truyền thông, báo chí cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền, bảo đảm khách quan, trung thực, đầy đủ, cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, khích lệ tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội. Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.

2. Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân

2.1. Đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách

- Đổi mới tư duy xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật bảo đảm nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; giảm thiểu sự can thiệp và xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế "xin - cho", tư duy "không quản được thì cấm". Người dân, doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Quyền kinh doanh chỉ có thể bị hạn chế vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, môi trường và sức khoẻ của cộng đồng và phải được quy định trong luật.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp. Minh bạch hoá, số hoá, thông minh hoá, tự động hoá, áp dụng triệt để trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính, nhất là về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn... Trong năm 2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân; thực hiện cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo. Triển khai mạnh mẽ việc cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Phấn đấu đến năm 2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thuộc nhóm 3 quốc gia hàng đầu ASEAN và nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới.

- Chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; hiện đại hoá quản trị công, quản trị dựa trên dữ liệu. Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế. Sửa đổi Luật Phá sản, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục pháp lý, mở rộng phạm vi áp dụng chế tài phá sản rút gọn; đầy mạnh áp dụng thủ tục tố tụng trên nền tảng điện tử, cải cách cơ chế xử lý tài sản. Thiết lập cơ chế đánh giá, phản hồi về các rào cản, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán trong thực thi chính sách giữa trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương với nhau.

- Thực hiện cơ chế thị trường, không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác. Rà soát, hoàn thiện các chính sách thuế, phí, lệ phí theo hướng bảo đảm đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế, giảm thuế suất, mở rộng cơ sở tính thuế, nhất là thu thuế điện tử khởi tạo từ máy tính tiền; nghiêm cấm lạm dụng quyết định hành chính, hành vi bảo hộ cục bộ của ngành, địa phương. Xử lý nghiêm các hành vi làm hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh.

- Hoàn thiện khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, đặc biệt là công nghệ tài chính, trí tuệ nhân tạo, tài sản ảo, tiền ảo, tài sản mã hoá, tiền mã hoá, thương mại điện tử... Có cơ chế thử nghiệm đối với những ngành, lĩnh vực mới trên cơ sở hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu, bảo đảm an ninh, an toàn.

- Tạo mọi thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính; phân công, phân cấp, phân nhiệm rõ ràng giữa các cấp, ngành của từng cơ quan, đơn vị, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong giải quyết thủ tục hành chính. Xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, trục lợi cá nhân, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức; đồng thời, có cơ chế miễn trừ trách nhiệm đối với trường hợp đã thực hiện đầy đủ các quy trình, quy định liên quan, không tư lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng có thiệt hại do rủi ro khách quan.

- Có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo đảm theo nguyên tắc thị trường và tuân thủ các cam kết quốc tế; bãi bỏ lệ phí môn bài; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 3 năm đầu thành lập; bố trí đủ nguồn lực từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cho các chương trình, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, kết hợp huy động nguồn lực từ các quỹ đầu tư của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, viện nghiên cứu, trường đại học... Tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân, doanh nhân trong tham gia góp ý, phản biện chính sách, bảo đảm thực chất, hiệu quả, minh bạch.

- Đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng, đa dạng hoá các kênh phân phối, phát triển mạnh các nền tảng số, thương mại điện tử; triển khai thực chất, hiệu quả Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; nâng cấp, đổi mới chương trình xúc tiến thương mại quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân xây dựng và quảng bá thương hiệu. Khuyến khích phát triển các tập đoàn bán lẻ tư nhân; có chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tham gia chương trình, kế hoạch, dự án mua sắm công phù hợp với thông lệ quốc tế. Nâng cao năng lực thực thi, tận dụng các cam kết quốc tế và có cơ chế hỗ trợ hiệu quả giải quyết tranh chấp quốc tế cho khu vực kinh tế tư nhân...

- Cập nhật và chuẩn hoá hệ thống chỉ tiêu, số liệu thống kê, cơ sở dữ liệu về kinh tế tư nhân để phục vụ cho công tác đánh giá, hoạch định chính sách, chiến lược phát triển phù hợp cho từng giai đoạn. Có cơ chế phù hợp chia sẻ hệ thống dữ liệu cho các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, tư vấn, phản biện chính sách.

2.2. Bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật thực thi hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng. Có cơ chế đặc thù để xử lý các dự án, hợp đồng tồn đọng kéo dài nhiều năm, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã hội, cản trở quá trình phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, song song với việc xác định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; chấm dứt tình trạng cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo các hợp đồng đã ký với các doanh nghiệp tư nhân. Tăng cường tính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả của toà án kinh tế, trọng tài thương mại trong xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế bảo đảm nhanh chóng, công bằng, khách quan, bình đẳng.

- Rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình; giảm thiểu rủi ro pháp lý. Có chính sách hỗ trợ định giá, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước; hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhất là vi phạm trên không gian thương mại điện tử. Bảo đảm thực hiện trực tuyến toàn trình thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, cắt giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục yêu cầu cấp quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài, không cần thiết; bảo đảm nguyên tắc chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm 1 lần đối với doanh nghiệp, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc doanh nghiệp vi phạm; xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng thanh tra, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống dữ liệu và công cụ trí tuệ nhân tạo cảnh báo sớm về các nguy cơ vi phạm pháp luật. Ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Triển khai thanh tra, kiểm tra trực tuyến, ưu tiên thanh tra, kiểm tra từ xa dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm thanh tra, kiểm tra trực tiếp. Miễn kiểm tra thực tế đối với các doanh nghiệp tuân thủ tốt quy định pháp luật.

2.3. Tuân thủ nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự; giữa pháp nhân và cá nhân trong xử lý vi phạm

- Sửa đổi các quy định về pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự để bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo. Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp. Đối với các vụ việc thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng phải sớm có kết luận, tránh ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, doanh nhân. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra, xét xử các vụ án.

- Bảo đảm việc niêm phong, kê biên tạm giữ, phong toả tài sản liên quan đến vụ việc, vụ án phải theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phạm vi, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong toả tương ứng với dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án.

- Phân biệt rõ tài sản hình thành hợp pháp với tài sản có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên quan đến vụ án; giữa tài sản, quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp của cá nhân những người quản lý trong doanh nghiệp. Cho phép sử dụng hợp lý các biện pháp cần thiết để bảo đảm giá trị tài sản liên quan đến vụ án, giảm thiểu tác động của điều tra đến hoạt động sản xuất - kinh doanh, sau khi có ý kiến thống nhất của các cơ quan tố tụng và không ảnh hưởng đến hoạt động điều tra.

3. Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao

3.1. Tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho kinh tế tư nhân

- Đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có cơ chế, chính sách phù hợp kiểm soát biến động giá đất, đặc biệt là giá đất sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp, hạn chế tối đa ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư, sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Chậm nhất trong năm 2025, hoàn thành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai kết nối với Trung tâm dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu có liên quan. Thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai; công khai, minh bạch và chủ động cung cấp thông tin tới doanh nghiệp; giảm thiểu thời gian giải quyết thủ tục thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hỗ trợ tích cực trong giải phóng mặt bằng.

- Cho phép các địa phương sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ, trên cơ sở yêu cầu, các chủ đầu tư dành một phần quỹ đất đã đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê. Các địa phương căn cứ vào tình hình thực tế, xác định quỹ đất đối với từng khu công nghiệp, cụm công nghiệp đảm bảo bình quân tối thiểu 20 ha/khu, cụm công nghiệp hoặc 5% tổng quỹ đất đã đầu tư kết cấu hạ tầng dành cho các doanh nghiệp nêu trên. Nhà nước có chính sách giảm tối thiểu 30% tiền thuê lại đất cho các đối tượng này trong vòng 5 năm đầu kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất. Khoản tiền thuê đất được giảm được hoàn trả cho chủ đầu tư thông qua việc khấu trừ tiền thuê đất mà chủ đầu tư phải nộp theo quy định của pháp luật; có chính sách hỗ trợ về hạ tầng mặt bằng sạch, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

- Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án vướng thủ tục, chậm tiến độ; đưa vào khai thác nguồn lực đất đai bị lãng phí, đất công, trụ sở cơ quan không sử dụng, đất trong các vụ việc tranh chấp, vụ án kéo dài. Có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thuê nhà, đất là tài sản công chưa sử dụng hoặc không sử dụng tại địa phương.

