Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

27/11/2022

Vấn đề nguồn lực tôn giáo và truyền thông các năm 2021-2022

Đi một ít bài của VNN về chủ đề.

Tháng 11 năm 2022,

Giao Blog


---


Trong Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, lần đầu tiên Đảng ta đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo một cách toàn diện, có trọng điểm với dung lượng nhiều nhất so với các kỳ đại hội trước đó.

Trong 10 văn bản trình bày ở 02 tập của văn kiện, có 04 văn bản đề cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo:

1. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”.

2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong phần xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, Đảng ta nêu rõ: “Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan”. Đối với nhiệm vụ, giải pháp thực hiện về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

{keywords}
Chùa Tam Chúc

Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

3. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”.

4. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng ta đã đánh giá những thành tựu và hạn chế liên quan đến tôn giáo. 

Thành tựu: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo”. 

Hạn chế: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi”. 

Dự báo bối cảnh quốc tế và khu vực, Đảng ta chỉ rõ: “Chủ nghĩa dân tộc, cực đoan, xung đột cục bộ, sắc tộc, tôn giáo... là những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia”. 

Nhiệm vụ, giải pháp, Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”.

Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta có nhiều nội dung bổ sung, cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của các tôn giáo, cụ thể như sau:

Một là, quan điểm tiếp tục phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh yếu tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.

Ở Việt Nam, các thuật ngữ: “nguồn lực tôn giáo”, “nguồn lực các tôn giáo”, “các nguồn lực của các tôn giáo”… mới được đề cập mấy năm trở lại đây. Các nhà khoa học, lãnh đạo, quản lý, chức sắc tôn giáo cũng có quan niệm nhất định về nguồn lực tôn giáo theo các cách tiếp cận khác nhau, tùy thuộc vào ưu thế, sự đóng góp của các tôn giáo nói chung, từng tôn giáo nói riêng trong từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể khác nhau.

Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở những điểm sau: khẳng định vai trò của tôn giáo, coi những tác động tích cực của các tôn giáo là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đều thừa nhận các nguồn lực của các tôn giáo ở hai phương diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn ở nguồn lực tinh thần - đó là các giá trị về văn hóa, đạo đức tôn giáo; các nguồn lực của các tôn giáo đã tham gia vào tất cả các quá trình, lĩnh vực trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó ưu thế, đóng góp tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.

Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có tôn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước.

Mai Hương (tổng hợp)

Ảnh: Hoàng Hiệp

https://vietnamnet.vn/nhung-diem-noi-bat-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang-823773.html


..


Báo VietNamNet tổ chức cuộc Tọa đàm trực tuyến với chủ đề Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc với sự tham gia của hai khách mời: Tiến sĩ Lê Thị Liên và Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh. 

 

Đảng và Nhà nước luôn chú trọng phát huy các nguồn lực tôn giáo trong quá trình phát triển đất nước. Nhờ đó, nhiều giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo đã và đang được phát huy hiệu quả, góp phần tích cực vào chăm lo đời sống, an sinh xã hội.

Là lực lượng xã hội đông đảo, những năm qua, đồng bào các tôn giáo cả nước luôn là nhân tố tích cực trong công tác xã hội, hoạt động từ thiện - bác ái. Giáo lý cũng như tôn chỉ mục đích của các tổ chức tôn giáo đều chú trọng đến những việc làm thiện lành để giúp người, giúp đời và xây dựng đất nước. 

Từ đường hướng đồng hành cùng dân tộc, gắn bó với quê hương, đất nước, các tổ chức tôn giáo đã chủ động tham gia hoạt động từ thiện - xã hội, công tác cứu trợ thiên tai, phòng, chống dịch bệnh. Những hoạt động này phát triển mạnh mẽ và lan tỏa rộng khắp, phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. 

Báo VietNamNet tổ chức cuộc Tọa đàm trực tuyến với chủ đề: Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc với sự tham gia của hai khách mời: Tiến sĩ Lê Thị Liên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo (Ban Tôn giáo Chính phủ); Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, Trưởng ban Tôn giáo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 

Xin hỏi Tiến sĩ Lê Thị Liên, chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi như thế nào để các tổ chức tôn giáo cùng tín đồ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội?

{keywords}
Tiến sĩ Lê Thị Liên

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những chính sách đặc biệt của Việt Nam đã được xác định từ rất lâu. Khi trình bày “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Bác Hồ đã khẳng định: “Tín ngưỡng tự do và Lương giáo đoàn kết”.

Quan điểm này trở thành kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước trong vấn đề hoạch định và thực thi chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã thẩm thấu trong đời sống của đồng bào tôn giáo và toàn xã hội. Điều này khiến đồng bào tôn giáo yên tâm tin tưởng vào chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Trong mỗi giai đoạn phát triển đất nước, thời kỳ đất nước đổi mới thì chủ trương chính sách ấy càng được phát huy và lan tỏa.

Cùng với đó, bà con các tôn giáo sẽ có nhiều cơ hội, yên tâm hơn để đóng góp nguồn lực trong hoạt động xã hội. Ở bất cứ giai đoạn nào, bất cứ hoàn cảnh nào, các hoạt động từ thiện xã hội, giá trị đạo đức tôn giáo cũng như đóng góp của chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều có sự lan tỏa. Chính những chủ trương, chính sách về đảm bảo quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước là bệ đỡ, là đường ray, tạo động lực để đồng bào có đạo ở Việt Nam lan tỏa giá trị đó.

Thưa Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội đã phát động các chương trình, các cuộc vận động thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo ra sao?

Đảng, Nhà nước ta luôn coi đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào các tôn giáo ở nước ta có truyền thống gắn bó, đồng hành với dân tộc, sống tốt đời, đẹp đạo.

Trong những năm qua, có rất nhiều chương trình và phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động được triển khai chung trong các tôn giáo cũng như trong toàn dân. Đồng thời có những phong trào, cuộc vận động triển khai trong phạm vi địa phương, vùng miền; có những phong trào, cuộc vận động triển khai mang tính đặc thù riêng của từng tôn giáo.

Ví dụ như Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư hiện lấy tên là Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Đây là cuộc vận động mang tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài, trong đó có tất cả đồng bào các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành và đồng bào các tôn giáo hưởng ứng tích cực. Qua đó làm thay đổi rất nhiều bộ mặt đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các tôn giáo.

Trên cơ sở cuộc vận động này, Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam đã triển khai Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, sống tốt đời đẹp đạo trong tất cả khu dân cư vùng đồng bào công giáo. Bên Phật giáo có phong trào “Xây dựng chùa cảnh tinh tiến gương mẫu”. Đạo Cao Đài có phong trào Nồi cháo tình thương. Phật giáo Hòa Hảo có phong trào tổ chức các chuyến xe cứu thương thiện nguyện…

Có những phong trào mà tất cả tổ chức tôn giáo tham gia, cùng Mặt trận Tổ quốc, cơ quan quản lý nhà nước ký kết chương trình và triển khai bài bản trong toàn quốc. Chẳng hạn năm 2015, Chương trình Phát huy vai trò của tôn giáo tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được ký kết với tất cả lãnh đạo 40 tổ chức thuộc 14 tôn giáo. Hiện đã có trên 2.000 mô hình điểm của các tôn giáo tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai trên cả nước, lan tỏa và thu hút không chỉ đồng bào các tôn giáo mà còn ra ngoài xã hội, ở các khu dân cư, kể cả những người không tôn giáo.

Đặc biệt khi xảy ra thiên tai, lũ lụt, Mặt trận Tổ quốc phát động các phong trào Hướng về miền Trung hoặc hướng về đồng bào các tỉnh bị thiên tai thì các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, đông đảo tín đồ các tôn giáo đã rất nhiệt tình hưởng ứng tham gia. Hay khi chúng tôi hệ thống lại phong trào xây dựng Quỹ Vì người nghèo thì thấy rằng tất cả tổ chức tôn giáo các cấp đều đăng ký ủng hộ.

Truyền thống gắn bó, đồng hành với dân tộc, sống tốt đời, đẹp đạo và cũng là thể hiện truyền thống yêu nước của người Việt Nam, trong đó có đồng bào các tôn giáo đã được tiếp nối, lan tỏa, nhân lên trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

{keywords}
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh

Ông có thể chia sẻ thêm về Đề án Tăng cường vận động đoàn kết các tôn giáo của nước ta hiện nay, một đề án quan trọng đã và đang được Mặt trận Tổ quốc chủ trì hướng dẫn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện? 

Các nội dung của Đề án có rất nhiều, mang tính chất toàn diện trên mọi lĩnh vực để phát huy, lan tỏa chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam. Trong đó có truyền thống gắn bó, đồng hành với dân tộc và truyền thống sống tốt đời, đẹp đạo của các tôn giáo; biến nó trở thành sức mạnh tổng hợp đưa nước ta tiến nhanh, tiến mạnh với mục tiêu như Đảng, Nhà nước ta xác định. Đó là đổi mới toàn diện đất nước và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế để Việt Nam ngày càng có vị trí xứng đáng trong khu vực và trên thế giới. Đề án xác định 3 nhóm nội dung quan trọng:

Nhóm nội dung thứ nhất liên quan đến cơ chế, chính sách, trong đó đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển và hoàn thiện các lý luận về tôn giáo và công tác tôn giáo.

Nhóm nội dung thứ hai có rất nhiều giải pháp liên quan, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc hoàn thiện các tiêu chuẩn, ổn định số lượng, xây dựng chính sách nhằm nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác tôn giáo.

Cụ thể, trách nhiệm của các tỉnh thành trong việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, trong sạch từ cơ sở, nhất là trong vùng có đông đồng bào các tôn giáo. Trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc chủ trì, phối hợp để định kỳ thông tin kịp thời về chủ trương, chính sách nói chung.

Trong đó có các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, chính sách đối ngoại, tình hình của đất nước để đồng bào các tôn giáo nắm bắt các thông tin chính thống, tránh tránh tác động từ dư luận và các thông tin xấu độc trên mạng.

Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong việc tập hợp tâm tư, nguyện vọng, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo. Xây dựng, phát huy vai trò của người tiêu biểu trong các tôn giáo; tập hợp, thu hút những tổ chức tôn giáo đã được công nhận tham gia là tổ chức thành viên của Mặt trận. Vận động, thu hút cá nhân, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tiêu biểu của các tôn giáo tham gia Ủy ban Mặt trận, tham gia Ban chấp hành của các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận… Từ đó phát huy tốt các xu hướng tốt đời đẹp đạo, góp phần thúc đẩy tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước và lòng tự hào dân tộc trong mỗi quý vị chức sắc, chức việc, nhà tu hành…

Nhóm nội dung thứ ba liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp, hỗ trợ các tổ chức tôn giáo và tổ chức tôn giáo trực thuộc triển khai nhiệm vụ mang tính chất là các công việc góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện và lan tỏa tốt hơn với tinh thần tốt đời, đẹp đạo, gắn bó đồng hành với dân tộc. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc định kỳ chủ trì, phối hợp tổ chức để người đứng đầu cấp ủy và đứng đầu chính quyền tiếp xúc, đối thoại với lãnh đạo của các tổ chức tôn giáo, các tổ chức tôn giáo trực thuộc.

Qua tiếp xúc, đối thoại, các tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu hợp pháp, chính đáng của các tổ chức tôn giáo được truyền đạt trực tiếp tới người đứng đầu cấp ủy. Từ đó có thể căn cứ chính sách pháp luật và các chính sách của địa phương để giải đáp, chỉ đạo các cơ quan chức năng giải quyết kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng ấy, góp phần tăng cường đoàn kết của các tôn giáo trong khối đoàn kết toàn dân tộc. 

Thưa Tiến sĩ Lê Thị Liên, là chuyên gia có bề dày trong công tác nghiên cứu về tôn giáo, bà đánh giá thế nào về các nguồn lực tôn giáo tham gia xã hội hóa trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, dạy nghề, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh cũng như bảo vệ môi trường…? 

Nguồn lực tôn giáo thông thường biểu hiện ở 3 nội dung lớn. Thứ nhất là nguồn lực nhân lực. Nguồn nhân lực này đang đóng góp vào quá trình phát triển đất nước. Thứ hai là nguồn lực tinh thần. Đây là giá trị đạo đức qua triết lý tôn giáo, triết lý dạy cho con người ta làm điều tốt, hướng thiện và cũng là giá trị bền vững mà tôn giáo nào cũng hướng đến. Thứ ba là nguồn lực giá trị vật chất, thể hiện qua các hoạt động y tế, giáo dục, từ thiện, nhân đạo, xây dựng nông thôn mới, dạy nghề, xóa đói giảm nghèo…

Đối với các tổ chức tôn giáo thì hoạt động từ thiện trong các lĩnh vực y tế, giáo dục là truyền thống. Công giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác đã mở rất nhiều trường, lớp từ thiện dạy văn hóa, ngoại ngữ, nhất là trường mầm non của tôn giáo trở thành trường chuẩn Quốc gia. Hay những cơ sở thờ tự trở thành phòng khám, phòng thuốc nam hay các chuyến xe cứu thương từ thiện… Những hoạt động này được thực hiện hàng ngày chứ không chỉ trong lúc xảy ra thiên tai dịch bệnh. Các tổ chức tôn giáo chung tay các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện bằng giá trị đạo đức tôn giáo và phục vụ người dân một cách không vụ lợi.

Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây chính là động lực thúc đẩy, phát huy các nguồn lực tôn giáo phát triển. Các cơ quan làm công tác tôn giáo và liên quan đến công tác tôn giáo luôn hỗ trợ, tạo điều kiện khuyến khích, ghi nhận và lan tỏa những đóng góp của các tổ chức tôn giáo. Từ đó tạo thêm động lực cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành nói riêng và các tổ chức tôn giáo nói chung tiếp tục đường hướng góp phần phát triển hệ thống an sinh xã hội. 

Đại dịch Covid-19 xảy ra gây ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội đất nước trong đó có hoạt động tôn giáo. Theo ông Thanh, cơ quan chức năng đã hướng dẫn, phối hợp kịp thời với các tổ chức tôn giáo trong phòng chống dịch ra sao? 

Khi xảy ra đại dịch, thực hiện lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong đoàn kết toàn dân tham gia phòng chống đại dịch, nhân dan cả nước trong đó có đồng bào tôn giáo đã tham gia hưởng ứng và thực hiện rất tốt. Thời điểm dịch Covid-19 bắt đầu diễn ra vào mùa xuân và mở đầu năm 2020 cũng là lúc trên đất nước có rất nhiều lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo. Rất nhiều chương trình, kế hoạch hoạt động của các tôn giáo đã tạm dừng, chuyển sang hình thức trực tuyến.

Tôi cũng thấy chưa có hoạt động xã hội hay hoạt động an sinh nào mà có sự tham gia ngay từ đầu và quyết liệt của nhiều tổ chức tôn giáo đến vậy. Tất cả 43 tổ chức tôn giáo đều có văn bản chỉ đạo các cơ sở, hệ thống tôn giáo của mình hưởng ứng và phối hợp với toàn dân tham gia thực hiện phòng, chống đại dịch.

Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo thực hiện rất nhiều hoạt động cụ thể ủng hộ Quỹ Phòng, chống Covid-19, Quỹ Vắc xin phòng, chống Covid-19 Quốc gia, rồi các chương trình hỗ trợ hàng hóa, cứu trợ an sinh xã hội hay tham gia tuyến đầu phòng, chống dịch… Các tổ chức tôn giáo đều có sự phối hợp đồng bộ, nhuần nhuyễn với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc trong đoàn kết toàn dân phòng, chống đại dịch Covid- 19.

Tiến sĩ Lê Thị Liên: Tôi xin chia sẻ thêm, sau khi Thủ tướng chỉ đạo và Bộ Y tế hướng dẫn phòng chống dịch thì Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp về tôn giáo đã rất chủ động ban hành văn bản đề nghị các tổ chức tôn giáo thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng cũng như hướng dẫn của ngành y tế. Chúng tôi cũng yêu cầu các tỉnh, thành nắm tình hình liên quan đến dịch bệnh trong cộng đồng, trong tổ chức tôn giáo, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ, hỗ trợ, thăm hỏi, động viên, khuyến khích các tổ chức tôn giáo có đóng góp, cống hiến trong phòng chống đại dịch. 

{keywords}
 

Tiến sĩ Lê Thị Liên nhìn nhận thế nào về việc các tổ chức tôn giáo đã cùng nhau phát huy nguồn lực, lan tỏa, yêu thương và đồng hành cùng cả nước chống đại dịch? 

