Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

13/11/2014

Huỳnh Uy Dũng : "Đại Nam văn hiến sử thi", một tác phẩm đồ sộ

Ngoài bộ sử thi tới hơn 12 ngàn câu này, còn có những bộ khác, như Đại Nam tâm kinh. Hoặc Huyền ca Hồ Chí Minh, Thánh thư Võ Nguyên Giáp. Đều của cùng một soạn giả.

Chỉ riêng bộ Đại Nam văn hiến sử thi đã đồ sộ. Chẳng hạn, riêng tập 1 đăng lại ở đây, chỉ rê chuột xem hết cũng đã mỏi tay, chưa nói đến đọc.


Hãy thử đọc 12 câu đầu tiên của bộ sử thi do doanh nhân Huỳnh Uy Dũng sáng tác. Như sau:

 1.“Việt Nam khởi tổ xây nền”

2.Lời “tiên tri” của Trình Tuyền lạ thay!

3.Bao nghìn năm sau ngày mở nước,

4.Sấm Trạng ghi mồn một đấy thôi!

5.Bao trăm năm… tiếng ru nôi….

6.Việt Nam khởi tổ…để rồi đăng quang!

7.Sao hai tiếng Việt Nam đẹp thế!

8.Y như lời của mẹ hiền ru…

9.Chở chuyên tròn cả ngàn thu,

10.Chở chuyên tròn cả tiếng ru ngàn đời…

11.Phải chăng đấy tiếng lời định mệnh?
12.Quốc hiệu mà như chính hồn ta!


Tiếp dưới đây là đăng trọn tập 1 của bộ này. Các tập tiếp theo thì xem từ đường link ngầm.


Sáng tác: Huỳnh Uy Dũng


1.“Việt Nam khởi tổ xây nền”

2.Lời “tiên tri” của Trình Tuyền lạ thay!

3.Bao nghìn năm sau ngày mở nước,

4.Sấm Trạng ghi mồn một đấy thôi!

5.Bao trăm năm… tiếng ru nôi….

6.Việt Nam khởi tổ…để rồi đăng quang!


7.Sao hai tiếng Việt Nam đẹp thế!

8.Y như lời của mẹ hiền ru…

9.Chở chuyên tròn cả ngàn thu,

10.Chở chuyên tròn cả tiếng ru ngàn đời…


11.Phải chăng đấy tiếng lời định mệnh?

12.Quốc hiệu mà như chính hồn ta!

13.Như lời chú “úm ba la”;

14.Lại như tiếng vạc thiết tha bên cồn.


15.Lại như tiếng càn khôn rủ rỉ;

16.Tiếng sao Hôm thầm thỉ sao Mai.

17.Rằng: mình tuy một mà hai,

18.Tuy hai mà một: láng lai đồng bào…


19.Năm thế kỷ miệt mài xương máu…

20.Lời sấm truyền đau đáu bên tai.

21.Thì thầm quốc hiệu tương lai:

22.Việt Nam, hai tiếng triển khai sấm truyền…


23.Rõ định phận tại thiên thư thế!

24.Ấy cháu đời Viêm đế thứ ba.

25.Quang tiền thùy hậu nguy nga:

26.“Nối dòng Hóa Đức, gọi là Đế Minh”.


27.Xe mây sớm đăng trình Nam tiến,

28.Hội tiên rồng thể hiện âm dương.

29.Một trai nối dõi tông đường:

30.Tục danh Lộc Tục, Kinh Dương hiệu là.


31.Là Quân trưởng nước ta thuở ấy:

32.Nước trong nguồn đẹp bấy tình quê.

33.Tiên rồng lại kết phu thê…

34.Kinh Dương Vương kết giải thề Thần Long.

35.Trang thục nữ vốn dòng thần thoại:

36.Động Đình kia trường tại xuân ba.

37.Để rồi mãn nguyệt khai hoa:

38.Lạc Long Quân ấy con nhà rồng tiên.


39.Rồng tiên ấy mối duyên tiền định…

40.Lạc Long Quân lại sánh Âu Cơ.

41.Để rồi, như một bài thơ:

42.Sinh ra một bọc chở vừa trăm trai!


43.Ôi, huyền thoại! có ai không nhỉ!

44.Sinh trăm con trong chỉ một lần?

45.Xuyên qua chữ điệu thơ vần,

46.Ẩn một sự kiện mười phân rõ ràng!


47.Ấy là đất Phương Nam thuở ấy

48.Có trăm dòng Việt vậy – hiện sinh.

49.Một tình huynh đệ, đệ huynh…

50.Như từ một bọc kết tinh: đồng bào!


51.Trăm dòng Việt xiết bao thân thiết…

52.Chữ gọi là Bách Việt – truyền ngôn…

53.Có điều trong cõi càn khôn,

54.Và trong quy luật sinh tồn cạnh tranh…


55.Chín mươi tám người anh em Việt,

56.Mỗi tồn sinh hai Việt: Lạc, Âu.

57.Vẫn theo huyền thoại, như sau:

58.Từ trong lòng mẹ nhiệm mầu Âu Cơ…


59.Trăm trai nọ, bấy giờ khôn lớn,

60.Được mẹ cha chia gọn thành hai.

61.Đôi phương non nước tuyệt vời:

62.Năm mươi xuống biển, năm mươi lên ngàn.


63.Từ một họ Hồng Bàng như thị,

64.Tách làm hai theo nghĩa đồng quy:

65.“Lạc Long về chốn Nam thùy,

66.Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên”.





67.Chủ trương chọn con hiền nối dõi:

68.Ngôi đầu tiên tên gọi Hùng Vương.

69.Phong Châu dựng mối triều cương,

70.Rồng chầu hổ phục, cát tường địa linh.


71.Văn Lang, hiệu nước xinh văn tự:

72.Lấy chữ Văn tỏ ý hiếu hòa.

73.Trăm năm trong cõi người ta,

71.Một niềm hòa thuận ấy là nhân văn.


75.Còn chữ Lang? ấy rằng lương hảo…

76.Rằng nết na khéo bảo, khéo ban;

77.Rằng hay, rằng giỏi, rằng ngoan…

78.Rằng lương tri, rằng rỡ ràng lương tâm.


79.Ôi, hai chữ thậm thâm quốc hiệu,

80.Nói lên niềm hòa hiếu tâm linh.

81.Hiếu hòa: ấy đức bình sinh

82.Của xa xưa, thuở nước mình còn… thơ!


83.Tự ấy đến bây giờ: chữ Hiếu

84.Bên chữ Hòa, quốc hiệu Văn Lang

85.Khác nào cây kim chỉ nam,

86.Mãi soi đuốc tỏ bước đường ta đi.


87.Bên Dũng, có Trí Bi khắng khít,

88.Ấy quốc phong nước Việt ngàn thu.

89.Đại Hùng phải thế chăng ru?

90.Bên Cang mãi mãi có Nhu, song hành.


91.Cang, thì chính sử xanh đã nói:

92.Có nước nao trên cõi địa cầu,

93.Trải qua một cuộc bể dâu,

94.Ngàn năm nô lệ vẫn đâu mất mình.


95.Vẫn son sắt đinh ninh bản chất,

96.Núp mình trong cõi mật khu riêng;

97.Cõi mật khu rất thiêng liêng,

98.Của tao nôi mẹ, của niềm ca dao.




99.Kim cương dẫu cứng, nào bằng được

100.Lòng dân ta yêu nước Việt ta.

101.Ngàn năm cát bụi phong ba,

102.Mà hồn nước chẳng phôi pha chút nào!


103.Vẫn đau đáu tự hào dân tộc;

104.Vẫn bạt ngàn thao thức tâm linh;

105.Vẫn khăng khăng cái chính mình:

106.Niềm Âu nỗi Lạc… tự tình càn khôn.


107.Nhu, thì nước trong nguồn nghĩa mẹ:

108.Tình đồng bào đẹp đẽ vô song.

109.Bên tình đồng chủng Tiên Long,

110.Lại tình đồng thể trắng trong nhất thừa.


111.Mười tám đời Hùng, vua một cõi…

112.Hai sáu hai mốt (262) năm, gói vào đây.

113.Với các chi vua như vầy:

114.Kinh Dương Vương - ứng vào ngay chi Càn.


115.Ngang thời đại Tam Hoàng Trung Quốc,

116.Bắt đầu từ Lộc Tục lên ngôi;

117.Kế thừa tám sáu năm thôi,

118.Rồi qua chi Khảm nối đời Lạc Long.


119.Hùng Hiền Vương: Lạc Long Quân vậy!

120.Rồng này bên tiên ấy: Âu Cơ.

121.Trăm con – trăm trứng – bài thơ…

122.Nâng niu Bách Việt thơm tờ sử trăng.


123.Hai trăm sáu chín (269) năm: chi Khảm,

124.Với những đời vua sáng tôi ngay;

125.So qua Bắc sử mới hay

126.Ấy thời Ngũ Đế, trị rày Trung Hoa.


127.Qua chi Cấn: nước ta lại có

128.Hùng Quốc Vương – tên họ Hùng Lân.

129.Lên ngôi vào tuổi thành nhân,

130.Hai trăm bảy tám (278) mùa xuân trị vì.




131.So Hán sử ấy kì Đế Thuấn,

132.Thuộc Hiếu Ngu phong vận phú cường.

133.Qua chi Chấn: Hùng Hoa Vương,

134.Ba trăm bốn chục (340) năm trường – lẻ hai.


135.So Hán sử: thuộc đời Đế Quýnh,

136.Nhà Hạ là quốc tính Trung Nguyên.

137.Bửu Lang nối nghiệp vương quyền,

138.Trên ba thế kỉ ngự miền Văn Lang.


139.Qua chi Tốn: Bảo Lang kế vị,

140.Hai trăm (200) năm trường trị Phong Châu.

141.Mấy đời vua chuyển tiếp nhau,

142.(So ra: Kiệt Hạ cũng đâu đời này).


143.Chi Ly: chuyển ngôi rày Kỷ Sửu,

144.Tám mốt (81) năm thành tựu triều cương.

145.Với triều danh: Hùng Hồn Vương,

146.So bên Hán sử: triều Thương đương thời.


147.Qua chi Khôn: nối đời thịnh trị,

148.Là Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang.

149.Hai trăm (200) năm ngự ngai vàng,

150.(So bên Hán sử: cũng đang Thương triều).


151.Tới chi Đoài: vẫn theo đời trước:

152.Lấy chữ Hùng làm cột làm rường.

153.Ấy là triều Hùng Vĩ Vương,

154.Với năm đời nối trị tròn trăm năm.


155.So Hán sử, cũng nhằm thời đại

156.Của triều Thương, tên gọi Nam Canh.

157.Hết Đoài, tới Giáp khai sanh:

158.Hùng Định Vương mở đầu ngành địa chi.


159.Tám mươi (80) năm trị vì hết thảy,

160.So bên Hán sử: ấy đời Ân.

161.(Là đời có bậc thần nhân

162.Giúp vua giết giặc, công huân sá gì!).




163.Giáp qua Ất: Hùng Uy triều đại:

164.Chín mươi năm, tồn tại ba đời.

165.So theo Hán sử, ấy thời

166.Của vua Tổ Giáp, vẫn đời nhà Ân.


167.Ất qua Bính: đời Hùng Trinh vậy:

168.Bốn đời, trăm lẻ bảy (107) xuân thu.

169.So theo Hán sử bấy giờ

170.Là tương đương với triều Chu trị vì.


171.Bính qua Đinh: ấy thì Hùng Vũ:

172.Chín sáu (96) năm, truyền thụ ba đời.

173.So theo Hán sử ấy thời

174.Mục Vương trị nước thuộc đời Tây Chu.


175.Đinh qua Mậu: triều vua Hùng Việt:

176.Chín sáu (96) năm lẫm liệt triều cương.

177.Ba đời hiệu Hùng Việt Vương,

178.So theo Hán sử: Mục Vương Chu triều.


179.Mậu qua Kỷ: vẫn theo nếp Việt,

180.Hùng Anh vương nối nghiệp làm vua.

181.Bốn đời, chín chín (99) xuân thu.

182.So Hán sử: ấy Đông Chu đương thời.


183.Kỷ qua Canh mở đời Hùng Triệu:

184.Chín bốn (94) năm, giữ hiệu ba đời.

185.So theo Hán sử: ấy thời

186.Huệ Vương – Trung Quốc, thuộc đời Đông Chu


187.Canh qua Tân: lật tờ Việt sử,

188.Để nghe đời tự chủ thăng hoa.

189.Vững vàng trước cuộc can qua,

190.Hùng Tạo Vương mở sơn hà đẹp xinh.


191.Chín hai (92) năm tận tình với nước,

192.Ba đời vua sau trước tròn vuông.

193.(Bánh dày tròn, bánh chưng vuông)

194.So theo Hán sử, tỏ tường: Đông Chu.




195.Tân qua Nhâm: triều vua Hùng Nghị,

196.Bốn đời vua bền bỉ triều cương.

197.Cũng chung danh Hùng Nghị Vương,

198.Một trăm sáu chục (160) năm trường thiệu long.


199.So Hán sử: vẫn Đông Chu vậy:

200.Uy Việt Vương, đời ấy, bắc phương.

201.Lật từng trang “đức lưu phương”,

202.Mà nghe hồn nước Việt Thường Văn Lang.


203.Nhâm qua Quý: triều Vương Hùng Duệ:

204.Cũng ba đời vua nhỉ, đúng chăng?

205.(Ngày nay, ở đình Tây Đằng:

206.Ba Vì – Hà Nội – vẫn hằng khói hương.


207.Thờ Tam Vị (Hùng Vương) quốc chúa:

208.(Ấy ba đời cuối thuở vua Hùng).

209.“Người đời muôn sự của chung:

210.Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi!”


211.Ôi trang sử tuyệt vời khai quốc!

212.Lấy chữ Hùng làm gốc triều cương.

213.Phải chăng ý đã tỏ tường:

214.Hùng tâm một phiến, mối giường ngàn thu!


215.Có chữ Hùng, chữ Từ mới có;

216.Có chữ Từ, mới có chữ Bi.

217.Đại hùng lực, đại từ bi,

218.Ấy là cốt lõi những gì Việt Nam!


219.Nhờ cái gốc kim cang nó thế,

220.Nên trải bao dâu bể phong trần,

221.Dẫu hồng nhan có đa truân,

222.Phiến đan tâm vẫn nhất chân đồng bào.


223.Dù một ngàn năm vào nô dịch,

224.Một trăm năm biệt tích nhân quyền,

225.Nhưng từ trong cõi sầu đêm,

226.Vẫn long lanh một ánh thiêng Lạc Hồng.




227.Ấy là ánh đại đồng nhất thể,

228.Thể hiện niềm bất nhị tâm linh.

229.Rằng: dù thập loại chúng sinh,

230.Vẫn chung một gốc: thiện, tinh, chân, thường.


231.Với cái gốc kim cương trí tuệ,

232.Nhận thức chân lý bất nhị này,

233.Văn Lang mở hội rồng mây,

234.Với mười tám hiệu vua rày Hùng Vương.


235.Trên một dãy quê hương cẩm tú,

236.Chia thành mười lăm bộ, như sau:

237.Văn Lang (ấy chốn đô đầu -

238.Là nơi vua ngự, gồm thâu vương quyền,


239.Nay tên mới là miền Bạch Hạc).

240.Châu Diên (là địa hạt Sơn Tây).

241.Phúc Lộc (cũng Sơn Tây này).

242.Tấn Hưng (tên gọi ngày rày: Tuyên Quang).


243.Vũ Định (chốn bạt ngàn sơn cước:

244.Những đồi chè xanh mướt cao nguyên…

245.Bây giờ tên gọi Thái Nguyên).

246.Vũ Hạnh: (quan họ cổ truyền Bắc Ninh).


247.Lục Hải: (chốn ân tình xứ Lạng…

248.Lời ca dao tản mạn trời xanh:

249.“Ai lên xứ Lạng cùng anh

250.Bõ công bác mẹ sinh thành ra em”).


251.Ninh Hải: (ấy Quảng Yên đương đại);

252.Đồng Văn, Dương Tuyền: (Hải Dương xinh).

253.Giao Chỉ: (Hà Nội, Ninh Bình,

254.Hưng Yên, Nam Định, đẹp tình Tràng an).


255.Cửu Chân (ấy hiên ngang Thanh Hóa…

256.Nơi Lam Sơn vàng đá mật khu).

257.Hoài Hoan (Nghệ An bây giờ,

258.Nơi đẹp chín chín bài thơ non Hồng).




259.Cửu Đức (ấy non sông Hà Tĩnh,

260.Địa hữu thần đẹp chính khí ca).

261.Việt Thường (non biển bao la:

262.Quảng Bình, Quàng Trị quê ta bây giờ).


263.Hai ngàn sáu trăm dư hai mốt (2621):

264.Ấy thời gian dựng nước Hùng Vương,

265.Với bao vàng đá kim cương,

266.Trải xinh một dải giang sơn Đại Hùng.


267.Về tôn thất, có chung danh gọi:

268.Con trai vua thì gọi Quan Lang,

269.Con gái thì gọi Mỵ Nương.

270.Do lẽ đó, có nhiều nường chung tên.


271.Ví như suốt thời huyền sử nọ

272.(Huyền sử vì không có chữ ghi;

273.Nhưng, dù chẳng có chữ chi

274.Lại có bao di chỉ ghi hộ rồi).


275.Nhắc lại, trong suốt thời huyền sử,

276.Đã có khá nhiều vụ Mỵ Nương.

277.Ví như trong vụ tranh hôn,

278.Đời thứ mười tám Hùng Vương thuở nào.


279.Câu chuyện sử thi sao mà đẹp,

280.Mà hào hùng một nét hùng ca;

281.Với đôi quái kiệt sơn hà

282.Một Sơn Tinh với một là Thủy Tinh.


283.Hoặc như chuyện diễm tình tuyệt diễm:

284.Là chuyện Trương Chi, chuyện Mỵ Nương.

285.Chuyện gói tròn cái tang thương

286.Của tình yêu, của đoạn trường tân thanh.


287.Gói tròn cái mong manh của mộng,

288.Cái trái ngang cuộc sống con người;

289.Cái “trong đầy ắt có vơi”;

290.Chữ tài chữ mệnh đời đời ghét nhau.




291.Hùng sử còn biết bao huyền thoại

292.Của những người xinh gái Mỵ Nương.

293.Dẫu không sách vở văn chương,

294.Nhưng lời truyền thuyết đẹp gương nhân tình.


295.Chúng vẽ nên những hình những dạng,

296.Của tâm tình trong sáng Việt Nam;

297.Của tinh thần tộc Văn Lang;

298.Với nhân trí dũng vô vàn bẩm sinh.


299.Trở lại chuyện “chức danh” thời ấy:

300.Ngoài Mỵ Nương với lại Quan Lang –

301.Chỉ miêu duệ họ Hồng Bàng;

302.Còn danh Lạc Tướng đứng ngang Lạc Hầu.


303.Lạc tướng để chỉ vào quan võ,

304.Lạc hầu là để trỏ quan văn.

305.Suốt hai ngàn sáu trăm năm

306.Lạc Hầu, lạc Tướng khéo chăm dân lành.


307.Họ Hồng Bàng, như danh đã định:

308.Mười tám chi vua thịnh nếp Hùng.

309.Tuy rằng sách sử thì không,

310.Nhưng mà di chỉ mới hùng hậu sao!


311.Trước khi nói đến ba truyền thuyết…

312.Những sử thi đẹp tuyệt trần gian,

313.Chở tròn nhân nghĩa đá vàng,

314.Chở tròn nhân bản hiên ngang sơn hà.


315.Trước khi nói đến hoa đến gấm

316.Của lời ru mẹ ấm tao nôi,

317.Nuôi cho con được nên người

318.Bằng dòng sữa mẹ, bằng lời ca dao…


319.Trước khi nói đến bao trí tuệ

320.(Văn hóa phi vật thể) nội hàm

321.Trong kho tục ngữ dân gian,

322.Chở chuyên vô tận kho tàng tâm linh.




323.Hãy nói đến văn minh Lạc Việt,

324.Qua những di chỉ tuyệt trần đời.

325.Và, trên tất cả, rạng ngời:

326.Ấy là những trống đồng đời Văn Lang.


327.Những chiếc trống hàm tàng thông điệp

328.Của văn minh Lạc Việt phi thường,

329.Nói lên trình độ cao cường

330.Của khoa học nghệ thuật đương thời này.


331.Nói lên những cái hay cái đẹp

332.Của tư duy Việt, nét Hùng Vương.

333.Thuở trái đất còn mù sương,

334.Mà văn hóa Việt đã vươn mặt trời.


335.Sao quên được tiếng lời kinh Phật:

336.“Duy tuệ thị nghiệp” thật hùng tâm!

337.Như sen kia mọc giữa đầm:

338.Câu “duy tuệ” mở phương châm tót vời.


339.Người ta sống trên đời, há phải

340.Lấy áo cơm làm đại mục tiêu?

341.Lợi danh chi khác bọt bèo,

342.Chỉ “duy tuệ” mới là điều bản nguyên.


343.Mới là điều chân kim-bản-vị

344.Giúp đời người có ý nghĩa thôi:

345.Người ta sống ở trên đời

346.Là để hiểu rõ kiếp người là chi.


347.Ôi câu hỏi lâm ly trầm thống

348.Thể hiện trên mặt trống đồng kia!

349.Một vầng dương tỏa sơn khê:

350.Xua tăm tối, mở tiền đề văn minh.


351.Một vầng dương tâm linh trí tuệ,

352.Tỏa ánh thiêng diệu đế ba nghìn.

353.Để cho ý sống vươn lên,

354.Để cho sức sống triền miên vượt bờ.


355.Cho vũ trụ mở tờ thông điệp:

356.Tiếng trống đồng Lạc Việt Đông Sơn!

357.Tiếng trống đồng gọi nguồn cơn,

358.Tiếng trống đồng bật sức vươn mặt trời!


359.Tiếng trống: nhịp tim đời Âu Lạc,

360.Chở chuyên nguồn sức bạt ngàn xanh

361.Của tình yêu đất long lanh,

362.Lại tình yêu nước trong lành như thơ!


363.Ngoài tiếng trống dựng cờ độc lập,

364.Còn biết bao “di vật” miếu đền

365.Phụng thờ quốc tổ Rồng Tiên…

366.Những ngàn năm khói hương bền kim âu!


367.Trên nền đất Lâm Thao Phú Thọ,

368.Giữa một vùng cẩm tú giang sơn,

369.Từ hăm lăm thế kỷ hơn,

370.Một đền quốc tổ Hùng Vương đã từng


371.Được xây dựng vô cùng tráng lệ

372. An Dương Vương, vị hùng quân;

373.Đã từng, với chiếc nỏ thần,

374.Phất cờ độc lập, đuổi quân xâm loàn!


375.Đền vua Hùng bạt ngàn sơn cước:

376.Ba ngôi đền cao vượt tầng xanh.

377.Thoạt đầu đền Giếng xinh xinh,

378.Bao ngàn năm, thoảng dấu trinh tiên hài.


379.Từ đền Giếng, vượt hai trăm (200) bậc,

380.Bước lên đền Hạ thật nguy nga.

381.Trang nghiêm chùa Bụt một tòa,

382.Tam quan mở đón hương hoa cúng dường.


383.Ấy là chốn dệt chương thần thoại:

384.Mẹ Âu Cơ vĩ đại càn khôn,

385.Sinh trăm trai Việt tròn vuông,

386.Để muôn sau đẹp hiến chương đồng bào!




387.Từ đền Hạ vươn cao chất ngất

388.Một trăm sáu tám (168) bậc trèo non.

389.Tới đền Trung, cõi vàng son,

390.Là nơi gây dựng triều cương Đại Hùng.


391.Lại là nơi đã từng thể hiện

392.Môt kỳ công văn hiến phong nhiêu

393. sự tích chàng Lang Liêu

394.Dâng lên cha mẹ tình yêu cao dầy,


395.Qua hai thực phẩm đầy phong cốt:

396.Một: bánh dầy, và một: bánh chưng.

397.Dầy thì tròn trặn, trắng trong;

398.(Dâng Trời Cha vậy, tấc lòng của con!)


399.Chưng thì vuông như hồn Đất Mẹ,

400.Với tình non nghĩa bể nghìn xanh.

401.Quên sao cha mẹ cho đành

402.Vì yêu cha mẹ, con dành đời con…


403.Ấy, ý nghĩa vuông tròn hiếu đạo:

404.Hiếu đạo là quốc đạo Văn Lang ;

405.Đã, từ vô lượng thời gian,

406.Sắt son đúc kết nên Lang Liêu này!


407.Từ Đền Trung, vượt mây trăm bậc

408.Tới Đền Hùng chất ngất xanh khơi;

409.Gọi là Đền Thượng – ấy nơi

410.Diễn ra lễ tạ ơn Trời Chí Nhân!