3.2. Đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân

- Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng cho kinh tế tư nhân. Có chính sách ưu tiên một phần nguồn tín dụng thương mại để dành cho doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vay để đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ mới, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và tín dụng xuất khẩu, tín dụng theo chuỗi cung ứng. Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị, xem xét các tài sản bảo đảm bao gồm cả động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và hình thức cho vay tín chấp.

- Đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh; Nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG).

- Rà soát khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện mô hình các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả trung ương và địa phương; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp lớn bảo lãnh cho các khoản vay của các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chấp nhận rủi ro do điều kiện khách quan, bất khả kháng trong hoạt động bảo lãnh; thực hiện quản lý theo mục tiêu tổng thể; quy định mức trích quỹ dự phòng tài chính hợp lý, nới lỏng điều kiện cấp bảo lãnh so với điều kiện vay vốn ngân hàng; có cơ chế bổ sung nguồn lực, chính sách bảo hiểm hợp lý bảo đảm an toàn hệ thống. Nghiên cứu thành lập quỹ tái bảo lãnh và các mô hình bảo lãnh chéo, đồng bảo lãnh...

- Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế hoạt động của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng, đơn giản hoá, minh bạch hoá, số hoá điều kiện, quy trình, thủ tục tiếp nhận, thẩm định, cho vay và giải ngân vốn; đa dạng hoá nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, đóng góp từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế...; khẩn trương bổ sung chức năng, nhiệm vụ đầu tư vào các quỹ đầu tư địa phương và các quỹ đầu tư tư nhân để tăng nguồn cung vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; tài trợ vốn mồi cho các dự án khởi nghiệp, cho vay khởi nghiệp; xây dựng vườn ươm và hỗ trợ khởi nghiệp. Khuyến khích mô hình đồng tài trợ của các quỹ trung ương, địa phương, tư nhân và các tổ chức tài chính, tín dụng nhằm chia sẻ rủi ro và tăng mức ưu đãi cho các khoản vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Rà soát, sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động của các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi để đa dạng hoá nguồn cung tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa đổi khung pháp lý về hoạt động của công ty cho thuê tài chính theo hướng mở rộng danh mục tài sản cho thuê, trong đó có tài sản phi truyền thống như phần mềm, quyền khai thác, tài sản trí tuệ, dữ liệu. Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát về cho vay ngang hàng, về sàn giao dịch gọi vốn cộng đồng để kết nối trực tiếp doanh nghiệp nhỏ và vừa với cá nhân, tổ chức tài trợ vốn.

- Kết nối, chia sẻ thông tin giữa các hệ thống ngân hàng, thuế và các cơ quan có liên quan, bảo đảm liên thông, chia sẻ dữ liệu về tình hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp, đánh giá tình hình mức độ tín nhiệm và chấm điểm tín dụng của doanh nghiệp từ phía các tổ chức tín dụng, các quỹ tài chính và các tổ chức xếp hạng tín dụng thứ ba để tăng cường cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh.

- Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị, xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, chuẩn mực, chuẩn hoá chế độ kế toán, kiểm toán, thực hiện các giải pháp tăng uy tín và khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính.

- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động cấp tín dụng; kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay phục vụ hệ sinh thái nội bộ.

- Rà soát, hoàn thiện chính sách thuế, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư góp vốn của các quỹ đầu tư vào doanh nghiệp; tăng hạn mức đầu tư vào tài sản dài hạn hoặc tài trợ vốn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp; thiết lập cơ chế huy động vốn trung và dài hạn cho các quỹ đầu tư. Nghiên cứu cho phép các định chế đầu tư tài chính mở rộng khả năng huy động vốn từ các nguồn như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí tự nguyện để phát triển thị trường vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp tư nhân.

- Khẩn trương nâng hạng, tái cơ cấu thị trường chứng khoán, phát triển thị trường bảo hiểm, hoàn thiện quy định về trái phiếu doanh nghiệp để nâng cao chất lượng và mở rộng kênh huy động vốn ổn định, chi phí thấp cho kinh tế tư nhân. Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về chứng khoán hoá các khoản nợ.

3.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân

- Tập trung các nguồn lực phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp chất lượng cao, ngành nghề trọng điểm. Khuyến khích phát triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, nhân rộng, chuyển giao các chương trình đào tạo tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế tư nhân.

- Đổi mới phương thức đánh giá, công nhận tốt nghiệp có sự tham gia của doanh nghiệp đối với các chương trình chất lượng cao. Hỗ trợ, khuyến khích hình thức đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và thu hút doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào đào tạo nhân lực. Chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Thực hiện hiệu quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân; khuyến khích các địa phương sử dụng các nguồn lực hợp pháp của mình để hỗ trợ chủ động các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực phù hợp định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

- Triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho đội ngũ doanh nhân.

- Thúc đẩy giáo dục, đào tạo các kỹ năng sáng tạo, STEM, ngoại ngữ, kỹ năng số trong tất cả các bậc học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.

4. Thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân

- Triển khai quyết liệt Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong khu vực kinh tế tư nhân.

- Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công nghệ tài chính, y tế thông minh...

- Cho phép các doanh nghiệp được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế của hoạt động này. Có chính sách hỗ trợ chi phí đầu tư mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ, chi phí thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh bền vững, tuần hoàn thông qua cơ chế khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc tài trợ qua các quỹ.

- Doanh nghiệp được trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển. Doanh nghiệp được sử dụng quỹ để tự triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài theo cơ chế khoán sản phẩm.

- Doanh nghiệp, tổ chức tư nhân được sử dụng phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm, phòng hỗ trợ thiết kế và thiết bị nghiên cứu dùng chung, trung tâm thử nghiệm, đo lường, kiểm định, giám định của Nhà nước để phát triển sản phẩm với mức phí hợp lý.

- Có chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo kể từ thời điểm phát sinh thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức đối với khoản thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia, nhà khoa học làm việc tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo, các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

- Nhà nước ưu tiên nguồn lực hỗ trợ đầu tư phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo phục vụ ươm tạo phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển và chuyển giao các công nghệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.

5. Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI

- Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành, nhất là công nghiệp hỗ trợ, chế biến chế tạo, chế biến nông sản, thực phẩm, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Xác định việc doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ thử nghiệm sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, kiến thức và đào tạo nguồn nhân lực, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nhỏ và vừa là một tiêu chí quan trọng để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng.

- Khẩn trương triển khai các chính sách hỗ trợ về nghiên cứu phát triển, đào tạo, tư vấn, xúc tiến thương mại, chuyển giao công nghệ,... Hỗ trợ doanh nghiệp đạt các chứng chỉ, chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn ngành theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ tư vấn, xúc tiến thương mại để kết nối các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm, khu thương mại tự do.

- Áp dụng tỉ lệ nội địa hoá phù hợp theo lộ trình trong các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, ưu tiên; đặt vấn đề các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án. Hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đã làm việc tại doanh nghiệp FDI nhằm tận dụng kinh nghiệm, kiến thức, mô hình quản trị, mối quan hệ với các doanh nghiệp FDI để tham gia vào chuỗi cung ứng.

6. Hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp lớn và vừa, các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu

- Mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia; Nhà nước chủ động có chính sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu hoặc có chính sách ưu đãi khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia cùng Nhà nước vào các lĩnh vực chiến lược, các dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng quốc gia (như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, công nghiệp mũi nhọn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, giao thông xanh, công nghiệp quốc phòng, an ninh...), những nhiệm vụ khẩn cấp, cấp bách. Có giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân đầu tư mở rộng và phát triển cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao, phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp giải trí.

- Đa dạng hoá, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thông qua các mô hình hợp tác công tư (PPP), lãnh đạo công - quản trị tư, đầu tư công - quản lý tư, đầu tư tư - sử dụng công, trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng văn hoá - xã hội, công nghệ thông tin, truyền thông trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo để lựa chọn. Khẩn trương xây dựng, triển khai Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ.

- Xây dựng, triển khai Chương trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global), tập trung hỗ trợ về thị trường, vốn, công nghệ, thương hiệu, kênh phân phối, logistics, bảo hiểm, thưởng thành tích xuất khẩu, tư vấn, pháp lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, mua bán sáp nhập, kết nối với các tập đoàn đa quốc gia...

7. Hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh

- Rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh cá thể; thu hẹp tối đa sự chênh lệch, tạo mọi điều kiện thuận lợi về tổ chức quản trị và chế độ tài chính, kế toán để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Đẩy mạnh số hoá, minh bạch hoá, đơn giản hoá, dễ tuân thủ, dễ thực hiện đối với chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm... để khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Xoá bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất trong năm 2026.

- Cung cấp miễn phí các nền tảng số, phần mềm kế toán dùng chung, dịch vụ tư vấn pháp lý, đào tạo về quản trị doanh nghiệp, kế toán, thuế, nhân sự, pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

- Thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo tác động xã hội.

8. Đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước

- Xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hoá kinh doanh, trung thực, thanh liêm, trách nhiệm xã hội, gắn với bản sắc dân tộc, tiếp cận tinh hoa văn hoá kinh doanh thế giới, mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng. Lấy đạo đức, văn hoá kinh doanh làm cốt lõi, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Đánh giá doanh nghiệp tư nhân theo chuẩn quốc tế dựa trên các tiêu chí cốt lõi về: (1) Mức độ tuân thủ pháp luật. (2) Giải quyết công ăn việc làm. (3) Đóng góp vào ngân sách nhà nước và (4) Tham gia các hoạt động an sinh xã hội.

- Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong toàn xã hội; nuôi dưỡng và khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của mọi người dân. Khẩn trương đưa chương trình đào tạo khởi nghiệp kinh doanh vào các cơ sở giáo dục, đào tạo, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh trong học sinh, sinh viên.

- Tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng. Huy động đội ngũ doanh nhân xuất sắc, có tâm, có tầm tham gia quản trị đất nước.

- Thiết lập mối quan hệ giữa các cấp uỷ đảng, chính quyền với doanh nghiệp chặt chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở, chân thành, trong đó các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động, tận tuỵ giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp tư nhân theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề vượt thẩm quyền; đồng thời phát huy vai trò góp ý, phản biện chính sách của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trung thực, kịp thời, đúng bản chất các vấn đề khó khăn, vướng mắc; nghiêm cấm việc thao túng, trục lợi chính sách, lợi dụng, làm tha hoá cán bộ, công chức.

- Doanh nghiệp tư nhân, doanh nhân cần chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, năng động, sáng tạo, giữ vững bản lĩnh, nuôi dưỡng ý chí, khát vọng, không ngừng học hỏi, nâng cao năng lực, phẩm chất, trình độ, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, nỗ lực phấn đấu vươn lên, làm giàu chính đáng và đóng góp cho quê hương, đất nước.

- Không ngừng củng cố, nâng cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, doanh nhân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, doanh nhân; tham gia xây dựng, phản biện và giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước.

- Cần có chính sách cụ thể, khả thi trong xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phát triển Đảng trong doanh nghiệp, doanh nhân và có cơ chế, quy định phù hợp đối với tổ chức Đảng trong doanh nghiệp để những người ưu tú trong doanh nghiệp đứng vào hàng ngũ của Đảng.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Đảng uỷ Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện pháp luật về phát triển kinh tế tư nhân; tăng cường giám sát việc thực hiện theo quy định.

2. Đảng uỷ Chính phủ: (1) Chỉ đạo xây dựng trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV (tháng 5/2025); xây dựng Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết. (2) Phối hợp với Đảng uỷ Quốc hội kịp thời thể chế hoá đầy đủ các chủ trương, chính sách nêu tại Nghị quyết này và bố trí đủ nguồn lực để triển khai thực hiện, ban hành Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV với các cơ chế, chính sách ưu đãi cụ thể, khả thi, hiệu quả. (3) Chủ trì chuẩn bị tài liệu quán triệt cùng với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tổ chức quán triệt ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc thù.

3. Đảng uỷ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch hành động với các nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình phù hợp và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện.

4. Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch hướng dẫn, vận động Nhân dân thực hiện Nghị quyết, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân.

5. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng uỷ Chính phủ, các cơ quan liên quan tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức quán triệt và tăng cường tuyên truyền, phổ biến nội dung Nghị quyết.

6. Đảng uỷ Chính phủ chủ trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, các đảng uỷ trực thuộc Trung ương và địa phương theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết; báo cáo Bộ Chính trị để chỉ đạo những vấn đề phát sinh và đòi hỏi của thực tiễn.

Nghị quyết này phổ biến đến chi bộ./.

https://kinhtedothi.vn/toan-van-nghi-quyet-so-68-nq-tw-cua-bo-chinh-tri-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan.694323.html

...


CẬP NHẬT



5.

Ông Tô Lâm cổ súy kinh tế tư nhân, nhưng bằng tư duy thời Lê Duẩn

Là người sinh ra từ chế độ đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cho đến thời điểm này, vẫn bị nhốt trong bẫy thể chế. 

Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm

Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm (AP)

Khác các nhà lãnh đạo cộng sản khác, Tổng Bí thư Tô Lâm muốn phát triển kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, cách làm của hệ thống chính trị mà ông mới nắm quyền lãnh đạo chưa lâu vẫn giống như hệ thống dưới thời các nhà lãnh đạo cộng sản khác: áp đặt và bạo lực.

Hậu quả là những nghị định, nghị quyết có thể vốn có mục đích tốt đẹp, từ Nghị định 168 về giao thông vào tháng 1 năm 2025 đến nghị quyết khiến cho tiểu thương buộc phải giao dịch bằng chuyển khoản vào tháng Năm 2025, lại tạo ra hỗn loạn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.

Ông Tô Lâm hiện là nhà lãnh đạo có quyền lực bao trùm, với tầm ảnh hưởng mạnh mẽ lên tất cả các trụ cột quyền lực khác của bộ máy nhà nước. Ông muốn “cải cách” để đất nước “vươn mình”. Tuy nhiên, các trụ cột quyền lực này vẫn hoạt động theo cách cũ, đã ra những quyết định nhanh chóng đến mức không cho người dân thời gian cần thiết để chuẩn bị về nguồn lực và kĩ năng. Quốc hội của ông ra nghị quyết giữa tháng Năm thì chính phủ của ông thực thi ngay hai tuần sau. Người dân không kịp trở tay, tiểu thương cả nước đồng loạt đóng cửa vì sợ hãi. Chính phủ của ông lại huy động công an đi kiểm tra những cửa hàng có hàng hóa không hóa đơn. Nó khiến tiểu thương khắp cả nước đóng cửa, nền kinh tế gần như dừng hoạt động.

Cách làm này của hệ thống chính trị không khác gì hệ thống dưới thời một lãnh tụ cộng sản khác, hoàn toàn đối lập với ông Tô Lâm về mục tiêu ý thức hệ: Lê Duẩn.

Phát triển kinh tế kiểu Lê Duẩn: đánh tư sản miền Nam

Đổi tiền bất ngờ, áp đặt giá trị đồng tiền một cách cưỡng bách, làm cho toàn bộ tiền tiết kiệm của người dân Miền Nam thành giấy vụn chỉ trong một đêm.

Đánh úp doanh nghiệp tư nhân, ra quân đồng loạt, xông vào các công ty tư nhân, tịch thu tài sản, bắt giữ một số chủ doanh nghiệp, một số đông bị đưa đi vùng kinh tế mới.

Đó là những gì ông Lê Duẩn đã làm sau chiến thắng quân sự đối với VNCH năm 1975.

Mục đích của Lê Duẩn rất tốt đẹp. Ông muốn Sài Gòn tư sản xe hơi chạy đầy đường “theo kịp” Hà Nội trâu bò đi lại thong dong trên phố. Cả nước tiến lên thiên đường cộng sản.

Hậu quả: xóa sổ hoàn toàn nền kinh tế tư nhân ở Miền Nam. Người dân chìm trong đói nghèo, xã hội chìm trong khủng hoảng, quốc lực suy kiệt.

Ngày nay, ông Tô Lâm cũng ôm ấp những ước mơ tốt đẹp.

Singapore năm 1965 chỉ là một làng chài, thua xa Sài Gòn, ngày nay thu nhập bình quân đầu người hơn 90 ngàn đô la một năm, vượt xa Việt Nam.

Việt Nam phải vươn mình, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành một nước giàu mạnh.

Muốn vậy phải phát triển khoa học công nghệ, phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, phải xây dựng tầng lớp doanh nhân dân tộc.