Việt Nam chúng ta là một đất nước đa tôn giáo, tín ngưỡng. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thể hiện rất rõ rằng mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Chúng ta không có tôn giáo lớn, tôn giáo nhỏ mà chỉ có tôn giáo ít tín đồ, tôn giáo đông tín đồ, về mặt ứng xử hay pháp luật đều như nhau. Đây chính là động lực để các tôn giáo hòa quyện với nhau và phát huy nguồn lực.

Trong phòng chống đại dịch, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam không có sự phân biệt, cá nhân cũng không phân biệt là người tôn giáo hay không tôn giáo. Mọi tổ chức đều hoà đồng và cống hiến, đồng cảm cùng chia sẻ mọi nguồn lực mình có. Tất cả đều hòa quyện trong công tác phòng, chống dịch; lấy con người, lấy người nghèo, lấy dân tộc là điểm đến, điểm chung. Vì vậy, sự đóng góp trong cuộc chiến chống đại dịch này là không giới hạn, không phân biệt.

Tôi nhớ bức thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam có tiêu đề “Thương lắm Sài Gòn ơi”. Lá thư chứa chan tình đồng bào, tình huynh đệ, tình đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước của Việt Nam. Đọc lá thư ấy, chúng tôi không còn cảm đấy là của một tôn giáo mà là thư của những người con Việt Nam trong lúc đất nước gặp khó khăn. Tất cả nguồn lực tôn giáo đều đóng góp trong một quỹ chung để tới những nơi cần đến, những điểm cần được nhận. Điều đó lan tỏa yêu thương rất nhiều, tình yêu đất nước, tình dân tộc hòa quyện vào các tôn giáo.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh: Chúng tôi chưa có số liệu chính thức nhưng hệ thống sơ bộ trong phòng chống đại dịch Covid 2020, 2021, đóng góp của các tôn giáo Việt Nam nếu tính quy ra giá trị vật chất thì lên đến hàng nghìn tỷ đồng, trong đó tiêu biểu nhất là đóng góp vào Quỹ Phòng, chống Covid của Quốc gia, Quỹ Vắc xin phòng, chống Covid.

Đặc biệt, các giá trị vật chất không chỉ là đóng góp quỹ mà có rất nhiều các mô hình, hoạt động cụ thể. Tất cả các tổ chức tôn giáo tham gia ủng hộ hàng hóa, lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm kịp thời cho đồng bào, nhân dân, những người khó khăn ở các vùng tâm dịch, những địa phương bị dịch ảnh hưởng nặng nề.

Các tổ chức tôn giáo cũng đã có hoạt động ủng hộ về trang thiết bị y tế cho cho bệnh viện như máy thở đa năng, máy tạo ô xy, khẩu trang và rất nhiều thuốc men, trang thiết bị khác. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã kêu gọi vận động ủng hộ nhân dân Ấn Độ trong thời điểm nước này bùng phát đại dịch.

Bên cạnh đó, có rất nhiều phong trào thể hiện tình cảm và sự đoàn kết của các tôn giáo Việt Nam như rất nhiều quý vị chức sắc hay tu sĩ Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài… đăng ký tham gia tuyến đầu phục vụ các bệnh viện, trung tâm cách ly để phòng chống dịch. Hoặc mô hình Bếp ăn yêu thương có số lượng tham gia rất nhiều.

Ví dụ từ ngày 27/4 – 26/8 là cao điểm của đợt bùng phát dịch lần thứ tư, riêng Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức được trên 5 triệu suất ăn miễn phí để gửi đến các bệnh viện, các trung tâm cách ly, tuyến đầu phòng chống dịch. Cũng thời điểm này, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Toà Tổng giám mục TP.HCM đã ủng hộ bằng tiền mặt hàng tỷ đồng cho bếp ăn miễn phí của chùa Vĩnh Nghiêm. Hay mô hình các tu sĩ Phật giáo TP.HCM đã phối hợp với Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố dùng nguồn lực vận động có được cùng đến phát quà, chăm lo cho các hộ gia đình là tín đồ Hồi giáo gặp khó khăn và những người dân khác ở khu dân cư.

Rất nhiều mô hình mà bằng lời nói hay những con số không thể nói lên hết sự được đóng góp của các tôn giáo trong phòng, chống đại dịch. Giá trị lớn nhất là tinh thần nhân văn, tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước của dân tộc ta được tiếp nối, được phát huy và thể hiện rất sinh động. Đó là nguồn sức mạnh dân tộc mà Đảng, Nhà nước ta tiếp tục bồi đắp, phát huy sức mạnh tổng lực trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.  

Hoà An – Xuân Quý – Đức Yên – Huy Phúc 

Ảnh: Lê Anh Dũng

https://vietnamnet.vn/toa-dam-ton-giao-dong-hanh-cung-dan-toc-791176.html


..


Để làm rõ những giá trị cụ thể của nguồn lực tôn giáo tại Việt Nam, Báo VietNamNet tổ chức tọa đàm "Phát huy nguồn lực tôn giáo trong đời sống xã hội”

XEM VIDEO: 

Phát huy nguồn lực tôn giáo không chỉ là câu chuyện của Nhà nước hay các tổ chức tôn giáo, bởi khi người dân và cộng đồng xã hội ủng hộ, đồng tình thì các nguồn lực sẽ được phát huy một cách tốt nhất. 

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Dù đức tin, sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau nhưng cùng có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước và truyền thống văn hóa. 

Hiện nay, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau. Cả nước có hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số.

Nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thời gian qua tín đồ các tôn giáo luôn có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Để tôn giáo luôn "đồng hành cùng dân tộc”, có nhiều đóng góp thiết thực hơn nữa thì việc phát huy hiệu quả nguồn lực tôn giáo trong đời sống xã hội và phát triển đất nước là rất quan trọng.

Để làm rõ những giá trị cụ thể của nguồn lực tôn giáo tại Việt Nam, Báo VietNamNet tổ chức tọa đàm "Phát huy nguồn lực tôn giáo trong đời sống xã hội” với sự tham gia của hai khách mời:

Tiến sĩ Lê Thị Liên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 

Nhà báo Diệu Thúy: Thưa PGS.TS Chu Văn Tuấn, xin ông có thể làm rõ những khía cạnh và giá trị cụ thể của nguồn lực tôn giáo tại Việt Nam hiện nay? 

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Về nguồn lực tôn giáo, đây là một chủ đề mà giới nghiên cứu lý luận cũng như nghiên cứu tôn giáo đã có sự quan tâm từ lâu. Tôi cho rằng, nguồn lực tôn giáo có ba khía cạnh: nguồn lực vật chất, nguồn lực tinh thần và nguồn lực con người.

Thế nào là nguồn lực vật chất của tôn giáo? Các tôn giáo không chỉ có tinh thần, niềm tin, đức tin hay các giáo lý, giáo luật mà còn là một thực thể xã hội. Những cơ sở vật chất, tài sản tôn giáo như đất đai, cơ sở thờ tự hay những nguồn lực về tài chính mà các tôn giáo đã thu hút được sự đóng góp của toàn xã hội thì từ góc độ nghiên cứu, chúng tôi cho rằng đấy là nguồn lực vật chất.

Nguồn lực tinh thần là tất cả những giá trị tôn giáo, tư tưởng, triết lý tôn giáo, giáo lý, giáo luật tôn giáo về đạo đức, về điều chỉnh hành vi của con người rồi những giá trị văn hóa, ví dụ như những di sản mà các tôn giáo để lại. 

{keywords}
PGS.TS Chu Văn Tuấn

Thứ ba là nguồn lực con người. Hiện nay, các tôn giáo ở Việt Nam có khoảng 26,5 triệu tín đồ. Đây là các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận. Nếu tính cả những loại hình tín ngưỡng thì con số còn lớn hơn. Nguồn lực con người là tất cả chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tôn giáo, các tín đồ tôn giáo và kể cả những người có cảm tình với tôn giáo, sẵn sàng đóng góp cho hoạt động tôn giáo. 

Chức sắc, tín đồ, nhà tu hành là người được đào tạo, có niềm tin tôn giáo, có những kiến thức, kỹ năng trong cuộc sống. Bản thân họ và các tín đồ còn là lực lượng có thể đóng góp rất tốt cho sự phát triển xã hội. Nếu chúng ta biết khai thác, phát huy được vai trò, sức mạnh, niềm tin của họ và cả các tín đồ thì đó là nguồn lực rất quan trọng cho sự phát triển đất nước.

Đánh giá khách quan để ứng xử phù hợp

Nhà báo Diệu Thúy: Xin hỏi TS Lê Thị Liên, tại sao chúng ta cần nhận thức đúng đắn về nguồn lực tôn giáo?

TS Lê Thị Liên: PGS.TS Chu Văn Tuấn vừa nói rất rõ về nguồn lực tôn giáo. Những nguồn lực này trong quá trình tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, trong quá trình tôn giáo phát triển biểu hiện ở hoạt động xã hội của tôn giáo và hoạt động tôn giáo nói chung.

Khi chúng ta đánh giá khách quan về hoạt động tôn giáo thì chúng ta sẽ ứng xử phù hợp. Khi ứng xử phù hợp, chúng ta sẽ có những cơ chế, chính sách phù hợp, từ đó khơi thông nguồn lực tôn giáo và phát huy được nguồn lực tôn giáo vào quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Đồng thời chúng ta cũng khẳng định giá trị của tôn giáo trong lòng xã hội. 

Đất nước ta là đa dạng tôn giáo. Để nhận thức đúng, chúng ta cần hiểu rõ từng tôn giáo và thế mạnh của tôn giáo ấy. Tôi muốn ví dụ như có những tôn giáo có nguồn lực bền vững, có tôn giáo nguồn lực ở mức độ vừa phải, có tôn giáo với nguồn lực đủ mạnh để tham gia vào hệ thống an sinh xã hội của đất nước, thậm chí với tư cách là chủ đầu tư, quản lý nhưng cũng có tôn giáo hoạt động ở mức độ từ thiện, nhân đạo…

Như vậy, cần đánh giá đúng để có lộ trình pháp lý trong công tác tham mưu ban hành chính sách. Từ đó khơi dậy, phát huy nguồn lực tôn giáo, đồng thời cũng hạn chế những hoạt động có thể lợi dụng tôn giáo.

Các nhận thức đúng và đánh giá khách quan nguồn lực tôn giáo là hết sức quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi Đảng, Nhà nước ta đã xem tôn giáo là nguồn lực. Dĩ nhiên không phải bây giờ chúng ta mới phát huy giá trị đạo đức của tôn giáo bởi những đóng góp của tôn giáo đối với đời sống xã hội đã có từ rất lâu. Tôi nghĩ rằng, việc nhận thức đúng đắn nguồn lực tôn giáo rất quan trọng cho cả phía khách thể và chủ thể. 

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Chúng ta phải nhận thức đầy đủ từ cả hai góc độ để thấy được các giá trị, vai trò của nguồn lực tôn giáo với đời sống xã hội và sự phát triển đất nước. Đồng thời để biết được những hạn chế và có thể phát huy tốt hơn nguồn lực này.

Phát huy nguồn lực tôn giáo là chủ trương của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế triển khai, có những nơi nhận thức tốt và phát huy tốt nguồn lực tôn giáo nhưng cũng có những nơi, những lúc chúng ta phát huy chưa tốt. Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để không bị lãng phí các nguồn lực xã hội nói chung, đặc biệt là nguồn lực tôn giáo. 

Nhà báo Diệu Thúy: Để đánh giá thực trạng nguồn lực tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS Chu Văn Tuấn có chia sẻ gì, thưa ông?

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Không phải bây giờ khi chúng ta đặt ra câu chuyện nguồn lực tôn giáo thì các tôn giáo mới có sự đóng góp. Nhiệm vụ hay đúng hơn là bản thể vốn có của tôn giáo là luôn tham gia vào đời sống xã hội, giúp đỡ cho sự phát triển xã hội, cho cộng đồng và con người.

Mỗi tôn giáo đóng góp một vai trò khác nhau, có tôn giáo mạnh về lĩnh vực này, có tôn giáo mạnh về lĩnh vực khác. Ví dụ, có tôn giáo mạnh về giáo dục, lại có những tôn giáo mạnh về y tế. Có những tôn giáo rất tích cực trong xây dựng đời sống dân cư như xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực có nhiều người nghèo, nông thôn, miền núi... Các ví dụ để thấy, mỗi tôn giáo đều có thế mạnh riêng.

Chúng ta cần đánh giá đầy đủ, hệ thống và khoa học để hiểu rõ mỗi tôn giáo có thế mạnh gì và có thể tham gia đóng góp đến đâu, như thế nào vào những lĩnh vực của đời sống xã hội. Có những nghiên cứu bài bản thì chúng ta mới và phát huy tốt nhất được nguồn lực tôn giáo. 

Sức mạnh mềm của tôn giáo

Nhà báo Diệu Thúy: Thưa TS Lê Thị Liên, là một chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về chính sách tôn giáo và các hoạt động tôn giáo, bà có thể cho biết nguồn lực của các tôn giáo trong việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội cũng như trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện, nhân đạo, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường...? 

TS Lê Thị Liên: Chúng ta có nguồn lực tôn giáo biểu hiện bằng ba khía cạnh, như PGS.TS Chu Văn Tuấn đã nói từ đầu.

Về tinh thần, chính tinh thần của tôn giáo đã thể hiện rất rõ vai trò của tôn giáo đối với xây dựng, phát triển văn hóa. Tôn giáo là một phần của văn hóa. Nếu chúng ta chưa thể nói rằng tôn giáo là thành tố văn hóa thì chính giá trị đạo đức của tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ngày càng ngày hội nhập quốc tế, tiến sâu hơn vào toàn cầu hóa.

Đất nước phát triển nhưng cùng với đó cũng có lệch chuẩn, sụt giảm hay mai một về giá trị văn hóa truyền thống. Những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo rất gần và có nhiều điểm chung với văn hóa dân tộc. Khi tôn giáo phát huy được giá trị đó thì đã bồi bổ, làm phong phú thêm và góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc. 

Bản thân tôn giáo chính là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa dân tộc. Có thể với đại chúng, chúng ta chưa nghiên cứu nhiều nhưng khi đến những vùng đồng bào dân tộc thiểu số sẽ thấy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số lại được chính các tôn giáo lưu giữ rất nhiều. 

Bên cạnh đó, sinh hoạt tôn giáo chính là cách lưu truyền, giao lưu văn hóa và đạo đức dân tộc. Khi tôn giáo phát triển, cùng với các hoạt động tôn giáo, văn hóa dân tộc cũng được phát triển. Không chỉ các bộ, ban ngành mà chính các tổ chức tôn giáo cũng góp phần đưa văn hóa dân tộc đi khắp nơi, đến những vùng sâu, vùng xa, kể cả ở nước ngoài.

Đó là điều tuyệt vời của giá trị đạo đức tôn giáo và giá trị ấy rất bền vững trải qua các thời kỳ của đất nước, qua bao nhiêu thay đổi và ngày càng được khẳng định trong đời sống. Khi giá trị tôn giáo được khơi dậy, phát huy trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới, trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc thì tôi nghĩ rằng giá trị đó rất tốt đẹp. Tôn giáo chính là sức mạnh mềm. 

Trong lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện, nhân đạo thì bản thân tôn giáo sinh ra đã có tính hướng thiện và giúp đỡ mọi người. Tuy nhiên, sự thể hiện của các tôn giáo khá khác nhau nhưng tựu trung lại có 2 lĩnh vực mà tôi muốn nhấn mạnh trong các hoạt động y tế, giáo dục của tôn giáo.

Thứ nhất là nguồn lực tôn giáo có thể phát huy hệ thống an sinh xã hội. Những tôn giáo có tiềm năng, tiềm lực, đông tín đồ và huy động nguồn lực xã hội để trở thành nguồn lực tôn giáo và lấy nguồn lực đó để đóng góp lại cho xã hội bằng hệ thống an sinh xã hội.