411.Lại, lễ nhớ công ân khai quốc

412.Mười tám đời Việt tộc Hùng Vương.

413.Ngoài bao linh vị trầm hương,

414.Lại còn Cột Đá Thiêng vươn mặt trời.


415.Cột đá dựng từ thời Âu Lạc,

416.An Dương Vương ghi tạc thệ nguyền

417.Rằng con rằng cháu rồng tiên

418.Nguyện gìn độc lập, nguyện gìn tự do.




419.Từ đỉnh Nùng non to đá khỏe

420.Cúi nhìn xem đất mẹ tinh khôi

421.Thấy xênh xang trăm ngọn đồi

422.Như đàn voi phục chầu ngôi Vua Hùng.


423.Ôi non nước của vùng Vĩnh Phú

424.Thuộc Phong Châu cẩm tú quê mình;

425.Nơi mà nhân kiệt địa linh;

426.Địa linh nhân kiệt… quá trình tương giao.


427.Những di chỉ xiết bao kỳ thú,

428.Những lưỡi rìu, lưỡi búa Đông Sơn.

429.Chiêng kia trống nọ dập dồn,

430.Cất lên thông điệp cội nguồn Văn Lang.


431.Nếu một nước thiếu trang chính sử;

432.Hoặc do chưa có chữ cho mình,

433.Hoặc từng có chữ riêng xinh,

434.Mà do quốc nạn, chữ đành vong thân.


435.Dù sao nữa, dù không chính sử

436.Thể hiện bằng văn tự phân minh,

437.Văn Lang đã thể hiện mình

438.Bằng vô lượng truyền thuyết xinh trăng rằm.


439.Những chuyện kể dưới trăng gắn bó

440.Với bao di tích nọ hùng hồn

441.Dệt thành pho sử Hùng Vương

442.Cho con cháu Việt lửa hương tấc thành.


443.Bên pho sử rất xanh – thanh sử:

444.Còn cả nguồn đạo của tâm linh

445.Cho ta mãi mãi là mình,

446.Thiên địa nhân đúc nòi tình Văn Lang.


447.Cứ thử đọc những trang huyền sử,

448.Để nghe nguồn tình tự thẳm sâu.

449.Lẫn trong những chuyện bể dâu,

450.Xảy ra trên cõi trầu cau quê mình.




451.Thử ví dụ chuyện Song Tinh nhé:

452.Trong hoang đường lại hé chân phương.

453.Chuyện rằng: đời vua Hùng Vương,

454.Có cô công chúa Mị Nương tuyệt vời.


455.Cái éo le là nơi phía… rể:

456.Có một nàng thôi nhé! hồng nhan,

457.Cầu hôn thì những hai chàng,

458.Mà chàng nào cũng hiên ngang anh tài!


459.Khó phân biệt được ai hơn kém,

460.Nên “ông già vợ” hẹn… như ri:

461.“Hai khanh cùng xứng tu mi

462.Khiến cho công chúa khó bề chọn ai.


463.Nay trẫm hẹn cả hai: mai sớm,

464.Hễ ai đem lễ sớm cầu hôn

465.Thì người ấy đặng Mị Nương”.

466.Một đêm qua, một đêm trường… dài ghê!


467.Thoắt một cái, gà te te gáy,

468.Mới canh năm đã thấy Sơn Tinh

469.Dẫn theo hổ tượng hùng binh,

470.Chở theo lễ vật linh đình phủ phê.


471.Cứ y cứ lời kia giao ước,

472.Thế là Sơn Tinh được vợ ngoan.

473.Rõ: tiên hạ thủ vi cường,

474.Ngay tắp lự, dẫn Mị Nương lên ngàn.


475.Chỉ tội nghiệp cho chàng-chậm-bước,

476.Gã Thủy Tinh hơi được cù lần!

477.Mải lo chọn Mão chọn Dần,

478.Qua canh sáu, mới xuất quân lên đường.


479.Thì cái bãi chiến trường đã dẹp,

480.Hỏi còn đâu người đẹp người xinh!

481.Đùng đùng nổi trận lôi đình,

482.Thủy Tinh xua đám thủy binh rượt nà.




483.Tôm, cua, cá… lại ba ba nữa;

484.Lại còn sanh, còn sứa vân vân.

485.Đùng đùng gió giục mây vần,

486.Thủy Tinh hăm hở tiến quân lên ngàn.


487.Rồi cứ thế mênh mang sóng dậy…

488.Nước dâng lên, dâng mãi không dừng…

489.Chở theo tôm cá tưng bừng,

490.Cả kình cả ngạc cũng không thiếu gì!


491.Thủy binh cứ nhất tề xốc tới,

492.Quyết nhận chìm thế giới Sơn Tinh.

493.Ba đào một cuộc trường chinh,

494.Mênh mông hồng thủy, rung rinh địa cầu.


495.Có điều, nước tới đâu thì núi

496.Cũng vươn theo, vươn tới chín tầng.

497.Tha hồ nước cuộn nước dâng,

498.Ba Vì kia vẫn xanh ngần Tản Viên.


499.Cứ thế, bảy ngày đêm không nghỉ…

500.Cuộc tranh phong ngụ ý vô cùng:

501.Một, là trong cõi vua Hùng

502.Thủy tai thường trực hành hung kiếp người.


503.Vậy, để sống còn, thời dân Việt,

504.Phải vươn mình, y hệt Sơn Tinh,

505.Để mà chống chọi thủy binh

506.Để mà tồn tại nhất sinh – vạn đời!


507.Hai, là ngụ ý: người hào kiệt

508.Phải tranh tiên cho kịp bước đường.

509.Lòng thiết thạch, chí kim cương,

510.Sao cho “có được Mỵ Nương” mới là!


511.Những huyền sử sao mà phản ảnh,

512.Nghe tỉ tê như “chánh vì vương”!

513.Chuyện rằng: Phù Đổng Thiên Vương

514.Sinh từ nôi mẹ tầm thường tre mây.




515.Ba năm nhé! Chẳng hay ăn nói,

516.Cứ nằm nghe tiếng gọi quê xanh.

517.Tiếng bốn mùa đẹp long lanh,

518.Tiếng rơm tiếng rạ, tiếng vành khuyên ca.


519.Tiếng cu gáy mượt mà nắng ấm,

520.Tiếng bồ chao thấm đẫm sương khuya.

521.Ba năm bằn bặt nôi kia,

522.Hình như để đợi điều chi gọi mình!...


523.Mà quả thực như tình Phù Đổng

524.Đợi tiếng kêu trầm thống quê hương…

525.Bấy giờ, chú bé Thiên Vương

526.Nhảy ngay xuống đất, thốt luôn một lời:


527.– “Thưa mẹ, xin gọi người sứ giả

528.Tâu lên Vua Hùng ạ, cho con”…

529.Thế rồi, trang sử vàng son:

530.Một vươn vai, để cao vươn chín tầm!


531.Rồi, ngốn sạch mười mâm cơm hẩm,

532.Mười vại cà muối đậm tình quê;

533.Rồi, nhảy lên ngựa sắt kia,

534.Nhổ bụi tre lớn sum suê đầu làng.


535.Xông vào trận, hiên ngang chiến đấu,

536.Quét bụi tre, sạch dấu quân thù.

537.Lửa hờn un đúc ngàn thu,

538.Đốt tan trăm ngục ngàn tù ngoại xâm.


539.Quét xong lũ giặc Ân cường bạo,

540.Gọi là muôn một báo quân ân.

541.Thiên Vương chẳng nán lại trần,

542.Lại quay đầu ngựa, đằng vân lên trời!


543.Về đỉnh Sóc Sơn, nơi xuất xứ

544.Của Thiên Vương, như tự khai thiên.

545.Một trang huyền sử thiêng liêng,

546.Trong huyễn mà có thực, nên tuyệt vời!




547.Vì chưng, giữa cõi đời quê mẹ,

548.Có biết bao tuổi trẻ hùng anh.

549.Một đời ẩn tích mai danh,

550.Lớn lên từ đức sinh thành quê hương.


551.Từ cái đức nồi cơm cung dưỡng,

552.Với vại cà muối những giòn tan.

553.Những chàng trai trẻ Văn Lang,

554.Lớn lên như thổi để làm Thiên Vương.


555.Để nhổ bụi tre làng đuổi giặc,

556.Để cưỡi con ngựa sắt can trường,

557.Để liều thân cứu quê hương,

558.Để thôi, chả nhận huy chương cho mình!


559.Ôi những trang sử hình như huyễn,

560.Mà thực ra rất hiện thực đời.

561.Những huyền sử Việt Nam ơi,

562.Mỗi trang là một tiếng lời tả chân!


563.Có cái lớn nào “thần” hơn nhỉ,

564.Cái lớn từ nơi ý nhân dân.

565.Nhân dân là thánh là thần,

566.Là chân thiện mỹ, tuyệt trần thiên lương.


567.Là tất cả hỏa hương, hương hỏa,

568.Là cây cao bóng cả tâm linh.

569.Có nhân dân, ấy có mình;

570.Không nhân dân, ấy quyển kinh vô hồn.


571.Sao quên được những chương thần thoại:

572.Chuyện Chử Đồng Tử với Tiên Dung.

573.Chử Đồng Tử có hay không,

574.Cũng sẵn có đó, trong lòng nhân sinh.


575.Vì vũ trụ do tình mà có,

576.Mà tình thì chẳng nọ chẳng kia.

577.Chẳng gì phân, chẳng gì chia:

578.Tình là bản chất huyền vi đất trời.

579.Có tình, mới có người ta chứ;

580.Có người ta, mới có thần tiên.

581.Chử Đồng Tử hóa nên thiêng,

582.Thoạt tiên cũng tự trái tim con người.


583.Chử Đồng Tử thuở thời mới lớn,

584.Phận nhà nghèo khó tưởng nghèo hơn.

585.Trong nhà có hai cha con,

586.Mà y phục chẳng gì hơn một… quần.


587.Người thì có hai thân, quần lại

588.Có một thôi, ái ngại mần răng!...

589.“Gia bần tri hiếu tử” chăng?

590.Thôi thì hiếu tử nhường phăng chiếc quần


591.Để cha mặc. Tinh thần dẫu đúng:

592.Dẫu gì thì cha cũng cần hơn…

593.Có điều, để tránh tai ương,

594.(Nghĩa là để tránh phép vương gia hình.


595.Không mặc quần: ấy mình khiếm lễ,

596.Công xúc tu sỉ nhé! Còn chi?)

597.Vậy thì giải pháp như ri:

598.Chử Đồng Tử sẽ biến đi ban ngày!


599.Giải pháp dẫu nghe hay, mà khó:

600.Biến đi đâu cho nó… bây giờ?

601.Một là xuống vũng mò cua,

602.Hai là đào cát lấp cho kín mình.


603.Xui bữa ấy (là tình hay tội?),

604.Trong gió xuân phơi phới tơ nhung,

605.Có nàng công chúa Tiên Dung

606.Dong thuyền du ngoạn trên dòng xuân giang.


607.Tới chỗ nọ, thấy ham cảnh đẹp

608.Bèn đỗ thuyền (duyên nghiệp gì đây?).

609.Thế là giữa chốn trời mây,

610.Trên bờ cát trắng hây hây gió đàn,




611.Một phòng tắm vô vàn dã chiến,

612.Đã hình thành giữa biển trời xuân.

613.Thế rồi tiên nữ giáng trần,

614.Dầy dầy sẵn đúc khỏa thân một tòa.


615.Chuyện đáng lẽ chỉ là như thế:

616.Nàng Tiên Dung diễm lệ thần tiên,

617.Một hôm du ngoạn dừng thuyền,

618.Vây màn tắm giữa thiên nhiên một mình.


619.Nhưng thần thoại lại hình như khác:

620.Nước tẩy trần khiến cát cuốn đi,

621.Lòi ra một gã nam nhi,

622.Mình trần thân trụi khác chi… con người!


623.Sao có thể thế, trời ơi! nhỉ?

624.Người ở đâu ngẫu nhĩ dường kia.

625.Làm người ta thẹn chết đi!

626.Cơn thịnh nộ hỏi: “Sao mi dám? Hừ!”


627.Chử Đồng Tử ngắc ngư ngắc ngứ,

628.Quỳ lạy nàng công chúa đoan trang.

629.Rồi thưa thốt nỗi đoạn tràng:

630.Hai cha con vỏn vẹn mang một quần.


631.Nhường cha mặc, ấy phần con thảo,

632.Ai ngờ đâu lỗi đạo vua tôi…

633.Vân, vân… giọt lệ thay lời,

634.Nàng nghe cảm động bồi hồi lắm thay!


635.Nghĩ rằng: chắc chi đây duyên nợ,

636.Chớ chuyện chi cắc cớ dường ni.

637.Thôi thì sự cổ lai hy,

638.Đã duyên như thế, vậy thì theo duyên!


639.Trong lịch sử tam thiên giai thoại

640.Dễ có thoại nào quái hơn không?

641.Một nàng công chúa thâm cung,

642.Một chàng không khố không quần gặp nhau.




643.Chàng không khố trú sâu dưới cát,

644.Công chúa thì tắm mát ven sông.

645.Cũng vì gáo nước mai nhân,

646.Khiến cho đôi lứa nên vần trúc mai.


647.Chử Đồng Tử là ai? Thần thoại

648.Nghìn xưa còn truyền lại nghìn sau.

649.Mặc dù xuất xứ kiến sâu,

650.Nhưng nhân cách nọ khác đâu phượng, rồng!


651.Chỉ một thoáng vượt dòng nghiệp dĩ,

652.Thế là vươn lên để thành… ta.

653.Một trong Tứ Bất Tử nhà,

654.Nghìn thu cùng với sơn hà trường sinh.


655.Chuyện tình ấy chuyện tình hy hữu,

656.Nhưng bên trong ẩn dấu lý chân.

657.Ấy là: trong thiên địa nhân,

658.Có cái Lý Nhất Thể đồng như như.


659.Và giai cấp dẫu dư rào cản,

660.Cũng chẳng ngăn được bạn và… tôi.

661.Vì chưng ta cũng là người,

662.Dù nàng công chúa, và tôi không quần!


663.Lại nữa: từ một chân cùng tử,

664.Nhưng biết nuôi trí lự trượng phu.

665.Biết rèn luyện văn tư tu,

666.Ắt có cơ hội ngao du mây rồng.


667.Lại nữa: tài đức không giai cấp,

668.“Có đức rồi mặc sức mà… ăn”.

669.Đời càng trải lắm khó khăn,

670.Vàng càng trui lửa càng săn chất vàng.


671.Kể tử buổi đá vàng nên ngãi,

672.Việc đầu tiên chướng ngại chính là:

673.Mối thành kiến của vua cha,

674.Rằng môn đăng hộ đối là kỷ cương.




675.Trách công chúa đạo thường chẳng giữ,

676.Con vua đi lấy đứa… không quần.

677.Vua bèn cự tuyệt tình thân,

678.Cấm công chúa dẫn phu quân về triều.


679.Thế là… từ “bọc điều công chúa”,

680.Tiên Dung thành “đôi lứa” lang thang.

681.Trải nghìn cơ cực lầm than,

682.Lấy gian nan để luyện gan thư hùng.


683.Thế rồi đúng lẽ cùng tắc biến,

684.Biến tắc thông: câu chuyện hai người…

685.Sau cơn mưa, lại sáng trời,

686.Cuối cùng, là một cuộc đời ấm no.


687.Một ngày nọ trời cho cơ hội:

688.Một khách quen tìm tới viếng thăm,

689.Rằng: “Chử quân biết hay chăng,

690.Ở nơi hải ngoại xa xăm chân trời


691.Có lắm thức cho người mua bán,

692.Có lắm điều cho bạn nhìn nghe.

693.Muốn cho tỏ mặt tu mi,

694.Chả nên ru rú làm chi xó nhà!”


695.Nghe lời khách thực là hứng thú,

696.Tiên Dung bèn cho Chử lên đường.

697.Chí trai hồ thỉ bốn phương,

698.Sao cho bạt thiệp dặm trường mới hay.


699.Chuyến buôn biển định ngày rong ruổi…

700.Một hôm, thuyền ghé cõi non thiêng,

701.Mệnh danh là đảo Quỳnh Tiên.

702.Nơi đây có một am thiền trong mây.


703.Và vị chủ am này pháp hiệu

704.Là Pháp Quang, bậc diệu thần thông.

705.Phép mầu tự tại thong dong,

706.Rong chơi vũ trụ như trong sân nhà!


707.Duyên sư đệ sao mà phong vận!

708.Trò được thầy tâm ấn… truyền tâm.

709.Lại trao hai bảo bối thần:

710.Một gậy, một nón (để vân du mà!)


711.Du hí tam muội là như vậy:

712.Một nón thêm một gậy… tình tang!

713.Vượt qua nghìn dặm giang san,

714.Một nón một gậy xênh xang bước thiền!


715.Từ sau gặp pháp duyên, họ Chử

716.Trở về nhà khai ngộ Tiên Dung.

717.Để rồi một vợ một chồng

718.Để tâm hợp giác bội trần từ nay.


719.Kể từ ấy đường mây lối gió,

720.Nẻo tế đồ sớm đó chiều đây.

721.Đi cùng nam bắc đông tây,

722.Cho tường mặt mũi xưa nay chính mình.


723.Một hôm, bất thình lình, bão nổi…

724.Giữa rừng, tuôn dữ dội cơn mưa.

725.Hai người dừng bước lãng du

726.Dùng gậy nón, tạm che mưa đêm dài…


727.Ai ngờ nón gậy, hai thần vật

728.Chợt hiển linh phép Phật kế thừa

729.Hóa ngay thành một “cung vua”

730.Với vô vàn những quạt cờ, kỳ nghi.


731.Lại nô bộc cũng vài trăm đứa;

732.Lại ngựa xe lũ khũ vài nghìn.

733.Rõ ràng một cõi thần tiên,

734.Cho sơn lâm hóa trang nghiêm kinh kỳ!


735.Khắp thiên hạ bốn bề non biển

736.Thấy khi không xuất hiện lâu đài,

737.Thì đều nô nức ghé chơi

738.Để rồi một lại đồn mười, vang xa…




739.Bấy giờ lão nhạc gia vương phụ

740.Nghe tin đồn, khó giữ bình tâm;

741.Khác nào kiến đốt ong châm,

742.Những lo cậu rể có âm mưu gì!


743.Bèn ra lịnh cấp kỳ điều động

744.Một đạo quân kèn trống lên đường,

745.Tiến ngay đến chỗ hiện trường…

746.Rằng “tiên hạ thủ vi cường” mới xong!


747.Ai ngờ đạo quân Hùng chưa tới,

748.Thành phố trên đã vội bốc hơi…

749.Nghĩa là bay thẳng lên trời…

750.Và trên “hiện địa” là nơi “hổm rày”


751.Một thành phố không xây mà dựng

752.Đã hiên ngang sừng sững nơi này…

753.Trên hiện địa ấy, giờ đây

754.Chỉ còn một vũng đầm lầy bao la!


755.Đầm Dạ Trạch, ấy là tên gọi…

756.Bên cạnh đầm, trải tới chân mây,

757.Là một bãi cát xinh thay

758.Bãi Tự Nhiên: địa phương này đặt tên…


759.Trang thần thoại xen huyền với thực,

760.Thực và huyền khó bứt nhau ra…

761.Ngày nay, ở chốn quê ta:

762.Tỉnh Hưng Yên, tên xã là Bình Minh…


763.Vẫn còn đó ngôi đền thánh Chử,

764.Với hai phu nhân nữa là ba.

765.Ngoài đền thánh thôn An Hòa,

766.Còn Đền Hóa cũng thờ ba vị này.


767.Đền Hóa tọa lạc ngay Dạ Trạch,

768.Nơi từng phen hiển hách uy linh.

769.Triều Nam đế, đất nước mình

770.Có phen đã bị Lương binh xâm loàn…


771.Bấy giờ tướng nước Nam: Quang Phục,

772.Đã đem binh trường phục nơi đây.

773.Đầm sâu thế hiểm lắm thay,

774.Giặc Lương khôn vượt đầm này tiến công.


775.Triệu Quang Phục nương đầm kháng chiến,

776.Độc mộc thuyền ẩn hiện đông tây.

777.Lấy đêm đọ sức với ngày,

778.Quần cho tối mặt tăm mày giặc Lương…


779.Cuộc đọ sức cũng trường kỳ thật!

780.Suốt ba năm nếm mật nằm gai…

781.Một hôm, cảm ứng tuyệt vời,

782.Tướng quân Triệu lập đàn trai nguyện cầu.


783.Và, cảm ứng đạo giao kỳ diệu:

784.Giữa thanh thiên yểu điệu tường vân…

785.Bỗng dưng hiện một thần nhân,

786.Cưỡi trên một cỗ rồng thần uy nghi…


787.Rồi đáp xuống một khi đài thượng…

788.Rằng: ta là thiên tướng nam phương,

789.Thấy ngươi dũng cảm trung lương,

790.Một lòng nguyện cứu quê hương Lạc Hồng.


791.Nay ta tặng móng rồng bảo bối,

792.Sẽ giúp ngươi sớm tối khải hoàn.

793.Dứt lời, thiên tướng phương nam,

794.Cưỡi rồng bay vút mây ngàn xanh khơi.


795.Tướng quân Triệu nghe lời thần dặn,

796.Bèn dốc lòng đeo đẳng cần vương.

797.Để rồi, với nguyện kim cương,

798.Cọng thêm chiếc móng long vương hộ trì.


799.Đã toàn đội nhất tề xốc tới,

800.Quét giặc Lương ra khỏi cõi bờ.

801.Để mà khẳng định thiên thư:

802.Chủ nước mình, phải là vua nước mình!


803.Đuổi xong giặc, thái bình kiến thiết:

804.Triệu tướng quân thành Triệu Việt vương.

805.Mở trang sử đẹp phi thường,

806.Trong pho kháng sử kim cương nước nhà.


807.Qua trang sử gấm hoa huyền thoại,

808.Chúng ta tìm thấy cái căn cơ

809.Trong từng chi tiết đơn sơ…

810.Ví như gậy, nón thiền sư trao người.


811.Những bảo bối nơi nơi đều có

812.Trong những trang huyền sử Đông, Tây.

813.Nhưng gậy này với nón này,

814.Là nét độc đáo tỏ bày rất riêng.


815.Thứ nhất là nói lên cái ý

816.Rằng: thần thông du hí là đây:

817.Một nón để đội trời mây,

818.Một gậy để vượt non này biển kia!


819.Ý bảo thần thông là đi tới

820.(Như không đi, sao tới được kia?)

821.Muốn đi, thì sẵn nón kia,

822.Để che mưa nắng một khi trên đường.


823.Muốn đi – vượt dặm trường hiểm trở,

824.Ắt là dùng gậy đỡ chân ta.

825.Vậy gậy, vậy nón chính là

826.Biểu tượng diệu pháp Du Già hành trang.


827.Nghe đồng vọng lời vàng thân thuộc:

828.“Hỡi chúng sinh! Thắp đuốc mà đi!”

829.Tâm người sẵn ngọc ma ni,

830.Sao không thắp đuốc lương tri lên đường?


831.Tiên Thánh Phật, đạo thường cùng một:

832.Gậy, nón kia ý rốt ráo thay.

833.Tuyệt vời phương tiện khéo hay:

834.Giúp ta thượng hạ đông tây tiến trình!




835.Chử Đồng Tử, bóng hình đại chúng:

836.Nhà vốn nghèo, nước cũng nghèo thay.

837.Nhưng dù thân phận ăn mày,

838.Bên trong vốn liếng vẫn đầy thiên lương.


839.Ví đem sánh đế vương các bậc

840.Há kém thua thực chất chút nào!

841.Mới hay tuấn kiệt anh hào

842.Vốn chung một bọc đồng bào Âu Cơ.


843.Chử Đồng Tử: đương cơ trí tuệ

844.Của Văn Lang, thế hệ Hùng Vương.

845.Khởi từ khố rách áo ôm,

846.Mà vươn lên đỉnh đế vương tinh thần.


847.Tứ bất tử: ấy chân thần thánh

848.Của Việt Nam: tự tánh như như…

849.Một đời hiển hách công phu,

850.Lại đời đời hộ quốc phù nhân dân!


851.Tứ bất tử, tinh thần Âu Lạc:

852.Một là bình đẳng các giai tầng,

853.Hai là giới tính bất phân,

854.Ấy rằng nam nữ vốn đồng tính Như.


855.Tứ bất tử: đức từ là chủ,

856.Ấy từ tâm, từ phụ, từ bi.

857.Từ bi hỉ xả đó chi!

858.Là Tứ Bất Tử, ba thì hóa thân.


859.Trong sinh diệt có chân-như-tính

860.Vốn thường hằng, thanh tịnh, như như.

861.Tịch nhiên định phận thiên thư,

862.Cõi Văn Lang khéo đại từ đại bi.


863.Dẫu sách sử chẳng ghi ra chữ,

864.Nhưng trong tâm sĩ thứ muôn người.

