Đại ý là cụ Hữu Loan chê trình độ của các nhà Hán học trong các thập niên 1950 - 1990 của Việt Nam, nhất là những người được đề cao. Mà ở trong đoạn video dưới đây, Hữu Loan chê Hữu Dụng (tức nhà thơ dịch giả Khương Hữu Dụng).
1. Liên quan ở đây là bài thơ nổi tiếng trong thơ Đường, mang tên Thục đạo nan (đường của nước Thục khó đi). Bài ấy của thi tiên Lý Bạch.
Lý Bạch chính là thi sĩ có có một câu mà hôm trước cụ Vũ Khiêu đã tái sử dụng vào câu đối (xem lại ở đây).
Tuy nhiên, Hữu Loan nhớ nhầm thành của Đỗ Phủ. Ông nhầm như thế cũng không sao.
2. Trong bài Thục đạo nan, có câu như sau:
上有六龍回日之高標 下有衝波逆折之迴川
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu, hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
3. Câu ấy, lâu nay, trong tiếng Việt thường được dịch là (ví dụ bản dịch của Trần Trọng San):
Trên đỉnh có sáu rồng, lượn quanh vầng nhật; Dưới có dòng sâu rẽ ngược, sóng cả đua chen.
(Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời.
Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược.)
4. Nhưng Hữu Loan thì bảo hiểu thế là sai.
Nhà thơ cho rằng, không phải là "sáu con rồng". Mà, đó là tên núi là Lục Long. Tức núi "Lục Long" (núi sáu con rồng).
Vậy nên, theo ý của Hữu Loan, phải hiểu câu trên của "Đỗ Phủ" là: núi Lục Long cao lắm, đến nỗi mặt trời không qua được (cứ đến chỗ núi Lục Long là mặt trời phải quay trở lại).
5. Hữu Loan đúng, hay các nhà Hán học như Khương Hữu Dụng - Trần Trọng San đúng ?
---
TƯ LIỆU
1. Bản dịch tiếng Việt của Trần Trọng San
Ôi, chao ôi!
Nguy hề, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Tàm Tùng và Ngư Phù,
Mở nước bao xa xôi!
Đến nay bốn vạn tám ngàn năm,
Mới cùng ải Tần liền khói người.
Phía tây núi Thái Bạch có đường chim,
Vắt ngang đến tận đỉnh Nga Mi,
Đất long, núi lở, tráng sĩ chết,
Rồi sau thang trời, lối đá mới nối liền.
Trên đỉnh có sáu rồng, lượn quanh vầng nhật;
Dưới có dòng sâu rẽ ngược, sóng cả đua chen.
Hạc vàng bay qua còn chẳng được;
Vượn khỉ toan vượt, buồn với vin.
Rặng Thanh Nê quanh co!
Trăm bước, chín vòng núi nhấp nhô.
Ngẩng trông Sâm Tỉnh, không dám thở,
Lấy tay vỗ bụng ngồi thở dài.
Hỏi bạn sang tây, bao giờ trở lại ?
Đường hiểm núi cao, khó lắm thay;
Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ,
Trống bay theo mái lượn rừng cây.
Lại nghe tiếng cuốc kêu trăng tối,
Buồn tênh, núi vắng người!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Khiến người nghe nói héo mặt son.
Núi liền cách trời chẳng đầy thước;
Thông khô vắt vẻo vách cao ngất.
Thác đổ dồn mau tiếng rộn ràng,
Vỗ bờ, tung đá, muôn khe vang.
Hiểm nghèo là như vậy,
Đường xa, thương cho ai,
Vì sao lại đến đây ?
Kiếm Các cheo leo cao ngất mây.
Một người giữ cửa quan,
Muôn người khôn mở ải.
Chẳng phải là người thân,
Biến thành ra sài lang.
Sớm lánh hổ dữ,
Tối tránh rắn dài;
Mài nanh, hút máu,
Giết người như gai.
Cẩm thành tuy vui thú,
Đâu bằng sớm về nhà.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Nghiêng trông sang tây, mãi thở than.
2. Nguyên văn:
李白 蜀道難《唐詩三百首079》
李白(http://www.epochtimes.com)
噫吁戲 危乎高哉
蜀道之難難於上青天
蠶叢及魚鳧 開國何茫然
爾來四萬八千歲 始與秦塞通人煙
西當太白有鳥道 可以橫絕峨眉巔
地崩山摧壯士死 然後天梯石棧方鉤連
上有六龍回日之高標 下有衝波逆折之迴川
黃鶴之飛尚不得 猿猱欲度愁攀援
青泥何盤盤 百步九折縈巖巒
捫參歷井仰脅息 以手撫膺坐長歎
問君西遊何時還 畏途巉巖不可攀
但見悲鳥號古木 雄飛雌從繞林間
又聞子規啼 夜月愁空山
蜀道之難難於上青天 使人聽此凋朱顏
連峰去天不盈尺 枯松倒掛倚絕壁
飛湍瀑流爭喧豗 砯崖轉石萬壑雷
其險也如此 嗟爾遠道之人
胡為乎來哉 劍閣崢嶸而崔嵬
一夫當關 萬夫莫開
所守或匪親 化為狼與豺
朝避猛虎 夕避長蛇
磨牙吮血 殺人如麻
錦城雖云樂 不如早還家
蜀道之難難於上青天 側身西望常咨嗟
---
TƯ LIỆU
1. Bản dịch tiếng Việt của Trần Trọng San
Ôi, chao ôi!