Thứ hai là hoạt động từ thiện. Hoạt động này có thể do bất cứ tôn giáo nào thực hiện, không hẳn là những tôn giáo được Nhà nước công nhận mà cả những tôn giáo chưa được công nhận hay những người có tình cảm tôn giáo… 

Ví dụ trong đại dịch Covid-19 vừa qua, sự đóng góp của các tổ chức tôn giáo thật sự không còn ranh giới giữa dân tộc hay tôn giáo, giữa người có tôn giáo hay không. Tất cả đều tham gia hoạt động thiện nguyện, đóng góp nguồn lực vật chất, kể cả sự hy sinh tính mạng con người. Các tu sĩ, những nhà tu hành rồi các tín đồ đều tự nguyện tham gia tuyến đầu chống dịch cùng với các bộ, ban, ngành và thực tế nhiều người đã không trở về. Tất cả đều làm từ tâm và từ sự thôi thúc của chính giá trị tôn giáo, giá trị của dân tộc “Lá lành đùm lá rách’’.

Sự đồng lòng chung tay rất quan trọng nhưng nếu chúng ta nắm rõ để khơi thông, phát huy nguồn lực tôn giáo thì cần một cơ chế rõ ràng hơn để không bị lãng phí nguồn lực và nguồn lực đó đến đúng địa chỉ, đến đúng nơi cần đến cũng như các giá trị của tôn giáo ngày một lan tỏa hơn trong quá trình tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, phát triển đất nước. 

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Có thể thấy, đối với việc xây dựng và bảo tồn nền văn hóa truyền thống thì các tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là các tôn giáo có lịch sử du nhập lâu dài đều góp phần làm phong phú thêm những giá trị văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh đó, trong quá trình tồn tại, phát triển tại Việt Nam, bản thân các tôn giáo với những thiết chế văn hóa của mình cũng tạo ra những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, những công trình tôn giáo và các di tích. Chính những tài sản tôn giáo, những bảo vật tôn giáo đều là những di sản văn hóa rất quý báu của dân tộc, lưu giữ đến nay và trở thành vô giá. 

Các tôn giáo còn góp phần xây dựng và điều chỉnh văn hóa, đạo đức xã hội. Các tôn giáo hiện nay không chỉ là tham dự vào hoạt động an sinh, từ thiện mà còn đóng góp rất quan trọng vào công tác bảo vệ môi trường.

Trong các tôn giáo có rất nhiều những giáo lý, giáo luật quy định phải sống thân thiện với môi trường, con người phải hài hòa và yêu thương thiên nhiên. Các tôn giáo khuyến khích tín đồ cũng như tất cả mọi người hãy bảo vệ môi trường hoặc bản thân các tôn giáo cũng tham gia vào chương trình bảo vệ môi trường của Nhà nước. 

Tôi còn nhớ tại Hội nghị toàn quốc do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ và rất nhiều cơ quan tổ chức năm 2014, tất cả các tôn giáo ở Việt Nam đã tham gia và ký kết một văn bản để đồng hành với Nhà nước, với xã hội trong việc bảo vệ môi trường. Câu chuyện về ứng phó biến đổi khí hậu cũng như vậy khi nhiều nguồn lực và hoạt động của tôn giáo đều tham gia. 

Tôi muốn đề cập thêm về vai trò của tôn giáo đối với việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Người bệnh, đặc biệt là những người mắc các bệnh phong, HIV, chất độc da cam… thường bị người đời xa lánh, kỳ thị. Họ mắc bệnh hiểm nghèo rất cần sự an ủi, chăm sóc không chỉ về vật chất mà còn cả tinh thần. Chính các tôn giáo với sự tận tâm chăm sóc đã góp phần xóa đi nỗi đau thể chất, nỗi đau tinh thần của họ. Đây là điều xã hội phải ghi nhận và đánh giá đúng vai trò của tôn giáo. 

TS Lê Thị Liên: Trong những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động phòng trào và hiện có 63 tỉnh, thành phố ký kết chương trình tôn giáo tham gia bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu. Các tôn giáo có những cách làm rất hay. Đó là họ tác động đến nhận thức trước, sau đó mới bắt đầu tác động thay đổi hành vi, từ hành vi cá nhân rồi tới gia đình, cộng đồng… tạo ra sự lan tỏa để chúng ta có môi trường sống bền vững. Ngoài ra, tôn giáo tham gia vào lĩnh vực bảo trợ xã hội và cũng đã mang lại hiệu quả rất cao. 

Nhà báo Diệu Thúy: Vậy có thể khái quát về vai trò của nguồn lực tôn giáo đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai như thế nào, thưa bà?

TS Lê Thị Liên: Bản thân tôn giáo và các giá trị tôn giáo đã là bền vững, tôi đánh giá tôn giáo có bốn vai trò với sự phát triển đất nước.

Thứ nhất là giá trị đạo đức tôn giáo góp phần vào xác lập các giá trị xã hội và ảnh hưởng trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, kể cả trong hoạt động kinh tế.

Thứ hai là tôn giáo tham gia nâng đỡ, bồi bổ các giá trị đạo đức, văn hóa xã hội. Đặc biệt trong phát triển bền vững hiện nay thì phát triển văn hóa cực kỳ quan trọng. Tiếp đến là những đóng góp của tôn giáo về vật chất và nguồn nhân lực góp phần cùng với Nhà nước thúc đẩy hệ thống an sinh xã hội. 

{keywords}
TS Lê Thị Liên

Thứ ba là đoàn kết dân tộc. Tôn giáo nào cũng có mục tiêu hướng thiện, yêu chuộng hòa bình, tránh xa những điều ác. Ở đâu có tổ chức tôn giáo tốt thì vấn đề tự quản ở đó cũng rất tốt. Bản thân tôn giáo có giáo lý, giáo luật, những điều răn đã thấm sâu vào mỗi tín đồ tôn giáo. Như vậy, khi các giá trị đó được thực hiện tốt sẽ khiến vai trò của tôn giáo trong đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo cũng rất tốt, tạo dựng sự đồng thuận xã hội.

Cuối cùng là vai trò khẳng định chủ trương, chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam khi nguồn lực của tôn giáo được phát huy, khi tôn giáo được bày tỏ.

Bốn vai trò này là rất quan trọng với sự phát triển bền vững của đất nước ta hiện nay. 

Cần cơ chế khơi thông nguồn lực tôn giáo

Nhà báo Diệu Thúy: Theo PGS.TS Chu Văn Tuấn, chúng ta cần những điều kiện gì để phát huy mạnh mẽ và tương xứng với tiềm năng, với nguồn lực tôn giáo hiện có?

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Chúng ta đã có nhận thức, đã có những chủ trương về phát huy nguồn lực tôn giáo nhưng vấn đề là làm thế nào để phát huy?

Đầu tiên, chúng ta phải có cơ chế chính sách để các tôn giáo tham gia vào nhiều lĩnh vực hơn và làm thế nào để gỡ được những nút thắt hạn chế sự phát huy nguồn lực tôn giáo. 

Theo tôi, cần phải xem cơ chế là yếu tố quan trọng đầu tiên. Dĩ nhiên còn nhiều yếu tố khác, ví dụ nhận thức của tất cả hệ thống chính trị, xã hội, các cơ quan làm công tác tôn giáo, quản lý nhà nước về tôn giáo... Tiếp đó là bản thân các tôn giáo cũng nhận thức đầy đủ hơn về nguồn lực của mình và vai trò, trách nhiệm của mình đối với sự phát triển đất nước, từ đó phải chuẩn bị những điều kiện để có thể phát huy. 

Phát huy nguồn lực tôn giáo không chỉ là câu chuyện của Nhà nước, hay của các tổ chức tôn giáo mà còn của cả người dân, cộng đồng xã hội. Bởi lẽ, khi các tôn giáo và Nhà nước đã có chủ trương như vậy, nếu người dân ủng hộ, đồng tình thì nguồn lực tôn giáo sẽ được phát huy một cách tốt nhất. 

Nhà báo Diệu Thúy: Thưa TS Lê Thị Liên, bà có thể cho biết việc phát huy nguồn lực tôn giáo của nước ta hiện đang gặp những thách thức như thế nào? 

TS Lê Thị Liên: Thách thức lớn nhất của chúng ta, theo tôi có hai khía cạnh.

Thứ nhất là sự nhận diện đầy đủ về nguồn lực tôn giáo, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều nghiên cứu và khảo sát. Do vậy, chúng ta cần có sự khảo sát đầy đủ, đánh giá rất khách quan về nguồn lực tôn giáo. Đôi lúc, nhận thức của chúng ta bị đập vào những con số nhưng thực chất khi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu và khảo sát thật kỹ thì thấy rằng con số ấy không hẳn là như vậy.

Thứ hai là cơ chế chính sách. Có những người nhận thức về nguồn lực tôn giáo hạn hẹp, chỉ ở mức độ là tham gia từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội để phát triển tôn giáo. Hoặc cũng có nhận thức quá tô hồng khi nhìn những con số, về khả năng của tôn giáo và vô hình trung, chúng ta gây áp lực cho chính mình và áp lực cho các tổ chức tôn giáo. 

Một thách thức nữa là đa số hoạt động an sinh xã hội của các tổ chức tôn giáo đan xen với hoạt động tôn giáo, chưa có sự tách bạch. Do vậy, khi chúng ta khảo sát hay nhìn nhận, đánh giá sẽ vướng quy định này, điều luật kia. Đây là thách thức rất lớn trong phát huy nguồn lực tôn giáo hiện nay. 

{keywords}
Tọa đàm "Phát huy nguồn lực tôn giáo trong đời sống xã hội”

Nhà báo Diệu Thúy: Vậy chúng ta cần làm gì để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, thưa bà? 

TS Lê Thị Liên: Về luật pháp liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo, tôi nghĩ rằng chúng ta đã làm rất tốt. Trong giai đoạn tới cần làm tốt hơn hoặc có thể điều chỉnh, bổ sung quy định.

Về phía quản lý nhà nước về tôn giáo, theo tôi là đã đủ điều kiện để đảm bảo cho hoạt động tôn giáo cũng như thúc đẩy các hoạt tôn giáo đóng góp nguồn lực cho xã hội. Khi chúng ta đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng của các tổ chức tôn giáo và chủ động trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thì sẽ tạo ra niềm tin của tổ chức và cá nhân tôn giáo đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đây là sự tương giao, mối tương quan trong quản lý và trong công tác hỗ trợ tôn giáo cũng như hoạt động tôn giáo. 

Làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo giáo chính là một động lực thúc đẩy hoạt động tôn giáo và cũng để hạn chế những bất cập. 

Nhà báo Diệu Thúy: Theo PGS.TS Chu Văn Tuấn, để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh hiệu quả với các hoạt động lợi dụng tôn giáo, chúng ta cần phải làm gì?

PGS.TS Chu Văn Tuấn: Nếu chúng ta không có cơ chế, chính sách, nhất là những quy định không đầy đủ, rõ ràng thì sẽ có những câu chuyện lợi dụng việc phát huy nguồn lực tôn giáo nhằm trục lợi.

Để phát huy tốt nguồn lực tôn giáo thì ngoài công tác quản lý nhà nước, chúng ta cần hoàn thiện công tác tôn giáo nói chung của cả hệ thống chính trị bởi việc phát huy nguồn lực tôn giáo liên quan đến rất nhiều các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.

Chúng ta cũng phải có sự đồng bộ từ góc độ quản lý, từ công tác tôn giáo và từ nhận thức của mọi người. Nhằm khắc phục những hạn chế hay lợi dụng hoạt động tôn giáo để trục lợi, theo tôi phải có những quy định, nguyên tắc, chế tài, thậm chí là các văn bản quy định pháp luật chặt chẽ mới có thể là phòng ngừa, ngăn chặn. Đây cũng là thách thức chúng ta phải tính đến trong quá trình phát huy nguồn lực tôn giáo.

Diệu Thuý – Xuân Quý – Bạt Tuấn – Huy Phúc 

https://vietnamnet.vn/phat-huy-nguon-luc-ton-giao-trong-doi-song-xa-hoi-800062.html

..

Lần đầu tiên chúng ta đưa vào văn kiện Đại hội Đảng khẳng định nguồn lực của tôn giáo và chỉ rất rõ, đó là phát huy nguồn lực tôn giáo trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đời sống ở khu dân cư.

Cuối tháng 8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì Hội nghị biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tại Hội nghị, Thủ tướng đã nhấn mạnh: Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đến năm 2025 Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, định hướng XHCN. 

Đại hội cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc, của việc phát huy sức mạnh nội sinh trong việc hướng tới những mục tiêu chiến lược đó. Trong đó, tôn giáo được khẳng định là một trong những nguồn lực góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Đề cập đến những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo trong chiến lược xây dựng và phát triển, hôm nay, Báo Vietnamnet tổ chức tọa đàm “Những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo góp phần xây dựng và phát triển đất nước” với 2 vị khách mời: 

- Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, Trưởng ban Tôn giáo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 

- Tiến sĩ Lê Thị Liên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách Tôn giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ.

>> Mời quý độc giả xem video buổi Tọa đàm:

Khẳng định nguồn lực của tôn giáo và việc phát huy nguồn lực tôn giáo 

Nhà báo Lê Diệu ThúyThưa tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, xin ông cho biết quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy giá trị đạo đức, văn hóa và nguồn lực tôn giáo?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Trước hết, Hồ Chí Minh đã được kế thừa các tinh hoa văn hóa của dân tộc, cộng với quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã kết hợp được rất nhiều tinh hoa văn hóa của nhân loại. Ngay từ đầu Người luôn luôn trân trọng các giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp, rất nhân văn, bác ái của các tôn giáo và Hồ Chí Minh cũng nhìn thấy được các lãnh tụ của các tôn giáo đều là những bậc hiền trí của nhân loại.

Chính vì vậy Hồ Chí Minh chủ trương là muốn giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thì phải phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Và trong sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đó, đồng bào các tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng. Bác chủ trương đồng bào các tôn giáo ai cũng là người Việt Nam, ai cũng mang trong mình dòng máu con Lạc, cháu Hồng, ai cũng có lòng ái quốc. Do đó phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết của các tôn giáo cùng với toàn dân để hoàn thành sự nghiệp cách mạng cao cả của dân tộc và đất nước. 

Bên cạnh đó, Người cũng luôn trân trọng các giá trị văn hóa, giá trị kiến trúc nghệ thuật cũng như các giá trị về mặt tri thức của các tôn giáo đóng góp cho văn minh nhân loại cũng như cho sự phát triển tiến bộ trong tư duy, nhận thức của con người. 

Người chủ trương chúng ta phải biết “gạn đục khơi trong” và phát huy những điểm tốt đẹp của các tôn giáo trong quá trình kháng chiến kiến quốc, cũng như sau này trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, Người luôn nâng niu, trân trọng và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và đặc biệt là nguồn lực của tôn giáo, trong đó nguồn lực con người vẫn là nguồn lực rất vô tận. Vì vậy chúng ta phải biết có cơ chế, chính sách cụ thể và cả những hành vi ứng xử cụ thể để phát huy các giá trị và nguồn lực đó. 

TS. Lê Thị Liên: Tôi rất đồng tình với phân tích của TS. Nguyễn Văn Thanh. Có thể nói quan điểm của Hồ Chí Minh đối với nguồn lực tôn giáo, đặc biệt là giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo… là nền tảng để Đảng, Nhà nước có những quan điểm về tín ngưỡng, tôn giáo như hiện nay. Bác là danh nhân thế giới, là nhà văn hóa kiệt xuất, do vậy dù bất cứ hoàn cảnh nào Bác luôn nhìn tôn giáo với cách nhìn của nhà văn hóa. 

Giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đã được Bác đúc kết và trở thành một trong những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo. Chính từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa mà trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ chúng ta đã đoàn kết rất tốt đồng bào các tôn giáo cùng với toàn dân kháng chiến cứu quốc và đến ngày nay là xây dựng CNXH. 

Cùng với đó, tư tưởng của Bác với tôn giáo là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào. Bác đánh giá rất cao các tín đồ tôn giáo và nguồn lực của tôn giáo như anh Thanh vừa chia sẻ là nguồn lực con người. Đấy chính là giá trị nhân văn khi Bác nhìn nhận tín đồ tôn giáo là những người mang trong mình niềm tin, giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo. 

Bác đánh giá cao giá trị triết lý của mỗi tôn giáo, Bác nói: “Chúa Giêsu dạy: đạo đức là bác ái, Phật Thích ca dạy: đạo đức là từ bi, Khổng tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa", "Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? họ đều muốn mưu phúc lợi cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy

Điều đó cho thấy Bác rất đề cao giá trị trong những triết lý của các tôn giáo. Đồng thời Bác cũng đánh giá cao vai trò của các vị lãnh tụ các tôn giáo là những người sáng lập nên tôn giáo và mang giá trị đó đến dân tộc và nhân loại. 