865.Thảy đều sinh động chói ngời,

866.Một Tứ Bất Tử tuyệt vời nhân văn.




867.Pho lịch sử ánh hằng soi rọi,

868.Lẽ huyền vi vòi vọi mang nhiên.

869.Nghìn thu công đức Tản Viên,

870.Đấu tranh chống với thiên nhiên ngặt nghèo…


871.Để giữ lấy tình yêu diễm lệ,

872.Ngời ngời chân thiện mỹ (Tiên Dung!);

873.Giữ lấy sự sống hào hùng;

874.Giữ lấy nghĩa sống thủy chung vạn đời!


875.Đức Tản Viên sáng ngời quốc tộ,

876.Dẫu thiên nhiên hùng hổ bao mươi,

877.Cũng không qua được tình người,

878.Cũng không qua được chí người Việt Nam!


879.Bên cạnh đó là chàng Thánh Gióng:

880.Chú bé thơ Phù Đổng Thiên vương.

881.Ấy là Sức Trẻ Quê Hương,

882.Liều thân giữ vững biên cương Đại Hùng.


883.Ba sức mạnh đại hùng đại lực,

884.Ba bản lai diện mục tâm linh,

885.Ẩn tàng trong những “huyền kinh”,

886.Huyền thoại tam thánh quê mình ngàn xưa.


887.Ba hình ảnh ấy, như đã nói,

888.Chở cái cao vòi vọi quê hương,

889.Bổ sung khuyết sử Hùng Vương,

890.Hàm tàng ý chí kim cương Lạc Hồng.


891.Lại chở cả vừng đông trí tuệ,

892.Cái tinh thần “nhất thể” bao dung:

893.“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

894.Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.


895.Lý bất nhị huy hoàng đến thế!

896.Chẳng có gì hai để phân ranh,

897.Để làm chủng tộc chiến tranh,

898.Để làm tôn giáo chiến tranh bạo tàn!




899.Tứ Bất Tử: những trang huyền sử,

900.Chở tâm linh bất tử Nam dân.

901.Ngoài ba vị thánh nam nhân,

902.Còn thêm một vị nữ nhân tót vời!


903.Mẫu Liễu Hạnh! Ấy người-cõi-thế,

904.Mà đồng thời: thánh-thể-thiên-cung.

905.Vì đâu có sự lạ lùng?

906.Có gì đâu, bởi vật trung hữu thần!


907.Nghĩa rằng: ở trong tâm Lạc Việt,

908.Đã sẵn mang đôi nếp Rồng, Tiên.

909.Rồng thì tự Đất mà thiêng,

910.Tiên thì thiêng nọ uyên nguyên tự Trời.


911.Mẫu Liễu Hạnh vừa người cõi thế,

912.Lại là con Thượng đế Ngọc hoàng.

913.Dẫu rằng từ cõi tiên ban,

914.Nhưng lỡ tay, rớt dạ quang bôi, thì…


915.Bởi: “Thiên võng sơ nhi bất lậu”,

916.Phải đọa đày trần cấu một phen.

917.Lỡ làng thân phận trích tiên,

918.Làm thân cỏ nội hoa hèn chút chơi!


919.Và khi đã là người cõi thế,

920.Ắt phải tòng theo lẽ âm dương.

921.Lứa đôi, phận gái lẽ thường,

922.Sinh con: lại cũng lẽ thường thế gian!


923.Chẳng những thế, còn cam phận bạc:

924.Nhận bao điều mất mát đắng cay,

925.Đúng như kịch bản đời này,

926.Làm người là phải chịu rày khổ đau.


927.Mẫu Liễu Hạnh trước sau xuống thế,

928.Đôi ba phen dâu bể phận người.

929.Mà lần nào cũng thế thôi:

930.Cũng một kiếp lệ đầy vơi đoạn trường.




931.Nhưng, dẫu trải trăm đường ngang trái,

932.Như muôn ngàn phận gái xưa nay;

933.Tuy nhiên, điểm khác biệt này:

934.Là dù trải mấy đọa đày thế gian,


935.Liễu Hạnh vẫn hiên ngang Liễu Hạnh,

936.Vẫn giữ tròn tự tánh như nhiên.

937.Ấy là bốn đức uyên nguyên:

938.Từ bi hỷ xả xinh tiên đẹp rồng.


939.Và thể hiện tấm lòng cứu khổ

940.Qua bao công đức độ quần sinh;

941.Nòi tiên lại cũng nòi tình:

942.Đòi phen giáng hạ cho mình có nhau.


943.Nơi giáng thế, trước sau ba bận:

944.Trước tiên là tại trấn Sơn nam,

945.Xã Vị nhuế huyện Đại an,

946.Con nhà Phạm lão, tên nàng: Tiên nga.


947.Nơi tái giáng sinh là Nam định:

948.Lê Giáng Tiên, ấy tính danh nàng.

949.Lấy chồng tên gọi Đào lang,

950.Ba năm duyên nợ lỡ làng trần ai.


951.Dẫu rời bỏ hình hài nhân thế,

952.Nhưng duyên trần chưa dễ phôi pha.

953.Thế là Liễu Hạnh tiên nga

954.Lại quay về cõi ta bà rong chơi.


955.Cuộc du hí tuyệt vời đến thế!

956.Đem tài hoa tuyệt kỹ thần thông:

957.Nào là hoán vũ hô phong,

958.Nào là ỷ phụng thừa long, thuận tùy!


959.Bốn tuyệt kỹ cầm kỳ thi họa,

960.Thách nàng Ban ả Tạ trung nguyên!

961.Sắc hương đẹp nghĩa thuyền quyên,

962.Làm cô hàng rượu danh truyền hồ Tây.




963.Xướng họa với các tay danh sĩ.

964.Ấy gọi rằng du hí văn chương.

965.Cùng danh sĩ Phùng Khắc Khoan,

966.Đòi phen nhấn nhá cung đàn tri âm.


967.Tứ bất tử thậm thâm vi diệu,

968.Với bao thần tiêu biểu tu mi,

969.Bây giờ thêm một nữ nhi,

970.Ấy rằng “thiên hạ mẫu nghi” tót vời!


971.Thần thoại trải bao đời thế kỷ,

972.Từ triều Lê cho chí Nguyễn triều.

973.Thịnh danh Liễu Hạnh tiên kiều,

974.Mẫu nghi thiên hạ nhiễu điều giá gương.

975.Tài sắc đã phi thường xuất chúng,

976.Lại thần thông phượng dũng long uy.

977.Đằng vân giá vũ một khi,

978.Hô phong hoán vũ khác chi phong thần.


979.Đem tài trí giúp dân giúp nước,

980.Tứ nhiếp tâm siêu vượt trần gian.

981.Nghìn thu bia đá bảng vàng,

982.Sắc phong bốn chữ, vẻ vang ba triều.


983.Mẫu Liễu Hạnh tiên kiều thượng giới,

984.Lại nữ nhi nhân giới vẹn toàn.

985.Gồm thâu tứ đức nhân gian,

986.Công dung ngôn hạnh vẻ vang tiên rồng.


987.Vừa là gái tam tòng mẫu mực,

988.Là vợ hiền thiên chức tròn vuông,

989.Lại là từ mẫu quê hương,

990.Sắt son một nắng hai sương trọn đời.


991.Mẫu Liễu Hạnh tuyệt vời như thế,

992.Vừa là con Ngọc đế phương Nam.

993.Với bao thể hiện phi phàm,

994.Lại là người, rất nhân gian như người.





995.Để cũng biết yêu, rồi biết ghét,

996.Yêu cái ngay và ghét cái gian.

997.Yêu là yêu cái Đoan trang,

998.Cái Nhân hậu, cái Đảm đang, Tinh bền.


999.Ghét là ghét cái Thiên, cái Lệch,

1000.Cái dã tâm nô dịch con người.

Cái tâm chấp chặt không rời,

Chấp tham, sân bất tận rồi chấp si.


Ấy, tất cả những gì sẵn có

Trong tâm người tự thuở khai thiên,

Gọi là tạng tánh như nhiên:

Năm mốt tâm sở dữ, hiền đan xen.


Ngần ấy thức tạo nên Liễu Hạnh,

Bậc mẫu nghi tự tánh thiên lương.

Trải bao thế kỷ tang thương,

Vẫn nguy nga một trầm hương, hương trầm.


Bên cạnh đức Quan âm Tự tại,

Đấng mẹ hiền vô ngại đại bi,

Một lời đại nguyện lâm ly,

Cứu khổ cứu nạn một khi Ba nghìn.


Thì nơi cõi Nam thiên Âu lạc,

Còn một bà mẹ khác – người hơn,

Ấy là Mẫu Liễu Sòng sơn,

Ở vùng Thanh hóa quê hương anh hào.


Đền Mẫu Liễu còn bao nơi khác,

Khắp ba miền bát ngát trầm hương.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Mẹ Việt trải rộng lòng thương quê mình.


Mùa Lễ Mẫu linh đình khắp nước,

Đẩu tháng Hai xuyên suốt tháng Hai.

Huy hoàng Lễ Mẫu Hồ Tây,

Trống chầu văn vọng Phủ Giầy gần xa.




Ôi mẫu mẹ, sao mà quen thuộc!

Như tiếng chim ột rột bờ tre,

Thơm như hương lúa chiều quê,

Xanh như thăm thẳm lời thề núi sông.


Sao cả nước cùng đồng một dạ,

Dâng hương trầm lễ tạ mẫu ơn?

Lại vì sao những triều vương,

Từ Lê đến Nguyễn vẫn thường sắc phong


Cho Liễu Mẫu thần thông quảng đại

Cái hồng danh vĩ đại mẫu nghi,

Ngàn năm công đức bền ghi?

Vì sao? ấy bởi tâm kia nguyện này.


Lòng dân tộc xưa nay vẫn thế,

Vẫn ấp ôm cái nghĩa từ bi,

Nghĩa thủy chung, nghĩa trung nghì,

Nghĩa hiếu hạnh, nghĩa tam quy, ngũ thường.


Nên có bậc tiên nương giáng thế,

Mà vẹn toàn hiếu đễ dường kia;

Lại thêm trung nghĩa ai bì,

Phò vua giúp nước một khi, trinh bền.


Lại lòng mẹ vô biên từ mẫn,

Thương chúng sinh lận đận kiếp người.

Những toàn nước mắt mồ hôi,

Những toàn cay cực, ngậm ngùi, oan khiên!


Nên dẫu kiếp trích tiên đã dứt,

Tội lỡ tay làm rớt ngọc bôi,

Một phen “trả lỗi” xong rồi,

Giáng Tiên còn luyến cõi đời Văn Lang.


Nên vẫn trốn Ngọc hoàng, ở lại,

Vẫn dùng tâm vô ngại đại bi,

Để mà cứu khổn phò nguy,

Giúp cho dân Việt một khi thoát nàn.




Nay giở tiếp những trang huyền sử,

Những sử-thi-không-chữ-không-văn.

Chỉ theo lời mẹ kể, rằng…

Thế mà xán lạn sao trăng thiên hà!


Trong những chuyện huyền mà rất thực,

Rất nhân văn, rất mực “cực kỳ”.

Có chuyện anh chàng Trương Chi,

Đẹp hơn bao áng sử thi trên đời.


Chở chuyên cả một trời tư tưởng,

Một, là tài sắc vốn… kiêng nhau.

Kiêm toàn tài sắc dễ đâu,

Được tài mất sắc: rõ câu Thừa Trừ!


Hai, là sắc dẫu dư ma lực,

Nhưng thanh nào kém bực si tâm.

Ví như Tiếng Hát Ngư Nhân,

Khéo dư ma lực xoay vần Mỵ Nương.


Bậc khuê các thiên hương quốc sắc,

Ái nữ quan tướng quốc đương triều.

Thiếu chi chúa dấu vua yêu,

Thế mà một sớm một chiều, bỗng dưng…


Một Tiếng Hát Bên Sông thoảng đến,

Chở Ba Nghìn xao xuyến nhân gian;

Chở non xanh, chở mây vàng,

Chở bao giọt lệ đoạn tràng nhớ thương.


Chở một Khối Cô Đơn băng giá,

Khối cô đơn của cả cuộc đời,

Khối cô đơn của một người,

Suốt đời chưa gặp được người tri âm!


Ôi tiếng hát! Ôi âm ôi điệu!

Sắc bất ba đào khéo nịch nhân!

Âm thanh dẫu chẳng sắc trần,

Vẫn dư ma lực níu chân con người!




Khiến cô khuê nữ nơi lầu các,

Bị âm thanh tiếng hát ngư nhân,

Làm cho mê mẩn tâm thần,

Làm cho khô héo tấm thân ngàn vàng.


Kể từ ấy, cô nàng nhuốm bệnh…

Bệnh gì đây? Thì bệnh tương tư!

Một ngày đằng đẵng ba thu,

Héo hon vóc ngọc, ngất ngư gan vàng!


Chuyện diễn biến vô vàn kịch tính:

Khi nghe con nhuốm bịnh, người cha

Vốn là tướng quốc triều ca,

Bèn cho vời “thủ phạm” là Trương Chi


Để, công chúa, một khi gặp mặt,

Lửa tương tư bỗng tắt “ngang xương”.

Rõ ràng giấc mộng hoàng lương:

Có chi đâu, bởi “đương trường mộng lang”


Chỉ là một anh chàng xấu xí,

Đôi mắt thì ti hí mắt lươn,

Cái mồm chẳng giống cái mồm,

Mà như cái mõm cô hồn ấy thôi!


Tình yêu dẫu tót vời đến mấy,

Dẫu tung hê tới bấy từng xanh;

Nhưng mà thiếu cái long lanh,

Của nhan của sắc để dành cho nhau…


Thì cũng khó giúp nhau bay bổng,

Khó giúp nhau lồng lộng mười phương.

Thế là: một tỏ “nguồn cơn”,

Và nàng ngọc nữ hết thương tức thời!


Nét kịch tính ở nơi chỗ ấy:

Khi một bên vừa “thấy” giấc mơ,

Để mà tỉnh giấc ngu ngơ,

Thì bên kia lại sa cơ mộng trường!




Ôi sắc với ôi hương tuyệt diễm!

Sao “tiên nga” đẹp đến dường kia!

Dường như tất cả Mê Ly,

Dường như tất cả Diệu Kỳ thế gian,


Đều tụ lại nơi “nàng công chúa”

Kết tinh thành Ngọn Lửa Thiêu Thân,

“Đốt thành tro” gã ngư nhân,

Ngay trong thoáng bắt gặp lần đầu tiên.


Thế là cái đảo điên vọng tưởng,

Đang từ nơi đối tượng Mỵ Nương,

Bỗng dưng “hoán vị đương trường”

Để nạn nhân lại là chàng Trương Chi!


Tắt một lời: sau khi giáp mặt,

Chàng Trương Chi bèn mắc bịnh… thương.

Để rồi khắc khoải cô đơn,

Để rồi còn mỗi một phương: tự trầm!


Rồi cái xác của ngư nhân nọ

Bỗng hóa thành khúc gỗ trầm hương.

(Ra, tình yêu có mùi thơm!)

Để rồi, định mệnh: khúc hương mộc này


Bỗng lại lọt vào tay tướng quốc,

Rồi được người thợ đục tài ba

Chạm nên một bộ ấm trà,

Để rồi định mệnh trao qua tay nàng.


Cô ái nữ của quan tướng quốc

Nhận bộ đồ trà, lộc cha ban,

Nghe lòng chi xiết hân hoan,

Bèn đem trà quý khai trương tức thì.


Ngờ đâu chén chưa kề tới miệng,

Mắt đã trông thấy hiện hình ai.

Lênh đênh một chiếc thuyền chài,

“Dặm khuya ngất tạnh mù khơi”… não nùng!




Và, ở giữa cái “khung buồn” ấy,

Giọng “mê hồn ca” lại trổi lên.

Xui nàng nhớ “giấc mơ điên”,

Khiến đôi dòng lệ triền miên vắn dài.


Và, vẫn định mệnh thôi, một hạt

Lệ tương lân bỗng lạc đường rơi

Sa vào giữa chén trà, nơi

Chàng ngư phủ đang cất “lời tương tư”.


Điều kỳ diệu quả như thơ ấy:

Hồn oan vừa mới thấy đấy thôi;

Bỗng, nhờ hạt lệ tinh khôi

Giải ngay oan nghiệp, để rồi… siêu thăng!


Chén trà thoắt mất tăm ngư phủ,

Mối oan khiên được rửa sạch làu,

Bằng giọt nước mắt nhiệm mầu,

Chứa chan lân mẫn nỗi đau chung tình!


Chuyện thần thoại mà… hình như thực!

Mà hiển nhiên rất mực tình người;

Hiển nhiên rất mực cuộc đời;

Rất mực kịch bản như trời đất kia!


Một thần thoại lâm ly đến thế!

Gói tròn bao huyết lệ nhân sinh;

Chở chuyên vẹn mối thi tình;

Dẫu bao kiệt phẩm hành tinh dễ bằng!


Ấy pho sử sao trăng nước Việt.

Nó đẹp như băng tuyết anh hoa,

Bốn ngàn năm đất nước ta,

Dệt bằng trăm trái nghìn hoa truyền kỳ!


Câu chuyện nói điều chi? Có phải

Cái so le tồn tại trần gian?

Luật thừa trừ! Nỗi trái ngang…

Được Tài mất Mệnh; lỡ làng Sắc, Hương…




Chuyện còn gửi gắm luôn một ý:

Ra trên đời, những kẻ tài hoa

Thường đem một kiếp người ta

Mà un mà đúc tinh ba tặng đời.


Ví dụ như chuyện người ngư phủ:

Dẫu tự trầm, vẫn giữ hương linh

Mãi thơm trong “khúc gỗ mình”,

Dành cho người thợ tạc xinh bộ trà.


Người dẫu thác, anh hoa cỏn mãi:

Những Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…

(Hỏi còn ai khóc Tố Như?

Bộ trà thơm đến bây giờ Trương Chi)!


Ôi thông điệp diệu kỳ như thử!

Bốn ngàn năm tình tự Việt Nam!

Dẫu không văn tự rõ ràng,

Mùi thơm bộ ấm chiên đàn mãi thơm…


Sao quên được sử chương huyền thoại,

Chuyện “quả dưa đỏ” đại hùng ca.

Nói lên đạo lý sâu xa,

Của tinh thần tự lập và tự tri.


Nói lên luật huyền vi nhân quả…

Phép trả vay, vay trả trên đời

Có gieo thì có gặt thôi,

Gieo nhân gặt quả. Lẽ trời công minh!


“Quả dưa đỏ” sao xinh đến thế!

Chẳng hề phân chia nhỉ: giống nòi.

Nòi nào cũng giống người thôi,

Việt, Hồ, Kinh, Thượng… cũng thời như nhau!


An Tiêm nọ phải đâu giống Việt,

Nhưng, cứ gì nòi Việt mới xinh.

Tam thiên, ai chẳng là mình,

Vạn vật đồng nhất thể, kinh Bụt rằng…




Cái nhìn bất nhị chăng? Đã khiến

Vua Hùng xưa yên mến An Tiêm,

Một chàng trai giống “Hồ, Phiên”,

Mà tư cách thực đáng nên yêu vì!


Bèn đón nhận một khi nghĩa tử,

Ban cho bao ân tứ hoàng gia:

Nào châu báu, nào ngọc ngà,

Lại còn phẩm tước triều ca lẫy lừng!


Với một kẻ không dưng hưởng lộc,

Khiến bao quân tàn độc tiểu nhân

Nảy lòng tật đố vân vân:

Vô ra dèm xiểm, xa gần linh tinh…


Trước cái cảnh hiển vinh rất mực,

Ví như người đúng bực tôi ngoan,

Hẳn là phải tỏ mình đang

Sống trong ân huệ vua ban nghìn trùng…


Nhưng chàng Tiêm lại không nghĩ thế…

Lại cho rằng sở dĩ mình nay

Được bao phúc lộc dường này

Ấy do cái luật trả vay, đáp đền…


Vì kiếp trước từng phen “gieo rắc”,

Nên kiếp này được gặt, thế thôi!

Một lời nói dẫu ngay lời,

Nhưng sao nghe chạm lòng người kiêu sa!


Vua Hùng, giữa lời qua tiếng lại,

Bèn nổi cơn “tự ái quân vương”:

Đùng đùng gọi “đứa vô ơn”,

Hỏi ngay cho rõ nguồn cơn thế nào?


An Tiêm cứ nghĩ sao nói vậy,

Khiến vua nghe càng thấy sôi gan.

Thế là sấm dậy, sét ran…

Lệnh truyền trục xuất ngay “chàng vong ân”!




Một chiếc thuyền bên sông đợi sẵn,

Lệnh vua truyền chẳng đặng đơn sai:

Gã kia vốn dĩ người ngoài,

Bây giờ tống cổ ra ngoài, là xong!


Sau một chuyến long đong trời biển,

Một hôm thuyền đỗ bến mục tiêu:

Ấy là một đảo hoang liêu,

Khô khan đá sỏi, đìu hiu lá cành!


Lệnh vua được thi hành tức khắc:

Chàng An Tiêm dìu dắt thê nhi,

Rời thuyền lên đảo một khi,

Bắt đầu cuộc sống trăm bề khó khăn!


Nhưng được cái dẫu rằng vướng nạn,

Nhưng chàng trai mẫn cán hiền lương,

Một lòng tin ở thiên lương,

Vẫn an nhiên trụ giữa cơn ba đào!


Vẫn cứ ngửng đầu cao, mãi mãi…

Khắc phục bao chướng ngại quanh mình.

Việc đầu tiên của nhân sinh

Là ăn, ở, mặc: quyết tình vượt qua!


Sau khi bỏ cơm gà cá gỏi,

Những món ăn triều nội cao sang,

Đối đầu hiện cảnh trái ngang,

An Tiêm chọn trái cây làm thức ăn.


Sau đó tìm cách săn tôm cá,

Lấy lửa từ trong đá nướng, đun…

No nê rồi tới tinh tươm:

Lá cây, da thú – y thường như ai!


Dẫu rời bỏ lâu đài cung điện,

Nhưng đảo hoang nào hiếm gỗ xinh,

Giúp nhau dựng “mái gia đình”…

Điểm tô, dễ kém cung đình trước nao!




Nhờ ở sức cần lao năng nổ,

Kiếp lưu đày sớm trổ xuân hoa.

Khi nên, trời cũng giúp ta:

Một hôm, có một đàn “nha” bay về


Liệng quanh đảo rồi… kỳ diệu thế!

Nhả xuống nhiều hạt bé màu đen…

Để, từ trong cát vươn lên

Những mầm xanh biếc triền miên lá cành!


Để rồi kết nụ, thành ra trái…

Những trái no tròn, thấy mà thương.

Như trái dừa, lại tròn hơn,

Lại xinh hơn, lại bóng hơn nghìn lần!


Thấy trái lạ, chủ nhân hoang đảo

Bèn dừng ngay bước dạo, săm soi…

Rồi dùng dao bủa làm đôi,

Để thấy cả một ruột ơi là hồng!


Đẹp chẳng khác ngọc đông thành tảng,

Ứa một dòng nước láng lai thơm.

Vui mừng nếm thử cao lương,

Mới hay thực phẩm thiên đường là đây!


Sau khi thưởng thức đầy một bụng,

Chàng An Tiêm hùng dũng quay về,

Với hai chiến lợi phẩm kia,

Rồi dùng dao bổ, phân chia cả nhà.


Để cùng thấy quả là phúc phận,

Ấy rõ ràng khổ tận cam lai.

Hơn thế nữa: phúc thành hai,

Sau khi đảo vắng có người ghé qua…


Rồi sau đó thành ra “đảo chợ”,

Với việc mua bán rộ dần lên.

Một bên của những thương thuyền,

Một bên của “đảo An Tiêm” rất giàu!




Với những trái dưa màu vỏ biếc,

Và bên trong là thịt thơm hồng.

Lại thêm hải sản chất chồng,

Nhờ tài kinh tế của ông chủ nhà!


Chuyện An Tiêm còn là lắm chuyện,

Xin chỉ xin kể đến đây thôi.

Như vầy, cũng đủ nói rồi…

Rằng: đây đạo lý của người Văn Lang!


Một là sống hiên ngang công chính,

Không cúi lòn dua nịnh người trên;

Hai là cần mẫn trung kiên,

Đảm đang khắc phục thiên nhiên, tự tồn!


Ba là rất thượng tôn công lý:

Luật trả vay vốn dĩ công bình.

Trăm năm trong cuộc nhân sinh,

Có vay có trả, ấy kinh thượng thừa!


Bốn là chẳng bao giờ kỳ thị…

Quan điểm kia bất nhị tót vời!

Nhân gian ai cũng là người…

Chẳng hề ngã nhĩ: mày tồi, tao sang!


Vì như thế, Văn Lang mãi đẹp,

Không phải trong chữ chép bia ghi,

Mà trong những chuyện truyền kỳ,

Lại trong cuộc sống thực thi đạo người.