Đó là tư duy của ông Tô Lâm.

Tư duy đó của ông Tô Lâm trái ngược với Lê Duẩn một cách căn bản về mặt ý thức hệ. Nhà lãnh đạo quá cố sử dụng lực lượng vũ trang để tiêu diệt doanh nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà lãnh đạo đương nhiệm muốn phát triển doanh nghiệp tư nhân.

Thế nhưng, liệu ông Tô Lâm có thể đem lại kết quả khác, nếu hệ thống chính trị mà ông kế thừa vẫn làm việc theo cách cũ?

Hệ thống của ông Tô Lâm vẫn chỉ là Lê Duẩn 2.0?

Nghị định 168: ảnh hưởng vận tải, khi chế tài thời gian lái xe của tài xế đường dài, một quy định khiến cho các công ty vận tải và tài xế không thể đáp ứng trên thực tế, hoặc để đáp ứng thì phải tăng chi phí lên rất lớn.

Đối với tầng lớp tiểu thương với hàng triệu hộ gia đình thì quản trị bằng cách đánh úp và dùng công an.

Trong khi những nước giàu có như Trung Quốc không đánh thuế kinh doanh nhỏ, Hoa Kỳ có đánh thuế nhưng lại hoàn thuế một cách tự động dựa theo doanh thu để hỗ trợ cho kinh doanh nhỏ, Việt Nam đột ngột bắt phải hàng triệu hộ tiểu thương phải có hóa đơn đầu vào và đầu ra, trong khi bản chất của kinh doanh nhỏ có rất nhiều thứ không thể có hóa đơn. Khi nền kinh tế phi chính thức gần như tê liệt toàn quốc, chính quyền huy động công an đi khám xét tiểu thương có hàng hóa không hóa đơn đầu vào.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Tổng Bí thư Tô Lâm có quan điểm ngược với ông Lê Duẩn nhưng hệ thống của họ lại gây ra những hậu quả gần giống nhau là nền kinh tế tê liệt.

Tại sao ông Tô Lâm không thể hay không làm khác Lê Duẩn, dù phương hướng trái ngược nhau? Tại sao cả hai hệ thống đều thích dùng biện pháp cưỡng bách trong điều hành kinh tế?

Theo nhiều nhà nghiên cứu, câu trả lời vẫn nằm ở cái gốc là thể chế.

Theo ông Hồ Như Ý, nhà nghiên cứu độc lập về Trung Quốc ở Ba Lan, Lê Duẩn khác với Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc ở chỗ đầu óc của ông bị Liên Xô hoá quá mạnh. Lê Duẩn thậm chí sửa đổi nhiều di sản của Hồ Chí Minh theo hướng sao chép Liên Xô.

Cho đến ngày nay, hệ thống đó chưa thay đổi một cách cơ bản mà chỉ thay đổi theo cách vá víu phần ngọn, tuỳ theo tình thế bắt buộc. Ông Tô Lâm là người kế thừa hệ thống này, và rất khó để thoát ra, trừ khi ông Tô Lâm đủ mạnh mẽ và tầm nhìn.

Mặc dù nắm quyền lực tối cao, là người sinh ra từ thể chế đó, Tổng Bí thư Tô Lâm cho đến thời điểm này, vẫn bị nhốt trong bẫy thể chế.

Hiện những gì ông Tô Lâm có thể làm chỉ là cải cách hành chính, không khác gì sử dụng cao hoàn toán, thuốc mỡ ngoài da để chữa ung thư huyết. Nói cách khác, ông chỉ làm gọn bộ máy, chứ không thay đổi cấu trúc. Một cấu trúc không khác thời Lê Duẩn lắm thì cách làm của hệ thống đó cũng khó mà khác biệt một cách căn bản. Đó là nhận xét của nhà nghiên cứu Hồ Như Ý. Ông nói:

“Cả ông Lê Duẩn và ông Tô Lâm tuy tư duy trái ngược nhau nhưng họ đều chung một tổ tiên tinh thần là chủ nghĩa toàn trị của Lenin. Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc thì khác. Ông Đặng đã Tây phương hoá rất mạnh về tư duy. Những cải cách hành chính hiện tại ở Việt Nam đơn giản là không có tác dụng gì cả. Chưa cần có những từ ngữ đao to búa lớn gì, chỉ khi Việt Nam sửa đổi những căn bản trong hiến pháp, chẳng hạn mở cửa về báo chí, cải cách về tư pháp thì mới có động lực căn bản để khích lệ kinh tế tư doanh. Vì sao? Vì kinh tế tư nhân cần có công cụ để tự vệ là tự do báo chí và tư pháp vững mạnh, trong sạch. Sửa đổi tư pháp không chỉ là các từ ngữ sáo rỗng trên giấy, quan trọng là chính phủ phải đi đầu trong việc thực thi một cách rõ ràng những luật pháp mà họ đưa ra trước, có như vậy thì xã hội mới có niềm tin bước đầu để xây dựng pháp chế vững mạnh, hội nhập với dòng chảy văn minh thế giới, từng bước tạo dựng thể chế pháp trị, minh bạch hoá...”

Theo nhà nghiên cứu Hồ Như Ý, đây mới là cái gốc rễ, căn bản của vấn đề. Hiện tại Việt Nam đang dùng ưu thế của quốc gia phát triển đi sau để tăng trưởng kinh tế. Một khi dùng hết phúc lợi dân số, kinh tế Việt Nam mất đi sức cạnh tranh, khi đó sẽ vĩnh viễn không thể trở thành một quốc gia phát triển được. Vũng lầy thể chế cần có quyết tâm lớn, tầm nhìn xa để mà bước đi. Để làm được điều đó thì chế độ cần rất nhiều kiểu người tài khác nhau, còn các tướng công an chỉ có thể dùng để bảo vệ cái gốc rễ là an ninh, không thể dùng cho phát triển được.

“Đối mặt nan đề này, cách giải quyết cần đồng bộ, từ thực thi luật pháp trong việc quan lý thị trường, đánh hàng lậu, thay thế và phổ cập hệ thống thuế, tạo hoá đơn... không thể một lúc ăn hai bát cơm rồi bùng lên thành Thánh Gióng. Có vẻ người Việt Nam từ quan tới đân đều khoái làm Thánh Gióng. Cái này là bất khả thi.” Đó là nhận xét của nhà nghiên cứu về Trung Quốc ở Ba Lan.

Ý định tốt, nhưng càng hành động càng xa mục đích

Nhìn từ phía quản lý nhà nước, việc minh bạch dòng tiền vào và ra tại mỗi doanh nghiệp là việc bất kì quốc gia phát triển nào cũng làm một cách nghiêm ngặt.

Báo Tiền Phong dẫn lời một nhà quản lý sàn thương mại điện tử cho biết nếu xét nghiêm ngặt về hoá đơn đầu vào, chỉ 2% hàng hóa trên các sàn thương mại điện tử được coi là hợp pháp.

Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh đó là vấn nạn mà chắc chắn là chính quyền nào cũng phải làm.

Tuy nhiên, khi Việt Nam thực thi điều đó, kinh tế tư nhân gặp rủi ro: Hàng triệu hộ kinh doanh đóng cửa khắp cả nước.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ, vấn đề của Việt Nam là không xác định được làm cái gì trước, cái gì sau, để không làm cho thị trường đóng băng và lại đem lại nhiều lợi ích cho xã hội.

Ông lấy ví dụ một cái áo giả hiệu Adidas nó khác với một viên thuốc giả. Cho nên chính quyền trước hết phải xử lý các vấn nạn về thuốc giả, thực phẩm giả… Khi xử lý xong, tạo được lòng tin của nhân dân thì mới tiến tới những mặt hàng giả khác. Lúc đó sẽ nhận được sự ủng hộ của dân chúng.

Mặt khác, không thể quy chụp bất cứ mặt hàng nào tiểu thương mua vào mà không có hoá đơn cũng là hàng giả, không có nguồn gốc. Đặc thù của kinh doanh nhỏ là có rất nhiều giao dịch không có hoá đơn. Do đó, cần phải cho hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ này một khoảng thời gian hợp lý để chuẩn bị thay đổi, không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của họ.

Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ nhận xét trước thực trạng hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ đóng cửa khắp cả nước từ hôm Một tháng Sáu đến nay:

“Dù hoàn cảnh và quy mô khác nhau, hậu quả mà ông Tô Lâm và ông Lê Duẩn gây ra cho nền kinh tế khá là giống nhau, bởi vì cả hai đều đến từ não trạng muốn chỉ huy nền kinh tế, muốn nền kinh tế làm theo ý mình, và muốn nền kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách quốc gia.

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, rất nhiều hộ doanh nghiệp nhỏ không có hoá đơn, và vì thế người mua hàng của họ cũng phải chấp nhận thực tế đó. Khi mua hàng không có hoá đơn rõ ràng thì khó mà chứng minh nguồn gốc hàng hoá. Hơn nữa, đối với các hộ doanh nghiệp gia đình, nơi mà doanh thu và lợi nhuận quá thấp, việc phải đầu tư thêm các công cụ để làm kiểm toán và theo dõi doanh thu thực sự làm cho chi phí kinh doanh tăng lên gấp nhiều lần.”

Việt Nam đánh tiểu thương, Trung Quốc hưởng lợi

Với một tâm lý sợ hãi kinh doanh bao trùm và việc đóng cửa hàng loạt, trước sau gì hàng Trung Quốc cũng sẽ chiếm lĩnh thị trường và đẩy lùi hàng Việt Nam ngay chính trong sân nhà của mình. Đó là hậu quả nhãn tiền, theo lời cảnh báo của TS. Nguyễn Huy Vũ.

Nói cách khác, chính sách của Việt Nam không hỗ trợ sản xuất trong nước mà hỗ trợ sản xuất của Trung Quốc, dù họ không muốn như vậy.

Buôn bán nhỏ trong nước bị áp thuế nên phải tăng giá, trong khi hàng tiêu dùng Trung Quốc có thể đến thẳng từng gia đình qua thương mại điện tử. Cách đây hơn một năm, RFA đã cảnh báo về hệ thống tổng kho dọc biên giới mà Trung Quốc đã hoàn thành từ lâu.

Hàng hoá bán lẻ xuyên biên giới, gần như chủ yếu đến từ Trung Quốc, từ lâu đã tràn ngập trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, TikTok Shop, Lazada…

Theo một doanh nhân trong nước, hàng hoá Trung Quốc tràn vào Việt Nam thông qua các sàn thương mại điện tử hiện nay chỉ chịu thuế giá trị gia tăng VAT 10%, nhưng chỉ áp dụng cho đơn hàng trên một triệu đồng. Các công ty Trung Quốc có thể chia nhỏ món hàng xuống dưới một triệu đồng để tránh thuế, tương tự như họ chia nhỏ món hàng xuống dưới 800 đô la để tránh thuế khi đưa hàng vào Hoa Kỳ.

Trong khi đó, các hộ kinh doanh nhỏ lẻ của Việt Nam cũng như các doanh nghiệp sản xuất nhỏ trong nước phải kê khai và nộp thuế minh bạch, dựa trên doanh thu. Nếu như Hoa Kỳ có chính sách “khấu trừ thuế tiêu chuẩn” cho các doanh nghiệp nhỏ, cá nhân kinh doanh nhỏ mà không căn cứ trên hóa đơn đầu vào, Việt Nam không có chính sách như vậy.

Trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn, một chuyên gia công nghệ và kinh doanh với nhiều năm kinh nghiệm làm việc ở Trung Quốc và Đông Nam Á, cho biết doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh nhỏ ở Trung Quốc còn không phải gánh chịu những chi phí vận tải quá lớn như ở Việt Nam. Lý do là hệ thống giao thông vận tải của Trung Quốc hoàn toàn trong sạch, tương tự như các nước văn minh, tuyệt đối không có hiện tượng mãi lộ.

Gần đây, chính quyền cho cán bộ đi “đánh úp” hàng tồn kho của các hộ kinh doanh nhỏ, tịch thu nếu họ không có hoá đơn đầu vào. Điều này gây ra sự hoảng sợ thực sự trong giới tiểu thương.

Hậu quả là người tiêu dùng Việt Nam sẽ ngả sang hàng Trung Quốc do giá cả rẻ hơn, hàng Việt bị chèn ép đến mức không sản xuất được, mà nếu sản xuất được cũng khó mà bán được. Nền kinh tế bị chiếm hữu từng bước, nhà nước thất thu thuế, trong khi hàng tỷ đô la thông qua các sàn thương mại điện tử đang chảy ra nước ngoài. Trao đổi với RFA, Kỹ sư Khiêm Nguyễn nói:

“Việt Nam không chống hội nhập, nhưng cũng không thể hội nhập một cách máy móc, áp đặt với tốc độ quá nhanh, gây ra hậu quả chính mình không lường trước là làm cho doanh nghiệp nhỏ Việt Nam không kịp trở tay và bị thiệt hại. Muốn kinh tế tư nhân Việt phát triển được thì cần thiết kế một sân chơi công bằng và có lợi cho doanh nghiệp mình. Nếu Việt Nam không điều chỉnh kịp thời, vẫn là cái chợ Việt Nam đó nhưng hàng hoá là hàng ngoại nhập, nhà nước không thu được thuế còn ngoại tệ thì chảy ra nước ngoài.”

https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/06/13/to-lam-tieu-thuong-kinh-te-tu-nhan-thu-thue-le-duan/?fbclid=IwY2xjawK77HNleHRuA2FlbQIxMQBicmlkETE0MFpxZEdNbnBHUWs0Q2JPAR41bqmnXSfBsUszZZJaqY7cuDhzT_hZRaYk7NDfaqjXZ_qE4S2VhDXca_A30A_aem_X0QkOye9NBynRNmdB64iSw


4.


Việc thu hút những con người có “thương hiệu” đã được kiểm chứng sẽ bảo đảm hiệu quả hơn nhiều so với quy trình tuyển dụng thông thường.

Tinh gọn, sắp xếp để nâng cao hiệu năng, hiệu suất, hiệu quả có ý nghĩa sống còn cho sự phát triển từ nội lực quốc gia trong một thế giới đầy biến động và bất trắc. Chính vì vậy chắc chắn có nhiều điều phải thay đổi, mang tính đột phá, cách mạng.

Những quyết sách lớn đã nhanh chóng được thể chế hoá thông qua việc sửa đổi Hiến pháp và hàng loạt đạo luật để khơi thông dòng chảy, phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển của đất nước.

Đảng và Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ lĩnh vực nào cũng có cơ hội tham gia và việc chấn hưng đất nước. Nhiều cuộc gặp gỡ, đối thoại thẳng thắn và cởi mở giữa những nhà lãnh đạo đất nước với giới doanh nhân, ở đó có chung một khát vọng làm giàu cho quốc gia, dân tộc.

Có thể thấy sự hào hứng của doanh nhân, sự mong chờ của mỗi người dân vào quá trình đổi mới.

Chuyển tư duy từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển” 

Mới đây Bộ Nội vụ đã có đề xuất các cơ quan nhà nước có thể mời lãnh đạo doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu, luật sư, nhà khoa học đầu ngành… về làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý.

65751_daf60aee18ee4c648e12544b08860974.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm và Bộ trưởng KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng tham quan khu triển lãm tại Diễn đàn quốc gia về doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam. Ảnh: Hoàng Hà

Có thể thấy sự mạnh dạn và cởi mở của Nhà nước với khu vực ngoài nhà nước, mở ra cơ hội thu hút nguồn lực chất lượng vào khu vực công vượt qua những rào cản của quy định tuyển dụng thông thường.

Trên thực tế, những người được nhắm đến thường trải qua quá trình lăn lộn, khởi nghiệp, từng trải qua được - mất trong cơ chế thị trường đầy khốc liệt và họ đã chứng tỏ giá trị của mình bởi sự thừa nhận của xã hội.

Uy tín của họ không được nhìn vào số lượng huân chương, lại càng không bởi trình độ, bằng cấp mà được đo bằng sự thành công trong công việc và sự đóng góp cho xã hội trong lĩnh vực của mình.

Vì vậy, việc thu hút những con người có “thương hiệu” đã được kiểm chứng sẽ bảo đảm hiệu quả hơn nhiều so với quy trình tuyển dụng thông thường.

Dù rằng cán bộ, công chức sau khi được tuyển dụng được tiếp tục được trui rèn trong môi trường công vụ và được đào tạo, bồi dưỡng và chọn lựa kỹ càng khi được đưa vào các vị trí lãnh đạo quản lý nhưng thực tế cho thấy nhiều trường hợp năng lực có hạn, chủ yếu là “tuần tự như tiến, sống lâu lên lão làng”, mặt trái của chế độ chức nghiệp, căn bệnh khó chữa của nền công vụ quan liêu, thiếu hiệu quả.