Tôi nghĩ rằng quan điểm của Bác là kim chỉ nam đặt nền móng để cho Đảng, Nhà nước khai thông, phát huy giá trị đó, nhìn nhận giá trị đó trong công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay. Ở bất cứ lĩnh vực công tác nào Bác đều căn dặn cán bộ, chiến sĩ luôn luôn phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. 

Tôi nghĩ quan điểm của Bác rất rõ trong vấn đề nhìn nhận tôn giáo là văn hóa, là giá trị, là đạo đức rất phù hợp với đạo đức của dân tộc, chính là động lực và là mẫu số chung để chúng ta phát huy giá trị đạo đức tôn giáo trong xây dựng đạo đức xã hội. 

Từ trái qua phải: Nhà báo Diệu Thúy, TS. Nguyễn Văn Thanh và TS. Lê Thị Liên

TS. Nguyễn Văn Thanh: Có thể nói các tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo cũng như về công tác tín ngưỡng, tôn giáo là sự phát triển mới của học thuyết Mác - Lênin về phát triển và tập hợp lực lượng cách mạng. Trong tư tưởng của các nhà kinh điển như Các Mác, Ăngghen, thậm chí sau này đến thời kỳ của LêNin đã giành được chính quyền, hầu như chúng ta chưa thấy đặt ra vấn đề tập hợp lực lượng của các tôn giáo, nhất là đối với chức sắc, nhà tu hành hay tín đồ các tôn giáo. 

Chỉ đến Hồ Chí Minh mới đặt ra vấn đề cần phải đoàn kết, vận động, tập hợp đồng bào các tôn giáo và thấy được các nguồn lực, sức mạnh, lòng ái quốc của đồng bào các tôn giáo Việt Nam. Phát triển từ nền tảng tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã hình thành phương châm mang tính kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, đó là “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. 

Như chúng ta vừa đề cập, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc và trong đó tôn giáo được khẳng định là một trong những nguồn lực góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Thưa Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, ông có thể điểm những nét nổi bật về tôn giáo được nêu trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc từ thời kỳ đổi mới năm 1986 đến nay luôn nhất quán quan điểm là tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Tại Đại hội VI chúng ta đã nhấn mạnh đến phát huy các giá trị đạo đức của tôn giáo. Đến Đại hội X chúng ta khẳng định phát huy giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo

Nhưng đến văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một mệnh đề rất mới, đó là phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo để phát triển đất nước bền vững. Có thể nói việc bổ sung, phát triển quan điểm là phát huy nguồn lực tôn giáo để thúc đẩy và hỗ trợ và coi như là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước là điểm nổi bật nhất. 

TS. Lê Thị Liên: Nghiên cứu rất kỹ những quan điểm liên quan đến tôn giáo trong văn kiện Đại hội Đảng XIII, tôi nghĩ rằng qua rất nhiều kỳ Đại hội Đảng, chưa lần nào mà văn kiện nói nhiều về tôn giáo như vậy. 

Trong văn kiện Đại hội Đảng XIII có 3 quan điểm rất rõ ràng đối với tôn giáo. Một, đấy là Đảng tiếp tục nhấn mạnh, khẳng định đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Điều này xuyên suốt ngay từ khi thành lập nước và đến bây giờ tôi nghĩ đó là nền móng rất quan trọng trong quan điểm của Đảng, khẳng định Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến đồng bào các tôn giáo. 

Quan điểm thứ hai, là mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều này cũng vô cùng quan trọng đối với Việt Nam. Hiện đồng bào các tôn giáo chiếm 27% dân số cả nước, nếu tính đồng bào theo tín ngưỡng nữa thì con số này là 95% dân số, chưa tính chúng ta có 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có hơn 2 triệu là đồng bào các tôn giáo. 

Do vậy, mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề mà trong văn kiện Đại hội lần này Đảng tiếp tục nhấn mạnh để tập hợp lực lượng và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có lẽ chưa một đất nước nào trên thế giới có chiến tranh nhân dân trừ Việt Nam, chính nhờ đại đoàn kết toàn dân tộc chúng ta mới có được sức mạnh như vậy. 

Quan điểm thứ ba như TS. Nguyễn Văn Thanh vừa chia sẻ. Đó là lần đầu tiên chúng ta đưa vào văn kiện khẳng định nguồn lực của tôn giáo và chỉ rất rõ, đó là phát huy nguồn lực tôn giáo trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đời sống ở khu dân cư. Chúng ta không nói đến vấn đề nguồn lực tôn giáo ở một nghĩa mang tính chất định hướng, tuyên ngôn mà nói rất rõ để phát triển cái gì, phục vụ cái gì? 

Cùng với ba quan điểm đó thì trong những chiến lược, nhiệm vụ cho giai đoạn tới văn kiện cũng chỉ rất rõ trong nhiệm vụ trong 2 giai đoạn dài hạn và ngắn hạn - từ 2021 - 2030 và từ 2025 – 2030, chúng ta cần chủ động hơn, tích cực hơn và để thực hiện tốt hơn mục tiêu mà ba quan điểm về công tác tôn giáo của Đại hội Đảng XIII đã đưa ra. 

Khi nghiên cứu các văn kiện và nghị quyết Đại hội Đảng trước đây chúng tôi thấy vấn đề phát huy nguồn lực tôn giáo không phải đến Đại hội XIII mới đề cập, nhưng trước đây mới đề cập ở những văn bản mang tính chất hẹp, mang tính chất chỉ đạo, ở phương diện nào đó có thể nó chưa được công bố rộng rãi. Nhưng đến văn kiện Đại hội XIII thì được nâng lên tầm mới, vừa đưa vào văn kiện, vừa mang tính chất thông tin rộng rãi và công khai trong vấn đề mà Đảng, Nhà nước chúng ta nhìn nhận việc phát huy nguồn lực tôn giáo.

Tôi nghĩ đấy chính là một bước phát triển rất rõ nét trong nhận thức cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với nguồn lực tôn giáo hiện nay. Và đấy sẽ là một bước quan trọng để từ đó các bộ, ban, ngành, thể chế hóa các vấn đề đó, đưa vào các văn bản pháp luật để nó được thực hiện tốt hơn trong đời sống.

TS. Lê Thị Liên

Vậy bà đánh giá như thế nào về những nội dung liên quan đến tôn giáo, đến công tác tôn giáo đã được đề cập trong văn kiện Đại hội Đảng XIII. 

TS. Lê Thị Liên: Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của các kỳ Đại hội trước chúng ta thấy rằng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi giai đoạn phát triển đất nước thì tình hình tôn giáo, công tác tôn giáo đều được đưa ra phù hợp với giai đoạn đó. Đến giai đoạn hiện nay thì cách mà văn kiện đưa ra rất quan trọng. Đó là hoàn toàn chúng ta chủ động trong công tác tôn giáo; trong vấn đề tiếp xúc, gặp gỡ chức sắc; trong vấn đề phát huy hiệu quả, hiệu lực của công tác tôn giáo; trong vấn đề công tác vận động quần chúng; trong vấn đề đảm bảo đời sống của đồng bào các tôn giáo. 

Công tác tôn giáo trước đây được thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của các ngành. Nhưng bây giờ Đảng đặt vấn đề cao hơn, công tác tôn giáo là của cả hệ thống chính trị, do vậy mà công tác đó chủ động, rõ nét hơn và phân ra các giai đoạn rõ ràng hơn. Như vậy, công tác tôn giáo tiệm cận rất sát với sự biến đổi của đời sống tôn giáo cũng như tình hình đất nước chúng ta ngày càng đổi mới và hội nhập. 

Có như vậy thì tất cả mọi việc liên quan đến tôn giáo, từ vấn đề đảm bảo quyền của đồng bào các tôn giáo; từ vấn đề là chúng ta định đoán, đón nhận những luồng văn hóa, tư tưởng, kể cả tôn giáo từ nước ngoài vào... đến những vấn đề phát sinh của tôn giáo trong nước hoàn toàn chủ động.

Do đó tôi nghĩ rằng tình hình đảm bảo đời sống tôn giáo để góp phần quan trọng trong công tác xã hội, ổn định phát triển đất nước là nhiệm vụ mà văn kiện Đại hội Đảng XIII đã yêu cầu các bộ, ban, ngành. Từ đó chúng ta đã có một loạt những triển khai liên quan đến vấn đề xây dựng những nội dung liên quan đến tôn giáo trong các nghị quyết chuyên ngành, dẫn đến những thay đổi trong vấn đề xây dựng các luật để phù hợp hơn trong nhiệm kỳ tới và giai đoạn đổi mới đất nước.

TS. Nguyễn Văn Thanh: Tôi nhất trí với quan điểm TS. Lê Thị Liên vừa trao đổi. Tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm, về vấn đề công tác tôn giáo trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng, chúng ta thấy là có mấy quan điểm. Một là chúng ta khẳng định kế thừa tiếp tục quan điểm về bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ hai là khẳng định trách nhiệm trong việc vận động, tập hợp đồng bào các tôn giáo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Thứ ba là việc nghiêm trị. Chúng ta phát huy mặt mạnh, mặt tốt, phát huy điểm sáng. Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng nhấn mạnh việc cần phải nghiêm trị các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm đến an ninh quốc gia…

Đó là 3 điểm mà chúng ta tiếp tục kế thừa các văn kiện Đại hội trước, và có hai điểm mới mà chúng ta vừa trao đổi. Đó là việc phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo. 

Và điểm mới thứ hai, ẩn chứa trong các mảng khác trong văn kiện, đó là việc trước đây chúng ta khẳng định công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và nội dung cốt lõi là công tác vận động quần chúng. Nhưng đến văn kiện Đại hội Đảng XIII, Đảng đã nhấn mạnh đến cả trách nhiệm, không chỉ là hệ thống chính trị, mà phải huy động và thấy được vai trò của chính các tổ chức, cá nhân tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trong việc tham gia triển khai thực hiện công tác tôn giáo và các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

TS. Nguyễn Văn Thanh

Nguồn lực tinh thần của tôn giáo mang giá trị trường tồn

Thưa tiến sĩ Lê Thị Liên, xin bà chia sẻ về những giá trị đạo đức văn hóa của tôn giáo tại Việt Nam?

TS. Lê Thị Liên: Những năm gần đây, giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo được nhắc đến, đề cập rất nhiều trong nhiều môi trường chứ không chỉ là môi trường về tôn giáo và rất nhiều diễn đàn, rất nhiều nhà nghiên cứu, rất nhiều bài viết đã được đăng tải liên quan đến những giá trị này. 

Tôi cho rằng điều đó là phù hợp. Bởi đất nước đã vững vàng trên con đường tiến lên CNXH và trong tiến trình hội nhập quốc tế, thì nhìn nhận khách quan để phát huy giá trị đạo đức văn hóa tôn giáo trong xây dựng đất nước là cần thiết.

 Bản thân tôn giáo khi sinh ra đã mang trong mình giá trị đạo đức, văn hóa. Những triết lý, những lời răn, giáo huấn của tôn giáo chính là những giá trị đạo đức không có gì xa lạ mà còn gắn bó với giá trị đạo đức truyền thống của Việt Nam như 10 điều răn của Thiên chúa, ngũ giới của Phật giáo... Tất cả các tôn giáo khi xây dựng chủ thuyết, giáo lý đều hướng đến chân thiện mỹ, đó chính là giá trị đạo đức tôn giáo. 

Có thể thấy rất rõ giá trị đạo đức tôn giáo ở hai lĩnh vực. 

Một là, như tôi vừa đề cập là trong triết lý, trong lời răn dạy tín đồ để trở thành người có ích cho xã hội, làm điều thiện, tránh điều ác, những điều ảnh hưởng đến gia đình, xã hội, đến cá nhân và chính cộng đồng tôn giáo. 

Hai là, giá trị ở những công trình nghệ thuật kiến trúc của tôn giáo cũng chính là văn hóa. Những công trình biểu tượng từ Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn đến chùa Một Cột, tháp Phổ Minh, những ngôi chùa lớn, tòa thánh Cao Đài, v.v... tất cả chính là giá trị văn hóa vật thể trong đại gia đình văn hóa kiến trúc của Việt Nam. Những kiến trúc, công trình của tôn giáo chính là những nét chấm phá, những giá trị để lại lâu đời cho cả các thế hệ sau này.

 Chúng ta rất cần phải giữ gìn, phát triển và khai thác để đưa vào làm cho giá trị đạo đức của dân tộc tốt đẹp hơn, bồi bổ thêm những cái mà trong quá trình phát triển của xã hội còn có những khuyết thiếu, mai một.

Tôi cho rằng đó là sự phát triển rất hữu ích và đúng đắn, phù hợp với chủ trương chính sách về tôn giáo của Đảng, Nhà nước. 

Vâng, tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, ông có bổ sung gì thêm? Theo ông, giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo đóng vai trò thế nào trong hệ giá trị chung của văn hóa Việt Nam? 

TS. Nguyễn Văn Thanh: Lịch sử đất nước mấy nghìn năm, giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo đã được nói đến từ thời lập quốc. Các giá trị văn hóa, đạo đức của tín ngưỡng, tôn giáo đã hòa nhập và lan tỏa sâu đậm trong đời sống xã hội và nó là nhân tố rất quan trọng để hun đúc và bồi đắp nên bản lĩnh, trí tuệ cũng như chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Tất cả các tư tưởng đó cũng hội tụ, vun bồi để tạo thành chủ nghĩa yêu nước, đồng thời cũng xây dựng truyền thống đại đoàn kết dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử, là mạch nguồn lịch sử dân tộc từ thời dựng nước, giữ nước đến thời hiện nay. Và trong tư tưởng hiện nay chúng ta thấy có rất nhiều mục tiêu và giá trị đẹp đẽ của văn hóa, đạo đức tôn giáo rất tương đồng với các mục tiêu xây dựng CNXH. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh có sự tương đồng lớn với tư tưởng từ bi, bác ái và rất nhiều tư tưởng khác của các tín ngưỡng, tôn giáo. 

Và đó là mẫu số chung để chúng ta quy tụ, đoàn kết toàn dân, kể cả người có tôn giáo hay không tôn giáo, người ở trong nước cũng như người ở nước ngoài, tất cả đều hướng tới một Tổ quốc mẹ hiền Việt Nam để có động lực, khát vọng,  sự dấn thân, cống hiến cho đất nước và theo đường hướng vừa xây dựng đất nước vừa hội nhập với thế giới. 

Chúng ta đã đề cập nhiều đến nguồn lực tôn giáo ở Việt Nam, vậy thì theo TS. Lê Thị Liên, nguồn lực tôn giáo ở Việt Nam về tinh thần, về vật chất như thế nào? 

TS. Lê Thị Liên: Nguồn lực tôn giáo Việt Nam thể hiện ở 3 khía cạnh. 

Một là nguồn lực tinh thần thì nãy giờ chúng ta bàn nhiều rồi. Đó là cái giá trị cốt lõi của các tôn giáo thể hiện trong các triết lý, giáo lý tôn giáo. Và tôi nghĩ nguồn lực tinh thần này mới là nguồn lực bền vững của tôn giáo, vì bản thân tôn giáo khi sinh ra đã mang theo nguồn lực đó và bao nhiêu đời, bao nhiêu lớp, thế hệ các tín đồ tôn giáo và chức sắc tôn giáo đã gìn giữ, lưu truyền, phát triển nó. Nếu xa rời nguồn lực này thì chắc chắn giá trị tôn giáo sẽ giảm đi, không còn lan tỏa trong đời sống xã hội nữa.

Những lời răn, lời dạy, sự làm gương của các chức sắc tôn giáo… dạy cho con người hướng đến chân thiện mỹ... chính là nguồn lực tinh thần của tôn giáo mang giá trị trường tồn. Tôi nghĩ rằng duy trì, định hướng, phát triển đúng và đưa giá trị này về đúng với giá trị truyền thống của các tôn giáo mới là cái bền vững và cần thiết mà các cơ quan chức năng cũng như chính các tổ chức tôn giáo phải quan tâm. 

Thứ hai là nguồn nhân lực. 27% dân số Việt Nam là tín đồ tôn giáo, đây chính là nguồn nhân lực đang làm ra của cải cho xã hội, là một bộ phận không thể thiếu của dân tộc Việt Nam, là nguồn lực vô cùng quan trọng, không thể tách rời. Đất nước phát triển có đóng góp của nguồn nhân lực này.  

Khi nguồn nhân lực này được định hướng, phát triển đúng và được giáo dục tuyên truyền đúng thì nó là sức mạnh. Nếu thiếu đồng thuận, một chút đi chệch hướng thì nó sẽ thành vấn đề không chỉ là của tôn giáo mà của cả xã hội. 