Đạo sống ấy tuyệt vời nhân bản,

Nó tương ưng với vạn lời kinh,

Dạy người phép sống tâm linh:

Từ bi hỉ xả… như tình Việt Nam!


Lại dạy người tam cang tứ đức,

Là những gì rất mực thiên lương,

Những gì sẵn đúc kim cương,

Trong tim Âu Lạc kiên cường nghĩa nhân!




Nghĩa tương ưng vô ngần ý vị,

Nó giúp ta sẵn ý thêm lời.

Ý kia, ta có sẵn rồi;

Lời thì cứ việc dùng lời sẵn kia!


Tam giáo chẳng có chi sai biệt

Với bản lai Lạc Việt chi tâm.

Dẫu trong cát lỡ bụi lầm,

Vẫn thường trụ một Quán Âm tót vời!


Hội Long Hoa đợi người bao thuở…

Nơi ngã tư thập tự hành tinh.

Ấy là cõi Việt Nam mình,

Vì chưng Bát Nhã tâm kinh hương trầm…


Quán tự tại hành thâm bát nhã,

Chiếu kiến ra tất cả đều Không.

Sắc Thọ Tưởng Hành bông lông,

Dệt thành cái Thức lao lung buộc ràng…


Cho nhân thế trầm oan Khổ Ách,

Biết bao giờ rửa sạch cái tôi,

Để cho thế giới loài người

Thăng hoa lên cõi Nụ Cười Vô Dư!


Từ nơi chốn ngã tư quốc tế,

Nơi Khổ Đế sinh Đạo Đế này,

Bốn ngàn năm kiếp đọa đày,

Bốn ngàn năm nếp thơ ngây đạo tràng.


Từ trí tuệ mở mang Bát Nhã,

Những bồ đề tát đỏa Giao Châu,

Dệt bao câu chuyện nhiệm mầu,

Nói lên đạo lý cao sâu nhất thừa.


Lý Bát Bất chở vừa ý khổ:

Lẽ Sắc Không hiển lộ từng lời.

Sắc trong Không Sắc không rời,

Trong Không có Sắc, Sắc thời có Không.




Sắc tức thị Không, đồng lẽ ấy;

Không tức thị Sắc vậy: khác gì!

Sắc này bất dị Không kia…

Không kia bất dị Sắc – vì chẳng hai!


Lẽ Bất Nhị láng lai sông biển,

Thể hiện trong từng hiện thực đời.

Vì chung Là Một đấy thôi,

Trăm Con Chung Một Bọc, ngời Nhất Nguyên!


Từ thái cổ, tổ tiên ta đã

Sẵn Phật trong lòng dạ thuần nhiên.

Trong từng quả thị man thiên

Đã cưu mang một bà tiên cõi đời.


Một bà tiên rất người, rất mẹ,

Một bà tiên của lẽ công minh!

Một bà tiên rất mẹ mình,

Thương mình với cả tấm tình mẹ thương!


Ôi pho sử hiến chương Đại Việt,

Bốn nghìn năm da diết lắm thay!

Chữ kia chẳng chở lời này…

Nhưng lời lại chở tâm này chi sơ!


Mỗi truyền thuyết: một tờ lịch sử…

Cơ man truyền thuyết ngụ hồn thiêng.

Của nòi Lạc Việt Rồng Tiên

Lấy Thiên Lương để dựng nên sơn hà.


Chánh sử Việt chỉ là phần nổi,

Rất nhỏ nhoi sánh với phần chìm

Của tảng băng “cuộc Việt trình”

Ẩn tàng trong những tự tình ca dao.


Của những huyền thoại cao ý núi,

Thẳm ý sông vời vợi muôn trùng,

Trong đời mười tám vua Hùng

Với tròn vuông của bánh chưng bánh dầy.




Với cuộc chiến đấu đầy anh dũng

Của “bé thơ” Phù Đổng Thiên Vương

(Nghĩa là tuổi trẻ ngoan cường)

Chống quân xâm lược Bắc phương bạo tàn.




Lại, với những những trang huyền thoại

Về nghĩa tình ân ái phu thê…

Thủy chung biển hẹn non thề

Gói trong tích truyện tựa đề “trầu cau”.


Chuyện “Tấm Cám” từ đâu mà có?

– Trong lòng người sẵn có thiên lương

Vững tin đạo lý luân thường.

Luật nhân quả: ấy là cương lãnh đời.


Hai gương mặt đời người: thiện, ác!

Ác thì tham, thì bạc, thì thâm;

Thì đố, thì kỵ, thì sân;

Thì chước quỷ, thì mưu thần… linh tinh.


Thiện thì đẹp, thì xinh cái nết:

Một nhịn hai nhường đẹp chữ nhu;

Một niềm thiểu dục thanh tu,

Chẳng chấp nhất kẻ phàm phu lăng loàn.


Tuy chẳng chút mưu toan giành giựt,

Chung cuộc người có đức vẫn hơn…

Ví như cô Tấm “mười thương”,

Dù tiền hung: trải trăm đường khổ đau,


Nhưng hậu kiết: mai sau vẫn được

Hưởng phước lành cùng tột thế gian.

Được làm hoàng hậu quân vương,

Để nêu hạnh đức lưu phương cõi đời!


Chuyện Tấm Cám tuyệt vời công lý,

Lại tuyệt vời thi vị văn chương.

“Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng”…


Phản ảnh cái nếp chung thiên hạ…

Mấy đời dì ghẻ: quả nhân tâm!

Ái thường đi với ố, sân!

Nhường chi cũng đặng, nhường chồng khó thay!


Vốn nhân tánh xưa nay nó thế!

Yêu con chồng: hồ dễ mấy người?

Không yêu thì sự đành rồi,

Lại còn ghét bỏ, đội trời chẳng chung.


Vì kịch bản tựu trung nó thế:

Cũng do tâm đố kỵ mà ra.

Khiến trăm năm cõi người ta,

Phận bèo bao quản nước sa… Tiền đường.


Nhắc lại sử Hùng Vương thuở ấy:

Mười tám đời biết mấy hiển vinh.

Dẫu rằng sử chẳng phân minh,

Nhưng truyền thuyết mãi là kinh Lạc Hồng.




Mười tám đời vua Hùng tiếp nối,

Cho đến đời vua cuối Văn Lang,

Bấy giờ pho sử sang trang:

Thục Phán, Âu Lạc mở mang cõi bờ.


Cổ Loa thành dấu xưa còn đấy:

An Dương Vương lừng lẫy một thời.

Những ngàn năm đã qua rồi,

Cái tên Âu Lạc vẫn ngời non sông.


Âu Cơ với Lạc Long Quân nhỉ?

Tiên với Rồng kết nghĩa phu thê…

Thiên thu biển hẹn non thề,

Cội nguồn chung một chữ đề: Rồng Tiên.


Một triều đại rất nên vĩ đại,

Với móng kim quy: lẩy nỏ thần.

Mũi tên uy lực vô ngần,

Giúp cho Âu Lạc công huân rỡ ràng.


Rồi, Âu Lạc chuyển sang Nam Việt,

Với Triệu Đà hùng kiệt đa đoan;

Đã dùng kế “mỹ nhân nam”

Cho chàng Trọng Thủy cưới nàng Mỵ Châu.


Đoạn dùng kế thay châu đổi ngọc,

Tráo móng thần uy lực kim quy.

Để rồi: thần lực mất uy,

Khiến quân Âu Lạc một khi tan tành!


Truyền thuyết kể: khi thành đã mất,

An Dương Vương bèn quất “truy phong”,

Chở “con gái rượu” theo cùng,

Ý đồ tạm lánh để mong phục thù.


Nào ngờ thế sự du du thế:

Nàng Mỵ Châu theo kế lang quân,

Đã, trên lưng ngựa phụ thân,

Rắc lông ngỗng, giúp địch nhân truy lùng.


Để rồi, giữa một vùng biển cả,

Khi truy binh địch đã tới gần,

Bấy giờ, thấu rõ nguyên nhân:

An Dương Vương quyết diệt thân tức thì!


Vung kiếm báu, cướp đi mạng sống

Của đứa con cưng trứng hứng hoa;

Đoạn, quay ngược mũi kiếm, và:

Trăm năm Âu Lạc hóa ra kê vàng!


Và sử lật một trang triều đại

Với một câu chuyện trái ngang tình,

Đồng thời điểm chút u linh

Của huyền thoại với sự tình như sau:


Sau khi nỏ liên châu mất lẩy

(Tức móng rùa lừng lẫy thần thông),

An Dương, trong bước đường cùng,

Vội đưa con thoát khỏi vùng giao tranh.




Và khi giặc rắp ranh đuổi tới,

Đã thành tâm cầu gọi rùa thiêng,

Để rồi sớm được như nguyền:

Thần Kim Quy xuất hiện liền một khi


Để vạch mặt ai kia nghịch tặc,

Khiến sơn hà xã tắc long đong:

Hỏi: “nhà vua biết hay không?

Ấy cô gái núp sau lưng của người!”


Vua ngoảnh lại để rồi trông thấy

Những chiếc lông ngỗng rải trên đường

(Do cô công chúa “mười thương”

Rải ra để “báo đáp ơn sinh thành”!)


Một nhát gươm dứt tình phụ tử!

Giết xong nàng công chúa, nhà vua

Trèo lên mai của thần rùa,

Theo Kim Quy tới cõi bờ thần tiên!


Thần thoại lại kể thêm: Trọng Thủy,

Theo dấu lông ngỗng để “tìm nhau”.

Nào ngờ khi gặp Mỵ Châu:

Nàng đà nát ngọc chìm châu mất rồi!


Trọng Thủy há phải người sằng bậy,

Nỡ đi lừa cô gái mình yêu;

Chẳng qua định mệnh trớ trêu:

Lệnh cha, con phải tuân theo: lẽ thường!


Vâng lệnh của phụ vương, chàng đã

Tráo lẩy thần, triệt hạ thần cung;

Ngờ đâu, đạo hiếu dù thông,

Chữ tình lại vướng giữa vòng trái ngang!


Trước cái chết vô vàn oan nghiệt

Của người yêu – tội nghiệp do mình!

Trọng lang phách lạc hồn kinh,

Bèn đem cái chết tạ tình Mỵ Châu!




Sẵn có cái giếng sâu mé ruộng,

Trọng lang bèn nhảy xuống tự trầm.

Thế là hai kẻ tình nhân:

Một trầm bể rộng, một trầm giếng sâu!


Nước Âu Lạc bắt đầu đổi chủ:

(Nam Việt là hiệu của tân bang)

Trở thành ba quận phía Nam:

Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân tự rày…


Dù triều đại có thay có đổi,

Nhưng dân tình vẫn “đội trời chung”…*

Cũng dòng Bách Việt yêu thân,

Từ trong bọc mẹ thánh thần Âu Cơ!


Nước Nam Việt phất cờ độc lập,

Trải một thời thống nhất ấm no.

Cứ theo Tây lịch mà so:

Trước Công nguyên nọ, dư thừa hai trăm (207 TCN).


Trong khi ở Phương Nam, họ Triệu

Mở nước, dùng quốc hiệu kể trên

(Chữ đề Nam Việt cơ duyên

Cho mai sau dựng móng nền Việt Nam),


Thì phương Bắc cũng đang đổi chủ:

Bạo Tần, sau một thuở hành hung,

Cũng vừa đến lúc cáo chung,

Để cho nhà Hán vẫy vùng đế vương.


Triệt xong Tần, diệt luôn nước Sở,

Thống nhất toàn quốc độ bao la,

Lên ngôi hoàng đế Trung Hoa,

Ấy là Cao Tổ tên là Lưu Bang.


Bấy giờ, liếc mắt sang Nam Việt,

Thấy Vũ Vương hùng kiệt xưng vương,

Bèn sai Lục Giả lên đường,

Để, theo truyền thống: “ban ơn chư hầu”.




Vũ Vương sẵn chí cao khí lớn,

Tiếp sứ thần, chẳng muốn đứng lên.

Sứ thần bung nhẹ mũi tên,

Rằng: “vua gốc tích tổ tiên nơi nào?


“Nay hoàng đế ngôi cao đức cả,

“Sai sứ thần Lục Giả tôi đây,

“Đem ân đức đến nơi này,

“Để cho Nam Bắc Đông Tây thuận hòa.


“Sao Vua chẳng vui mà thụ ấn,

“Lại ra tuồng mâu thuẫn mà chi?

“Một mai mưa gió bất kỳ,

“Còn chi mồ mả, còn chi họ hàng"?”


Vũ Vương nghe, bàng hoàng tấc dạ,

Vội đứng lên, giả lả đôi lời:

“Quả nhân nay rõ lý rồi”.

Đoạn, cúi đầu nhận ấn người sắc phong!


Song, câu chuyên chưa ngưng lại đó:

Bởi, sau khi đã thụ phong rồi,

Vũ Vương còn tỏ một lời

– Nói lên hào khí của người Phương Nam.


Rằng: “Sánh với “Lưu Bang chém rắn”

Lập nên cơ nghiệp Hán bây giờ,

Vũ ta hồ dễ kém thua,

– Chẳng qua cũng tại thời cơ không đồng.


Giá ta được xưng hùng xưng bá,

Tại Trung Nguyên – dễ đã kém chi!”

Một lời sách sử còn ghi,

Liệt oanh chẳng kém sử thi anh hùng!


Năm Mậu Ngọ – sánh cùng Tây lịch

Trăm tám ba năm trước Công nguyên – (183 TCN)

Hán Cao Tổ sớm quy tiên,

Để cho Lữ Hậu chuyên quyền tác oai.




Luống nhẹ dạ nghe lời càn rỡ,

Lệnh truyền ra: cấm chợ ngăn sông,

Không cho người Hán thương nông

Được bán nông cụ sắt, đồng, vân vân…


Lệnh cấm nhắm vào dân Nam Việt,

Khiến Vũ Vương chi xiết giận hờn,

Bèn xua binh vượt biên cương,

Đánh qua quận gọi Hồ Nam bây giờ.


Và để “đáp lễ”, vua nhà Hán

Cũng lùa quân xâm phạm phương Nam.

Có điều, thủy thổ bất kham:

Hán quân vướng bịnh, đành cam rút về!


Kể từ ấy trở đi, vua Triệu

Vẫn tự xưng đế hiệu hiên ngang,

Oai hùng một cõi phương Nam:

Triệu Vũ Đế, đứng ngang hàng Bắc phương!


Sau một thuở nhiễu nhương triều chính,

Hán triều dần ổn định cơ ngơi.

Một phen Lữ Hậu lìa đời,

Cho Hán Văn Đế lên ngôi cửu trùng.


Sau khi ổn định xong quốc nội,

Bèn tìm phương thăm hỏi miền xa.

Mục tiêu trước mắt: Triệu Đà…

Sứ thần Lục Giả lại qua đã từng.


Quốc thư gởi mười phân lợi hại,

Tỏ bày điều khôn dại thiệt hơn.

Một là nhiễu điều giá gương:

Lân bang nên nhịn nên nhường mới hay…


Hai là gốc xưa rày họ Triệu,

Với mả mồ đền miếu tổ tiên –

Nói chung, thất tổ cửu huyền –

Hãy còn tọa lạc Trung Nguyên đất này…


Với lời lẽ khéo hay trau chuốt,

Tục ngữ rằng: nói ngọt lọt xương;

Bên trong cái ngọt như đường,

Lại tuồng ẩn dấu đao gươm dọa người!


Vua Nam Việt trước lời chiêu dụ,

Gẫm sức mình chưa đủ tranh phong;

Thôi thì chọn lấy chữ tòng:

Bèn cúi đầu nhận sắc phong Hán Triều.


Từ khi Triệu vâng theo Hán Đế,

Bỏ hiệu hàm Vũ Đế Nam Phương.

Đôi bên trở lại bình thường,

Giữ niềm hòa hiếu, tránh đường đao binh.


Mãi tới năm Bính Thìn thuở nọ,

Mới xảy ra biến cố, ấy là:

Triệu Vương Hùng Kiệt băng hà,

Trăm hai mốt tuổi, thọ mà cổ lai.


Bảy mươi năm trên ngai tôn chủ,

Đem đức tài giăng bủa muôn dân;

Vũ vương nức tiếng xa gần,

Quốc gia Nam Việt mười phân vẹn mười!


Vũ Vương mất, truyền ngôi cháu nội:

Tên là Hồ, tước gọi Văn Vương.

Bẩm sinh bản lãnh tầm thường,

Chẳng hề có chí tự cường, xông pha.


Gặp lúc lân bang là Mân Việt,

Nuôi dã tâm lấn hiếp láng giềng.

Xua quân xâm phạm đường biên,

Hòng dùng bạo lực mở thêm cõi bờ.


Văn Vương, trước quân thù cú vọ,

Chẳng dám xua quân đọ sức cùng;

Lại theo kế “mượn oai hùm”:

Dâng thư cầu cứu lên “ông Hán Triều”.




Hán Văn Đế, nương theo cơ hội,

Bèn cắt quân trị tội Mân Vương.

Chặt đầu thị chúng làm gương,

Rồi sai sứ dụ Văn Vương sang chầu.


Văn Vương ngại mưu sâu kế dữ,

Bèn sai con: thái tử Anh Tề,

Sang chầu Văn Đế một khi,

Làm con tin giữa kinh kỳ Trung Nguyên.


Sau một giáp sống bên trung thổ,

Mãi đến khi vương phụ băng hà,

Anh Tề mới được dung tha

Về Nam quốc, nối ngôi cha, trị vì.


Chuyện đáng nói là khi xa xứ,

Minh Vương từng cưới vợ Bắc phương.

Ấy là Cù Thị cô nương,

Sinh trai nối dõi tông đường hẳn hoi.


Và khi đã lên ngôi thừa kế,

Tất cũng phong Cù Thị cô nương,

Lên ngôi vị của “bà vương”:

Nghĩa là hoàng hậu Nam phương bấy giờ!


Và mụn con của mùa xa xứ,

Cũng lên ngôi thái tử Nam bang;

Để rồi, theo luật tuần hoàn

Khi Minh Vương mất, thì “chàng Việt lai”


Được nối nghiệp, lên ngai Nam chúa,

Hiệu Ai Vương (điềm gở đây chăng?)

Lên làm vua được một năm,

Bấy giờ Hán sứ qua thăm Nam triều.


Cái chuyện đáng trớ trêu, ấy chuyện:

Gã sứ thần được tuyển sang Nam

Lại là cái gã tình lang

Của nàng Cù Thị lúc đang ở Tàu!




Tình cũ lại gặp nhau (khéo nhỉ!),

Gã sứ thần Thiếu Quý lần khân

Gặp nàng Cù Thị “cố nhân”,

Bèn tái bản mối gian dâm duyên thừa.


Lại nhân đó, thừa cơ Thiếu Quý

Mượn việc tư thủ thỉ việc công:

Rủ rê Cù Hậu vô luân

Đem nước Nam Việt mà dâng cho Tàu.


Bấy giờ, đứng hàng đầu triều chính

Có lão thần trung chính Lữ Gia.

Một phen cẩn trọng dò la,

Thấu được chước quỷ mưu ma mụ Cù.


Bèn khai hỏa diệt trừ mầm loạn,

Triệt sạch bầy gian đảng, rồi tôn

Người con trưởng của Minh Vương

Lên ngôi Nam đế, bảo tồn quốc gia.


Con trưởng ấy tên là Kiến Đức,

Lên ngôi vua được một thời gian,

Thì quân Hán đã tràn sang,

Với Phục Ba Bác Đức làm tướng quân.


Quân xâm lược ầm ầm tiến đánh,

Lấy chủ trương đánh mạnh đánh mau.

Ra quân một trận phủ đầu,

Đánh cho Nam Việt trước sau tan tành.


Lữ Gia, lực chẳng kham, bỏ chạy…

Để cuối cùng, tướng bại, quân vong.

Vua tôi trong bước đường cùng,

Thảy đều bị lũ Hán quân bêu đầu!


Kể từ đấy non sầu nước thảm

Đắm chìm trong quốc nạn vong nô.

Nguy nga Nam Việt cơ đồ

Thoắt thành châu quận ông vua nước Tàu.




Lịch vong quốc bắt đầu Nhâm Ngọ,

Chuyển sang năm Giáp Ngọ ấy thời

Quang Vũ nhà Hán trên ngôi,

Sai Tô Định sang trị người nước Nam.


Gã Tô Định gian tham bạo ngược,

Xem dân mình như rác như rơm;

Lại giết Thi Sách hiền lương,

Khiến cho giọt nước cuối tràn miệng ly.


Khiến Trưng Trắc cực kỳ căm phẫn,

Bèn đứng lên trả hận cho chồng.

“Bà Trưng quê ở Châu Phong,

Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên”.


Chị em nặng lời nguyền nương tử…

Cưỡi đầu voi, quyết rửa sạch thù.

Hồng quần nhẹ bước chinh phu,

Đuổi phăng Tô Định, tiếp thu sơn hà.


Chiến công dựng một tòa hiển hách:

Sáu mươi lăm thành quách về tay.

Khởi quân từ cõi Ngàn Tây,

Để xây đế nghiệp nơi này: Mê Linh!


Ôi trang sử quang vinh nước Việt!

Khẳng định bình đẳng thuyết nhân sinh.

Nữ, nam chung một Cõi Mình:

Chia đồng trí tuệ, thông minh, tâm hồn.


Chia đồng cả can trường chí khí,

Cái làm nên dũng sĩ xưa nay.

Xét trong trang sử Đông Tây,

Dễ ai hiển hách cho tày Bà Trưng.


Có điều là tựu trung nhân lực

Cũng khó bề vượt được thời cơ.

Xét theo Thế, Vận bấy giờ,

Trưng Vương dễ chuyển nước cờ được sao!




Nên khi Hán quân ào ạt đến,

Do Phục Ba Mã Viện cầm binh;

Là tay lão tướng trường chinh,

Lại thêm hàng vạn tinh binh dạn dày.


Thì Trưng Trắc, dưới tay vốn chỉ

Có một đoàn quân bé tí teo,

Chưa từng trận mạc bao nhiêu:

Đã non tập luyện, lại nghèo mưu mô…


Nên chỉ thử sức sơ đôi trận,

Quân Trưng Vương đã tận lực rồi.

Mặc tình quân Hán đua bơi…

Ngói tan, trúc chẻ, rã rời quân ta.


Vỡ mặt trận, Hai Bà tháo chạy

Đến Hát Môn, cùng nhảy xuống sông.

Một dòng sông Hát mênh mông:

Ấy mồ chôn xác tiên long Hai Bà!


Mã Viện chẳng những là danh tướng

Giỏi điều binh khiển tướng chinh xâm,

Lại còn giỏi việc trị dân…

Sau khi diệt được đạo quân Hai Bà,


Bèn tiếp tục xông pha bình định,

Thiết lập nền hành chính chỉn chu.

Mục tiêu là dựng lao tù

Trói trăn dân Việt ngóc đầu, chẳng cho…


Lại dựng ở Giao Châu phủ trị –

Nơi trung tâm đô thị Mê Linh –

Một trụ đồng – chỗ phân ranh,

Khắc lên sáu chữ rành rành như sau…


Rằng: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”.

Sử chép rằng: người Việt qua đây,

Ai ai cũng tiện tầm tay,

Ném một hòn đá nhằm ngay trụ đồng.


Cứ năm tháng chất chồng như thế…

Cây trụ đồng của kẻ xâm lăng

Cứ chìm dần đến mất tăm,

Dưới muôn viên đá cứ tăng dần dần.


Thế mới biết rằng dân Giao Chỉ,

Dẫu gặp cơn suy bỉ vong nô…

Mặc dù bão táp gió mưa,

Vẫn không quên mảnh dư đồ Việt Nam…


Qua việc dân ta làm buổi ấy,

Đủ nói lên cái đại thành tâm:

Dẫu cho cát lỡ bụi lầm,

Vẫn nguyên một khối đồng tâm tuyệt vời!


Lại nhắc lại cái thời Hán thuộc,

Cái nỗi đau mất nước tan nhà.

“Trăm năm trong cõi người ta”,

Có chi tủi cực hơn là nô dân…


Bọn xâm lược mười phân độc ác,

Coi dân mình như rác như rơm,

Kiếp trâu ngựa còn sướng hơn

Kiếp nô dân dưới ách cường đạo kia!


Kiếp tôi đòi kéo lê thê mãi,

Chẳng mong gì thấy lại ngày vui

Của kiếp người được làm người:

Sống đời độc lập, vui đời tự do.


Mãi cho tới đời vua Linh Đế…

Trải rất nhiều thế hệ, Nam dân.

Dẫu cho đèn sách chuyên cần,

Dẫu cho đỗ đạt mười phân vẹn mười.


Vẫn mỗi phận làm tôi làm tớ,

Chẳng bao giờ được đỡ nâng lên

Thành quan chức thuộc chính quyền,

Để có cơ hội “làm nên” với đời.