Cơ quan soạn thảo cũng đưa ra tiêu chí cho đối tượng này là: người có kinh nghiệm, am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ và đã từng triển khai trực tiếp các nhiệm vụ cụ thể có tính chất tương tự; người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có kinh nghiệm đáp ứng theo yêu cầu của vị trí việc làm chuyên môn, nghiệp vụ và có uy tín trong ngành, lĩnh vực hoạt động; có trình độ chuyên môn cao; có sản phẩm, kết quả cụ thể được ứng dụng thành công trong thực tiễn, phù hợp với nhiệm vụ được giao.

Như vậy, có thể thấy rõ hai điểm cơ bản để xác định người đủ tiêu chuẩn: một là phù hợp với yêu cầu của công việc và thứ hai quan trọng hơn là người có uy tín và đã có kết quả cụ thể trong hoạt động thực tiễn.

Điểm đáng chú ý là thời gian làm việc theo các hợp đồng lao động này được tính làm căn cứ xếp lương theo vị trí việc làm nếu được tuyển dụng, tiếp nhận vào làm công chức, viên chức.

thủ tướng.webp
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì tọa đàm với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân vào sáng 31/5. Ảnh: VGP

Sự kết hợp giữa chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức rường cột lâu dài với việc bổ sung các nguồn nhân lực có chất lượng cao từ bên ngoài không những góp phần nâng cao hiệu năng, hiệu suất, hiệu quả của nền công vụ mà còn mang theo đó sinh khí và yêu cầu từ thực tiễn cuộc sống bởi những con người đã từng thành công và thất bại để tạo dựng uy tín của mình trong xã hội.

Điều này cũng chính là để những chủ trương quyết sách ngày càng sát đúng hơn, thể hiện được tư duy từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển” ngay từ xây dựng thể chế đến quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống.

Về phương thức dự thảo quy định thời hạn ký hợp đồng không quá 24 tháng đối với vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ là phù hợp. Thời gian đó đủ để người được tuyển lựa thể hiện năng lực thực tế của mình qua tiến độ và chất lượng, hiệu quả công việc được giao và cũng đủ cho những quyết định tiếp theo của chính họ tiếp tục hay không gắn bó với nền công vụ 

Thực tiễn luôn có khoảng cách không nhỏ

Mặc dù có những ưu điểm khá rõ của phương thức tuyển dụng này nhưng không thể phủ nhận những khó khăn khi những người đang quen với cung cách làm việc cũng như tư duy của kinh tế thị trường vào môi trường làm việc mới mà ở đó còn đòi hỏi niềm tự hào và trách nhiệm giữ gìn uy tín của một nền công vụ liêm chính, phục vụ và hành động.

Cách tiếp cận và giải quyết một vấn đề trên thương trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận không hẳn đã đủ cho việc đề xuất, đưa ra và triển khai một công việc đòi hỏi bảo đảm những yêu cầu khác nữa về môi trường, về an sinh xã hội mang tính tầm nhìn dài hạn, nhất là đối với những vị trí lãnh đạo, quản lý.

Về các công việc thuộc danh mục vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý được phép ký hợp đồng lao động với cá nhân bên ngoài hệ thống gồm:

Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề tài, đề án về kinh tế, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. 

Lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo, cải cách thủ tục hành chính; xây dựng quy trình, thủ tục nội bộ.

Lãnh đạo, chỉ đạo chương trình, kế hoạch, đề tài, đề án được giao hoặc để thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong một thời hạn nhất định. 

Lãnh đạo, chỉ đạo các nhiệm vụ khác theo quyết định của người đứng đầu cơ quan quản lý cán bộ, công chức. 

Trong số danh mục trên, có thể thấy một số nội dung công việc còn khá rộng, khó xác định và có những việc cần một thời gian và tầm nhìn dài hạn hơn, những vấn đề đòi hỏi trí tuệ tập thể và tầm vóc của những người lãnh đạo.

Đây là những điều cần tiếp tục nghiên cứu và cân nhắc và có lẽ sẽ là phù hợp hơn khi trước mắt nên tìm kiếm những nhân tài từ bên ngoài vào vị trí chỉ đạo thực hiện và quản lý những dự án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.

Với những nhà khoa học, nhất là khoa học xã hội cũng cần tính toán thêm bởi giữa môi trường nghiên cứu lý thuyết với việc chỉ đạo quản lý một công việc trên thực tiễn luôn có khoảng cách không nhỏ, khó có thể được san lấp trong một vài năm.

https://vietnamnet.vn/khi-nha-nuoc-moi-doanh-nhan-gioi-lam-lanh-dao-trong-khu-vuc-cong-2408953.html?fbclid=IwY2xjawK35vlleHRuA2FlbQIxMQBicmlkETFwamZEdTFxSzdxaWpwNG1HAR4P1nkRrzs-HqcLHdPnXKRBnmXBNdjP1xO_X7cg8woAq6_ja-Zk7KsUxHZ6Pw_aem_xraXaHxUpLrHsn_6l2r38Q


3.

TS. Cấn Văn Lực: Cần xây dựng đội ngũ doanh nhân có năng lực, đạo đức kinh doanh

31/05/2025 21:04


TS. Cấn Văn Lực xin nhấn mạnh rằng, giải pháp quan trọng mà Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra chính là xây dựng đội ngũ doanh nhân có năng lực, có văn hóa, tuân thủ pháp luật và hành xử theo chuẩn mực đạo đức kinh doanh.  

Tại Tọa đàm với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì ngày 31/05, TS. Cấn Văn Lực nêu 7 vấn đề cũng là 7 đề xuất kiến nghị để phát triển kinh tế tư nhân.

Thứ nhất, Nghị quyết số 138 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 198 của Quốc hội và mới nhất là Nghị quyết số 139 của Thủ tướng Chính phủ đều là những định hướng then chốt, cần được triển khai đồng bộ.

Thứ hai, cần sớm ban hành Nghị định về cơ chế hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, tiến tới việc áp dụng chính sách nộp thuế phù hợp cho khu vực này, tương xứng với vai trò và đóng góp thực tế. Bởi lẽ, khu vực hộ kinh doanh hiện đang chiếm khoảng 23.5% GDP của Việt Nam.

Thứ ba, cần đẩy nhanh việc sửa đổi một số luật quan trọng, bao gồm Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Doanh nghiệp và Luật Phá sản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, cần nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, và tiến tới luật hóa hoạt động của hiệp hội doanh nghiệp - điều đang rất được cộng đồng doanh nghiệp mong đợi.

Theo ông Lực, hiện nay một số địa phương đang thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp quận, huyện, dẫn đến nhiều hội, hiệp hội ở cấp quận, huyện gặp khó khăn trong hoạt động, nhất là tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Rất mong Thủ tướng Chính phủ sớm chỉ đạo để các địa phương có hướng tháo gỡ phù hợp cho vấn đề này.

Thứ tư, chúng ta cần triển khai hiệu quả các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực đất đai, khoa học – công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, cũng như chuyển đổi theo hướng xanh và bền vững.

Theo đó, ông Lực kiến nghị hai nhóm giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, cần phát triển thị trường tài chính một cách cân bằng hơn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Mong Chính phủ tiếp tục thúc đẩy việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam ngay trong năm nay, đúng theo lộ trình Thủ tướng Chính phủ đã đề ra. Đồng thời, cần sớm thành lập trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, với cách làm và mô hình phù hợp, nhằm tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.

Thứ hai, đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng ở cấp Trung ương và khởi động lại 28 Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương. Bên cạnh đó, cần sớm thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, trong đó có cơ chế hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Đồng thời, cho phép thúc đẩy mạnh mẽ hơn các quỹ đầu tư mạo hiểm, bởi vì đây mới là kênh vốn chính cho phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, chứ không thể chỉ dựa vào nguồn tín dụng ngân hàng truyền thống trong các lĩnh vực này.

Thứ ba, cần đặt hàng cho các doanh nghiệp tư nhân lớn thực hiện một số chương trình, dự án trọng điểm quốc gia. Việc hỗ trợ cần dựa trên mức độ đóng góp thực tế của doanh nghiệp, chứ không chỉ căn cứ vào quy mô. Đây là cách để phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc mạnh, đóng vai trò dẫn dắt nền kinh tế.