Trong nguồn nhân lực này có nguồn lực của tín đồ tôn giáo, đồng thời có nguồn lực mà trong nghiên cứu chúng tôi thường gọi là “nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đó chính là hệ thống các chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo là những người chuyên hoạt động tôn giáo. 

Họ là người chăm lo đời sống tinh thần cho tín đồ, đời sống tinh thần của tín đồ được định hướng bởi chức sắc tôn giáo. Giá trị đạo đức của một tôn giáo có được lan tỏa hay không là chính do nguồn lực chất lượng cao này. Do đó vai trò của nguồn lực này rất quan trọng trong vấn đề dẫn dắt và kể cả trong vấn đề hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng chính sách pháp luật và đồng thuận với chủ trương của Đảng, Nhà nước.

Thứ ba là nguồn lực vật chất, thể hiện rất đa dạng, phong phú: nguồn lực vật chất sẵn có, rồi nguồn lực vật chất từ kinh phí mà bản thân tín đồ đóng góp cho tôn giáo, rồi nguồn lực vật chất mà chính các chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo kêu gọi từ xã hội để trở thành nguồn lực của tôn giáo và lấy nguồn lực đó để quay trở lại đóng góp cho xã hội. 

Nguồn lực này rất lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong đại dịch Covid-19. Với sự kêu gọi của các tổ chức tôn giáo, những đóng góp trở thành nguồn lực của tôn giáo và tôn giáo đóng góp trở lại nguồn lực đấy cho cộng đồng xã hội, chung tay cùng cả nước phòng chống dịch. 

Dù vậy, theo quan điểm của tôi, nguồn lực này không phải là nguồn lực mang tính chất quyết định và bền vững như nguồn lực tinh thần của tôn giáo. Nguồn lực vật chất thì tùy từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng vụ việc thì nó nổi hơn hay chìm hơn... phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan và chủ quan. Nhưng nguồn lực giá trị về văn hóa, đạo đức, về triết lý tôn giáo, những giá trị mà mỗi một tôn giáo mang đến và ảnh hưởng tích cực trong cộng đồng, xã hội mới chính là nguồn lực bền vững của mỗi tôn giáo mà nếu tôn giáo chệch hướng khỏi nó thì cho dù hai nguồn lực kia có là bệ đỡ thì cũng không thể nào mà có thể phát huy được giá trị tích cực như thế. 

Bởi vì chúng ta nhìn thấy tôn giáo là nhìn thấy đạo đức xã hội, nhìn thấy tôn giáo là nhìn thấy sự thánh thiện, sự linh thiêng mà người dân đều hướng đến. Khi ở bên ngoài chúng ta có thể ăn nói vui vẻ, cười đùa to tiếng với nhau, nhưng một khi đã bước vào một không gian tôn giáo, tham dự một cuộc lễ thì chắc chắn tự bản thân chúng ta phải kiềm chế tất cả sự bộc phát và trở thành một con người được giá trị đạo đức soi vào, phải tự định hình lại bản thân. 

Đó là lý do vì sao những buổi lễ trong nhà thờ, chùa chiền, những sinh hoạt tôn giáo lại thu hút được nhiều tín đồ đến vậy. Và mỗi tín đồ sau khi thỏa mãn được những niềm tin của mình, quay trở về họ lại giáo dục, lan tỏa những giá trị của tôn giáo đến người thân, gia đình mình. 

Đánh giá đúng về bản chất phát huy nguồn lực của các tôn giáo 

Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh, việc quán triệt quan điểm của Đảng trong phát huy giá trị đạo đức, văn hóa và nguồn lực tôn giáo như Tiến sĩ Lê Thị Liên vừa đề cập hiện nay như thế nào?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Các quan điểm của Đảng về tôn giáo nói chung và phát huy các nguồn lực tôn giáo nói riêng, nhất là sau Đại hội Đảng XIII, đã có sự triển khai rất đồng bộ và bài bản. Chẳng hạn, hiện nay nhờ cách mạng công nghiệp 4.0 và công nghệ số, chúng ta đã có những hội nghị trực tuyến triển khai mà ở đó trực tiếp Tổng Bí thư, nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước trực tiếp trao đổi, chỉ đạo việc triển khai rất nhiều nội dung cụ thể, quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, từ đó lan tỏa trong toàn quốc, thậm chí ra cả nước ngoài. 

Trước đây các hội nghị quán triệt, triển khai chỉ có số lượng tham dự hạn chế. Giờ số lượng một hội nghị có thể có hàng chục nghìn người và không những là lãnh đạo ở cấp tỉnh, cấp huyện, các sở, ban, ngành mà đến tận cơ sở và cấp cán bộ, đảng viên, thậm chí là nhân dân từ khu dân cư cũng được nghe trực tiếp các lãnh đạo cấp cao trao đổi, truyền đạt nhiều tư tưởng quan trọng của Đại hội. Ngoài ra trong chính từng hệ thống, từng bộ, ban, ngành cũng có sự triển khai đồng bộ và các hệ thống giáo dục của quốc gia cũng tham gia triển khai. Tất cả nói chung là toàn bộ hệ thống chính trị.

Và bản thân nhiều tổ chức tôn giáo cũng có sự phối hợp với UBMTTQ Việt Nam ở các cấp để triển khai, giới thiệu các nội dung rất quan trọng của Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, trong đó có nội dung liên quan đến phát huy nguồn lực tôn giáo vào trong đời sống xã hội. 

Bên cạnh đó cũng có rất nhiều hội nghị, hội thảo chuyên đề chuyên sâu liên quan đến phát huy nguồn lực tôn giáo. Chẳng hạn TS. Lê Thị Liên là chủ nhiệm một đề tài khoa học cấp Bộ liên quan đến phát huy nguồn lực tôn giáo và tôi cũng là chủ nhiệm một đề tài khoa học cấp Bộ liên quan đến phát huy nguồn lực tôn giáo trong hoạt động an sinh xã hội. Rồi là bên Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam,  Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng tích cực triển khai các đề tài nhiều cấp khác nhau liên quan đến việc phát huy nguồn lực tôn giáo.

Như vậy chúng ta thấy không chỉ dừng lại các quan điểm mệnh đề chung của nghị quyết mà đã lan tỏa thành nhiều đề tài, công trình và đưa vào đào tạo đại học, sau đại học liên quan các đề tài cụ thể cho các học viên Cao học, nghiên cứu sinh Tiến sĩ. Thậm chí nhiều quý vị chức sắc các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, làm NCS tiến sĩ tại các trung tâm đào tạo cũng nghiên cứu các đề tài và giới thiệu để phát huy các nguồn lực của từng tôn giáo cụ thể.

Trong khi triển khai các quan điểm lớn của Đảng như vậy thì có những điểm đặc trưng. Chẳng hạn với nguồn lực vật chất của tôn giáo, việc phát huy đối với mỗi tôn giáo, mỗi vùng, miền có đặc trưng khác nhau, phải nắm được các đặc trưng cụ thể của từng tôn giáo và từng vùng, miền để có sự khai thông, tạo điều kiện hỗ trợ phát huy tốt hơn. 

Lấy ví dụ Phật giáo Hòa Hảo có các hoạt động đặc trưng rất tốt và chúng ta cần phát huy đó là việc tổ chức bếp ăn từ thiện miễn phí ở các bệnh viện, ở những khu vực, địa phương có đông đồng bào Phật giáo Hòa Hảo. Hay như hiện nay tất cả các xã có đồng bào Phật giáo Hòa Hảo đã tổ chức ít nhất được 2 xe cứu thương miễn phí để chuyển bệnh nhân nghèo đến các bệnh viện cấp tỉnh hoặc Trung ương. Bên cạnh đó họ còn tham gia vào việc xóa cầu khỉ, xây dựng cầu bê tông... tại các tỉnh Nam Bộ, những nơi có điều kiện phương tiện giao thông còn khó khăn. 

Hay bên Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam cũng có truyền thống tham gia hoạt động an sinh rất tốt. Chẳng hạn tại các chùa của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam đều có cơ sở phòng khám, chữa bệnh miễn phí cho nhân dân, có thể khám bằng Đông y, Tây y hoặc Đông Tây y kết hợp. Đó là một thế mạnh, đặc trưng của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội Việt Nam cần được phát huy và hỗ trợ về mặt chính sách, cơ chế. 

Với bên Phật giáo, nguồn lực rất lớn, và liên quan các hoạt động an sinh xã hội họ tập trung làm rất mạnh, rất tốt là việc đi cứu trợ thiên tai, các nơi đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, bão, lũ… Không những là cứu trợ trong nước mà kể cả hỗ trợ nhân dân các nước trong khu vực khi có thiên tai, động đất, sóng thần xảy ra. 

Bên Công giáo thì có nhiều loại hoạt động. Bên cạnh các hoạt động an sinh xã hội thì tham gia dạy nghề cũng là một lĩnh vực mà Công giáo có thế mạnh. Hiện nay có rất nhiều trường cao đẳng, trung cấp nghề của bên Công giáo  hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động có tay nghề phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. 

Bên Tin lành thì có một hoạt động rất nổi trội, rất tiêu biểu, đặc trưng đó là việc tổ chức cai nghiện cho những người nghiện ma túy. Đó là hoạt động rất kỳ công, phải có chuyên môn và có sự dấn thân...

Việc phát huy nguồn lực tôn giáo là chủ trương của Đảng, của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai thì đã có những nơi nhận thức tốt về vấn đề này, từ đó phát huy tốt nguồn lực tôn giáo, nhưng cũng có những nơi và có những lúc chưa phát huy tốt. Theo TS. Lê Thị Liên, làm thế nào để chúng ta không bị lãng phí các nguồn lực xã hội nói chung và đặc biệt là nguồn lực tôn giáo nói riêng?

TS. Lê Thị Liên: Nói đến phát huy nguồn lực tôn giáo đã có rất nhiều những nghiên cứu và triển khai, từ vấn đề nghiên cứu trong thực tiễn để mà chúng ta xây dựng lý luận và tham mưu cho Đảng, Nhà nước đưa ra quan điểm liên quan, đấy là vấn đề cực kỳ quan trọng. 

Phát huy nguồn lực tôn giáo là quan điểm mới trong tiến trình đổi mới công tác tôn giáo. Đổi mới công tác tôn giáo Đảng ta bắt đầu từ năm 1990, và quan điểm phát huy nguồn lực tôn giáo là quan điểm đột phá. 

Tuy nhiên một điều chúng ta cũng phải nhìn nhận là mặc dù quan điểm như vậy nhưng quá trình triển khai và nhận thức còn khác nhau rất nhiều. Khác nhau không những đối với lại hệ thống chính trị chúng ta mà khác nhau ngay cả đối với chính tôn giáo. 

Vấn đề phát huy nguồn lực tôn giáo là vấn đề rất lớn, rất cần thiết và đã được Nhà nước chúng ta khẳng định. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là chúng ta lấy quan điểm phát huy nguồn lực tôn giáo để tạo một áp lực cho bất cứ một chủ thể nào, mà chúng ta cần một sự đánh giá rất tường minh, rõ ràng. Bởi vì nguồn lực các tôn giáo là hoàn toàn khác nhau. 

Với một tổ chức tôn giáo thì nhiệm vụ quan trọng là chăm lo đời sống tôn giáo của bà con. Đấy mới là vấn đề mấu chốt, quan trọng, chính là nguồn lực tinh thần mà họ đã mang lại và cũng chính là sự sống còn của các tổ chức tôn giáo. 

Việc phát huy nguồn lực giá trị đạo đức, tinh thần thì đương nhiên không bàn nữa rồi vì nó gắn liền, không thể tách rời với đời sống, với hoạt động, sinh hoạt tôn giáo. Nhưng các nguồn lực vật chất mà tôn giáo đóng góp thì tôi nghĩ rằng chúng ta đưa ra cho họ một đường biên, đường ray, còn tôn giáo có khả năng thế nào thì họ sẽ thực hiện như thế. 

Cũng không vì bên tôn giáo này đóng góp nhiều hơn thì tôi tạo điều kiện tốt hơn cho tôn giáo đấy hoạt động, tôn giáo này đóng góp ít hơn thì tôi không quan tâm nhiều... Vấn đề đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là đảm bảo trên góc độ toàn diện và các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không có tôn giáo lớn, tôn giáo nhỏ chỉ có tôn giáo đông tín đồ và tôn giáo ít tín đồ, đối với sinh hoạt tôn giáo, các tôn giáo đều như nhau. 

Với nguồn lực tôn giáo cần có một nhận thức rõ là khả năng tôn giáo nào có đến đâu thì chúng ta phát huy đến đó chứ không cào bằng và không cầu toàn phải phát huy bằng được những cái không phải là điểm mạnh của họ. Bởi như thế không cẩn thận ta sẽ khiến tôn giáo đi chệch hướng và xao nhãng mất nhiệm vụ chính là chăm lo đời sống tinh thần của bà con mà lại đi vào phát huy nguồn lực vật chất. Bởi vì khi tôn giáo tham gia các hoạt động an sinh xã hội với tư cách chủ thể đầu tư, quản lý thì đương nhiên nó sẽ phải có sự khác biệt so với các hoạt động tôn giáo, phải có sự tách biệt. 

Do vậy có hai điều mà tôi nghĩ rất cần thiết. Một là bản thân chúng ta phải nhận thức rất đúng, khảo sát thật kỹ, đánh giá đúng về bản chất phát huy nguồn lực của các tôn giáo. Tôn giáo nào mạnh ở điểm nào thì ta phát huy điểm đó và đánh giá đúng, không khắt khe nhưng không tô hồng, không đẩy lên quá mức để tạo áp lực. 

Thứ hai chúng ta phải có cơ chế, chính sách rõ ràng. Trong cơ chế chính sách đó, tôn giáo nào thực hiện được thì họ sẽ đi theo đúng phân luồng, phân làn mà pháp luật đã đề ra và họ thực hiện. Còn tôn giáo nào mà trong khả năng của mình họ chỉ tập trung được vào các hoạt động như từ thiện, cứu trợ nhân đạo, các phong trào của MTTQ... thì phát huy điểm đó. Phải rất rõ ràng về mặt này, có như vậy mới phát huy được thế mạnh của các tôn giáo nhiều hơn là mang tính chất một sự đặt để.

Cuối tháng 8 vừa rồi, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gặp mặt, biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôi cho rằng bản thân việc tổ chức sự kiện đó cũng thể hiện rõ là chúng ta đang kêu gọi theo từng khả năng, thế mạnh, đặc trưng, nguồn lực của mỗi tôn giáo. Đấy là thể hiện sự trân trọng chứ chúng ta không tạo áp lực nào cả. 

Ý kiến của TS. Nguyễn Văn Thanh thế nào ạ?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Tôi thấy về cơ bản chủ trương chúng ta triển khai vừa qua là tốt để đảm bảo không lãng phí các nguồn lực của tôn giáo. Điều quan trọng nhất hiện nay là phải sớm thể chế được quan điểm của Đảng thành các chính sách pháp luật cụ thể liên quan. Có rất nhiều việc mà tôn giáo nhiều năm qua đã, đang tham gia rất tốt và từng tôn giáo có thế mạnh riêng. Chính vì vậy, trong các thế mạnh đó có một số lĩnh vực mà các tôn giáo đang tham gia rất tốt thì phải có sự khai thông về mặt chính sách và có các quy định cụ thể, thậm chí có những hỗ trợ. 

Chẳng hạn, để tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh thì thời gian qua các tôn giáo đã tham gia đóng góp rất nhiều nguồn lực vật chất, tinh thần. Có một điểm rất quan trọng đó là khảo sát cho thấy những địa phương có đông đồng bào tôn giáo thì đều là những địa phương đầu tiên được công nhận hoàn thành nông thôn mới. 

Hay chẳng hạn để phát huy nguồn lực tôn giáo trong bảo vệ môi trường thì chúng ta đã có Luật bảo vệ môi trường mới thì cần có những văn bản, nghị định dưới luật để có các quy định cụ thể hơn, để tôn giáo tham gia việc này tốt hơn. 

Rồi liên quan đến khám, chữa bệnh, kỳ họp này của Quốc hội sẽ thảo luận để sửa đổi Luật khám bệnh, chữa bệnh thì chúng ta cũng phải thiết kế những điều, những quy định cụ thể để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo phát huy nguồn lực của mình tham gia khám, chữa bệnh. 

