Tập hợp tin tức từ các nơi.
Giao Blog
---
Thăng trầm giấy dó Đống CaoLời căn dặn của người cha
Gần 20 năm trước, tôi từng có thời gian làm công nhân cho một vài cơ sở sản xuất giấy công nghiệp ở làng Đống Cao (nay là khu Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố Bắc Ninh). Lúc ấy, người làng Đống Cao đua nhau xây dựng nhà xưởng để làm giấy công nghiệp, còn nghề làm giấy dó truyền thống dần bị quên lãng. Số gia đình còn theo nghề làm giấy dó cứ teo tóp.
Đến nay, ở Đống Cao chỉ còn khoảng 4 gia đình vẫn còn giữ “lửa nghề” của ông cha. Nằm trong ngõ nhỏ ở giữa làng, gia đình anh Phạm Văn Tâm làm giấy dó lâu năm. Lúc chúng tôi đến, anh Tâm cùng vợ đang tất bật với công việc trong nắng thu vàng óng như mật ong. Pha ấm trà sen mời khách, anh Tâm thủng thẳng nói về nghề làm giấy dó. “Phải đam mê lắm mới theo được nghề làm giấy dó, bởi nghề này vất vả, thu nhập chẳng được nhiều”, anh Tâm bắt đầu câu chuyện.
Theo một số gia đình làm giấy dó ở Đống Cao, giấy dó ở đây có độ bền lên đến hàng trăm năm. Giấy dó ở Đống Cao chủ yếu bán cho làng tranh Đông Hồ, các họa sỹ và phục vụ việc lưu trữ.
Anh Tâm cho biết, theo bố mẹ anh và những người cao tuổi trong làng truyền đạt lại, nghề làm giấy dó ở Đống Cao có tuổi đời khoảng 800 năm. Làng nghề từng nổi danh khắp vùng Kinh Bắc. Đầu những năm 1990, nghề làm giấy dó và giấy làm ngòi pháo ở đây vẫn còn phát triển rầm rộ. Kể từ khi Nhà nước cấm pháo, thêm vào đó, sản xuất giấy công nghiệp có lãi nhiều hơn nên người làng Đống Cao dần “thờ ơ” với nghề làm giấy dó truyền thống.
Anh Phạm Văn Tâm đang tỉ mỉ bóc tách từng tờ giấy dó |
Năm nay, anh Tâm bước sang tuổi 53, nhưng có đến 40 năm trong nghề làm giấy dó. Từ những ngày còn bé, anh đã được sống trong không gian của nghề truyền thống này, bởi bố anh là người giàu tâm huyết với nghề. Anh được bố chỉ bảo tận tình những bí quyết làm giấy dó gia truyền. Bởi vậy, mới 13 tuổi, anh đã thông thạo các công đoạn và kỹ thuật làm ra những tờ giấy dó. “Lúc sắp qua đời, bố tôi có căn dặn, dù khó khăn đến đâu, tôi cũng phải nối nghiệp làm giấy dó của ông cha để lại. Bởi vậy, qua nhiều thăng trầm, tôi vẫn giữ nghề truyền thống này”, anh Tâm tâm sự.
Theo anh Tâm, nghề làm giấy dó rất công phu, với nhiều công đoạn làm thủ công, đòi hỏi người làm nghề phải bỏ ra nhiều công sức. Theo đó, nguyên liệu được chọn mua từ vỏ cây dó, cây dướng ở các tỉnh vùng núi phía Bắc. Vỏ cây được tách bỏ phần đen bên ngoài, chỉ lấy phần trắng bên trong, rồi cho vào nấu với nước vôi trong suốt ba ngày ba đêm cho mềm. Sau đó, vỏ cây được nhặt bỏ chất bẩn, cho vào giã cho nhuyễn (bây giờ dùng máy xay), rồi đưa vào bể ngâm tiếp khoảng 3 ngày cho mềm nhũn, dùng chất nhựa từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính. Trong bể nước có bột cây dó, cây dướng đã được ngâm, đôi tay người thợ làm giấy dó nhúng chiếc seo (khuôn làm giấy) chao đi chao lại cho lớp bột dính đều, công đoạn này đòi hỏi sự khéo léo để tạo ra những tờ giấy dó có độ dày hoặc mỏng như ý muốn.