Điểm thứ năm là hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường kết nối một cách thiết thực. Tại Diễn đàn ASEAN vừa qua, một trong bốn trụ cột hợp tác là "kết nối" – vậy thì kết nối bằng cách nào? Đề nghị chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ phương thức xúc tiến thương mại và đầu tư hiện nay, hướng tới mô hình xúc tiến có trọng tâm, chủ động, thực chất và hiệu quả.

Đồng thời, cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, vừa để mở rộng không gian phát triển, vừa góp phần nâng tầm vị thế kinh tế đất nước trên trường quốc tế.

Về câu chuyện nợ công, ông Lực cho rằng chúng ta đã có những chủ trương rất đúng đắn và cách tiếp cận rất hay. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là khâu tổ chức thực hiện cần được cải thiện mạnh mẽ hơn để đảm bảo hiệu quả trên thực tế.

Thứ sáu, cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu, thống kê và dữ liệu cho nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Hiện nay, các số liệu và chỉ tiêu vẫn còn thiếu thống nhất, thậm chí mâu thuẫn với nhau giữa các cơ quan. Điều này gây khó khăn lớn trong công tác điều hành, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế số, khi dữ liệu chính xác và đồng bộ là điều kiện tiên quyết.

Thứ bảy, hôm nay, tại diễn đàn này có sự hiện diện của rất nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh - ông Lực xin nhấn mạnh rằng, giải pháp quan trọng mà Nghị quyết 68-NQ/TW đề ra chính là xây dựng đội ngũ doanh nhân có năng lực, có văn hóa, tuân thủ pháp luật và hành xử theo chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Đây không chỉ là yêu cầu của thời đại, mà còn là đòi hỏi chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra đối với cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.


Hàn Đông

https://vietstock.vn/2025/05/ts-can-van-luc-can-xay-dung-doi-ngu-doanh-nhan-co-nang-luc-dao-duc-kinh-doanh-768-1313926.htm




2.

03/06/2025 16:21 GMT+7

Đề xuất ký hợp đồng với doanh nhân tiêu biểu, chuyên gia làm nhiệm vụ công chức lãnh đạo

Thành Chung

Dự Luật Cán bộ, công chức sửa đổi bổ sung quy định cho phép ký hợp đồng với doanh nhân tiêu biểu, chuyên gia làm nhiệm vụ công chức lãnh đạo

công chức - Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà - Ảnh: GIA HÂN

Chiều 3-6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi).

Hoàn thiện cơ chế thu hút nguồn nhân lực chất lượng

Trình bày báo cáo của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết dự thảo luật đã hoàn thiện cơ chế thu hút nguồn nhân lực chất lượng và chính sách với người có tài năng trong hoạt động công vụ. Theo đó, quy định chính sách với 2 nhóm đối tượng.

Gồm nhóm đối tượng thu hút vào khu vực công áp dụng với nguồn nhân lực chất lượng cao (chuyên gia, nhà khoa học, luật gia, luật sư giỏi, doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nguồn nhân lực chất lượng cao khác).

Nhóm người có tài năng trong hoạt động công vụ (những cán bộ, công chức có năng lực vượt trội, có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, có thành tích nổi trội trong hoạt động công vụ thể hiện bằng sản phẩm, kết quả cụ thể).

Dự luật giao Chính phủ quy định khung cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ với các đối tượng trên.

3 hình thức thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ngoài khu vực công cũng được quy định trong dự thảo luật.

Trong đó, đáng chú ý, dự thảo luật bổ sung quy định cho phép ký hợp đồng với doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc, chuyên gia, nhà khoa học, luật gia, luật sư giỏi để thực hiện nhiệm vụ của vị trí việc làm công chức lãnh đạo, quản lý.

Ký hợp đồng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao quy định tại dự luật này hoặc người đáp ứng các điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ của vị trí việc làm công chức chuyên môn, nghiệp vụ.

Tán thành với đề xuất của Chính phủ, Thường trực Ủy ban cho rằng quy định này, để kịp thời thể chế hóa nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị.

Tuy nhiên, hiện nay người được bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và quy định của Đảng, như về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật...

Vì vậy, có ý kiến trong Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho rằng cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền của Đảng điều chỉnh các quy định có liên quan đến tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý để bảo đảm triển khai quy định nêu trên của dự thảo luật.

công chức - Ảnh 2.

Quang cảnh phiên họp - Ảnh: GIA HÂN

Chậm nhất đến 1-7-2027, hoàn thành bố trí công chức đúng vị trí việc làm

Bộ trưởng Trà cho biết hiện các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã hoàn thành việc xây dựng, phê duyệt vị trí việc làm, trong đó đã bao hàm nội dung tiêu chuẩn ngạch công chức tương ứng.

Khi luật có hiệu lực thi hành (dự kiến từ 1-7-2025), người được tuyển dụng mới vào làm công chức sẽ được bố trí vào vị trí việc làm và xếp ngạch công chức tương ứng.

Tuy nhiên, với trường hợp công chức đang trong hệ thống chính trị đã được bổ nhiệm, xếp lương theo ngạch công chức, khi chuyển sang thực hiện quản lý công chức theo vị trí việc làm cần có thời gian để các cơ quan, tổ chức, đơn vị tiến hành tổng rà soát, bố trí công chức theo đúng vị trí việc làm tương ứng với ngạch công chức được bổ nhiệm.

Vì vậy, Chính phủ đề xuất bổ sung quy định chậm nhất đến 1-7-2027, các bộ, ngành, cơ quan trung ương, địa phương phải hoàn thành việc bố trí vào vị trí việc làm và xếp ngạch tương ứng với vị trí việc làm đối với công chức được tuyển dụng trước ngày luật này có hiệu lực thuộc phạm vi quản lý theo quy định của luật này.

Theo bà Trà, một số ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng người làm việc chuyên trách tại các hội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ vào phạm vi điều chỉnh của luật.

Về nội dung này, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra trao đổi kỹ lưỡng, đưa ra các phương án, phân tích ưu, nhược điểm của từng phương án và thống nhất báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước mắt cho giữ nguyên phạm vi, đối tượng điều chỉnh như Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

Bà Trà nêu rõ các lý do, trong đó dự luật đã quy định người làm việc tại các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ được áp dụng quy định của Luật Cán bộ, công chức, pháp luật có liên quan và quy định của cấp có thẩm quyền.

Đồng thời, người làm việc tại hội thuộc đối tượng được tiếp nhận vào làm công chức theo quy định của Chính phủ nên bảo đảm quyền lợi đối với người làm việc tại hội.

https://tuoitre.vn/de-xuat-ky-hop-dong-voi-doanh-nhan-tieu-bieu-chuyen-gia-lam-nhiem-vu-cong-chuc-lanh-dao-20250603155505243.htm




1.

21/05/2025 08:09


Chính phủ vừa có Nghị quyết số 139/NQ-CP ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân (Kế hoạch).

phat-trien-kinh-te-tu-nhan-1747539979978440151253

Chậm nhất ngày 31 tháng 12 năm 2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân

Nhằm khẩn trương triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15, trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần cụ thể hóa và quyết liệt tổ chức triến khai thực hiện các nhiệm vụ.

Hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân
Trong đó, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cải thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện cơ chế, chính sách về thanh tra, kiểm tra, cấp phép, chứng nhận, cạnh tranh, phá sản doanh nghiệp.

Chậm nhất ngày 31 tháng 12 năm 2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân; thực hiện giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo.  

Ứng dụng triệt để chuyển đổi số nhằm cắt giảm tối đa thời gian xử lý thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ pháp luật và điều kiện kinh doanh trong các quy định về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn... Triển khai cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh không phụ thuộc vào địa giới hành chính.  

Đảm bảo hoàn thành các mục tiêu và lộ trình quy định tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2025 của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025-2026. Khẩn trương rà soát điều kiện đầu tư kinh doanh để sửa đổi hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi nhằm chuyển căn bản các điều kiện kinh doanh dưới hình thức giấy phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và nâng cao hiệu quả công tác hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế, hoàn thành trong năm 2025 và 2026.  