Thời gian qua tất cả các tôn giáo đều có rất nhiều hình thức cụ thể để tham gia khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân tại các cơ sở khám, chữa bệnh trực tiếp cũng như tổ chức khám, chữa bệnh lưu động, v.v... hoặc là huy động nguồn lực của Y tế, trang thiết bị y tế từ nước ngoài và hỗ trợ để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. 

Liên quan đến bảo trợ xã hội cũng là một lĩnh vực lâu nay các tôn giáo tham gia rất là tốt, như lập các trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi, trẻ em khuyết tật hoặc chăm sóc người già cô đơn không nơi nương tựa... Về mặt này chúng ta cũng có các quy định cụ thể liên quan, các nghị định, các thông tư của Bộ LĐTBXH để tạo điều kiện các tôn giáo tham gia tốt hơn. 

Hoặc liên quan đến lĩnh vực cai nghiện ma túy thì nhiều tổ chức của đạo Tin lành đã tham gia rất tốt. Chúng ta đã có Luật phòng, chống ma túy... và một số các luật liên quan khác thì cần có quy định cụ thể để thể chế hóa quan điểm phát huy nguồn lực thành các quy định của văn bản quy phạm pháp luật. 

Khi thành các quy định cụ thể, các văn bản quy phạm pháp luật có tính chất xã hội hóa và có tính chất ràng buộc tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi triển khai cụ thể đều phải thực hiện, kể cả các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Chúng ta cần phải bổ sung và sửa đổi kịp thời các bất cập để phát huy tốt nguồn lực tôn giáo. 

 Sự hưởng ứng, đóng góp rất tích cực, đầy tình yêu nước, trách nhiệm 

Thời gian qua trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến rất phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và đất nước ta đã phải trải qua thời điểm tương đối khó khăn. Tới nay chúng ta đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh và đi vào phục hồi, phát triển kinh tế xã hội. 

TS. Nguyễn Văn Thanh đánh giá ra sao về sự tham gia tích cực của đồng bào tôn giáo, các chức sắc, chức việc, các tổ chức tôn giáo trong nỗ lực đồng hành cùng chính quyền, cùng MTTQ và cùng cả nước vượt qua khó khăn, nỗ lực phục hồi, phát triển kinh tế xã hội sau dịch bệnh?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Qua hơn 2 năm tham gia phòng, chống và kiểm soát đại dịch Covid-19, tôi cho rằng từ trước tới nay chưa có hoạt động, phong trào hay cuộc vận động nào mà có sự tham gia đồng tình, hưởng ứng đồng bộ, đồng loạt và có sức lan tỏa mạnh mẽ, đầy chất nhân văn như sự tham gia của các tôn giáo trong phòng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua. 

Điều này thể hiện ở việc lần đầu tiên tất cả 43 tổ chức tôn giáo, thuộc 16 tôn giáo đều có rất nhiều văn bản hướng dẫn dừng ngay tất cả các hoạt động tôn giáo lớn, rồi tổ chức rất nhiều các hoạt động tôn giáo phù hợp hoặc đổi sang hoạt động trực tuyến. 

Rồi tất cả các tôn giáo không chỉ ở cấp Trung ương mà tất cả các tổ chức tôn giáo trực thuộc đều không chỉ một lần mà rất nhiều lần có văn bản khác nhau để hướng dẫn, chỉ đạo, động viên các tổ chức, cá nhân thuộc tôn giáo mình tham gia hưởng ứng các chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương, của Tổng Bí thư, của Chính phủ, của Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam. 

Bên cạnh đó còn rất nhiều hoạt động cụ thể. Đó là hàng triệu phần quà an sinh xã hội, rồi rất nhiều mô hình như các siêu thị 0 đồng, cây ATM gạo miễn phí, ngân hàng Oxy miễn phí, v.v... Không chỉ vậy, bản thân các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ của các tôn giáo đã dấn thân đăng ký vào tuyến đầu phòng, chống dịch.

Đây là sự hưởng ứng, sự cộng tác chung tay không chỉ của bản thân tôn giáo, mà tất cả các hoạt động đó đều có sự chung tay phối hợp với các cơ quan chính quyền, Mặt trận, đoàn thể của địa phương, các tôn giáo khác. 

Chúng ta chứng kiến những hình ảnh tràn đầy đoàn kết, nhân văn, xúc động, như việc Hội đồng giám mục Việt Nam tham gia hỗ trợ cho các bếp ăn yêu thương trong vùng tâm dịch của chùa Vĩnh Nghiêm khi thấy chùa hàng ngày cung cấp từ 15.000 - 20.000 suất ăn miễn phí cho các trung tâm cách ly, bệnh viện dã chiến, v.v... Rồi sự hỗ trợ của bên Phật giáo cho cộng đồng Hồi giáo có thêm nguồn lực hỗ trợ các gia đình tín đồ Hồi giáo trong lúc khó khăn, v.v...

Bên cạnh đó, lần đầu tiên chúng ta thấy đồng loạt tại một thời điểm tất cả các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo trong cả nước, tất cả 43 tổ chức tôn giáo đều tham gia rung chuông cầu siêu, cầu nguyện, thắp nến hoặc thả đèn hoa đăng để tưởng niệm những đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh và tử vong trong đại dịch Covid-19. 

Qua đó vừa chia sẻ tình yêu thương, sự đoàn kết với các gia đình không may có người thân hy sinh hoặc tử vong trong đại dịch Covid-19, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự cam kết, đoàn kết với Đảng, Nhà nước và MTTQ Việt Nam của các tôn giáo, khẳng định quyết tâm đoàn kết để vượt qua đại dịch. 

Nhờ huy động được sức mạnh đại đoàn kết, qua 2 năm đại dịch nền kinh tế của chúng ta đã mở cửa lại rất sớm so với rất nhiều nước. Kỳ họp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 vừa qua đã khẳng định các thành tựu của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm, như mức tăng trưởng ngoạn mục, đạt gần 9%. Dự trữ ngoại tệ tiếp tục cao, đặc biệt trong điều kiện dịch bệnh, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. 

Vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới cũng được củng cố, nâng cao và chúng ta đã tham gia đóng góp như một thành viên rất tích cực trong các hoạt động cụ thể của Liên hợp quốc.

Như vậy, chúng ta thấy trong thành quả của đất nước về đối nội, đối ngoại, về an ninh quốc phòng, về bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ đều có sự tham gia hưởng ứng, đóng góp rất tích cực, chủ động, đầy tình yêu nước, trách nhiệm và tình cảm của đồng bào các tôn giáo, của quý vị chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo trong đó.

TS. Lê Thị Liên: Qua đại dịch thì chúng ta cũng như ngay bản thân các tổ chức tôn giáo đã thấy một điều rằng đại dịch, hiểm họa không trừ bất cứ ai. Do vậy sau đại dịch, mỗi một thành phần trong xã hội cũng các tổ chức tôn giáo đều ý thức hơn, trách nhiệm hơn rất nhiều với cộng đồng xã hội. Trước đây có thể mỗi một tôn giáo một thế mạnh, một phạm vi nhưng ngay trong đại dịch và sau đấy chúng ta thấy sự liên kết của các tôn giáo rất tốt, đặc biệt liên kết trong sự hỗ trợ tín đồ phát triển, trong vấn đề kêu gọi tín đồ đóng góp cho đất nước.

Tôi cho rằng mô hình đó hiện đang rất phát triển ở các giáo xứ. Vừa rồi chúng tôi có một số nghiên cứu, khảo sát thì nhận thấy sau đại dịch nhiều giáo xứ, nhà chùa đã tổ chức hoạt động liên kết trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm cho bà con từ những vùng miền quê về với thành phố. 

Hỏi ra thì mới biết rằng là mô hình đó đã được triển khai trong đại dịch. Bằng ảnh hưởng, vai trò của mình các chức sắc tôn giáo đã kêu gọi tín đồ hỗ trợ những bà con vùng khó khăn hơn, tiêu thụ sản phẩm họ đang sản xuất ra. Rồi kêu gọi các DN tôn giáo, DN ngoài tôn giáo để thực hiện mô hình đó.

Đấy là những việc làm nhỏ nhưng tạo nên đóng góp lớn và cái nhỏ ấy nó sẽ lan tỏa trở thành không chỉ trách nhiệm của mỗi tín đồ, mỗi tổ chức tôn giáo mà là trách nhiệm chung cho xã hội. Do đó vấn đề phát triển kinh tế tín đồ và đặc biệt nâng cao trình độ văn hóa, nhận thức tín đồ hiện được các tổ chức tôn giáo rất quan tâm, thể hiện qua việc kêu gọi gia đình, các tổ chức tín đồ phát triển làm ăn kinh tế, áp dụng khoa học kỹ thuật, cho con đi học, học nâng cao, v.v... 

Tôi cho rằng phải thay đổi nhận thức rất nhiều trong hoạt động tôn giáo hiện nay, hoạt động tôn giáo mà gắn với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi tín đồ, mỗi gia đình tôn giáo thì nó sẽ phát triển mạnh. Có thể nói đó là sự đóng góp của tôn giáo mà sau đại dịch họ đã, đang làm để cùng với cả xã hội để phục hồi, phát triển kinh tế, tạo nên rất nhiều thành quả mà chúng ta đã đạt được sau 3 năm đại dịch mà như anh Thanh vừa chia sẻ.

Thưa TS. Nguyễn Văn Thanh, trong những năm qua việc vận động chức sắc, tín đồ các tôn giáo phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó, đồng hành và chia sẻ trách nhiệm với xã hội trên tinh thần tốt đời, đẹp đạo và việc các tổ chức tôn giáo tích cực hưởng ứng và tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do MTTQ và các ban, ngành khác phát động đã diễn ra như thế nào?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Tôi thấy các mục tiêu của phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động có sự tương đồng rất lớn, cũng như phù hợp với mục tiêu hướng tới của các tôn giáo - đều mong muốn cho đời tốt, đạo đẹp, tất cả đều vì chăm lo cho con người. Chính vì vậy, các phong trào trong thời gian qua đã có sự tham gia hưởng ứng ngay từ đầu của rất nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo và được triển khai rất đồng bộ, có những phong trào được triển khai đồng bộ đến tất cả các tôn giáo, có những phong trào mang đặc trưng trong từng tôn giáo và có những phong trào mang tính chất khu vực. 

Chẳng hạn có phong trào lan tỏa sâu rộng đến hầu khắp các tôn giáo là phong trào bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu đã triển khai có sự ký kết của tất cả 40 tổ chức tôn giáo với Mặt trận và Bộ Tài nguyên và Môi trường. 

Lại có những chương trình ký kết riêng giữa các tổ chức tôn giáo với các tổ chức chính trị xã hội. Chẳng hạn chương trình của Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam ký kết về các hoạt động an sinh xã hội với Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Ủy ban An toàn giao thông quốc gia đã ký kết các chương trình phối hợp với Hội đồng Giám mục Việt Nam về vận động chức sắc, tu sĩ và bà con giáo dân tham gia đảm bảo tốt an toàn giao thông, v.v... 

Rất nhiều phong trào như vậy. Hay là xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh thì có sự tham gia rất nhiệt tình, tích cực, trách nhiệm và lan tỏa chung trong toàn quốc tất cả 63 tỉnh, thành phố của các tôn giáo và có rất nhiều mô hình rất tốt. 

Bên cạnh đó có phong trào mang tính chất riêng của tôn giáo, chẳng hạn như phong trào “xây dựng chùa cảnh tinh tiến, gương mẫu” chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc. Phật giáo các tỉnh phía Bắc đã ký kết với Mặt trận ở các địa phương và triển khai rất tốt. Còn ở các tỉnh phía Nam thì đạo Cao Đài cùng với Phật giáo Hòa Hảo có phong trào “nồi cháo tình thương” cho các bệnh viện; tổ chức các bếp ăn tình thương cho học sinh nghèo, v.v... 

Trong phong trào chung lại có nhiều phong trào riêng, phù hợp với đặc điểm của từng tôn giáo, từng địa phương thì chúng ta cũng đều có sự khuyến khích và tạo điều kiện để làm sao cho tất cả các hoạt động đó của các tôn giáo tham gia được tốt nhất. Chúng tôi nhận thấy là ngoài sự tham gia tích cực của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thì chính bản thân các tổ chức tôn giáo cũng đặt ra vấn đề muốn thúc đẩy các hoạt động tốt và các nguồn lực của các tôn giáo. 

Khi chính các vị lãnh đạo cấp cao của các tôn giáo đặt ra yêu cầu đó và tham gia chủ động, phát huy được vai trò nêu gương của người đứng đầu thì các hoạt động đó cũng sẽ triển khai gắn với các phong trào của Mặt trận, của Đảng, Nhà nước hoặc của các ban, ngành khác phát động. 

Đã có nhiều vị lãnh đạo tôn giáo đặt thẳng vấn đề là khi tổ chức đại hội nhiệm kỳ thì ngay trong Hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo cũng cần sửa đổi, bổ sung, thêm vào đó một điều hoặc ít nhất một quy định trong lời nói đầu của Hiến chương, điều lệ là các tổ chức tôn giáo khuyến khích các chức sắc, chức việc, tín đồ của mình tham gia các phong trào cụ thể. Rồi các kế hoạch hoạt động hàng năm của các tổ chức tôn giáo cũng đưa vào thành một yêu cầu, một nội dung cụ thể.

Như vậy khi đưa vào chương trình hoạt động hàng năm thì cuối năm có sơ kết đánh giá, còn đưa vào Hiến chương, điều lệ thì 4-5 năm tổng kết nhiệm kỳ đại hội một tổ chức tôn giáo họ cũng đưa ra để đánh giá và rút kinh nghiệm. Và cũng qua đó các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận thấy được sự cam kết, sự đồng tình, tham gia và có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực, cụ thể và hiệu quả hơn.

Thưa TS. Lê Thị Liên, là một người có rất nhiều chuyến đi thực địa, nhiều chuyến đi thực tế để nghiên cứu về đời sống sinh hoạt tôn giáo thì bà chia sẻ cảm nhận như thế nào qua những chuyến đi đó về cái tinh thần đồng hành, sự chia sẻ trách nhiệm với xã hội nói chung của các tổ chức tôn giáo theo tinh thần “tốt đời đẹp đạo”. 

TS. Lê Thị Liên: Chúng ta nhận thấy là đời sống tôn giáo của thế giới và Việt Nam bây giờ khác ngày xưa rất nhiều. Các nhà nghiên cứu thường hay sử dụng cụm từ là “tôn giáo thế tục”, nghĩa là tôn giáo đi vào đời sống của xã hội bằng chính những cái giá trị vốn có và phát huy trong đó. 

Với những phong trào do các cấp chính quyền đề ra như anh Thanh vừa đề cập được các tôn giáo hưởng ứng rất mạnh mẽ. Trong sự hưởng ứng này, tôi nghĩ ngay tự bản thân mỗi tín đồ, chức sắc tôn giáo người ta đã ý thức được vấn đề là công dân, họ có nhiệm vụ và quyền lợi trong vấn đề đó. Bởi vì khi xây dựng một phong trào nào đó, nó mang lại tầm ảnh hưởng thì người thụ hưởng cũng chính là người dân, trong đó có tín đồ, chức sắc tôn giáo.

Có thể nói rằng tư duy của tôn giáo bây giờ đã tiệm cận rất sát trong vấn đề phát triển cùng với xã hội. Mặt khác, bản thân các tôn giáo cũng muốn thể hiện được vai trò, ảnh hưởng trong xã hội, vì vậy họ tham gia vào cái mẫu số chung này. Các phong trào như thi đua yêu nước, đại đoàn kết dân tộc... chính là mẫu số chung của tất cả xã hội chứ không phải của bất cứ một ngành, một lĩnh vực nào. 

Khi các tôn giáo tham gia vào đó với tư cách một tổ chức, một tập thể của những người có niềm tin tôn giáo thì vai trò và ảnh hưởng của họ trong xã hội được nâng lên, đây là cái lợi hai chiều của cả xã hội cũng như của chính bản thân các tôn giáo. 

Nhờ đó hầu hết tất cả các phong trào của địa phương phát động đều được đồng bào các tôn giáo hưởng ứng rất mạnh mẽ. Chẳng hạn, chúng ta ai cũng biết “tấc đất tấc vàng”. Vậy nhưng thực tế là đã có rất nhiều tín đồ tôn giáo hiến đất để làm đường giao thông, làm trường, trạm, để xây dựng các cơ sở ở địa phương. 