Mãi cho đến, như lời đã kể,

Tận đời vua Minh Đế, bấy giờ

Hán triều mới nới tay cho

Để dân Nam Việt được thừa “long ân”.


Thoạt đầu có một ông Lý nọ,

Được phong làm thứ sử Giao Châu.

Rồi lần lượt trước rồi sau,

Chức quan thái thú lọt vào tay dân.


Lại nói, cuối đời Đông Hán ấy,

Lửa loạn ly bùng dậy bốn phương

Bấy giờ ở chốn Nam phương,

Có quan thái thú đường đường chính nhân.


Sử chép họ tên ông: Sĩ Nhiếp,

Vốn tâm vô phân biệt Bắc Nam.

Dùng tài đức trị dân an,

Khiến cho trăm họ hân hoan thái bình.


Mặc dù “ở chung quanh”, khắp chốn,

Trong phạm vi Đông Hán bấy giờ:

Thiên tai, chiến họa không bờ,

Mỗi riêng Giao Chỉ được nhờ chính ân.


Nên thuở ấy nhân dân Nam Việt

Đã gọi ông Sĩ Nhiếp trung lương

Bằng hai chữ rất kim cương,

Ấy là hai chữ: Sĩ Vương ngọt ngào.


Ông Sĩ Nhiếp chưa bao giờ được

Hán triều phong cái tước vương kia,

Nhưng ông xứng đáng mọi bề

Là vì dân gọi thế – vì chính ông!


Chẳng mấy lúc, nhà Đông Hán mất,

Trung Quốc thành tam quốc – tam phân:

Với Ngô, Thục, Ngụy đồng cân…

Và Giao Châu ở trong phần nhà Ngô.


Sau bốn chục năm dư, Nhiếp mất,

Và nhà Ngô chia đất Giao Châu

Thành hai châu quận khác nhau:

Một Giao Châu, một Quảng Châu; đồng thời


Sai quan lại các người thân tín

Sang thay người trấn nhiệm trước kia.

Bấy giờ thái thú Sĩ Huy

(Là con Sĩ Nhiếp), một khi bất bình,


Bèn vội vã đem binh kháng cự;

Tạo cớ cho thứ sử Quảng Châu

Tiến quân can thiệp vào sâu,

Dứt phăng họ Sĩ bấy lâu công trình.


Qua đến năm Mậu Thìn – (so sánh

Là năm Hai bốn tám (248) công nguyên) –

Bấy giờ Ngô chủ Tôn Quyền

Phong Lục Dận thứ sử miền Giao Châu.


Lúc bấy giờ bỗng đâu trong xứ

Thoắt nổi lên một nữ anh hào:

Ấy nàng họ Triệu tài cao,

Lại thêm chí lớn, khác nào trượng phu.


Triệu Thị Trinh: đúng như tên gọi,

Vốn tinh thần khẳng khái kiên trinh.

“Giữa đường thấy sự bất bình”

Bất ninh thọ nhục, nhất sinh ngang tàng.


Lũ xâm lược ngày càng bạo ngược,

Khiến dân lành ngày một khổ thêm.

Triệu Nương tấc dạ trinh bền:

Phất cờ nương tử, đứng lên diệt tà!


Cùng với anh ruột là Quốc Đạt,

Chiêu mộ quân, đồng loạt đứng lên,

Cưỡi voi xông xáo trận tiền,

Ra quân một trận, đảo điên quân thù.


Sử còn chép lời xưa Triệu nữ:

“Muốn đạp đường sóng dữ bể Đông,

Chém đầu kình ngạc, giao long;

Há đâu cam chịu nhục vong quốc này!”


Nhưng dẫu chí cao tày Hồng lĩnh,

Nhưng tài kia dễ sánh Tôn, Ngô.

Can trường dễ sánh mưu cơ…

Nên sau nhiều tháng tranh đua chiến trường,


Nàng Triệu Ẩu đành nhường Lục Dận,

Kéo tàn binh đến tận Bồ Điền,

(Ngày nay là xã Phú Điền)

Rồi tự vẫn, để báo đền núi sông!


Tấm gương sáng nữ trung hào kiệt,

Để gương đời tiết liệt đoan trinh

Của Nhụy Kiều Triệu Thị Trinh

Ngàn năm còn sáng như vành thu nga.


Khiến Nam Đế của nhà Tiền Lý,

Đã sắc phong Triệu Thị linh thần:

“Hùng tài trinh liệt phu nhân”…

Nghìn năm hương khói niệm chân linh này.


Năm Giáp Thân – hai trăm sáu bốn (264 TL),

Vua Ngô gom các quận thành châu;

Đặt tên Quảng Châu, Giao Châu;

Và nước ta thuộc Giao Châu bấy giờ.


Đất Giao Châu bốn mùa đói kém,

Thiên tai chiến họa đến điêu tàn;

Lại thêm quan lại gian tham,

Hút khô máu mủ dân Nam Việt mình!


“Tức nước vỡ bờ” – tình cảnh ấy

Khiến lê dân đứng dậy, vùng lên,

Dập tan “bộ máy Tôn Quyền”,

Rồi theo về Ngụy, mong yên phận hèn.


Năm Ất Dậu – hai trăm năm sáu (256 TL),

Tấn, Ngụy, Ngô xào xáo đấu tranh.

Cuối cùng, nước Ngụy tan tành,

Tấn, được thế, lại lấn giành Giao Châu.


Dân nước Việt, trước sau bao kỷ,

Cúi đầu làm nô lệ cho người…

Hết Hán, lại đến Ngô, rồi

Đến Ngụy, đến Tấn – cuộc đời ngựa trâu!


Giữa ngục tối, hầm sâu như thế,

Nếu đôi khi có vị anh hào

Đứng lên phất ngọn cờ đào…

Lạ lùng thay, vẫn trước sau, vẫn là


Những hào kiệt đàn bà, tiêu biểu:

Hai bà Trưng, bà Triệu, vân vân…

Còn như những bậc nam nhân,

Cớ sao chẳng thấy hiện thân, phất cờ?


Lại nói chuyện bấy giờ: nhà Tấn,

Theo chủ trương huyết thống vi tiên,

Bèn đưa ruột thịt anh em,

Chia nhau chấp chưởng binh quyền bốn phương.


Chính sách ấy tưởng khôn, hóa dại:

Vì, đồng bào, há phải đồng tâm?

Một khi, trước miếng đỉnh chung,

Dễ gì ai lại nhường phần cho ai?


Đồng tộc cứ miệt mài tranh chấp…

Nỗi gà nhà bôi mặt đá nhau…

Khiến cho nắng lửa mưa dầu:

“Trung nguyên” một giải nhuốm màu tóc tang!


Trước nước Tấn ngày càng loạn lạc,

Các nước miền Tây Bắc Trung Hoa,

Cũng đồng loạt đứng lên, và

Vượt trường giang, dựng sơn hà đế, vương…


Thành lập những nước Lương, nước Hán…

Gọi chung tên là loạn Ngũ Hồ

Với mười sáu nước ganh đua

Khiến cho bách tính, ô hô, điêu tàn!


Đất Giao Châu từ sang thuộc Tấn,

Vẫn vướng vào số phận như xưa.

Lũ quan lại Tấn tham ô:

Túi tham không đáy, vét vơ chẳng từ.


Thì số phận vong nô nó thế!

Có gì nghe nghịch nhĩ, đúng không?

Than ôi nòi giống Lạc Hồng,

Những ngàn năm lẻ còn trong mộng thì.


Lại còn nỗi trong thì khô kiệt

Vì lũ tham quan xiết cổ dân;

Ngoài còn vướng nạn cuồng xâm

Của giặc Lâm Ấp tiến công biên thùy.


Thân phận một nước khi đã mất

Chủ quyền rồi, ắt mất tự do.

“Gánh vàng đi đổ sông Ngô”…

Còn đâu cuộc sống ấm no Lạc Hồng!


Bốn hai mươi đến Năm tám tám (420-588)

Ấy là thời chính trạng Trung Hoa

Chia làm hai cõi: gọi là

“Nam Triều và Bắc Triều” – mà phương Nam


Thì do Tống, Tề, Lương nối trị…

Còn Bắc thì có Ngụy, Tề, Chu…

Lúc bấy giờ đất Giao Châu

Nằm trong móng vuốt diều hâu Nam triều.


Thời Bắc thuộc có nhiều Thứ sử

Nhưng chẳng tên nào dữ dằn như

Cái tên Thứ sử Tiêu Tư

Sang Giao Châu để đầu tư đất này.


Tức nước ắt có ngày bờ vỡ:

Chân lý kia, tục ngữ nói rồi.

Khổ đau dồn đến bao đời…

Hận thù dồn đến bao đời, xung thiên!


Và một cuộc vùng lên, đứng dậy…

Ắt tới ngày phải xảy ra thôi!

Và ngày ấy tới đây rồi:

Một người đạp đất đội trời: Lý Bôn!


Năm thứ bảy đời Lương Vũ Đế,

Đất Phong Châu có vị hùng anh.

Thấy dân lâm nạn, khôn đành:

Phất cờ khởi nghĩa, chiếm thành Long Biên.


(Lý Bôn dẫu tổ tiên người Hán

Song đã thành dân bản xứ ta.

Bảy đời hợp chủng kinh qua…

Uống chung nguồn nước nên là Việt nhân.)


Sau khi quét sạch quân xâm lược,

Lý lên ngôi, dựng nước Vạn Xuân.

Một niềm vệ quốc trì dân,

Những mong Nam Việt vạn xuân như nguyền.


Chỉ tiếc nỗi cơ duyên chưa đủ:

Thời thế cơ còn ở tay người.

Lên ngôi chưa được tròn ngôi,

Từ năm Giáp Tý, đứng ngồi chưa yên…


Sang Ất Sửu đã liền gặp biến:

Quân nhà Lương đã tiến binh sang,

Ầm ầm đổ xuống phương Nam:

Vạn Xuân chưa đủ thời gian trưởng thành.


Lũy chưa đắp, lại thành chưa vững;

Binh chưa tinh, lại tướng chưa tường.

Hạt, mầm chưa đủ mùa ươm,

Lấy chi gặt đặng quả hườm, chín cây!...




Lý Nam Đế dẫu đầy tâm huyết

Vẫn khôn ngăn được việc Lương binh

Vượt biên sang đánh nước mình,

Bèn cam bỏ đất Long Biên kinh kỳ…


Rồi tuần tự rút về Yên Lãng…

Giặc thừa cơ, vây hãm Lưu Ninh.

Lý Nam Đế lại lui binh

Về Tân Dương thuộc Vĩnh Yên bây giờ.


Quân Lương lại thừa cơ đuổi đánh…

Trước kẻ thù quá mạnh, quân ta

Lại lui về tận miền xa

Nơi hang cùng núi thẳm là Khuất Liên.


Rồi Nam Đế lại giao quyền bính

Cho một trang tướng lĩnh tài ba

Đã từng trận mạc xông pha

Ấy Triệu Quang Phục – danh mà trứ danh.


Triệu Quang Phục thông minh hãn thế.

Đã điều binh theo “kế địa hình”:

Chọn đầm Dạ Trạch U Minh…

Đầm lầy, bãi sậy – dựng thành mật khu.


Ấy nơi thực mà hư – chen lẫn;

Đoản mà trường – bất tận binh thư.

Lấy dật mà đãi lao: dư!

Lấy bốn lạng để chở vừa ngàn cân!


Mượn địa hình như chân như giả,

Quần Lương binh tơi tả nhiều phen.

Minh thương ám tiễn bõ bèn,

Quần cho tướng giặc Bá Tiên tơi bời.


Binh Quang Phục ngày thời ẩn nấp,

Tối dùng thuyền độc mộc tiến công.

Cướp lương của giặc mà dùng…

Đánh hoài chẳng mệt, quân không thấy mòn.


Năm Mậu Thìn năm trăm bốn tám (548 TL)

Chốn Khuất Liên, ngày tháng nương thân…

Lý Nam Đế chợt từ trần,

Để ngôi cho Triệu tướng quân trị vì.


Triệu Việt Vương từ khi lâm chiến,

Dẫu cậy vào thế hiểm đầm sâu

Để cầm cự được bấy lâu…

Vẫn chưa đuổi được quân Tầu xâm lăng.


May gặp lúc đất bằng nổi sóng :

Triều nhà Lương thoắt bỗng lâm nàn –

Tại tên Hầu Cảnh hung tàn,

Đang mưu sự cướp ngai vàng đương kim…


Nên phải triệu Bá Tiên về gấp,

Thành thời cơ giúp rập Triệu Vương :

Chẳng cần dốc sức đuổi Lương,

Mà Lương binh đã tìm đường rút êm.


Thế là quả Hoàng thiên bất phụ :

Triệu Vương bèn nương tựa thời cơ

Xua quân như gió cuốn cờ,

Quét tan quân giặc khỏi bờ cõi ta.


Và thu cả sơn hà một mối,

Cho Long Biên mở hội mây rồng :

Cờ vàng phấp phới thanh không…

Phục hồi xã tắc, thỏa lòng ước mơ.


Nhắc lại chuyện của vua Nam Đế :

Kể từ khi thất thế mai danh…

Bấy giờ còn một người anh

– Lý Thiên Bảo – lại đem binh sang Lào


Dẫn theo một đồng bào: Phật Tử,

Rồi lập vương quốc ở quê người;

Và khi Thiên Bảo mất rồi,

Thì Phật Tử lại nối ngôi Lý triều.


Khi Triệu Vương lập nhiều công trận;

Đuổi giặc ngoài, tuyệt hận vong nô,

Thì Phật Tử, khát ngôi vua,

Dẫn binh hòng chiếm cơ đồ Triệu Vương.


Một vài trận tranh cường thử lửa:

Thắng không xong, Phật Tử xin hòa.

Triệu Vương trung hậu, hiền hòa,

Nghĩ tình Nam Đế – từng là chúa tôi.


Bèn chia nước cho ngươi Phật tử:

Lấy Ô Diên làm chỗ phân ranh.

Lại còn gả ái nữ xinh

Cho Phật Tử để kết tình thông gia.


Nào ngờ Phật Tử là đứa ác,

Vẫn bình sinh thèm khát ngôi vua.

Nên dù được lắm tiên cơ,

Vẫn lăm le sẵn mưu mô hại người.


Và việc phải tới, rồi cũng tới:

Một ngày, nhân cơ hội Triệu Vương

Vi hành ở chốn tha phương,

Phật Tử bèn giở trò cường đạo ra:


Phá cung điện nhạc gia tan nát,

Rồi đem quân truy sát, rượt nà.

Triệu Vương, trước “họa trong nhà”

Đành đâm đầu xuống sông Nha*, tự trầm.

*Sông Đại Nha, nay thuộc huyện Đại An tỉnh Nam Định.


Trước cái chết mười phần thảm khốc,

Dân địa phương bèn lập điện thờ.

Tưởng công đức của người xưa:

Tấm gương nhân dũng đẹp như trăng rằm.


Điện thờ ấy ở lăng Đại Bộ,

Thuộc tỉnh Nam Định của quê mình.

Một Nam Định đẹp nòi tình,

Một Nam Định đẹp ảnh hình Văn Lang.


Từ đoạt được giang san, Phật Tử

Lên ngôi vua, đóng ở Phong Châu.

Hậu Lý triều chẳng bao lâu:

Ba mươi năm lại biển dâu đổi dời.


Ấy là lúc bên trời Trung Quốc,

Vua nhà Tùy thống nhất bốn phương;

Rồi sai đại tướng Lưu Phương

Đem quân Hăm Bảy Doanh trường chinh Nam.


Lý Phật Tử dẫu ham vương vị,

Nhưng trước bao khí thế quân thù…

Tính hèn, chưa đánh đã thua:

Chịu đầu hàng, để hạ cờ làm tôi!


Thế là cả đất trời Giao Chỉ,

Chưa nếm mùi nhân vị bao lâu,

Đã sa xuống phận ngựa trâu:

Làm tôi làm mọi cho Tàu như xưa!


Tính ra là Giao Châu lại bị

Kéo dài đời nô lệ hờn căm

Thêm ba trăm ba sáu (336) năm:

Hơn ba thế kỷ tối tăm đoạn trường!


Nhà Tùy, với Lưu Phương làm tướng,

Đã tung hoành khắp chốn phương Nam.

Sau khi hàng phục Nam Bang,

Đưa dân Việt trở lại làm nô dân,


Lưu Phương lại tiến quân thần tốc

Đánh sang miền Lâm Ấp là nơi

Quốc gia tuy nhỏ bé thôi,

Nhưng mà bạc chín vàng mười đầy kho.


Trận chiến cứ đôi co ngang ngửa:

Một bên thì cậy có hùng binh,

Một bên cậy thế địa hình…

Chiến tình dai dẳng, dân tình khổ đau.


Nhà Tùy chẳng bao lâu cũng mất:

Hăm tám năm giành giật máu xương…

Tùy xong thì lại tới Đường:

Ấy thời cực thịnh đế vương Bắc triều.


Từ Sáu một tám (618) theo Tây lịch,

Nhà Đường lên kế nghiệp làm vua.

Qua năm Tân Tỵ (621), bấy giờ

Đường Cao Tổ đã lệnh cho Khâu Hòa


Làm Đại Tổng Quản qua Giao Chỉ,

Tái lập quyền thống trị phương Nam.

Rồi chia Nam Việt ra làm

Mười hai châu, để dễ dàng trị dân.


Kể từ thuở nhân dân Giao Chỉ

Chịu dưới quyền thống trị Bắc phương,

Xét ra dẫu lắm đoạn trường,

Cũng không có thuở nào thương khó bằng!

Lũ phong kiến ba lăng nhăng thế,

Tự cho mình Ngọc đế Hoàng thiên,

Vốn là chủng tộc bề trên,

Khinh bao chủng tộc khác trên đời này!


Mỗi coi họ như bầy sâu kiến,

Trời sinh ra để hiến để dâng,

Để hầu để hạ vân vân…

Để cho bè lũ phi nhân xéo dày.


Chúng mỗi ngỡ mình đây thánh chúa,

Tự trao mình quyền của hóa công:

Tha hồ mà ngạo mà ngông,

Mà chơi bố, mà chơi ông cuộc đời!


Với cái nếp “phi người” như thế,

Lũ tham quan thống trị nhà Đường,

Đã dùng chính sách vô lương,

Mà khai mà thác máu xương dân mình.





Tức nước vỡ bờ: tình cảnh ấy

Đã gọi đời đứng dậy, vùng lên.

Vào năm Nhâm Tuất Khai Nguyên,

Có chàng trai trẻ rất nên anh hùng:


Mai Thúc Loan, quê vùng Hà Tĩnh:

Da dẻ đen, sức mạnh hơn người…

“Đội trời đạp đất ở đời”

Thấy dân khổ, bèn nhất thời đứng lên…


Cất tiếng gọi thanh niên trong xứ,

Cùng đứng lên hăm hở phất cờ.

Thế rồi, trống giục gươm khua:

Đuổi quân giặc, chiếm cõi bờ Hoan Châu!


Rồi ra sức đào sâu đắp vững,

Dựng lũy thành, quyết chống Đường binh.

Lại lập đàn khấn thần linh:

Lên ngôi báu, tự phong mình làm vua.


Mai Hắc Đế: bấy giờ gọi thế;

(Cũng vì người da dẻ ngăm đen!).

Giao Châu từ bấy nhiêu niên,

Bây giờ mới thoả chí nguyền một phen.


Ấy là chí hạo nhiên bất khuất,

Muốn sống đời độc lập tự do;

Như điều tạo hóa dành cho:

Quyền sống hạnh phúc, ấm no, như người.


Một cuộc sống tuyệt vời như thế

Chỉ có khi có được chủ quyền.

Chủ quyền của đất nước mình,

Lại chủ quyền cuộc đời riêng mỗi người.


Lại nói chuyện của Mai Hắc Đế:

Dẫu nhất thời phẫn chí, vùng lên;

Nhưng vì chưa đủ nhân duyên,

Lại chưa đủ sức kinh quyền, lược thao.


Nên, như một giấc chiêm bao đẹp:

Cái thời gian “oanh liệt nghìn thâu”

Chẳng tồn tại được bao lâu,

Khi Đường binh đã quay đầu, phản công.


Và, Hắc Đế, sức không cự lại,

Bèn bỏ thành, chạy mãi lên non;

Để rồi thác giữa cô đơn.

Ngày nay ở huyện Nam Đường, Nghệ An,


Hãy còn dấu thành hoang một thuở,

Nói lên hùng tâm của một thời;

Lại còn một miếu thờ nơi

Huyện Nam Đường, giữa núi đồi Vệ Sơn.


Lại, giữa thời nhà Đường đô hộ,

Dưới ách quan đô hộ tham tàn,

Đẩy dân xuống vực lầm than,

Sưu cao thuế nặng ngổn ngang phận người;


Bấy giờ có một người hào kiệt

Tên Phùng Hưng, lẫm liệt đứng lên:

Phá Đô hộ Phủ, cướp quyền,

Chia quân chống giữ một miền Giao Châu.


Tiếc chẳng được bao lâu, Hưng thác;

Để ba quân tan tác bọt bèo…

Cơ đồ cũng nát tan theo…

Rõ là một sớm một chiều, giấc mơ!


Phùng Hưng thác, cơ đồ cũng mất:

Ôi giấc mơ độc lập ngàn năm!

Bóng hồng bay bổng mất tăm,

Chỉ còn một bóng miếu nằm trên non.


Nhưng được cái, vẫn còn “bia miệng”:

Tấm lòng dân trăm mến nghìn thương

Bậc anh hào của quê hương

Đặt tên: Bố Cái Đại Vương – ý là


Đại vương ấy là cha là mẹ,

Thương dân như con đẻ của mình;

Những mong giải phóng dân tình,

Chỉ hiềm nỗi chí bình sinh không thành!


Thương biết mấy cảnh tình dân Việt:

Suốt ngàn năm lệ huyết nô vong.

Nỗi đau một cổ hai tròng:

Trên đe dưới búa; giặc trong, giặc ngoài.


Giặc trong: hỏi còn ai đó nữa?

Ngoài ông Trung Quốc nọ lần khân.

Bao đời đổi tướng thay quân

Mỗi chung kịch bản: lấn sân nước mình!


Còn giặc ngoài: hiện tình thuở ấy

Là giặc Lâm Ấp vậy. Đòi phen

Nước này với nước “trung nguyên”,

Đã từng xảy cuộc triền miên tranh hùng.


Quân Lâm Ấp dẫu không bằng sức

Với “trung nguyên” binh lực gấp mười;

Tuy nhiên, họ vẫn “không lùi”:

Cứ lấy thế đoản mà chơi thế trường.

(Lấy thế nhu đối thế cương,

Lấy thế nhược đối thế cường vân vân…)


Sau một cuộc ra quân thất trận,

Qua mấy phen triều cống Bắc phương;

Sang đời Thái Tông nhà Đường,

Lâm Ấp đổi hiệu Hoàn Vương Quốc. Và


Thường xuyên tấn công qua Việt mãi;

Lại chiếm luôn Châu Ái, Châu Hoan.

Sang năm Mậu Tí, (808) nhà Đường,

Cử quân sang xứ Hoàn Vương tranh hùng…


Sau mấy trận giao phong đụng độ,

Hoàn Lương thua, bèn bỏ giang san,

Chạy về Nam – đất Quảng Nam,

Và Quảng Nghĩa - đổi hiệu sang Chiêm Thành.


Quan lại đã a hành ác nghiệp,

Khiến lương dân chi xiết thảm sầu.

Bày trò mua ngựa mua trâu,

(Mỗi đấu muối được một đầu súc sinh).


Ngoài trò bịp linh tinh đổi chác,

Tên tham quan Lý Trác nhà Đường

Còn giết tù trưởng dân Mường,

Khiến dân Mường Mán quật cường nổi lên.


Kết hợp với láng giềng Nam Chiếu,

Suốt mười năm quấy nhiễu Giao Châu.

Khiến cho đất thảm trời sầu,

Trên đe dưới búa, còn đâu nụ cười.


Lại nói chuuyện về người Nam Chiếu

Chiếu là vua; Nam Chiếu: vua Nam;

Vốn dòng tộc Thái – Vân Nam,

Thế kỷ thứ tám đời Đường Huyền Tông.


Nước Nam Chiếu xưng hùng một thuở:

Đánh Thổ Phồn, thách đố “Trung nguyên”.

Giằng co chiến sự triền miên,

Khiến dân Giao Chỉ chết trên ức người.

Trước bạo lực của người Nam Chiếu.

Vua nhà Đường năm liệu bảy lo,

Bèn sai hai chức quan to:

Cao Biền với Lý Duy Chu hai người.


Đã từng trải nửa đời trận mạc,

Lại am tường tam lược lục thao.

Tiếc rằng Lý chẳng ưa Cao:

Hạt sỏi trong chiếc giày: sao lên đường!