Chị Ngô Thị Huế vẫn kiên trì giữ lửa nghề làm giấy dó truyền thống |
Đang trò chuyện với tôi, anh Tâm chỉ tay về phía tập giấy dó vừa seo xong đang được ép cho ra nước, rồi bảo, khó nhất là công đoạn bóc những tờ giấy dó để đem đi phơi. Một lúc sau, anh Tâm kéo tôi vào trong nhà để tôi tận mắt chứng kiến công đoạn kỳ công này. Mắt anh Tâm chăm chú nhìn vào tập giấy dó mới ép xong, nhưng vẫn còn ẩm trên bàn uống nước. Anh dùng tay nhẹ nhàng, tỉ mỉ bóc tách từng tờ giấy dó dính chặt với nhau. Đôi tay của anh khéo léo, nâng niu để tờ giấy dó không bị rách. “Những người cao tay trong nghề mới có thể bóc được từng tờ giấy dó, không cẩn thận tờ giấy bị rách, coi như công sức đổ xuống sông. Vợ tôi là người trong làng, dù theo nghề vài chục năm, nhưng không thể làm được công đoạn này”, anh Tâm cho hay.
Mong manh giấy dó Đống Cao
Tạm nghỉ tay, anh Tâm chia sẻ, người làm giấy dó bận rộn với công việc cả ngày. Anh và vợ thức dậy từ sáng sớm để chuẩn bị nguyên liệu cho việc seo giấy, rồi cứ thể cuốn theo các công đoạn làm giấy dó cho đến khuya. Công việc của anh luôn tay luôn chân, bởi vì phần lớn các công đoạn vẫn phải làm thủ công, khó có thể dùng máy để thay thế. Dù vất vả như vậy, nhưng thu nhập của người làm giấy dó không được nhiều. Mỗi ngày, vợ chồng anh Tâm và 3 người làm thuê sản xuất ra khoảng 1.000 tờ giấy dó. Mỗi tờ giấy có giá trung bình từ 7.000 - 8.000 đồng. Tính ra, anh thu về khoảng 7 - 8 triệu đồng/ngày. Trừ chi phí, vợ chồng anh thu nhập hơn 20 triệu đồng/tháng. “Do thu nhập không cao và vất vả nên nghề làm giấy dó không còn sức hút với người trong làng. Người làm giấy dó phải là những người yêu nghề và kiên trì”, anh Tâm bày tỏ.
Người làng Đống Cao seo giấy dó |
Nhìn những tờ giấy dó đã khô xếp thành tập, anh Tâm thở dài khi nghĩ về tương lai của nghề truyền thống này. Anh Tâm bảo, gia đình anh có nhiều thế hệ làm nghề giấy dó. Bố mẹ anh sinh được 3 người con, nhưng chỉ có một mình anh theo nghề truyền thống của ông cha. Tuy nhiên, đến đời con của anh, anh không dám chắc nghề truyền thống làm giấy dó được tiếp nối trong gia đình. Bởi anh cảm nhận thấy, các con của mình chưa có ý định theo nghề của cha. Trong làng, người dân cũng không còn mặn mà với nghề làm giấy dó.
Cách nhà anh Tâm vài trăm mét, gia đình chị Ngô Thị Huế là một trong số ít nhà vẫn còn theo nghề giấy dó ở Đống Cao. Chị cũng chung tâm trạng trăn trở về việc giữ lửa nghề. Chị Huế sinh năm 1975, có bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng đều làm nghề giấy dó. Chị được thừa hưởng “di sản” làm giấy dó truyền thống lâu đời của bố mẹ hai bên để lại. Hàng chục năm qua, chị và chồng vẫn kiên trì thắp lửa nghề làm giấy dó.
Chị Huế cho biết, bố mẹ chị ở với nhau được 6 người con, trong đó có chị và một người anh nối nghiệp làm giấy dó. Tuy nhiên, hơn chục năm trước, anh trai của chị bỏ nghề. Các con của người anh trai cũng không có ai theo nghề truyền thống này. Trong các con của chị Huế đã có đứa lập gia đình, nhưng làm nghề khác, không hào hứng với nghề làm giấy dó nữa. “Gia đình tôi có nhiều thế hệ làm nghề giấy dó. Tôi lo lắng đến đời con mình không biết còn duy trì được nghề giấy dó nữa không”, chị Huế tâm sự.
https://tienphong.vn/thang-tram-giay-do-dong-cao-post1470314.tpo
..