Năm 2021 tôi có tham mưu cho Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức một hội thảo liên quan đến thực trạng và giải pháp để phát huy nguồn lực tôn giáo trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Hội thảo này chúng tôi chỉ tổ chức riêng cho tín đồ, chức sắc tôn giáo, không có sự tham gia của chính quyền. Chúng tôi muốn nghe được tiếng nói từ chính các vị chức sắc, các tín đồ của các tôn giáo. 

Đã có rất nhiều chức sắc tôn giáo gửi bài viết đến hội thảo và nhiều ý kiến  phát biểu chia sẻ trong hội thảo. Qua đó chúng tôi mới thấy rằng khi những phong trào của chúng ta đúng đắn và hữu ích cho xã hội thì sự hưởng ứng của tôn giáo sẽ là không có giới hạn. Những con số minh chứng họ đưa ra khiến bản thân những người tổ chức hội thảo cảm thấy rất xúc động. 

Tôi nghĩ rằng trong xây dựng, phát triển chung của đất nước cũng như trong những điều nhỏ nhặt nhất của đời thường khi chúng ta mang lại lợi ích chung cho xã hội thì không có tôn giáo nào không có hưởng ứng bằng cách này hay cách kia.

 Thể chế hóa để tạo ra hành lang pháp lý  

Thưa TS. Nguyễn Văn Thanh đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng. Vậy về mặt đối ngoại nhân dân, ông đánh giá tôn giáo đã đóng góp ra sao và làm thế nào để tăng cường sự đóng góp của tôn giáo trong lĩnh vực đối ngoại của đất nước nói chung?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Về mặt này, tôi nghĩ rằng thời gian qua các tôn giáo đều tham gia với rất nhiều hình thức cụ thể. Ngay bản thân trong các tổ chức tôn giáo đều có các bộ phận, các tổ chức trực thuộc phụ trách liên quan mảng đối ngoại nhân dân hoặc hợp tác quốc tế. 

Quan điểm của Đảng và Nhà nước cũng là phát huy các thế mạnh của tôn giáo trong lĩnh vực mở rộng đối ngoại nhân dân phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Thời gian qua đã có rất nhiều hoạt động từ vĩ mô đến vi mô mang lại đóng góp rất hiệu quả. 

Thí dụ, nhiều năm vừa qua, trong các đoàn cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đi thăm nước ngoài, Liên hợp quốc chúng ta thấy đã có thành phần là các vị đại diện lãnh đạo các tôn giáo như các vị Hòa thượng bên Phật giáo, các vị Linh mục bên Công giáo, các vị Mục sư của bên Tin lành... đã tham gia. Trước đây không có. Hoặc trong nhiều cuộc đón các đoàn nước ngoài vào Việt Nam thì ngoài việc thăm chính thức ra còn có hoạt động đến thăm các cơ sở tôn giáo chúng ta. 

Thứ ba có thể kể đến là hoạt động của các tổ chức tôn giáo Việt Nam hàng năm tham gia các sự kiện, các hội nghị, hội thảo khu vực và quốc tế. Tại các diễn đàn đó ta đã thể hiện được các màu sắc, hồn cốt của Việt Nam, thể hiện được chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng khoan dung, đoàn kết, hòa hợp của người Việt Nam, của tôn giáo Việt Nam đóng góp vào đó. Qua đó vừa quảng bá được hình ảnh vừa tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Việt Nam, làm cho bạn bè thế giới hiểu Việt Nam là thành viên rất thân thiện, rất có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. 

Mặt khác cũng góp phần đấu tranh chống các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Rất nhiều đoàn của chính các tổ chức tôn giáo đã có tiếng nói rất khách quan, đấu tranh phản bác trực diện tại các hội nghị, hội thảo quốc tế trước những lực lượng thế lực xấu muốn phủ nhận hoặc xuyên tạc, vu cáo về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam. Chính bản thân quý vị chức sắc, nhà tu hành khi tham gia đã lên tiếng và đấu tranh trực diện thì rất khách quan và hiệu quả. 

Rồi việc tham gia bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. 

Bên cạnh đó, chung tay tham gia phòng, chống Covid-19, rất nhiều tổ chức tôn giáo của chúng ta đã có tiếng nói vận động các tổ chức, cá nhân nước ngoài đóng góp, ủng hộ vaccine, vật chất, trang thiết bị y tế... Đồng thời, các tổ chức tôn giáo Việt Nam cũng đóng góp ủng hộ cho các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài, chẳng hạn ủng hộ nhân dân Ấn Độ, Campuchia... trang thiết bị y tế, các vật chất cụ thể để phòng, chống Covid-19. Qua đó góp phần tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới. 

Thưa Tiến sĩ Lê Thị Liên, để tôn giáo tham gia giải quyết các vấn đề đạo đức xã hội, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thì rất cần có những cơ chế, chính sách rõ ràng và chúng ta đã có chủ trương. Tuy nhiên theo bà có cần phải thể chế hóa để tạo ra hành lang pháp lý cho tôn giáo phát huy được những giá trị của mình trong đời sống xã hội nói chung?

TS. Lê Thị Liên: Theo tôi việc này rất quan trọng và cần thiết. Nếu chúng ta không thể chế hóa được thì quan điểm của Đảng về phát huy giá trị tích cực của tôn giáo, nguồn lực tôn giáo sẽ chỉ mang tính chất tuyên ngôn và mãi mãi dừng ở thay đổi nhận thức. Còn khi đi vào cụ thể bắt buộc nó phải được thể chế bằng các luật, các nghị định, văn bản hướng dẫn ở những luật chuyên ngành mà tôn giáo có thế mạnh. 

Tôi nghĩ rằng bước đầu tiên trong vấn đề thể chế hóa nguồn lực tôn giáo là sau văn kiện Đại hội Đảng XIII, tháng 6/2022 vừa rồi Đảng đã ban hành ngay Nghị quyết số 18 liên quan đến vấn đề đất đai thay thế Nghị quyết 19. Nghị quyết 18 đã thể hiện rất rõ rằng Nhà nước đảm bảo cho đất đai liên quan đến cơ sở thờ tự và trụ sở tôn giáo. Còn những hoạt động mà tôn giáo sử dụng vào mục đích khác được xử lý như các pháp nhân khác. 

Có nghĩa rằng chúng ta đã đưa nội dung trong văn kiện của Đảng thành nghị quyết và từ nghị quyết này thì các bộ, ban, ngành, đặc biệt là Bộ TN&MT đang rất sát sao và nỗ lực trong vấn đề sửa đổi Luật đất đai, trong đấy bao gồm việc thể chế vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo để có thể phát huy được nguồn lực của tổ chức tôn giáo. Vì bản thân họ muốn phát huy nguồn lực thì chúng ta phải có cơ chế, chính sách, phải có điều kiện đảm bảo cho họ mới phát huy được. Chứ nếu chúng ta chỉ nói suông phát huy thì khó. 

Do vậy mà cơ chế chính sách rất quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý. Trong cơ chế, chính sách đó, tôn giáo nào có thế mạnh ở mặt nào họ sẽ thực hiện như là pháp nhân khác. Còn tôn giáo nào chưa đạt được thì họ chỉ tham gia với tư cách từ thiện nhân đạo, cứu trợ, v.v... thôi thì lại đi theo cơ chế chính sách liên quan đến Mặt trận, Hội chữ thập đỏ... 

Còn với tôn giáo mà họ tham gia với tư cách là chủ đầu tư, quản lý thì tôi nghĩ nếu không thể chế thành những quy định pháp luật chúng ta sẽ rất khó có thể phát huy nguồn lực của các tổ chức tôn giáo ở tầm vĩ mô, cũng rất khó có một hành lang để tôn giáo hoạt động tốt hơn. 

Và nếu không có cơ chế chính sách rõ ràng thì sẽ có nguy cơ phát sinh vấn đề lợi dụng, phát huy nguồn lực tôn giáo vào những hoạt động phức tạp cho chính tổ chức tôn giáo và chính xã hội và nếu không cẩn thận sẽ dẫn đến sự hoạt động lệch chuẩn trong lĩnh vực từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo.

Ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh như thế nào ạ?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Tôi cũng đánh giá cao tầm quan trọng của việc thể chế hóa. Mặt khác tôi cho rằng việc thực hiện chính sách liên quan đến cán bộ, đảng viên và đến người dân cụ thể. Chính vì vậy là chúng ta thấy nhiều khi phải từ kinh nghiệm thực tiễn vì nó có giá trị thấm sâu và tác động đến nhận thức, hành vi của địa phương khác hoặc của cán bộ, đảng viên ở những lĩnh vực, bộ, ngành khác nhau. 

Trong rất nhiều lĩnh vực liên quan đến an sinh xã hội và các hoạt động như chúng ta gọi chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì thực tế hàng chục năm qua đã có rất nhiều hoạt động và mô hình tốt của các tôn giáo kể cả khi các quan điểm phát huy nguồn lực chưa được đưa vào văn kiện Đại hội Đảng. 

Do đó, tôi nghĩ việc chia sẻ, quảng bá về các mô hình tốt của các tôn giáo cho tất cả cán bộ, nhân dân đều thấy được cũng như chia sẻ các mô hình đó để giữa các tôn giáo có thể học hỏi lẫn nhau cũng là một hoạt động rất quan trọng. Lâu nay chúng ta chưa chú ý nhiều và các phương tiện thông tin đại chúng có đề cập đến nhưng để thành kế hoạch, thành bài bản thì cần quan tâm hơn nữa về việc lan tỏa các mô hình tốt và giới thiệu thành các diễn đàn giữa các tôn giáo, trao đổi, chia sẻ lẫn nhau. 

Chẳng hạn diễn đàn như thế có sự tham gia của một vài vị lãnh đạo của các tôn giáo, họ có thể giới thiệu các mô hình chia sẻ của các tôn giáo thì nhiều khi qua các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn đó lan tỏa để các cán bộ, đảng viên cũng như các tôn giáo khác thấy được và có thể học hỏi kinh nghiệm. Lâu nay vẫn tồn tại một hạn chế, đó là nhiều khi cán bộ chúng ta nói đến tôn giáo thì đồng nghĩa đó là lĩnh vực nhạy cảm. Ngược lại lịch sử hàng trăm năm, quá trình một số tôn giáo khi du nhập Việt Nam có vấn đề bị lợi dụng hoặc hiện nay vẫn có các thế lực xấu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, vì đây là lĩnh vực tập hợp lực lượng, nó có sự tham gia rất lớn của của quần chúng nhân dân. 

Chúng ta thấy là không thể tránh khỏi có việc lợi dụng như vậy, nhưng do việc lợi dụng đó, thậm chí là do vấn đề lịch sử để lại đã tạo ra sự mặc cảm từ phía một số cán bộ, đảng viên với một số tôn giáo và ngược lại một số bộ phận chức sắc, tín đồ cũng có sự mặc cảm nhất định của với các chủ trương hoặc còn hoài nghi với đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế của Đảng. Sự mặc cảm có từ hai phía đó đã giải quyết được rất nhiều nhưng vẫn cần phải tiếp tục.

Và sự tiếp tục đó chính bằng khi cả hai bên nhìn thấy các mô hình, các hoạt động cụ thể của các tôn giáo có sự phối hợp của cả hệ thống chính trị với các tôn giáo trong rất nhiều hoạt động an sinh, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hoạt động đối ngoại nhân dân hay bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Điều đó sẽ xóa đi mặc cảm, xóa đi khoảng cách, chúng ta thấy mình đều là con cháu Lạc Hồng, đều là con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ thì đều thấy trách nhiệm chung dù có theo tín ngưỡng, tôn giáo nào hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.

Vậy thì ngoài việc giúp đỡ giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của người dân thì việc chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc cũng rất cần được quan tâm. Ý kiến của TS. Lê Thị Liên trong vấn đề này ra sao?

TS. Lê Thị Liên: Bất cứ một giai đoạn lịch sử nào, một môi trường nào mà đã có hoạt động lợi dụng cái này, cái kia để đi ngược lại lợi ích của dân tộc, lợi ích của đồng bào, lợi ích của chính tôn giáo truyền thống và thuần túy thì rất cần sự lên án và rất cần loại ra khỏi hoạt động đó. Tôi nghĩ đây là quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước chúng ta từ khi thành lập nước đến bây giờ, chưa có văn kiện, nghị quyết nào của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn giáo mà không nêu cao tinh thần này. 

Và tinh thần này không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đâu mà là trách nhiệm của toàn dân, trong đấy đối với khối tôn giáo là trách nhiệm của chức sắc, chức việc, nhà tu hành và chính tín đồ. Bởi vì hoạt động lợi dụng này ảnh hưởng rất sâu sắc, nguy hiểm, không chỉ đến cộng đồng xã hội mà ngay cả chính bản thân tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo đó đối với đời sống xã hội. 

Mỗi một tôn giáo phát triển được như ngày nay đều phải trải qua rất nhiều giai đoạn có sự thăng trầm, mất mát, sự được mất, rất nhiều bậc tiền bối, những lớp chức sắc, nhà tu hành, tín đồ dày công xây dựng để được như ngày hôm nay, tạo ra giá trị được cả xã hội ghi nhận. Nhưng chỉ cần một số phần tử cực đoan đi ngược lại lợi ích của tôn giáo đó hoặc lợi dụng tôn giáo đó để đi ngược lại lợi ích dân tộc thì thật sự sẽ rất nguy hiểm và nó xóa nhòa, làm mờ đi, làm xấu đi hình ảnh mà tôn giáo đó bao nhiêu năm, hàng thế kỷ xây dựng trong cộng đồng dân tộc.

Tôi tin rằng cho dù tôn giáo đó đã có đóng góp bao nhiêu chăng nữa, giá trị tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa mà cứ để cho tồn tại những hoạt động lợi dụng đó trong tôn giáo và sử dụng tôn giáo, sử dụng tín đồ như một con bài để thực hiện những mưu đồ không tốt của các thế lực xấu thì chắc chắn sẽ không bao giờ được xã hội đón nhận. 

Trong thực tế thì quá trình phát triển của tôn giáo Việt Nam, sự  thăng trầm với lịch sử dân tộc cũng khá nhiều, sự lợi dụng cũng không phải là ít. Và ngày nay dù đất nước đã đổi mới, trình độ dân trí được nâng lên rất nhiều nhưng đối với an ninh truyền thống và phi truyền thống hiện nay thì vấn đề lợi dụng tôn giáo càng tinh vi hơn. 

Do vậy, vấn đề này rất cần sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền, hỗ trợ cho các tổ chức tôn giáo trong vấn đề cảnh giác và đấu tranh. Chúng ta phải cảnh giác trước đã, chứ đến khi vấn đề đã xảy ra rồi đấu tranh sẽ khó hơn. Cảnh giác trước để chính bản thân mỗi một tín đồ, chính bản thân mỗi chức sắc tôn giáo sẽ tạo cho mình sức đề kháng tốt nhất để cùng với cộng đồng, cùng với Nhà nước, để mà đấu tranh với các hoạt động lợi dụng đó. 

Có như vậy các tôn giáo mới phát triển một cách bền vững trong lòng dân tộc và mới lan tỏa được giá trị đạo đức trong cộng đồng dân tộc. Còn nếu tôn giáo hoạt động mê tín dị đoan, lệch chuẩn hoặc lợi dụng tôn giáo để làm việc này, việc kia thì nó sẽ thành yếm thế, không còn là giá trị tôn giáo nữa. 

Khi tôn giáo vào cuộc, cùng tham gia các phong trào như phong trào xây dựng đời sống văn hóa dân cư, rồi những phong trào do địa phương, Mặt trận phát động, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, đặc biệt là những vùng biên giới, vùng chiến lược và kể cả bảo vệ an ninh quốc gia... thì vai trò của tôn giáo cũng sẽ được nâng lên trong cộng đồng dân tộc. 

Trong rất nhiều phong trào, tôi nghĩ vấn đề bảo vệ an ninh Tổ quốc, chống các tệ nạn xã hội là một điểm sáng của các tổ chức tôn giáo. Ở đâu có đông đồng bào tôn giáo ở đó đời sống tự quản rất cao và tệ nạn xã hội cũng như tội phạm bớt đi rất nhiều so với cộng đồng khác. 

Đối với vấn đề chống các hoạt động lợi dụng tôn giáo, nếu chúng ta có những hướng dẫn cụ thể, có cơ sở, bằng chứng rõ ràng, các ngành chức năng vào cuộc thì sẽ được cộng đồng tôn giáo đặc biệt các chức sắc, chức việc, các nhà tu hành rất ủng hộ.

 Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ

Thưa ông Nguyễn Văn Thanh, việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền, MTTQ và các tổ chức tôn giáo có vai trò như thế nào để có thể kịp thời giải quyết nhu cầu chính đáng cũng như những vấn đề bất cập liên quan đến tôn giáo hiện nay?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Vấn đề đặt ra là cần phải có các cơ chế, các mô hình cụ thể. Trên tinh thần đó trong nhiều năm qua, UBTƯ MTTQ Việt Nam cũng như Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ đã có chủ trương là định kỳ tổ chức tiếp xúc, đối thoại với lãnh đạo của các tổ chức tôn giáo và các tổ chức tôn giáo trực thuộc. Đây cũng là một chủ trương nhất quán của Đảng, nhằm thứ nhất là phải chăm lo đời sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo; thứ hai là phát huy đầy đủ được quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có hàng chục triệu đồng bào các tôn giáo của chúng ta. 

Bộ Chính trị đã có đề án tăng cường vận động đoàn kết các tôn giáo, trong đó có một quy định rất cụ thể là định kỳ giữa các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, người đứng đầu của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận phải chủ trì tổ chức tiếp xúc, đối thoại với lãnh đạo các tổ chức tôn giáo và các tổ chức tôn giáo trực thuộc để kịp thời lắng nghe các tâm tư, nguyện vọng, các đề xuất, kiến nghị, rồi các vấn đề phát sinh từ thực tiễn dưới địa phương và từng cấp. 

Như vậy các lãnh đạo trực tiếp lắng nghe thì sẽ không phải thông qua khâu trung gian nữa. Thứ hai, sau khi nghe rồi thì các lãnh đạo thấy thuộc thẩm quyền có thể quyết được hay không thì có thể trả lời giải đáp cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo, các vị lãnh đạo các tôn giáo, cái nào không thuộc thẩm quyền thì kiến nghị lên trên và giải đáp rất kịp thời cho các vị lãnh đạo tôn giáo. Nhờ đó tránh được những nghi ngờ hoặc những thông tin sai trái hiện nay đang đầy rẫy trên mạng xã hội. 

Đây cũng là một cơ chế để chúng ta nghe trực tiếp và có thể kịp thời giải quyết trực tiếp các đề xuất, kiến nghị, nhu cầu hợp pháp, chính đáng của đồng bào các tôn giáo. Nhờ đó, tăng cường sự hiểu biết giữa hệ thống chính trị với các tổ chức và các vị lãnh đạo tôn giáo, cũng như giải quyết kịp thời các quyền của đồng bào và qua đó phát huy được dân chủ, trong đó có quyền làm chủ của đồng bào các tôn giáo tham gia đóng góp giải quyết các vấn đề của đất nước, của địa phương, tham gia phát huy thế mạnh của mình, đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Theo Tiến sĩ Lê Thị Liên, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, nhất là chính trị cơ sở ở vùng có đông đồng bào tôn giáo như thế nào?

TS. Lê Thị Liên: Tôi nghĩ rằng đây là vai trò rất quan trọng. Bởi khi chủ trương, chính sách pháp luật có rồi mà hệ thống chính trị và đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác liên quan trực tiếp đến tôn giáo không đảm bảo được thì không thể đưa chính sách pháp luật, chủ trương của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống và càng khó có thể hướng dẫn để đồng bào các tôn giáo cũng như chức sắc, chức việc, nhà tu hành thực hiện được. 

Việt Nam rất đa dạng tôn giáo và hoạt động của tôn giáo đa phần nằm ở địa phương, nằm trong người dân, nằm trong hệ thống chính trị cơ sở ở dưới. Do vậy củng cố hệ thống chính trị cơ sở để tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác hướng dẫn đối với hoạt động tôn giáo là cực kỳ quan trọng. Ở môi trường nào cũng thế. 

Còn nếu chúng ta nghĩ rằng chỉ cần đưa ra chủ trương, chính sách thôi, chỉ cần pháp luật thôi và cứ tuyên truyền, kêu gọi để hướng dẫn thôi thì tôi cho rằng chưa đủ. Với một lĩnh vực như tôn giáo, các chức sắc, nhà tu hành chủ yếu hoạt động liên quan đến vấn đề sinh hoạt tôn giáo, tâm linh, việc tiếp cận pháp luật, hiểu biết pháp luật và tìm hiểu các chính sách họ có những hạn chế nhất định, bởi chúng không phải các lĩnh vực mà họ phải thực hiện, phải tìm hiểu nhiều. 

Do vậy muốn họ hiểu, muốn họ nắm được thì bản thân mỗi cán bộ ở địa phương phải nắm rất rõ điều đó và chủ động trong công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật để chính đồng bào và chức sắc tôn giáo người ta thực hiện theo đúng. Và khi bản thân họ hiểu được rồi, thực hiện đúng, chủ động được rồi thì chúng ta rất nhẹ nhàng trong công tác quản lý. 

Thứ hai nữa là trong các mô hình, các phong trào, đồng bào các tôn giáo là người dân, là bộ phận của đại đoàn kết dân tộc, là một thành viên của tất cả các các phong trào, như Mặt trận, rồi nông dân, phụ nữ... ở đâu, lĩnh vực nào cũng đều có tín đồ tôn giáo. Chính vì thế mà Đảng, Nhà nước mới có quan điểm công tác tôn giáo là của cả hệ thống chính trị, bởi vì lĩnh vực nào cũng có tín đồ hết. 

Do vậy cần quan tâm hơn trong công tác đối với phong trào của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị ở cơ sở. Bản thân những cán bộ đó ngoài việc biết tổ chức các phong trào, biết pháp luật còn phải biết đến tín ngưỡng, tôn giáo, phải biết đến từng tôn giáo cơ bản để chúng ta có những hoạt động, những phương thức, xây dựng kế hoạch, những giải pháp để tập hợp, kêu gọi và vận động họ để họ tham gia. 

Và khi họ tham gia thì đó là thành viên của chúng ta và họ tham gia tích cực thì sự phát triển phong trào sẽ tốt hơn. Mặt khác khi họ mang niềm tin tôn giáo và những giá trị đạo đức tôn giáo để phát triển cùng phong trào chung và có điểm tương đồng phong trào đó thì tôi nghĩ rằng nó sẽ tích cực hơn rất nhiều. 

Cùng với đó đối với cán bộ làm công tác liên quan trực tiếp đến tôn giáo ở địa phương cũng rất cần quan tâm vấn đề đào tạo, bồi dưỡng kiến thức liên quan đến tôn giáo, pháp luật về tôn giáo cho đội ngũ này. Vì chúng ta là những chủ thể trong công tác quản lý, nếu chủ thể không “thuộc bài”, không nắm được tình hình tôn giáo, chủ thể chỉ biết pháp luật nhưng không biết tôn giáo, chủ thể biết tôn giáo không biết pháp luật thì chúng ta vẫn còn thiếu và sẽ khó trong vấn đề tiếp xúc, hướng dẫn thực hiện.

Có một vấn đề mà qua công tác nghiên cứu chúng tôi nhận thấy là tôn giáo ảnh hưởng rất nhiều đến các lĩnh vực khác. Tuy nhiên nhiều lĩnh vực khác thì bản thân pháp luật cán bộ rất tường minh nhưng pháp luật đó để áp dụng vào tôn giáo lại không hiểu về tôn giáo dẫn đến quá trình đối thoại nhiều khi khá cứng nhắc, có những cách vận dụng không phù hợp thì cũng dẫn đến hạn chế trong vấn đề hiệu lực, hiệu quả công tác tôn giáo. 

Do vậy vấn đề xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là các phong trào và những người tham gia trực tiếp vào công tác tôn giáo địa phương rất quan trọng. Có được như thế chúng ta mới đưa các chủ trương, chính sách pháp luật vào cuộc sống được và bản thân tôn giáo, chức sắc, tín đồ tôn giáo người ta mới thấy rất rõ được các quan điểm của Đảng, Nhà nước trong vấn đề đảm bảo quyền của người ta. 

Nhiều khi quyền, trách nhiệm của người ta, người ta không hiểu hết. Nếu mình không giải thích rõ, không yêu cầu thì người ta sẽ cảm thấy rằng là có gì đấy, nhận thức chưa đúng thì dẫn đến không khớp nhau trong vấn đề giữa chủ trương, chính sách và thực hiện. 

Thưa TS. Nguyễn Văn Thanh, để phát huy hơn nữa sự đóng góp của tín ngưỡng, tôn giáo vào công cuộc phát triển đất nước thì chúng ta cần có lưu ý những gì đối với việc xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cũng như là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác?

TS. Nguyễn Văn Thanh: Về tổ chức bộ máy, phải thiết kế các tổ chức bộ máy phù hợp. Còn tôi nhấn mạnh về việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, như lâu nay chúng ta hay nói là “có tâm, có tầm”. Tức là phải vừa có năng lực, trước hết là về mặt đạo đức, anh phải có tinh thần trách nhiệm, có sự dấn thân vì cộng đồng. Thứ hai phải có kỹ năng trong công tác, ngoài hiểu biết pháp luật anh còn phải hiểu biết về tôn giáo.

Đặc biệt nói về cái tâm đó là tinh thần dấn thân. Khi chúng ta nhắc đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo thì cái quản lý đây phải hiểu theo nghĩa là chúng ta phải chủ động hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoàn thành thực hiện tốt các chính sách pháp luật, trong đó có việc phát huy tốt nguồn lực của mình, chứ không phải là chúng ta thụ động ngồi một chỗ và phán hay xét. 

Tất cả mục tiêu vì con người và vì mục tiêu rất tốt đẹp là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì cán bộ, đảng viên như Bác nói đó là người đầy tớ, công bộc của nhân dân thì phải lấy tinh thần dấn thân phục vụ nhân dân, phục vụ cộng đồng trên cơ sở chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Và chúng ta phải quan tâm, hiểu biết, chủ động nắm bắt, tập hợp tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo để chủ động giải quyết cho phù hợp. 

TS. Lê Thị Liên: Từ bản thân kinh nghiệm cá nhân hơn 20 năm làm công tác liên quan trực tiếp đến tôn giáo, tôi thấy rằng làm công tác tôn giáo khó, khó vô cùng, khó hơn tất cả các lĩnh vực khác. Vì chúng ta quản lý một lĩnh vực khá nhạy cảm và là một lĩnh vực liên quan đến hoạt động tinh thần của người dân và ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, tình cảm của cộng đồng tín đồ. 

Khối tín đồ là khối quần chúng khá đặc biệt, họ vừa là công dân nhưng đồng thời lại vừa là tín đồ tôn giáo, họ mang trong mình nghĩa vụ của một công dân Việt Nam nhưng cũng mang trong mình nghĩa vụ đối với tổ chức tôn giáo và họ có niềm tin tôn giáo. 

Do vậy mà cộng hưởng trong sức mạnh niềm tin đấy rất đặc biệt, nếu chúng ta biết đặt để thì nó sẽ là cộng hưởng tốt, còn nếu không biết cách thì nó sẽ trở nên phản tác dụng. 

Tổ chức tôn giáo thì ngày càng phát triển, cho dù ở mức độ nào thì họ đều phát triển. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy từ khi tôn giáo ra đời đến bây giờ, chưa có tôn giáo nào là lụi bại đi và chưa có tôn giáo nào mà tín đồ năm sau thấp hơn năm trước, chưa có một tôn giáo nào mà cơ sở thờ tự của năm sau hoặc là chức sắc, chức việc năm sau thấp hơn năm trước, ngược lại tất cả các chỉ số đều tăng. 

Thế thì dẫn đến một điều là áp lực cho cán bộ làm công tác tôn giáo rất lớn. Trong khi chúng ta đang thực hiện tinh giản, gọn nhẹ đầu mối và tổ chức. Tuy nhiên nếu chúng ta không có một chiến lược tốt hơn cho cán bộ làm công tác tôn giáo thì tôi nghĩ rất khó có thể giữ được những cán bộ có tâm và có kinh nghiệm. 

Bởi vì đối với lĩnh vực khác thì chỉ cần hiểu biết pháp luật lĩnh vực đó. Còn với công tác tôn giáo, chúng tôi phải hiểu được nhiều lĩnh vực của các luật khác nữa để khi làm thì mới có thể hướng dẫn được chức sắc, tín đồ tôn giáo, vì họ bao giờ cũng đến tìm đến các đầu mối, đó là Ban Tôn giáo Chính phủ, là MTTQ, là các cơ quan trực tiếp làm công tác tôn giáo... thì cán bộ phải toàn diện hơn. 

Hiểu biết tôn giáo là đương nhiên rồi nhưng còn một cái mà như anh Thanh chia sẻ là kỹ năng. Nhiều lãnh đạo của chúng tôi nói rằng là cái nghề tôn giáo giống như nghề kim hoàn phải làm rất khéo tay, phải nhẹ nhàng, phải thế nào đó cho ra một sản phẩm giá trị và sản phẩm ấy phải đẹp thì đấy là cái khó nhất của cán bộ làm công tác tôn giáo. 

Tôi nghĩ rằng tôn giáo phát triển là lẽ đương nhiên, là khách quan và sẽ tiếp tục xu thế phát triển cho dù là ở mức độ này, mức độ kia, cho dù là trong lĩnh vực này hay trong tôn giáo này có những cái chững hơn, có những cái phát triển hơn nhưng nhìn chung là phát triển. Và như vậy chúng ta cũng phải tính đến là cán bộ làm công tác tôn giáo phải tốt hơn, tinh túy hơn và phải đảm đương nhiều việc hơn. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải có một cơ chế, chính sách để giữ được những người như vậy. 

Tôi nghĩ, nếu chúng ta không có một chiến lược tốt hơn thì sẽ có sự dịch chuyển nhân sự từ lĩnh vực công sang lĩnh vực tư, hiện tại điều này cũng đã bắt đầu xảy ra ở một số địa phương. Không có những người tâm huyết với nghề sẽ dẫn đến công tác tôn giáo không những khó mà còn khó phát huy được nguồn lực tôn giáo và khó có sự tham mưu chính xác, chuẩn xác cho Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành liên quan trong vấn đề thực thi và ban hành chính sách. 

TS. Nguyễn Văn Thanh: Tôi cũng chia sẻ, đồng cảm với ý kiến của chị Liên và xin chia sẻ thêm. Đó là đối với đặc thù công tác tôn giáo, cần nhấn mạnh thêm yếu tố là chuyên sâu và chuyên lâu. Đối với cán bộ để trở thành một chuyên gia trong công tác tôn giáo, dù ở lĩnh vực nào thì anh ít nhất phải có độ dài và thời gian nhất định. 

Như vậy mới có thể tạo lập và xây dựng các mối quan hệ gắn bó, thân thiết, tình cảm với các vị lãnh đạo, các chức sắc của các tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức tôn giáo trực thuộc. Khi hiểu biết nhau rồi thì giải quyết vấn đề hoặc phối hợp của hai bên từ góc độ hệ thống chính trị với các tổ chức tôn giáo hoặc với các vị lãnh đạo các tôn giáo sẽ rất thuận lợi. 

Còn nếu không có sự hiểu biết, sự đồng cảm như vậy thì khi triển khai các công việc thậm chí rất dễ gây hiểu lầm. Hiểu lầm ở đây liên quan lĩnh vực tâm linh tín ngưỡng, tôn giáo sẽ là nhạy cảm, thậm chí có thể gây ra sự mất đoàn kết hoặc là triển khai công việc bất cập. 

Muốn có chuyên gia “chuyên sâu, chuyên lâu” như vậy phải có chính sách động viên cụ thể, bởi đây là một lĩnh vực đặc biệt. Đối với những cán bộ công tác ở lĩnh vực hoặc khu vực đặc biệt thì chúng ta cần có các hình thức, chế độ chính sách phù hợp để động viên. Tôi thấy đó cũng là một điều cần quan tâm. 

Kính thưa quý độc giả, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng phát huy các nguồn lực tôn giáo trong quá trình phát triển đất nước, nhờ đó nhiều giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo đã và đang được phát huy hiệu quả, góp phần tích cực vào việc chăm lo đời sống, an sinh xã hội, phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. 

Buổi tọa đàm đến đây là kết thúc. Xin cảm ơn hai khách mời đã chia sẻ nhiều thông tin hữu ích. Kính chào quý vị và hẹn gặp lại.

VietNamNet (thực hiện)

https://vietnamnet.vn/phat-huy-nguon-luc-ton-giao-trong-xay-dung-bao-ve-to-quoc-2083959.html

..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.