Nên chiến sự đã dường như thắng,

Lại gặp điều rối rắm, nên thua.

Năm lần bảy lượt giằng co,

Cuối cùng Cao mới được như ý quyền.




Từ thắng trận, Cao Biền được thưởng

Giữ chức to, chấp chưởng binh quyền.

Một tay tướng giỏi tôi hiền,

Đã hòa trên dưới, lại yên trong ngoài.


Cao Biền chẳng những tài trị quốc,

Lại còn rành kiến trúc dinh cơ.

Thành Đại La của ngàn xưa:

Trên nền tảng ấy, bây giờ: Thăng Long!


Thành xây đắp bên sông Tô Lịch,

Một kỳ công thắng tích uy nghi.

Non hai ngàn trượng chu vi,

Lại thêm cả một vòng đê bao ngoài.


Cao Biền vốn cũng người nhân nghĩa,

Đem tinh thần “đức trị” trị dân.

Cho nên thiên hạ tứ dân,

Đã tôn người ấy lên thành: Cao Vương!


Năm Ất Tỵ (875) nhà Đường đổi sứ,

Sai Cao Biền qua xứ Tây Xuyên.

Tính ra, như vậy, Cao Biền

Làm quan Giao Chỉ cũng bền mười năm.


Xét cái chuyện trầm thăng lịch sử,

Mới gẫm ra một sự lý này:

Là bao triều đại xưa nay,

Đều nằm trong quy luật này: thịnh, suy.


Hễ đã có trị thì có loạn;

Hết trị thì đến loạn – tất nhiên!

Ấy là quy luật biến thiên:

Thành - trụ song bước nhãn tiền hoại - không!


Nay hãy liếc một vòng xem thử,

Xem một vòng lịch sử Trung Hoa:

Ấy là một nước gần ta,

Một nước lớn gấp “bảy + ba” nước mình!


Và mỗi mỗi sự tình nước ấy,

Đều ít nhiều “động đậy” đến ta.

(Họ “trị” thì ta “loạn”; và

Họ “loạn” ta lại “trị” mà – trớ trêu!).


Lướt qua chuyện đời Nghiêu đời Thuấn,

Là những huyền sử tận đâu đâu.

Xét từ đời Hán về sau:

Ắt hay cái lẽ nhiệm mầu thịnh suy.


Nghiệp Hán bắt đầu khi thắng Sở,

Thắng Sở vì cậy ở nghĩa nhân;

Nghĩa nhân thì đắc nhân tâm,

Đắc nhân tâm ắt được phần làm vua.


Làm vua mãi thì sơ nhân nghĩa,

Mà thân cùng xa xỉ kiêu dâm.

Quên câu “vi bản dĩ dân”;

“Dân vi quý”, lại “quân vi khinh” mà!


Nên nghiệp Hán chẳng qua “trường trị”

Được vài ba thế kỷ huyênh hoang;

Để rồi theo luật thời gian,

Để rồi theo luật vô thường – đầy vơi…


Rồi cũng tắt – như trời tắt nắng,

Để cho đêm thăm thẳm buông màn.

Hết hưng, tới phế - tuần hoàn…

Hán triều theo đó cũng tàn theo đêm.


Để Tam Quốc nổi lên, thừa kế,

Chia làm ba nước để tương tranh.

Của chung, ai mạnh thì giành…

Mạnh gươm mạnh giáo, mạnh tinh mạnh thần.


Nghĩa là mạnh cái tâm nhân nghĩa,

Kiểu thương người như thể thương thân.

Có nhân thì đắc nhân tâm,

Đắc nhân tâm ắt được “phần trời cho”.




Cái chữ trời của Nho Phật Lão,

Cũng không xa với đạo làm người.

Cũng gần như một đó thôi:

Được lòng người, ắt được trời đoái thương.


Nên “thiên mệnh” nghe dường thăm thẳm,

Nhưng lại quan hệ gắn bó thay

Với nhân tâm: đạo lý này,

Hình thành cái gọi tam tài (ba ngôi)…


Là trời đất và người – mãi mãi…

Cứ là nhau, tồn tại bên nhau.

Phô bày hiện tượng biển dâu,

Thể hiện quy luật nhiệm mầu: phế, hưng…


Thời Tam Quốc gồm chưng ba nước:

Ngụy, Thục, Ngô – tranh cướp “ngôi trời”.

Kẻ dùng bạo lực đè người;

Kẻ thời nhân nghĩa, kẻ thời mưu mô.


Cuộc Tam Quốc chia ba chân vạc,

Với trăm muôn “chuyện ác chuyện hiền”.

Cuối cùng “đại phú do thiên”…

Tuân theo quy luật tự nhiên – ấy là:


Chẳng có ai giàu mà ba họ,

Chẳng có ai khó cả ba đời.

Phế hưng, chuyện của cuộc đời:

Hễ cùng tắc biến, biến thời tắc thông…


Rồi thông lại sinh cùng – cứ thế…

Ấy chuyện Tam Quốc Chí đổi đời.

Ngụy tàn để Tấn lên ngôi:

Giao Châu lại thuộc về ngươi Tấn này.


Cứ như thế, vần xoay nhật nguyệt…

Vần xoay theo lực nghiệp đa đoan…

Giờ đây, trở lại thời gian

Khi Cao Biền bỏ địa bàn Giao Châu.




Bấy giờ, ở bên Tầu (Trung Quốc),

Lại xảy ra cơn lốc tranh giành.

Hỡi ơi con Tạo đành hanh,

Cái lộc đỉnh ký nó hành hạ nhau.


Năm Đinh Mão (sáu trăm lẻ bảy),

Khi nhà Đường để sảy kim âu.

Một “nền Thiên Mệnh” gồm thâu.

Bỗng dưng lại rã rời nhau để thành


Năm nước lẻ tranh giành ngôi đế

Gọi là đời Ngũ Quý, như sau:

Hậu Lương, Đường, Tống, Hán, Châu…

Năm mươi năm lẻ tranh nhau ngai vàng.


Khi phương Bắc còn đang vận bỉ,

Thì phương Nam gặp “kể như hên”.

Ấy vì trong cảnh đảo điên,

Có ông họ Khúc quê miền Hồng Châu.


Vốn là một phú hào trong xứ,

Sống ở đời lấy chữ khoan dung.

Gặp khi thế “chẳng đặng đừng”

Châu Tuyên (Đường) bấm bụng phong ông làm


Tiết Độ Sứ Đổng Bình Dương Sự,

Quyền trông nom cả xứ Giao Châu.

Đăng đường chưa được bao lâu,

Khúc Thừa Dụ đã về chầu tổ tiên.


Con Thừa Dụ có tên Khúc Hạo,

Lên thay cha lãnh đạo Giao Châu.

Quyết lòng tính việc dài lâu,

Dựng cờ độc lập mưu cầu tự do.


Khúc Hạo mất, truyền cho Thừa Mỹ…

Trong mười năm chuyển vị ba lần.

Thế rồi, Nam Hán lấn sân:

Xua quân diệt Mỹ, tranh phần Giao Châu.


Dương Đình Nghệ, tướng hầu Khúc Hạo,

Dấy binh năm Tân Mão, diệt thù;

Rồi thay họ Khúc làm “vua”,

Tự xưng Tiết Độ Sứ bờ cõi Nam.


Dương Đình Nghệ há cam làm “Sứ”,

Những muốn làm vua ở phương Nam.

Tiếc rằng chưa đủ thời gian:

Nửa đường đã bị tôi gian hại đời.


Kiều Công Tiễn, tên ngươi phản chủ -

Giết chủ rồi hăm hở lên ngôi.

Cũng may còn có một người…

Một người trung nghĩa, một người hùng anh:


Ngô Vương Quyền, chính danh người đó…

Vốn là danh tướng của Dương quân.

Nghe tin chủ tướng từ trần,

Bèn đem quân mã tấn công họ Kiều.


Kiều Công Tiễn dẫu liều giết chúa,

Nhưng miệng hùm gan sứa lắm thay.

Thấy quân Quyền đến bao vây,

Đã co rúm lại gọi ngay ông Tầu!


Vua Nam Hán từ lâu lắm lắm,

Đã muốn sang mút chấm quê ta.

Bây giờ được cớ lê la,

Bèn cho binh mã tràn qua nước mình.


Bởi chưng Hán quyết tình đại thắng,

Nên đưa toàn nhất đẳng tinh binh.

Lại cho thái tử triều đình,

Tên là Hoằng Tháo oai danh lẫy lừng…


Làm chủ soái đùng đùng sang đánh…

Với chủ trương đánh mạnh đánh mau…

Đinh ninh sách lược phủ đầu,

Cái trò xâm lược để lâu khó thành…


Trong lúc Hán tiến hành xâm lược,

Thì Ngô Quyền dụng chước tranh tiên:

Giết ngay Tiễn giữa trận tiền,

Rồi dựng mưu cắm cọc trên Bạch Đằng.


Và dụ Hán đang hăng tiết vịt,

Đuổi thuyền theo “quân Việt vờ thua”,

Để rồi “lật ngược thế cờ”:

Gài quân Hán giữa trận đồ cọc lim.


Khi triều xuống, Hán thuyền vướng cọc,

Ngả nghiêng nằm, chiếc dọc chiếc ngang.

Hán binh lạy lục xin hàng;

Riêng Hoằng Tháo, giữa chiến tràng phơi thây.


Thắng xong một trận đầy oanh liệt,

Mở đường cho nước Việt từ đây.

Ngô Quyền xứng đáng lắm thay!

Là trang quốc sĩ dựng gầy Nam cương.


Chiến thắng của Ngô Vương mở lối

Cho những triều đại nối theo sau.

Rỡ ràng một cõi Giao Châu

Tịch nhiên định phận lầu lầu thiên thư.


Nam quốc sơn hà cư Nam Đế!

Dẫu ngàn năm lép vế Bắc phương,

Nhưng trong tâm cõi Việt thường,

Vẫn nhen nhúm chí tự cường liệt oanh.


Cái chí muốn đấu tranh để sống,

Kiếp sống hiên ngang đúng phận người.

Chân đạp đất, đầu đội trời;

Trái tim đập nhịp của người Việt Nam!


Dù lệ thuộc cả ngàn năm lẻ,

Trải kiếp người nô lệ vong thân.

Với nền đô hộ phi nhân,

Đã vừa tham lại vừa thâm lạ lùng!


Lũ thống trị tận dùng thủ đoạn

Triệt cho tiêu Việt bản hào hùng.

Sao cho giống Lạc nòi Hồng

Mất nguồn mất cội để không còn mình!


Những thủ đoạn linh tinh như thế,

Kể làm sao xiết kể, chỉ hay:

Dù bao thủ đoạn sâu cay,

Cũng không xóa được chất này Việt Nam!


Vì như thế: giữa ngàn cơ khó,

Hễ một khi “đầu ngõ tan sương”,

Tức thì con cháu Hùng Vương

Lại vùng lên, để biểu dương chính mình!


Như sự nghiệp Ngô Quyền thể hiện:

Người sinh năm tám chín tám (898) và

Mất năm chín bốn bốn (944) – là

“Tổ Trung Hưng” của sơn hà Việt Nam.


Là bộ tướng của Dương Đình Nghệ,

Lại vừa là con rể - chàng Ngô

Được trao quyền giữ Ái Châu –

Nổi danh cuộc đất công hầu bá vương.


Vốn sẵn tính khiêm nhường nhân hậu,

Từng được xem phụ mẫu chi dân.

Được lòng tín phục ba quân,

Nên khi tướng có việc cần dụng binh,


Thì tất cả tận tình hưởng ứng,

Tạo nên thành khí dũng vô song.

Đoàn quân vượt núi băng sông,

Nêu cao chính nghĩa tận trung báo cừu.


Cậy vào sức tiến như vũ bão,

Quân Ngô Vương mã đáo công thành.

Một phen chủ động tình hình,

Bố trí trận địa sẵn, dành thượng phong.


Cắm sẵn cọc dưới sông chờ địch,

Dụ quân thù bằng cách giả thua.

Rồi khi giặc lọt mê đồ

(Nằm trên trận cọc); chờ cho hạ triều…


(Nghĩa là lúc nước triều hạ xuống)

Ta bèn quay thuyền bốn mặt vây…

Đánh cho vỡ mặt tan mày

Đội quân Nam Hán bấy nay hợm mình.


Vua tôi Hán thất kinh hồn vía,

Từ ấy từ bỏ vế Nam xâm.

Bạch Đằng giang hiển sóng thần:

Hai phen phá giặc, công huân muôn đời!


Cổ Loa thành một thời vinh hiển,

Dưới triều Ngô thể hiện Nam phong.

Vận hưng, trên dưới một lòng:

Sáu năm tức vị, tiên long lẫy lừng.


Cái thời điểm oai hùng nhất đẳng,

Khi Ngô Quyền đại thắng xâm lăng:

Tính theo Tây Lịch, ấy năm

Chín trăm ba tám (938) (Bạch Đằng giang ơi!).


Cộng với sáu năm trời tại vị,

Để dấu son hùng vĩ nghìn thu.

“Nam sơn hà, nam đế cư”

“Tịch nhiên định phận”, như như tót vời!


Đau một nỗi thái rồi lại bỉ:

Thái chưa bao lăm nhỉ? Để rồi

Sáu năm tức vị ngôi trời,

Ngô Vương mất, để cho đời loạn ly.


Gẫm câu chuyện thịnh suy triều đại,

Rút mấy điều đại khái sau đây:

Một là dòng trưởng, dòng hai

(Vì vua lắm vợ, vậy thời lắm con).


Hai là: trưởng, thứ thường tranh chấp -

Ngôi vua kia đường mật lắm thay!

Ngai vàng cũng sẵn tầm tay,

Việc chi “không giở bài bây”, thử thời?


Lại nữa, cảnh sống đời vương giả:

Lỡ thấm nhuần “văn hóa đế vương”…

Quen mùi quyền lực phô trương…

Mấy ai bơi ngược triều cường lợi danh?


Mà cái lẽ tranh giành quyền lực,

Nó làm cho chuyển đục dòng trong.

Máu tham đã bén hơi đồng,

Còn chi đạo lý mà hòng “Thuấn, Nghiêu”?


Thì kịch bản Ngô triều cũng thế:

Cũng tranh giành huynh đệ nước nôi,

Cũng trò phản chúa – nghịch tôi…

Loanh quanh miệng chén thế thôi – kiến bò…


Cũng bởi thế, dù cho dân nước

Sẵn tinh thần muốn vượt trường giang

Mà vươn tới đỉnh vinh quang:

Dựng lên một nước Việt Nam hùng cường…


Dẫu dân muốn thế, nhưng triều nội

Lại chìm trong cái nỗi tương tranh;

Mãi lo đấu đá giựt giành,

Còn đâu thần lực giương danh cõi ngoài?


Cũng bởi thế mà ngai vàng nọ

Chẳng bao lăm đã “đổ cái ình”;

Và đổ theo chiếc ngai xinh,

Là giấc mơ cuộc viễn trình đăng cao!


Từ ấy, nước sa vào vận bỉ,

Mệnh danh là thập nhị sứ quân.

Rắn không đầu đã khổ thân…

Mười hai đầu? lại càng bầm dập hơn!


Trở lại chuyện Ngô vương thất lộc:

Đã có lời di chúc tỏ tường

Cho người em vợ họ Dương

Nhờ giúp con trưởng đăng đường lên ngôi…


Con trưởng ấy là Ngô Xương Ngập…

Nào ngờ khi Vương mất, Tam Kha

Đã quên lời hứa hôm qua

Truất ngay cháu xuống để mà cướp ngôi!


Thế mới biết “ngôi trời” quá “hẩu”:

Dẫu anh em, dẫu cậu cháu gì,

Một khi cờ đến tay, thì

Mấy ai ngoảnh mặt, ngơ đi cho đành.


Và Xương Ngập, bị dành vương vị,

Vội trốn đi xa để lánh nàn.

Tam Kha từ chiếm ngôi vương,

Làm cho thiên hạ bốn phương bất bình.


Cũng vì thế, nước sinh loạn lạc:

Mỗi địa phương một bác anh hào,

Chẳng anh nào chịu anh nào,

Chẳng hào nào chịu hào cao hơn mình!


Nạn thập nhị hình thành như thế,

Với những tên xin kể như sau:

Kiều Tam Chế - giữ Phong Châu;

Ấy nơi Bạch Hạc (Lâm Thao, Việt Trì).


Nguyễn Hữu Công (Thanh Trì Hà Nội);

Ngô Xương Xí (giữ cõi Triệu Sơn);

Nguyễn Khoan (giữ cõi Vĩnh Tường);

Kiều Lệnh Công (giữ địa phương Hồi Hồ).


Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt – lại

Lã Tá Công (đóng tại Tế Giang);

Cảnh Thạc (tại Đỗ Động Giang);

Nhật Khánh (tại cõi Đường Lâm) – lại còn


Lý Khuê (đóng tại vùng Siêu Loại);

Trần Lãm (miền Bố Hải – Thái Bình);

Thủ Tiệp hùng cứ (Bắc Ninh);

Thêm Phạm Bạch Hổ giữ thành Đằng Châu.


Tam Kha dẫu tranh phần ngôi báu,

Nhưng cái tình cậu cháu yêu thân,

Vẫn còn vướng vít trong tâm

Khiến Kha lại nhận Xương Văn – vốn là


Con của em gái là Dương Thị,

Làm con nuôi – chủ ý truyền ngôi.

Để cho tỏ việc đầu đuôi,

Cũng xin nói rõ một lời cho minh:


Ngập, Văn dẫu là huynh là đệ,

Nhưng từ hai bà mẹ khác nhau.

Văn là con của bà sau,

Ấy Dương hoàng hậu – là bào muội Kha.


Nên việc nhận Văn là hợp lý:

Cháu ruột mình, sẽ kế vị mình…

Xét cho thấu đáo sự tình:

Việc giành lại của cha mình… ngôi vua…


Cũng có chút nguyên do sự cớ:

Cờ đến tay ai nỡ buông tay!

Huống chi, cha ấy, con này!

Của họ Dương, sao lại rày họ Ngô?


Còn nữa: trong cơ đồ báo phục,

Dẫu có nhiều công sức Ngô gia;

Nhưng người bắn mũi tên ra

Giết Công Tiễn, lại chính là họ Dương!


Cho nên, xét tỏ tường sự lý,

Cũng thấy đôi phần để chắt chiu.

Bấy giờ, lại chuyện trớ trêu,

Là Tam Kha, lại ra điều bao dung.


Bèn ra lệnh cho ông dưỡng tử

Là Xương Văn được cử quân binh,

Rời kinh đô, tới Thái Bình

Nơi địa điểm có tình hình rối ren.


Bên cạnh Văn, có kèm hai tướng

Kha phái theo, trong hướng cẩn phòng.

Dịp may hiếm có vô cùng,

Văn bèn ngỏ ý đục trong, như vầy:


“Tiên vương vốn công dày đức cả,

“Đuổi quân thù cứu cả giang sơn.

“Chỉ hiềm quốc cữu vong ơn,

“Nỡ lòng tranh cướp ngôi vương cháu mình.


“Nay Vương lại sự sinh sinh sự,

“Cử đại binh hành xử lê dân,

“Dùng bạo lực hiếp chúng nhân…

“Chỉ e để mất nhân tâm, ắt là…


“Huống nữa phận mình là tướng sĩ,

“Như thắng thì chẳng kể làm chi,

“Nhưng muôn một, rủi thua thì…”

Văn đem lý lẽ một khi tỏ bày…


Hai bộ tướng thấu hay sự thể,

Bèn nguyện theo Văn, trở bước về.

Một phen tập kích giữa khuya,

Bắt ngay được nghĩa phụ kia – đồng thời


Là cậu ruột, đồng thời kẻ địch –

Đã phạm vào đại nghịch: cướp ngôi.

Một đầu, ba mối: hỡi ôi!

Khiến Xương Văn luống bời bời ruột gan.


Ân với oán hai đằng xen kẽ;

Thân với thù: hai lẽ khôn phăng.

Khen thay cho gã Xương Văn:

Dẫu còn tuổi trẻ, đạo hằng khá minh.


Đứng giữa cuộc u minh ân oán,

Vẫn nghĩ ra đáp án khá “người”.

Bèn đem cọng lại, chia đôi:

Phạt đứa soán nghịch, đoái ngươi có tình.


Phạt, thì hạ chức danh quốc chủ,

Từ Bình Vương ngồi ngự trên ngai;

Đoái, thì hạ chức ít thôi:

Trước là Vương, nay bị dời xuống Công!


Lại bị đuổi khỏi vùng thành nội,

Ban đất cho ở cõi ngoại thành.

Nghĩ ơn hạ thủ nương tình,

Bây giờ mình mới có mình hôm nay!


Sau đó, lệnh tìm ngay Xương Ngập,

Trở về cung cùng chấp chưởng quyền.

Một nhà Ngô lại đoàn viên,

Ấy nhờ ở bậc vua hiền, con ngoan.


Tình huynh đệ rỡ ràng cốt nhục:

Thiên Sách, danh Xương Ngập tự rày.

Anh em như thể chân tay…

Tấn Vương, danh gọi tự rày Xương Văn.


Hưởng ngôi được bốn năm, Xương Ngập

Sớm trở về cõi Phật bình an.

Triều Ngô còn mỗi Tấn Vương,

Giữa khi loạn lạc bốn phương tung hoành.


Trong các sứ, có Đinh Bộ Lĩnh

Tuổi trẻ mà sức mạnh, tài cao.

Xuất thân từ bé chăn trâu:

Động Hoa Lư, phất cờ lau lẫy lừng.


Tấn Vương đã có lần đọ sức,

Nhưng binh triều khôn vượt Đinh quân.

Nên đành một lữa hai lần,

Thoắt thôi cũng đã mười lăm năm dài.


Dẫu quen thói đoái hoài chinh chiến,

Nhưng đòi phen tính chuyện đao binh.

Tấn Vương mãi tránh Ninh Bình,

Là nơi cát cứ chàng Đinh bấy giờ!


Năm Chín sáu năm (965), từ triều nội

Tấn Vương điều binh tới Sơn Tây.

Tính bề bình định nơi đây,

Chẳng may trúng mũi tên bay trận tiền.


Thế là dứt một nền vĩ nghiệp,

Với chiến công oanh liệt Ngô Quyền.

Đuổi bầy xâm lược cuồng điên,

Mở đường cho một kỷ nguyên Đại Hùng.


Tấn Vương thác, và dòng Ngô Thị,

Mỗi còn Ngô Xương Xí lên ngôi.

Nhưng nhân lẫn lực suy rồi,

Thế là Ngô mất ngôi trời về Đinh.


Nhưng, xét cuộc hành trình Ngô Thị,

Dẫu thời gian thọ kỷ không lâu.

Hăm bảy năm: có gì đâu!

Một phần tư thế kỷ châu ngọc này…


Tuy thế, nhưng xét rày chất lượng,

Thì rõ là vô lượng anh hoa.

Rõ là Dấu Ấn nguy nga,

Nơi hai sự việc: một là chiến công


Của Ngô Quyền trên “sông Sóng Trắng” –

Bạch Đằng Giang: chiến thắng nghìn thâu.

Hai là “cái đẹp Kim Âu”

Của Tấn Vương tỏ nghìn sau gương rằm!


Thửa đức hạnh ai bằng người ấy:

Trước “kẻ thù” vẫn lấy lòng nhân…

Tội dù đáng giết mười phân,

Vẫn dư lượng cả gia ân công hầu.


Lại, ngôi báu dễ đâu ai nhượng…

Nhưng Xương Văn, tâm lượng tót vời!

Dẫu là ruột thịt mấy mươi,

Dễ ai đã để cho người “ngồi chung”.


Huống nữa, Xương Văn cùng Xương Ngập,

Dẫu là anh em thật, nhưng mà

Đâu cùng một mẹ sinh ra?

Cho nên, đức ấy quả là thánh nhân!


Thử liếc mắt nhìn sang Trung Quốc

Rồi đem so cái đức bao dong.

Như trường hợp Tống Cao Tông:

Khi song thân lẫn anh lâm tội tù


Trong tay kẻ đại thù Kim Quốc,

Mà Cao Tông nhất mực cất lời

Xin tha mỗi mẹ mình thôi,

Còn cha với lại anh thời… giả lơ!


Vì sao thế? có ngu cũng biết

Vì “đức vua ưu việt” “trung nguyên”

Ngại rằng nếu để quân Kim

Thả cha với lại anh mình một khi


Thì ắt họ sẽ về Trung Quốc,

Và ngai vàng sẽ mất về tay…

Than ôi! Biết nói gì đây?

Nước Trung Hoa với dẫy đầy thánh nhân!


Nơi “cái rốn” của chân thiện mỹ,

Với vô vàn cao quý văn minh,

Khuôn vàng thước ngọc tâm linh,

Mà sao lại sản lại sinh cho đành…


Hoặc như gã Minh Anh Tông nọ:

Bị người Minh giam giữ tù binh,

Bảy năm khổ sở linh đinh,

May nhờ Cảnh Đế tận tình cứu ra…


Và được Anh Tông ta đáp lễ

Bằng cách giết đi để cướp ngôi!