Giữ gìn nghề làm giấy dó Đống Cao
Ở Việt Nam, nghề làm giấy Dó có từ thế kỷ III, phát triển mạnh vào thế kỷ VIII và XIV. Giấy Dó là một loại giấy được sản xuất thủ công từ vỏ những cây Dó (như Dó giấy, Dó liệt...), và được dùng cho vẽ tranh trong mỹ thuật dân gian Việt Nam, đặc biệt là để làm giấy điệp cho tranh Đông Hồ, hay lưu giữ các tài liệu, nhờ vào nhiều ưu điểm, nổi bật nhất là độ bền theo thời gian. Trong thời kỳ phong kiến, giấy Dó cũng là nguyên liệu làm giấy sắc (để viết sắc của vua ban), giấy lệnh (để viết các lệnh chỉ của vua), giấy bản (phục vụ dân dụng), giấy quỳ là loại giấy đẹp nhất… Theo thời gian và sự phát triển của các loại giấy công nghiệp, giấy Dó không còn được nhiều người ưa chuộng nữa nên nghề làm giấy Dó cũng theo đó lụi tàn.
Đầu những năm 1990, nghề làm giấy dó và giấy làm ngòi pháo ở đây vẫn còn phát triển rầm rộ. Kể từ khi Nhà nước cấm pháo, thêm vào đó, sản xuất giấy công nghiệp có lãi nhiều hơn nên người làng Đống Cao dần “thờ ơ” với nghề làm giấy dó truyền thống.
Vỏ cây dó qua kỹ thuật của người Việt có thể dùng làm ra giấy có độ bền lên đến 500-600 năm. |
Nằm trên mảnh đất Kinh Bắc nổi tiếng với kho văn hóa dân gian và những làng nghề cổ truyền lâu đời, đất Phong Khê (TP. Bắc Ninh) có thôn Dương Ổ (còn có tên Đống Cao) và Đào Xá (còn có tên Điều Thôn) được biết đến với làm nghề giấy Dó từ hàng trăm năm và vẫn còn phát triển, lưu truyền đến ngày hôm nay. Điều khó khăn khi sản xuất giấy Dó không chỉ là đầu ra của sản phẩm mà nguyên liệu sản xuất giấy cũng khan hiếm hơn. Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ cây Dó, chỉ có ở vùng trung du và miền núi phía Bắc. Từ tháng 8 đến tháng 10 âm lịch mới bóc được vỏ cây Dó do vỏ tự tróc ra, ngoài 3 tháng này vỏ bóc bị sát nên không thu hoạch được.
Một số sản phẩm làm từ giấy dó |
Để có được một tờ giấy Dó mỏng, bền, dai, người thợ nghề Đống Cao đòi hỏi phải tốn nhiều công sức và rất tỉ mỉ. Tính sơ sơ từ cây Dó ra được tờ giấy phải trải qua 10 công đoạn. Loại Dó tốt nhất để làm giấy được thu hoạch từ các cánh rừng già các tỉnh miền núi phía Bắc... Công đoạn phân loại Dó cũng đòi hỏi sự tỉ mẩn của người làm nghề khi phải dùng dao mỏng tách từng sợi Dó. Dó trắng dùng để làm giấy viết gia phả, Dó nâu vàng dùng để làm tranh. Khi mang về, vỏ cây Dó được lột lớp vỏ đen, lấy lượt vỏ trắng xé nhỏ, ngâm nước vôi từ 1-2 ngày. Sau đó vớt ra, bó thành từng mớ, ngâm vào nước vôi tôi. Chuyển sang thùng nấu, cứ một thùng là 50 kg Dó hết 20 kg than, than tàn Dó cũng chín đúng độ. Một ngày sau, dỡ ra lại ngâm nước cho hết vôi, nhặt bỏ từng mấu nhỏ còn sót lại. Dó đem đi rửa tiếp, cho vào bể ngâm 15-20 ngày, rồi vớt ra, cho vào cối giã nhuyễn từ 3-5 tiếng, đem đãi lấy nước trong. Bột Dó sẽ được nắm chặt, rửa sạch thêm một lần nữa. Công đoạn tiếp theo nhưng cũng là khó và quan trọng nhất chính là seo giấy bằng liềm seo. Liềm seo là một tấm mành được đặt trong khuôn gỗ. Khi seo người thợ chao qua chao lại cho bột dính đều trên liềm seo. Sau đó lật ngược liềm seo là được một tờ giấy. Giấy ướt với số lượng nhất định được đặt lên một tấm gỗ dùng vật nặng đề lên để ép kiệt nước rồi đem phơi.
Giấy Dó hiện nay chủ yếu được dùng làm nguyên liệu cho tranh dân gian, câu đối, vàng mã, các loại đồ chơi dân gian, giấy gấp Origami…
https://langngheviet.com.vn/giu-gin-nghe-lam-giay-do-dong-cao-26720-26720.html
---
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.