Các Bộ, ngành, địa phương rà soát, phân loại đối tượng kiểm tra; chấm dứt tình trạng kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài về cùng một nội dung, lĩnh vực; số lần kiểm tra tại doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh bao gồm cả kiểm tra liên ngành không được quá một lần một năm, trừ trường hợp cần kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng. 

Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp
Đối với cùng một nội dung quản lý nhà nước, trường hợp đã tiến hành hoạt động thanh tra thì không thực hiện hoạt động kiểm tra hoặc đã tiến hành hoạt động kiểm tra thì không thực hiện hoạt động thanh tra doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong cùng một năm, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng. 

Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Công bố công khai kế hoạch kiểm tra trên cổng thông tin để cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh biết, phối hợp thực hiện. 

Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra trực tuyến, từ xa; ưu tiên kiểm tra dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm tối đa kiểm tra trực tiếp. Xây dựng, công bố tại trang, cổng thông tin của đơn vị công cụ, giải pháp cảnh báo sớm cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh về các nguy cơ vi phạm pháp luật trên cơ sở tích hợp dữ liệu quản lý, cảnh báo từ các cơ quan quản lý nhà nước. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quyết liệt đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, vi phạm bản quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh đúng pháp luật. 

Bộ Công an hoàn thiện dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Dữ liệu nhằm tăng cường chia sẻ dữ liệu, tạo thuận lợi cho hoạt động kiểm tra, thanh tra trực tuyến, từ xa; hoàn thành trong năm 2025.  

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý ngành thực hiện rà soát danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Luật Đầu tư để nghiên cứu, cắt giảm các ngành nghề kinh doanh có điều kiện không cần thiết, hoàn thành chậm nhất trước ngày 31 tháng 12 năm 2026.  

Bộ Công Thương đẩy mạnh thực thi Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, minh bạch giữa các thành phần kinh tế; xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh; nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia.  

Hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuê nhà, đất là tài sản công
Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường rà soát, sửa đổi Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, bổ sung cơ chế, chính sách: Kiểm soát biến động giá đất, đặc biệt là giá đất sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp; giao các địa phương dành quỹ đất đầu tư kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ để cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê; chính sách hỗ trợ tiền thuê đất cho các đối tượng trên, hoàn thành trong năm 2025-2026; hoàn thành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và kết nối với Trung tâm Dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu có liên quan; ban hành các quy định về quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, hoàn thành trong năm 2025.  

Bộ Tài chính rà soát, sửa đổi Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, bổ sung cơ chế, chính sách giao các địa phương dành tối thiểu 20ha/khu công nghiệp hoặc 5% tổng quỹ đất đã đầu tư kết cấu hạ tầng khu công nghiệp để cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê, hoàn thành trong năm 2025. 

Rà soát, sửa đổi Nghị định số 108/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2024 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở giao cho tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai thác để hướng dẫn cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thuê nhà, đất là tài sản công chưa sử dụng hoặc không sử dụng tại địa phương, hoàn thành trong năm 2025.

Bộ Tài chính trình Chính phủ văn bản hướng dẫn chính sách doanh nghiệp công nghệ cao thuộc khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ giảm tối thiểu 30% tiền thuê lại đất trong vòng 05 năm đầu kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất với chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ. Khoản hỗ trợ tiền thuê đất này được Nhà nước hoàn trả cho chủ đầu tư theo quy định của Chính phủ; hoàn thành trong năm 2025.  

Bộ Công Thương rà soát, sửa đổi Nghị định số 32/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2024 của Chính phủ về quản lý, phát triển cụm công nghiệp để bổ sung cơ chế, chính sách giao các địa phương dành tối thiểu 20ha/cụm công nghiệp hoặc 5% tổng quỹ đất đã đầu tư kết cấu hạ tầng cụm công nghiệp cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê, hoàn thành trong năm 2025.

Các địa phương kịp thời công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn; tích cực phối hợp với tổ chức chính trị, xã hội hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác giải phóng mặt bằng. Triệt để ứng dụng chuyển đổi số để cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình trong thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai, giảm tối thiểu 30% thời gian giải quyết thủ tục thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, doanh nghiệp. 

Hỗ trợ tài chính, tín dụng  
Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn chính sách nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG); hoàn thành trong năm 2025.

Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn chính sách nhà nước hỗ trợ lãi suất 2%/năm thông qua các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG); hoàn thành trong năm 2025.  

Hỗ trợ thuế phí, lệ phí   
Bộ Tài chính trình Chính phủ văn bản hướng dẫn triển khai chính sách: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 02 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 04 năm tiếp theo đối với thu nhập từ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, quyền góp vốn, quyền mua cổ phần, quyền mua phần vốn góp vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; miễn thuế thu nhập cá nhân trong thời hạn 02 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 04 năm tiếp theo đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của chuyên gia, nhà khoa học nhận được từ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đối mới sáng tạo; miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp; hoàn thành trong năm 2025. 

Bộ Tài chính rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan về việc hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không áp dụng phương pháp khoán thuế từ ngày 01 tháng 01 năm 2026.  

Bộ Tài chính trình Chính phủ văn bản hướng dẫn chính sách dành các gói thầu xây lắp, mua sắm hàng hóa, gói thầu hỗn hợp cung cấp hàng hóa và xây lắp sử dụng ngân sách nhà nước có giá gói thầu không quá 20 tỷ đồng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó ưu tiên doanh nghiệp do thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật làm chủ, doanh nghiệp ở miền núi, biên giới, hải đảo; hoàn thành trong năm 2025.

Ngoài ra, Nghị quyết cũng nêu rõ hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hỗ trợ nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và chất luợng nguồn nhân lực; hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu...

Minh Hiển

Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ 































https://vids.mpi.gov.vn/tin-tuc/ke-hoach-trien-khai-mot-so-co-che-chinh-sach-dac-biet-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-11388.html


...


BỔ SUNG



1.

Ngày 9/5, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.


Mục đích của Chương trình là tổ chức quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, có hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, chủ trương và chính sách đã được đề ra trong Nghị quyết số 41-NQ/TW; thống nhất chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW; tạo chuyển biến rõ rệt về nhận thức, hành động của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp. Đồng thời, xác định các nội dung, nhiệm vụ chủ yếu, cụ thể để Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (các bộ, ngành, địa phương) tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của Nghị quyết số 41-NQ/TW.

Mục tiêu từ nay đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp, trong đó hình thành và phát triển nhiều doanh nhân lãnh đạo các tập đoàn kinh tế mạnh, có tiềm lực, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, phát huy vai trò mở đường dẫn dắt các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Khu vực doanh nghiệp đóng góp khoảng 65 - 70% GDP cả nước, khoảng 32 - 38% tổng việc làm trong nền kinh tế, 98 - 99% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu; khoảng 20 - 25% số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, 30 - 35% số doanh nghiệp có giám đốc hoặc người đứng đầu doanh nghiệp là nữ. Số lượng doanh nghiệp được xếp vào danh sách doanh nghiệp có giá trị thương hiệu cao nhất của các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới tăng 10% mỗi năm. Đến năm 2030 có ít nhất 10 doanh nhân Việt Nam lọt vào danh sách tỷ phú đô la Mỹ thế giới, 5 doanh nhân quyền lực nhất châu Á do các tổ chức uy tín thế giới bình chọn.

Đến năm 2045, phấn đấu một số doanh nhân làm chủ các tập đoàn có khả năng dẫn dắt các chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp, tiến tới hình thành một số chuỗi giá trị của Việt Nam trong các ngành ưu tiên, có thế mạnh của đất nước. Hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu quốc gia phát triển, thu nhập cao, có vị thế, uy tín trong khu vực và quốc tế.

Để đạt được các chỉ tiêu cụ thể nêu trên, Chính phủ yêu cầu trong thời gian tới các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp cần: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong thực hiện mục tiêu phát triển đất nước; hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho doanh nhân, doanh nghiệp phát triển, cống hiến. Cùng với đó, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới; xây dựng đạo đức, văn hóa kinh doanh, phát huy tinh thần dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tăng cường sự đoàn kết, hợp tác, liên kết giữa doanh nhân với công nhân, nông dân, trí thức; phát huy vai trò của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, các tổ chức đại diện đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân.

TTXVN/Báo Tin tức

https://baotintuc.vn/thoi-su/phat-trien-doi-ngu-doanh-nhan-viet-nam-co-nang-luc-vi-the-quoc-te-20240509173750252.htm

...


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.