Than ôi, dẫu phận con người,

Lại con người ở trên ngôi cửu trùng.


Lại cửu trùng ở trung nguyên nữa!

Nhưng so cùng cầm thú, còn thua!

Lấy thước đạo lý mà đo:

Tấn Vương rõ đáng đem so thánh hiền.


Miêu duệ Ngô Vương Quyền: Xương Xí,

Lên ngai vàng, kế vị tiền Ngô.

Có điều lực mỏng thế cô,

Chẳng bao lâu phải rời đô, rút về


Bình Kiều, để rồi thì, rốt cuộc

Chịu nhường ngôi cho một “đế tinh”:

Ấy là tráng sĩ họ Đinh,

Tên là Bộ Lĩnh, hiệu Đinh Tiên Hoàng.


Cuộc nhường chỗ vô vàn tốt đẹp,

Cả nghĩa trong vòng kép vòng đơn.

Để rồi từ đó giang sơn,

Sớm thu một mối, kỉ cương vẹn toàn.


Năm Mậu Thìn, chín trăm sáu tám (968),

Sau một phen hùng tráng ra quân…

Đùng đùng gió giục mây vần,

Dẹp yên thập nhị (12) sứ quân nhãn tiền…


Đinh Bộ Lĩnh bèn lên ngôi báu,

Mở kỉ nguyên hùng hậu đế vương.

Tự đời xưa xửa Hùng Vương,

Đến nay mới tỏ Nam phương tự hào!


Cả Ngô Quyền phất cao cờ nghĩa,

Cũng mới xưng vương, thể chư hầu…

Rụt rè cõi đất Giao Châu,

Chửa dư sức để tranh câu Đế, Hoàng…


Nhưng đến Đinh, thì trang sử Việt

Đã ngời ngời oanh liệt đế tinh.

Đại Cồ Việt: vận trường sinh,

Đại Cồ Việt: quốc hiệu mình nguy nga…


Đại Cồ Việt: sơn hà Nam quốc…

Đinh Tiên Hoàng: đệ nhất đế vương.

Đinh triều: khẳng định Nam cương,

Mở ra cả một trùng dương Lạc Hồng.


Đinh triều mở Nam phong nhất tuyệt,

Đại hồng danh Cồ Việt nguy nga.

Lập quốc thống, dựng triều ca,

Đại thắng Vinh Hoàng đế – là hiệu xưng!


Đúc tiền đồng để dùng trong nước,

Ấy đồng tiền cổ nhất Nam phương.

Đồng tiền tròn, lỗ hình vuông.

Thái Bình Hưng Bảo: đường đường danh xưng.


Vì đã trải nghìn trùng gian khổ,

Lại trui rèn trong lửa chiến tranh,

Bản thân quen nếp bạo hành,

Nên ngay khi lập triều Đinh, Tiên Hoàng


“Lại sử dụng cái tàn cái bạo,

Để trị dân theo đạo cương thường”.

Đạo này có mãnh có cương,

Nhưng bên trong thiếu tình thương – đạo người.


Trước triều đình là nơi văn vũ,

Bá quan về hội tụ chầu vua:

Tiên Hoàng đặt sẵn (ghê chưa!)

Một vạc dầu sục sôi như… vạc dầu!


Và đặt sẵn, đối dầu với vạc:

Một cái chuồng đĩnh đạc oai phong;

Và hùng hổ ở bên trong,

Là cả một chúa sơn lâm gầm gừ!


Sao giữa chốn triều vua đài các,

Lại có chuồng với vạc hăm he?

Thì ra vạc ấy chuồng kia,

Thể hiện chính sách Dùng Uy Trị Người!


Tiên Hoàng, ở cao ngôi, ra lệnh:

“Hễ mà ai trái mệnh lệnh ta…”

Ấy là luật pháp nước nhà,

Xét cho kỹ, rõ ràng là thiếu Nhân!


Nay lại xét về phần quân sự…

Đinh triều phân quân lữ như sau:

Trước tiên, có Đạo đứng đầu;

Quân, lữ, tốt, ngũ… theo sau (nhỏ dần)…


Một Đạo có mười Quân. Cứ thế…

Cuối cùng: Ngũ, tức thị mười binh.

Nhân lên, sẽ rõ quân tình:

Đại Cồ Việt có “nông binh”: triệu người!


Ấy chính sách bình thời nông vậy;

Chiến, thời nông được lấy làm binh.

Khéo thay! Sách lược triều Đinh,

Khiến cho tổ quốc, nhân sinh phú cường!


Lại nói sang con đường đối ngoại:

Với Bắc phương, ắt phải lấy Nhường.

(Nhún nhường âu cũng đạo Thường),

Nên triều Đinh khéo chu toàn ngoại giao.


Cho Đinh Liễn sang chào vua Tống:

Lấy lẽ chư hầu cống đế vương.

Bấy giờ nhà Tống Bắc phương,

Một khi được lễ cúng dường phương Nam,


Bèn sai sứ thần sang đáp lễ,

Phong chức là Giao Chỉ Quận Vương.

Từ ấy, giữ phận nhún nhường,

Mỗi năm triều cống Bắc phương một lần.


Gẫm mọi chuyện cõi trần đều thế:

Được vuông tròn hồ dễ mấy ai.

Ngón tay còn có vắn dài,

Ưu kia khuyết nọ tấu hài xuân thu.


Chuyện Đinh triều khuyết ưu vậy vậy,

Cũng vừa cho tung tẩy đòi phen.

Có điều, cái việc khó êm:

Đó là thứ bậc trao truyền ngôi vua.


Vì con trưởng bấy giờ: Đinh Liễn

Còn một em, mới đến Hạng Lang.

Nhưng trong tâm sự Tiên Hoàng,

Lại riêng thiên ái Hạng Lang nhất đời.


Nên đặc cách truyền ngôi thái tử

Cho Hạng Lang – nhen lửa ghét ganh.

Khiến cho trưởng thứ tranh giành,

Khúc nôi kịch bản: anh đành hại em!


Một khi chuyện không nên đã xảy,

Ắt là triều nội dấy binh đao.

Đinh triều khởi sự lao đao,

Để cho Đỗ Thích chen vào hại nhân.


Năm Kỉ Mão – chín trăm bảy chín (979),

Bỗng xảy cơn triều biến kinh hoàng.

Cả hai cha con Tiên Hoàng,

Cùng bị giết bởi kẻ gian tên là


Đỗ Thích (nhân thân là nội giám

Rất tầm thường, sao dám giết vua?

Mà dù có dám giết vua

Lấy chi đủ lực, đủ cơ tiến hành?)


Xong việc, Đỗ rắp ranh chạy trốn,

Rồi bị đền tội – muộn ba ngày.

Cuộc triều biến kể trên này

Xảy ra năm Kỷ Mão, ngay tháng Mười.




Thế rồi, cuộc “đổi đời” diễn tiến…

Một ngôi sao xuất hiện: Lê Hoàn

Gồm thâu một mối giang san.

Sáu tháng sau, sử sang trang: Lê triều.


Đinh Bộ Lĩnh mở triều nhất thống:

Mười hai năm chẵn, dựng ngai vàng.

Xét ra sự nghiệp “Tiên Hoàng”,

Có điều na ná Thủy Hoàng Bắc phương.


Một: Tiên Hoàng, Thủy Hoàng: cũng thế,

Cũng nghĩa là hoàng đế đầu tiên.

Hai: cùng tại vị ngôi trên:

Mười ba năm chẵn, chẳng thêm bớt gì!


Ba: cả hai, trước khi lên Đế,

Thì cùng mang vương vị như nhau.

Kể từ xa thẳm đời Chu,

Các vua nhất loạt dùng từ Vương thôi!


Bên phương Bắc, mãi thời Tần ấy

Mới khởi xưng Đế vậy; cũng như

Phương Nam, cho tới bấy giờ

Mới có Đinh Thị dụng từ Hoàng kia!


Bốn: Tiên Hoàng một khi tức vị,

Đã nối Quần Sơn để làm đô.

Khác chi Tần Thủy Hoàng xưa

Đã xây vạn lý thành đồ trung nguyên.


Năm: hai Đế cùng nên Hoàng Đế,

Sau khi đà bình trị bốn phương,

Gom về chung một mối giường,

Dựng nền phong kiến trung ương tập quyền!


Sáu: cùng lấy chữ Nghiêm làm sách,

Dụng nghiêm hình cưỡng bách nhân dân.

Bảy: cùng thác chẳng yên thân;

Thiên thu sự nghiệp: mộ phần cáo chung!




Đinh Tiên Hoàng tựu trung là một

Bậc anh hùng khai quốc Việt Nam.

Công lênh ngựa đá âu vàng,

Vẫn còn để dấu ấn ngàn đời sau!


Cái hình ảnh cờ lau tập trận,

Là nguồn thơ bất tận trong tim

Của ngàn thế hệ thanh niên

Mang dòng máu Việt rồng tiên anh hùng.


Đất Thái Bình lẫy lừng một thuở,

Với Hoa Lư thành cũ đế đô.

Tịch nhiên định phận thiên thư:

Nghìn năm hương khói bây giờ mãi thơm!


Mười sáu đình khói hương tưởng niệm

Trong một vùng đất hiển linh kia!

Bao nhiêu nơi chốn đi, về

Ninh Giang, Mỹ Hạ… chữ đề: Đinh Tiên…


Ngoài các đình thờ Tiên Hoàng Đế,

Còn đình thờ các vị công thần,

Đã từng theo Đế lập công,

Giúp cho nhất thống non sông một thời.


Nào đình Thụy Trà nơi Nam Sách;

Đình Kim Sơn, tọa lạc Mai Lâm;

Đình Đại Vi xã Đại Hồng…

Bao đình tưởng niệm khắp sông núi này!


Các triều đại đổi thay thay đổi:

Qua triều Đinh, thoắt tới triều Lê.

Xuân, thu một hội đi, về…

Thiên thu, cũng một chữ đề Việt Nam!


Vua Lê Hoàn quê làng Bảo Thái,

Quận Thanh Liêm; sinh tại Trường Uyên.

Thuộc Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình…

Cha mẹ nghèo, kiếp linh đinh thuyền chài…




Năm sinh: chín bốn hai (942) dương lịch,

Tính ngày ta: Nhâm Tuất, tháng Giêng.

Năm lên bảy tuổi: phận hèn,

Phải theo nghĩa phụ qua miền Ái Châu.


Khi tuổi lớn, theo hầu Đinh Liễn,

Tham dự nhiều trận chiến thành công;

Được phong Thập Đạo tướng quân,

Chỉ huy Cấm Vệ quân trong kinh thành.


Chín bảy chín (979), triều Đinh sụp đổ:

Hai cha con Đinh chúa lâm nàn.

Ngôi vua trao lại Đinh Toàn;

Lê Hoàn nhiếp chính, lo toan trong ngoài.


Bấy giờ, các bề tôi khai quốc:

Những Lưu Cơ, Nguyễn Bặc, Đinh Điền…

Thảy đều đứng dậy tranh quyền…

Nhưng Lê Hoàn đã dẹp yên tức thời.


Bấy giờ ở tận trời phương Bắc,

Nhà Tống nghe có “giặc phương Nam”.

Bèn đưa thư tới chiêu hàng,

Rằng: “mau quy phục kẻo tan nát đời!”


Trước thế nước dầu sôi lửa bỏng,

Dương Vân Nga chủ động tùy cơ.

Họp quần thần lại, thay vua:

Ai vua chả được, miễn cho nước còn!


Ấy nghĩa: “quốc phá, sơn hà tại…”

Họ vua thay, nước phải của mình!

Thế là Lê nọ thay Đinh,

Để cho xã tắc quyết sinh, vạn đời!


Tướng Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu:

Nghĩa “chí nhân quán hiếu” lẫy lừng.

Vẫn quốc hiệu như đã từng:

Đại Cồ Việt, vẫn điệp trùng quang huy!




Lẽ chính nghĩa một khi đã vững,

Lê Đại Hành quả xứng minh quân.

Cử Lạng* làm đại tướng quân,

Cùng huy động sức nhân dân diệt thù.

*Phạm Cự Lạng


Chín tám mốt (981), bấy giờ vua Tống

Cử đại quân, tướng dũng binh hăng…

Ầm ầm hai ngả xâm lăng:

Bộ Lạng Sơn, thủy Bạch Đằng… tiến lên…


Vua Lê, đích thân, liền ra trận…

Việc đầu tiên là tận dung mưu:

Dựa vào địa lợi bấy lâu,

Lại cho cắm cọc sông sâu Bạch Đằng.


Thủy triều rút, giăng giăng cọc cắm;

Thủy triều lên, bằng phẳng gương xuân.

Thế rồi, đại Tống ra quân:

Một đoàn thủy quái ầm ầm tiến sang…


Quân Đại Việt lại “làm như bại”:

Vội quay thuyền chạy mãi, chờ thua…

Chiến thuyền Tống lại thừa cơ

Xông ngay lên, phất cao cờ “đại gia”!


Thế rồi, đúng khi mà thuyền giặc

Sa vào nơi cọc sắt ta giăng;

Lại, đúng khi sông Bạch Đằng

Hạ con triều, lộ cọc giăng ngút ngàn.


Và thế là hàng hàng lớp lớp

Những con thuyền giặc “rớt” đầy sông.

Lật nhào, úp sấp thuyền không;

Và bên cạnh, lóp ngóp ông tướng Tầu!


Trận thủy chiến ngõ hầu kết thúc…

Lũ xâm lăng lúc nhúc xin hàng.

Rồi qua trận bộ, ngang tàng,

Quân ta càng đánh lại càng thắng to!


Vì hai chữ tự do, chính thế:

Trải nghìn năm nô lệ sâu cay,

Dân ta thấu đặng lẽ này:

Chẳng có chi quý cho tày tự do!


Chính vì thế, mặc cho súng lớn

Với gươm dài táo tợn Bắc phương,

Quân dân ta vẫn ngoan cường:

Liều thân giữ vững biên cương, không lùi!


Trận chiến, rốt cuộc rồi ngã ngũ:

Bên thắng là bên đủ hùng tâm

Giữ gìn hương hỏa cha ông,

Để cho con cháu tiên rồng mai sau!


Bên thua hẳn là đau hơn hoạn…

Hai đạo binh hùng tráng dường kia:

Thuyền rồng, ngựa cọp xum xuê…

Tung tăng cờ phướn, lập lòe giáo gươm…


Hùng binh thế, lại lương tướng nữa!

Những cái tên Tống sử còn ghi:

Ngoài Hầu, Trần, Tôn, Triệu kia…

Lại còn Lưu, Giả… kém chi anh hào.


Nhưng dù hách cỡ nào, tướng Tống

Trải một phen “chạm”, “đụng” quân Lê,

Cũng đành gặt hái lia chia

Những bại cùng liệt, não nề lắm thay!


Đại Cồ Việt tự ngày khai sáng,

Đến bây giờ thực đáng khai nguyên:

Một phen phá Tống bình Chiêm,

Ấy công gầy dựng ưu tiên Đại Hành.


Hăm sáu năm (26) tung hoành vĩ nghiệp,

Lê Đại Hành đem hết sức mình,

Đã lo cho nước hồi sinh,

Lại lo cho nước trường sinh vạn đời!




Phía Nam nước ta thời đại ấy

Có nước Chiêm, tồn tại từ lâu.

Thường sang quấy nhiễu Giao Châu,

Gây nên lắm cảnh biển dâu đoạn trường.


Chín bảy chín (979), theo đường hàng hải,

Chiêm tiến hành cuộc “đại trường chinh”.

Chẳng ngờ gặp bão thình lình,

Cả đoàn thuyền chiến chôn mình đại dương!


Thời điểm tấn thê-lương-kịch ấy,

Vào năm Chín bảy chín (979) vừa qua.

Còn “lý do” thảm kịch là:

Quân Chiêm qua giúp nước ta dẹp loàn!


Năm tám hai (982), Lê Hoàn bèn cử

Ngô và Từ sang sứ vua Chiêm.

Hay đâu Chiêm chúa chẳng hiền:

Lệnh đem hai sứ giam liền một khi!


Vua Đại Việt tức thì nổi giận,

Lệnh chiến thuyền đến tận Chiêm đô.

Đánh cho nát Sở chìm Ngô,

Phá tan bình địa cơ đồ Chiêm vương!


Trong hăm sáu năm trường tại vị,

Vua Lê ta chăm chỉ tiến hành

Cả và mười cuộc chiến chinh,

Dẹp yên nội loạn, mở vành ngoại biên!


Ngoài quân sự, còn thêm nông nghiệp;

Lại thủ công nghiệp cũng tu bồi.

Lễ Tịch Điền cúng đất trời,

Cầu xin Trời Đất giúp Người phồn vinh!


Lại khởi đầu công trình thủy lợi,

Tổ chức đào sông suối đầu tiên.

Giao thông thuận lợi thủy thuyền,

Lại thêm dẫn thủy nhập điền hanh thông.




Ngần ấy mở phương châm hành động,

Cho những triều kế thống về sau.

Từ triều Lê mở sông đào,

Lý Trần Lê Nguyễn dạt dào muôn sông!


Lại phải nói đầu công ngoại vụ,

Phải là triều Lê chứ chẳng ai!

Sứ nhà Tống những khen tài

Rằng Lê với Tống chẳng ai kém, nhường!


Khéo tận dụng sách phương mềm dẻo:

Mạnh thì dùng lực, yếu dùng mưu.

Giữ sao cho vẹn thư cưu,

Giữ sao cho đẹp tì hưu phận mình.


Bằng trí tuệ thông minh, linh động,

Ta đã làm cho Tống nể nang.

Giữ gìn được mối lân bang,

Bình an hai chữ ngàn vàng: đúng chăng?


Thuở ta đấu tranh bằng trí tuệ,

Trong ngoại giao – đã để dấu thơm,

Làm cho khẳng định Nam cương

Làm cho khẳng định hiến chương Nam triều.


Trong lịch sử hùng kiêu đất nước

Thuở triều Lê – có một điều này:

Đó là sự góp bàn tay

Của Phật giáo – để dựng xây mối giường.


Cho nước có kỉ cương của nước,

Cho người thêm siêu vượt tình người,

“Cho hoa tàn lại thêm tươi,

Cho trăng già lại hơn mười rằm xưa!”


Trong những áng thơ mùa dân tộc,

Thời Tiền Lê thống nhất giang sơn,

Có áng thơ đẹp thần chương,

Nói lên cái lẽ tuyên ngôn đặc thù.


Sông núi nước Nam, vua Nam ở:

Lẽ tịch nhiên định ở sách trời.

Thiên thư sẵn tự lòng người:

Ấy lời độc lập, ấy lời tự do.


Lê Đại Hành làm vua nước Việt,

Hăm sáu năm oanh liệt công trình.

Chỉ hiềm chỉ được thời sinh,

Còn như thời tử thì hình như… vong.


Vì vua khéo nối dòng dư dụ:

Mười một chàng hoàng tử, ít đâu!

Trai đầu lòng: Lê Long Thâu;

Rồi: Tích, Việt, Đĩnh theo sau; lại, và:


Câu, Tuy, Tương, Kính là sáu, bảy,

Tám, chín. Và Mang, ấy thứ mười.

Long Đề là út. Để rồi

Thêm một Hy Liễn con nuôi: chục tròn…


Tuy có cả tá con như thế,

Nhưng về đường miêu duệ nối ngôi,

Thì Lê Hoàn lại thiếu người,

Khiến cho nghiệp đế nhất thời suy vong.


Cái khuyết điểm vô cùng khuyết điểm

Của vị vua nổi tiếng đa mưu

Là khi mất đứa con đầu

(Ấy là thái tử Long Thâu – yểu phần.)


Thì vua đã sơ tâm bất quyết,

Chẳng “chính danh kế nghiệp” rõ ràng…

Tạo ra mầm mống gây loàn,

Khiến cho huynh đệ tương tàn – thất cơ!


Nghĩ tiếc một triều vua như thế:

Đã lập nên nghiệp đế Nam thiên…

Ngoài thì phá Tống bình Chiêm,

Trong thì gầy dựng mối giềng dân sinh.





Cho điển chế đẹp tình văn hiến,

Cho văn chương thể hiện quốc hồn;

Cho đỉnh trầm ngát trầm hương,

Âu vàng ngựa đá mở chương Đại Hùng…


Bởi Lê triều tựu trung bất định,

Chẳng chính danh cho chính mệnh cùng.

Khiến khi Lê đế lâm chung:

Anh em, tranh miếng đỉnh chung, tương tàn.


Cuối cùng lại, ngai vàng Long Việt

Lọt về tay kẻ giết… Trung Tông.

Ấy tên Long Đĩnh ác nhân:

Giết anh, soán vị, vô luân, nghịch thường!


Long Đĩnh lên làm vương làm đế,

Được bốn năm thì xế bóng tây.

Trong thời gian bốn năm này,

Đã từng ra trận đông tây năm lần.


Năm Một ngàn lẻ năm (1005) ra trận,

Cốt dẹp yên lấn cấn trong nhà:

Những người khác mẹ cùng cha,

Đòi phen bôi mặt gà nhà đá nhau!


Và qua ba năm sau, Long Đĩnh

Lại điều quân bình định tha phương:

Nào Vị Long, nào Đô Lương;

Lại Hoan Châu,lại Hoan Đường, Thiên Liêu…


Sử gọi Đĩnh: Ngọa Triều Hoàng Đế,

Và trong những điều kể về ông,

Có nhiều điều ác điều ngông,

Nghe ra như có như không… Mơ hồ!


Ví như chuyện nhà vua róc mía,

Trên đầu sư rồi để sa đao

Khiến cho đổ máu trên đầu…

Còn bao nhiêu chuyện, biết đâu chuyện nào…




Chỉ biết nếu dựa vào thực tế

Thì nhà vua tuổi trẻ lung lăng

– Dẫu làm vua mỗi bốn năm –

Đã xông pha trận mạc dăm bảy lần…


Mà đã thế sao ông ta lại

“Cụp sống lưng” đến nỗi “ngọa triều”?

Gẫm ra, cái sự “đặt điều”

Vốn là “cái ngón bấy nhiêu” của đời!


Miệng thế gian nói lời gian thế,

Ba lời vu khống dễ thành ra

Một sự thật rất nguy nga…

Cứ y như thực – dù là “khống vu”!


Huống nữa, cứ theo như sử chính:

Xuân Đinh Mùi, Long Đĩnh sai em

Đem tê trắng cống Trung nguyên,

Và xin Đại Tạng Kinh: nguyên việc này


Cũng đủ nói lên rày Long Đĩnh

Cũng ít nhiều sùng kính Phật đà.

Đã như thế, lẽ chi mà

Lại đem róc mía đầu nhà sư chơi?


Vậy những việc ác thời Long Đĩnh,

Ta hãy khoan khẳng định đúng, sai:

Chờ cho “ba mặt một lời”,

Để cho khỏi lỗi xét người oan sai!


Vua Long Đĩnh cướp ngôi anh ruột,

Lên làm vua mỗi được bốn năm;

Hưởng dương chưa được bao lăm,

Mới hăm bốn tuổi đã băng hà rồi!


Long Đĩnh mất, con trai tên Sạ,

Còn bé thơ nào đã biết chi.

Bấy giờ trong cảnh loạn ly,

Có Cam Mộc với Nguyễn Đê hai người




Đứng lên cất tiếng lời kêu gọi

Bá quan trong triều nội, như sau:

Rằng nay vận nước nông sâu,

Muốn cho xã tắc được câu an bình.


Cần phải có bậc minh thánh đế,

Vẹn tu tề bình trị mới nên;

Còn như ấu chúa hiện tiền,

Lấy chi đủ sức giữ yên sơn hà?


Nay có bậc tài ba nhất thế,

Giữ chức quan Thân vệ điện tiền.

Lý Công Uẩn ấy là tên:

Nhân từ, trí tuệ, rất nên anh hào!


Nếu bậc ấy được trao đế vị,

Ấy là điều đại hỷ cho dân…

Lời bàn đẹp dạ chúng nhân:

Thảy đều ủng hộ bậc quân nhân này!


Lý Công Uẩn là ai? Ta chỉ

Biết mẹ là Phạm Thị, quê hương

Ở vùng Cổ Pháp, Bắc Giang…

Năm lên ba, được mẹ mang lên chùa


Ủy thác cho nhà sư họ Lý…

Lý Khánh Vân đích thị là tên…

Trụ trì Cổ Sát thiền viên…

Ấy chùa Cổ Pháp thuộc miền Bắc Ninh.


Từ khi được nương mình cửa Phật,

Bé thơ kia được đặt họ tên.

Họ thì họ Lý – đương nhiên:

(Vì “cha nuôi” họ Lý nên con mình)…


Còn tên? Rất là xinh: Công Uẩn,

Nghe chứa chan phong vận cát tường.