Nguy hề, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Tàm Tùng và Ngư Phù,
Mở nước bao xa xôi!
Đến nay bốn vạn tám ngàn năm,
Mới cùng ải Tần liền khói người.
Phía tây núi Thái Bạch có đường chim,
Vắt ngang đến tận đỉnh Nga Mi,
Đất long, núi lở, tráng sĩ chết,
Rồi sau thang trời, lối đá mới nối liền.
Trên đỉnh có sáu rồng, lượn quanh vầng nhật;
Dưới có dòng sâu rẽ ngược, sóng cả đua chen.
Hạc vàng bay qua còn chẳng được;
Vượn khỉ toan vượt, buồn với vin.
Rặng Thanh Nê quanh co!
Trăm bước, chín vòng núi nhấp nhô.
Ngẩng trông Sâm Tỉnh, không dám thở,
Lấy tay vỗ bụng ngồi thở dài.
Hỏi bạn sang tây, bao giờ trở lại ?
Đường hiểm núi cao, khó lắm thay;
Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ,
Trống bay theo mái lượn rừng cây.
Lại nghe tiếng cuốc kêu trăng tối,
Buồn tênh, núi vắng người!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Khiến người nghe nói héo mặt son.
Núi liền cách trời chẳng đầy thước;
Thông khô vắt vẻo vách cao ngất.
Thác đổ dồn mau tiếng rộn ràng,
Vỗ bờ, tung đá, muôn khe vang.
Hiểm nghèo là như vậy,
Đường xa, thương cho ai,
Vì sao lại đến đây ?
Kiếm Các cheo leo cao ngất mây.
Một người giữ cửa quan,
Muôn người khôn mở ải.
Chẳng phải là người thân,
Biến thành ra sài lang.
Sớm lánh hổ dữ,
Tối tránh rắn dài;
Mài nanh, hút máu,
Giết người như gai.
Cẩm thành tuy vui thú,
Đâu bằng sớm về nhà.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh;
Nghiêng trông sang tây, mãi thở than.
2. Nguyên văn:
李白(http://www.epochtimes.com)
噫吁戲 危乎高哉
蜀道之難難於上青天
蠶叢及魚鳧 開國何茫然
爾來四萬八千歲 始與秦塞通人煙
西當太白有鳥道 可以橫絕峨眉巔
地崩山摧壯士死 然後天梯石棧方鉤連
上有六龍回日之高標 下有衝波逆折之迴川
黃鶴之飛尚不得 猿猱欲度愁攀援
青泥何盤盤 百步九折縈巖巒
捫參歷井仰脅息 以手撫膺坐長歎
問君西遊何時還 畏途巉巖不可攀
但見悲鳥號古木 雄飛雌從繞林間
又聞子規啼 夜月愁空山
蜀道之難難於上青天 使人聽此凋朱顏
連峰去天不盈尺 枯松倒掛倚絕壁
飛湍瀑流爭喧豗 砯崖轉石萬壑雷
其險也如此 嗟爾遠道之人
胡為乎來哉 劍閣崢嶸而崔嵬
一夫當關 萬夫莫開
所守或匪親 化為狼與豺
朝避猛虎 夕避長蛇
磨牙吮血 殺人如麻
錦城雖云樂 不如早還家
蜀道之難難於上青天 側身西望常咨嗟
Anh Giao hỏi khó.
Trả lờiXóaChữ Hán không biết, chỉ đoán (chơi), thấy ông Loan có lí. Vì Đường Thục Khó Đi thì hẳn gắn với núi cao, vực sâu. Chớ "sáu (con) rồng lượn quanh mặt trời" có vẻ không ăn nhập.
Học hành lỗ mỗ hehe nên chỉ thế thôi.
Một người lính bỏ về quê, chỉ đi đội đá, và làm VAC để nuôi vợ nuôi con. Lam lũ cả đời. Nhưng quả là khâm phục cụ ! Cụ thẩm thơ Đường bằng tâm hồn của nhà thơ.
XóaĐất Thục ngày trước đại khái là tỉnh Tứ Xuyên bây giờ. Nơi rất hay động đất.
Đến Tứ Xuyên, sẽ biết núi Lục Long. Là một ngọn núi tiêu biểu của tỉnh Tứ Xuyên.