Cái tên rất “chánh vì vương”:

“Vén mây đầu ngõ, tan sương giữa trời”.




Bé Công Uẩn trải thời niên thiếu,

Trong tinh thần minh diệu phương phi;

Thấm nhuần đạo lý từ bi,

Tinh thần cứu khổ – phò nguy đại thừa.


Cuối cùng lại được sư dưỡng phụ

Tiến dẫn lên bá phụ của người.

Vốn là danh tăng đương thời:

Ngôi sao Vạn Hạnh sáng ngời đế đô!


Để rồi được thiền sư tiến cử,

Lên làm quan ban vũ triều Lê.

Để rồi từng bước thăng huê,

Lên chỉ huy sứ một khi hiện tiền.


Nắm giữ cả thực quyền triều nội,

Đem đức nhân tắm gội ba quân.

Khiến cho trên dưới xa gần,

Thảy đều ngưỡng mộ triêm ân của người


Lại, theo huyền thoại thời… thuở ấy,

Trong làng vua từng xảy điều linh:

Một cây gạo trước sân đình,

Bị sét đánh để hiện thành bài thơ:


Thụ căn diểu diểu

Mộc biểu thanh thanh

Hòa đao mộc lạc

Thập bát tử thành


Nghĩa là:

Gốc rễ thăm thẳm

Vỏ cây xanh xanh

Lúa dao cây rụng

Mười tám hạt thành…


Sấm văn ấy mang rành ý nghĩa

Rằng mai đây Lý sẽ thay Lê.

Ý trời đã định như kia,

Để cho vận nước khai đề Thăng Long!


Công Uẩn được tứ dân đồng loạt

Tôn phù lên gánh vác non sông.

Lại lời Vạn Hạnh từng phong

Rằng: “Lý Công Uẩn tướng công rõ là


Bậc quốc sĩ sơn hà trông đợi

Để thay trời mà nối nghiệp vương.

Giúp cho Đại Việt phú cường,

Nam phương sớm mở kỷ cương tót vời!”


Lại phải gẫm cơ trời ở chuyện

Thuở Ngọa Triều gây biến đình trung:

Ra tay sát hại Trung Tông

Là anh em ruột để hòng cướp ngôi.


Thì khi ấy khắp nơi triều nội,

Văn vũ đều sợ tội lảng xa.

Mỗi riêng Lý Công Uẩn là

Lăn vào ôm xác vua mà khóc than.


Mà Long Đĩnh chẳng cam bắt tội,

Lại còn khen đúng lối trung lương.

Để rồi phong chức cao hơn,

Việc trên soi tỏ nguồn cơn hai điều:


Một là vị Ngọa Triều hoàng đế,

Chẳng phải “hoàn toàn kẻ bỏ đi”.

Vì chưng rất có lương tri,

Khéo phân biệt được những gì đúng, sai.


Đó là một. Và hai là việc:

Lý được tha không giết, lại còn

Được nâng lên chức cao hơn;

Điều này như nói rằng dường như đây


Là do Lý sâu dày phúc phận,

Như tịch nhiên định phận thiên thư.

Số trời đã định chẳng hư,

Rằng mai đây… Lý tiếp thu mệnh trời!




Và khi Lý lên ngôi trị nước,

Cách nay (1010) vừa đúng một ngàn năm.

Ấy thời việc nước cao thăng

Nguy nga dấu ấn mặt trăng, mặt trời.


Dấu ấn một Tình Người quá đẹp

Vì chưng vua nhuận nếp từ bi.

Vừa lên ngôi báu một khi,

Đã ra lệnh dẹp ngay đi: vạc, chuồng.


Tóm lại những cái khuôn cái phép

Rất chi là sắt thép phi nhân.

Thiếu niềm thiện, thiếu niềm chân,

Chỉ dư cái nỗi rẽ phân tình người.


Lại mở rộng chân trời Đức trị

Bằng cách cho giảm thuế, giảm sưu;

Lại khoan hồng kẻ tội đồ:

Giảm hình phạt, giảm năm tù, tháng giam!


Lại mở ngõ công đường sớm tối,

Giải quyết ngay những mối oan, sai.

Khiến cho trên dưới trong ngoài,

Thảy đều được hưởng đạo trời khôi khôi!


Nói tóm lại cả trời Đại Việt

Đều được ngời ánh biếc Mâu Ni.

Nhờ người lãnh đạo từ bi

Lấy tâm Phật để quy y tâm người.


Lại để lại ngời ngời dấu ấn

Của ngàn năm phong vận phồn vinh

Ở trong quyết định dời kinh

Hoa Lư đến Đại La Thành Thăng Long.


Từ Hoa Lư, ấy vùng rừng núi,

Lý khai đường mở lối dời đô…

“Trờ về” thành Đại La xưa,

Là nơi trú sử ngày xưa Cao Biền.




“Chiếu dời đô” một phen được viết,

Cho tứ dân được biết ý đồ…

Điều hơn lẽ thiệt căn cơ…

Chữ còn lưu đến bây giờ. Như sau:


“Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên,

Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ.

Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư,

vọng tự thiên tỉ.

Dĩ kỳ đồ đại trạch trung,

vi ức vạn thế tử tôn chi kế;

thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí,

cẩu hữu tiện triếp cải.

Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ.

Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư,

hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn,

vạn vật thất nghi.

Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành,

trạch thiên địa khu vực chi trung;

đắc long bàn hổ cứ chi thế.

Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị;

tiện giang sơn hướng bối chi nghi.

Kỳ địa quảng nhi thản bình,

quyết thổ cao nhi sảng khải.

Dân cư miệt hôn điếm chi khốn;

vạn vật cực phồn phụ chi phong.

Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa.

Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội;

vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư,

khanh đẳng như hà?”


Vì tầm vóc rất cao rất trọng:

Chiếu dời đô, nền móng nghìn thu…

Chúng ta, con cháu, bây giờ

Cũng nên tìm hiểu ý xưa cho rành.





Về chữ nghĩa, nhân danh Lịch Sử

Của Trung Hoa thời cổ u minh:

Từ nhà Thương đến Bàn Canh,

Lại từ Chu đến đời Thành vương kia…


Trước sau đã ba kì đổi chỗ,

Nên nay ta có sự dời đô.

Lý vì: phương Bắc ngày xưa

Đã dời đô, khiến cơ đồ hưng long.


Còn các vị vua trong nước Việt

Suốt Đinh, Lê “chẳng biết mệnh trời”:

Cứ “ru rú cả một đời”,

Cho nên sự nghiệp chẳng tươi tốt bằng!


Huống nữa, cuộc đất Thăng Long mới…

La Thành xưa - ấy cõi địa linh:

Rồng chầu, hổ phục nhất sinh…

Quả là thắng địa trời dành cho ta!


Chiếu viết đại khái là như thế…

Chiếu ngắn thôi, khôn kể hết lời.

Nên không nhắc đến các đời

Đế vương Việt trước đó, ngời sử xanh…


Và, kinh đô Mê Linh ngày trước,

Rồi Hoa Lư tiếp bước theo sau…

Chẳng là sự ngẫu nhiên đâu…

Mà nằm trong lẽ nhiệm mầu cơ duyên…


Từ Hoa Lư khởi nền độc lập

Tới Lý triều, vượt cấp Vũ môn…

Cho cá nọ hóa rồng luôn:

Đại La đẹp bóng rồng vươn lên trời!


Thuyền vua Lý từ nơi Ghềnh Tháp…

Cuộc thủy trình vượt các con sông…

Sông Sào Khuê, sông Hoàng Long…

Châu Giang, sông Đáy, sông Hồng. Ngược xuôi…




Sông Tô Lịch là nơi cập bến…

Ấy là nơi thị hiện thăng long…

Đất linh tự hữu sẵn rồng,

Chỉ chờ cái phút tao phùng, hiển linh!


Để tưởng niệm công lênh dựng nước

Của bao triều vua trước, trăm xưa…

Cũng như tưởng niệm Hoa Lư

Là nền tảng của bây giờ, Thăng Long…


Nên trong các công trình xây dựng,

Đã có nhiều mô phỏng tiền đô…

Lại nhiều danh hiệu ngày xưa…

Thăng Long vẫn giữ lại, như thuở nào.


Chẳng hạn: Ô Cầu Dền; hoặc giả:

Phố Đình Ngang; hoặc giả: Tràng Tiền…

Chùa Nhất Trụ, tháp Báo Thiên…

Bao nhiêu vật, bấy nhiêu tên… cảm hoài…


Nói lên ý: tuy hai, mà một…

Xuyên ngàn xưa, lại suốt ngàn sau…

Trải qua bao cuộc bể dâu,

Mê Linh vẫn giữ Phong Châu, trọn niềm…


Triều vua Lý chí nguyền oanh liệt…

Dấu ấn con rồng Việt tung mây…

Vận phi long tại thiên này…

Ngàn năm mãi đẹp dấu giày Huyền Trân.


Điện Càn Nguyên: trung tâm quần thể…

Càn là trời; Nguyên: ý bắt đầu.

Hai bên tả hữu nương nhau:

Tập Hiền, Giảng Võ… xiết bao công trình…


Cả một quần thể xinh kiến trúc,

Thể hiện tròn ý thức phương Đông…

Phật, Nho, Lão nọ tương đồng…

Có xuất, có xử, có trong, có ngoài.




Ngoài kiến trúc lâu đài vật thể,

Lại còn phần mang nghĩa tâm linh.

Ấy là ba tạng Phật Kinh,

Chở chuyên bao lẽ diệu minh đất trời.


Lý Thái Tổ phái người đi sứ,

Sang Bắc phương xin chở Phật Kinh.

Lại xin hòa hiếu chi tình,

Để tròn hai chữ hòa bình bang giao.


Thuở ấy, Bắc phương nào rỗi việc…

Bận việc mình, chi thiết bên ta.

Cho nên “mở lượng hải hà”,

Phong ngay Giao Chỉ tước là quận vương.


Việc giao dịch Bắc phương đã ổn,

Quay về lo chỉnh đốn Nam phương.

Lấy từ bi dựng mối giường,

Đại Cồ Việt những phú cường một phen.


Tha thuế để dân đen bớt tối,

Tháo xiềng cho kẻ tội hoàn lương.

Dựng chùa, tạc tượng, đúc chuông…

Để cho quê Việt ấm nguồn tâm linh.


Lại lấy chữ trị bình làm gốc;

Lấy đạo từ làm mốc hoằng khai.

Lại không quên chuyện “quân oai”:

“Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên…”


Mười chín năm, ngồi trên ngôi báu:

Biết bao phen nhuộm máu chiến bào.

Quân vương hữu trách chứ sao?

Thái sơn, bắc đẩu: cấp cao phận mình!


Chỉ tiếc nỗi thọ tinh sớm tắt:

“Vạn thọ vô cương” bặt tiếng lời.

Năm lăm tuổi hưởng dương đời,

Chưa tròn thất thập như lời thế gian…




Lý Thái Tổ sớm sang cõi Phật,

Để triều cương xấc bấc xang bang.

Não lòng cuộc loạn tam vương:

Trước tang cha, khéo tranh cường cướp ngôi!


Cái kịch bản muôn đời nó thế:

Miếng đỉnh chung ai dễ nhường ai –

Huống chi những vị “con trời”!

Thương cho gia đạo của “người làm vua”!


Sách nói: “Gia bần tri hiếu tử”:

Cái cảnh nghèo dạy dỗ khéo hay.

Giúp con cái trong cảnh này

Thêm lòng thơm thảo, bớt rày dạ tham.


Còn những kẻ sinh làm hoàng tử,

Thì thường hay bị “lú vinh hoa”:

Rời hiện thực cõi người ta,

Sa vào ảo tưởng mình là nọ kia.


Huống nữa, ngôi báu kề trước mặt:

Dại gì không “ngúc ngắc muốn vô”?

Ai kia mà cũng cơ đồ,

Thì sao mình chẳng thử đùa vận may?


Ấy, cái tâm lý rày nó thế:

Khiến anh em huynh đệ nhà vua,

Thường hay giở những trò đùa…

Để cho lộc đỉnh ký mua trận cười!


Cuộc “gà bôi mặt” nơi triều Lý,

Cũng may mà cũng chỉ “ngoài da”.

Ấy người xưa gọi “phúc nhà”,

Khiến cho nạn khỏi tai qua kịp thời!


Lê Phụng Hiểu, bề tôi anh kiệt

Của Lý triều, đã kịp ra tay,

Dẹp yên cuộc nội loạn này,

Để cho thái tử được rày lên ngôi.




Trong cuộc chiến, có người bào đệ

Ấy Võ vương, là kẻ chủ mưu

Đã bị Phụng Hiểu chém đầu;

Còn hai vương đệ theo sau, một là


Đông Chinh, và hai là Thánh Dực,

Thì cuối cùng cũng được dung tha.

Vì chưng thái tử chính là

Hiền nhân giữa cõi người ta bạo tàn.


Vừa ngồi xuống ngai vàng tôn quý,

Việc đầu tiên của vị thánh quân,

Ấy là đại xá muôn dân,

Gọi là bố đức ban ân cho đời!


Lại nữa, nương theo lời Phật tổ,

Sớm thực hành lục độ ba la.

Mà độ đầu tiên chính là

Bố thí, cho cõi người ta cơ hàn.


Thói thường vẫn đăng quang ngôi vị

Bằng những trò phung phí xa hoa.

Riêng vua lại nghĩ khác, là:

Phải vinh danh cái ngày ta trị vì


Bằng cách sẻ, cách chia hạnh phúc

Cho bao người khổ cực quanh ta.

Cho ai cũng được vui, và

Niềm vui của họ giúp ta vuông tròn.


Nối phụ nghiệp Thái Tông Hoàng đế,

Hết sức ra công để trị, bình.

Bảo toàn chí nguyện bình sinh,

Tuổi xanh, đã trải chiến chinh bao lần.


Hai mươi tuổi, đích thân nguyên soái…

Cử đại binh, đánh bại Chiêm Thành…

Hai năm sau, lại tiến hành

Chiến dịch bình định cổ thành Phong Châu.




Tiếp đó, lại Diễn Châu. Tiếp nữa

Là Thái Nguyên. Lần lữa bảy năm…

Trải qua bao cuộc trầm thăng…

Thép tôi thế đấy: phải chăng anh hào?


Tuy thế, cái điều cao diệu nhất,

Cái điều ba la mật vô song…

Là dù lập bấy chiến công,

Thái Tông vẫn giữ vẹn lòng từ bi.


Bi, Trí, Dũng: phát huy tam đức,

Thực hiện thành hiện thực nhân sinh.

Mở ra trang sử quang vinh:

Võ, văn… trang điểm văn minh Lạc Hồng.


Về hiến chế, khai thông luật tắc:

Nếp kỷ cương tức khắc rạch ròi.

Vua ra vua, tôi ra tôi…

Công minh thưởng phạt, thứ ngôi đúng phần.


Để ngừa chuyện loạn luân, phản nghịch:

Cứ hằng năm, niên lịch đầu xuân,

Lệnh truyền tất cả triều thần,

Tới đền Đồng Cổ nhất tâm khấn nguyền.


Rằng: “Làm tôi phải nên ghi nhớ:

Chớ bao giờ phản chúa tranh ngôi.

Ai mà không giữ đạo trời…”

Ấy là lịch sử của nơi hội thề.


Lịnh vua truyền còn ghi rất rõ:

Các quan viên, ai bỏ buổi thề…

Phạt năm mươi trượng tức thì!

(Ôi, năm mươi trượng, còn gì tấm thân!)


Ngoài pháp chế, các phần còn lại

Của nhân sinh thời Thái Tông kia,

Thảy đều phát triển sum suê:

Canh nông, thủy lợi, trăm bề thăng hoa!




Kênh Đãn Nãi nguy nga mở lối:

Lợi nhà nông, ấy lợi nhà vua.

Trạm Hoài Viễn, tuyệt vời chưa!

Ấy nơi khách nghỉ chân, bờ Gia Lâm!


Dạ Lữ Viện: thương dân cơ nhỡ…

Để những ai đi lỡ độ đường:

Ghé vào, qua một đêm sương…

Rồi mai, tiếp tục con đường cần đi!


Trong những điều đáng ghi đáng nhớ,

Có điều này: gấm lụa “Trung nguyên”,

Mặc dù ở “đẳng cấp trên”,

Nhưng Thái Tông một mực khuyên dân mình:


Hãy dệt lấy gấm mình mà mặc…

Ôi! Tinh thần độc lập Nam phương!

Tự do, tự lực, tự cường!

Dù trong dù đục… vẫn hơn ao người!


Bao gấm vóc của người Trung Quốc,

Thái Tông phân phát tất. Đồng thời,

Động viên người Việt nơi nơi…

Riêng dùng gấm lụa của người Việt ta!


Quan điểm ấy thực là vĩ đại,

Nó nói lên cái thực tại này:

Là dân Việt kể từ nay,

Đã chín muồi ý thức quay về nguồn!


Nước có hồn, mới nên được nước;

Người có hồn mới được nên người.

(Hồn là cái chất riêng nơi

Một dân tộc, một con người… tinh hoa!)


Về binh bị, nước ta thời ấy:

Có thủy binh lừng lẫy phương Nam.

Một đoàn chiến hạm hiên ngang:

Vạn An rồi đến Nhật Quang… danh rền.




Lại hàng trăm tiểu thuyền bên cạnh,

Góp sức cho sức mạnh càng thêm…

Kỳ công cự Tống bình Chiêm,

Lại thêm bình định Quảng Nguyên – họ Nùng…


Thuở ấy, ở trên vùng Xứ Lạng,

Tộc Nùng thường gây loạn chiến chinh.

Với Nùng Tôn Phúc khởi binh,

Lập nên nước gọi Trường Sinh, nơi này.


Thái Tông, vốn dạn dày chiến trận,

Đã ra binh diệt tận họ Nùng.

Nhưng dù chiến thắng lẫy lừng,

Vẫn còn bỏ sót một Nùng Trí Cao.


Cao, vốn bậc anh hào bộ tộc

Mặc dù thua, chẳng mất hùng tâm…

Lại rút về chốn sơn lâm,

Lập nước Đại Lịch ở gần Quảng Nguyên.


Thái Tông lại một phen cử tướng,

Bắt Cao về. Nhưng vốn từ bi,

Lại tha tội chết một khi…

Còn phong chức mục trị vì Quảng Nguyên!


Việc Cao cũng tạm yên một lúc…

Sau bảy năm làm mục Quảng Nguyên;

Ý như chưa thỏa chí nguyền,

Nùng Chí Cao lại đứng lên phất cờ!


Để rồi lại bị thua Lý tướng,

Lại đầu hàng. Để bốn năm sau,

Lại đứng lên phất “cờ lau”,

Tự xưng hoàng đế, đứng đầu “Đại Nam”!


Ấy tên nước anh chàng tự đặt;

Đặt rồi, sang phương Bắc xin… phong.

Và khi nhà Tống đáp “không”,

Cao liền phản ứng, đem quân sang Tầu…




Mở trận đánh chín châu Trung Quốc,

Giết ba nghìn dân đất Châu Ung.

Lại cầm tù mấy vạn dân,

Khiến cho nhà Tống hãi hùng ai tai.


Bèn vội sai hùng tài đệ nhất:

Tướng Địch Thanh danh bất hư truyền…

Tuyên huy tiết việt tổng quyền:

Ầm ầm binh mã xuống miền Ung Châu.


Những trận đánh trời sầu đất thảm,

Cướp mất bao sinh mạng đôi miền.

Giao tranh hằng mấy năm liền,

Cuối cùng, Tống mới dẹp yên quân Nùng.


Phần Cao, trốn về vùng Đại Lý…

Một thời gian, rồi bị sa cơ.

Thế là dứt bặt đường tơ:

Họ Nùng vắng bóng trên tờ sử xanh.


Trở lại chuyện nước mình thời Lý:

Lý Thái Tông ngự trị ngôi trời,

Tính đà mười lăm năm rồi:

Mà Chiêm, Việt chửa đẹp lời lân bang.


Một, là chẳng hỏi han thông hiếu;

Hai, Chiêm thường quấy nhiễu bên ta.

Bấy giờ, lệnh mới ban ra:

Thân chinh, hoàng đế đánh qua Chiêm Thành!


Một trận Ngũ Bồ, danh chấn động…

Chiến binh Chiêm: bắt sống năm nghìn.

Thêm ba chục thớt voi Chiêm…

Chiến công lớn, khiến đảo điên địch tình.


Từ thất trận, phát sinh nội phản:

Quách Gia Di, tướng lãnh Chiêm binh,

Quay gươm, hạ thủ vua mình,

Dâng đầu Sạ Đấu mà xin quy hàng.




Cuộc thất trận vô vàn thảm khốc:

Bao mạng Chiêm dân gục giữa đường.

Thấy dân Chiêm quốc mà thương,

Vua ta bèn lệnh cho muôn quân, rằng:


Cấm chỉ việc hung hăng chém giết,

Bởi muôn dân Chiêm Việt cũng là

Chúng sinh trong cõi người ta…

Cùng là cốt nhục, cùng là anh em.


Nhờ tâm Phật rất nên khoan ái:

Máu Chiêm dân dừng lại, thôi rơi.

Để cho từ đó, nơi nơi…

Quê hương hòa hiếu nụ cười Việt Chiêm.


Quân ta tiến tới miền Hương Thủy:

Ấy Chiêm bang Phật thệ kinh kỳ.

Vào thành, bắt được vương phi…

Giai nhân quốc sắc: Mỵ Ê, tên nàng.


Cùng với cả một đàn cung nữ…

Vua cho theo thuyền ngự, hồi loan.

Nào ngờ người đẹp Chiêm bang:

Kiên trinh, nguyện giữ giá ngàn vàng thôi!


Bèn gieo xuống dòng khơi, tự tử…

Như anh hùng bất sự nhị quân…

Khá khen một bậc hồng quần:

Vua ta cảm nghĩa, bèn phong sắc thần.


Là “Hiệp Chính Phu Nhân Hựu Thiện”…

Để tiếng thơm cho đến ngàn sau.

Mới hay Chiêm Việt khác nhau:

Chỉ là khác mặt, chứ đâu khác lòng!


Đại Việt Sử còn dòng ghi nhận:

Thái Tông, khi thắng trận hồi cung,

Bèn bày lễ tiệc mừng công,

Rồi tha nửa vạn hàng quân Chiêm Thành,




Cho họ cũng trở thành người Việt:

Chia đất cho làm việc mưu sinh.

Ấy là chính sách cao minh,

Lấy từ diệu nghĩa trong kinh Phật đà.


Ngôi Thái Tông quả là hữu trách:

Hăm sáu năm hiển hách ngai vàng.

Mấy khi thân đặng ngồi an,

Bao tuế nguyệt, bấy sa tràng chinh nhân!


Bồ đào mỹ tửu dâng chưa tới,

Khách chinh nhân đã vội lên đường.

Thân vàng dãi gió dầm sương:

Dụng đao binh, vẽ nên chương trị, bình.


Ngoài các việc văn minh sửa trị,

Đẹp vô cùng cái ý nhân văn…

Ví như điều lệ cấm, rằng:

Kiếp người, không được đổi bằng tiền nong.


Để phá tệ nạn từng hiện hữu:

Kẻ có tiền thường tậu mua người,

Về làm đầy tớ, đầy tôi…

Tục nô lệ ấy nay thời dẹp tan!


Bên việc ấy, còn hàng tá việc,

Góp sức cho nếp Việt thêm xinh.

Ví như một khoản luật hình:

Ngoài tội Thập Ác, dân mình từ nay…


Hễ phạm phải lỗi này lỗi nọ,

Đều được dùng tiền của thế thân.

Phạt bằng tiền! để khoan dân!

Cho can phạm được hưởng phần tự do!


Triều Thái Tông còn cho quy định

Số nữ nhân hầu cạnh quân vương:

Kể vừa hậu vừa phi luôn,

Là mười ba vị - chẳng hơn vị nào!




Về ngự nữ cũng hao hao thế:

Mười tám người phục thị hoàng cung.

Xét ra: kiệm phác vô cùng!

Đức tri túc ấy dễ không ai bằng!


Ngoài những chuyện trầm thăng nhân thế,

Thái Tông còn lập chí siêu nhiên:

Công trình Nhất Trụ Nam Thiên,

Ngàn thu còn để dấu riêng một thời.


Chùa Một Cột: ấy lời dân dã,

Gọi ngôi chùa như đóa sen vươn.

Là do giấc mộng trầm hương:

Thái Tông mộng thấy tỏ tường Quan Âm.


Nên mới dựng một tầm kiến trúc:

Một cành sen nở vút đài thiêng

Nơi chùa Một Cột siêu nhiên…

Hiện thân tâm thức cháu tiên, con rồng:


Thiên địa vạn vật đồng nhất thề…

Thảy từ trong Diệu Đế mà ra.

Như cành nọ vút đơm hoa:

Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni…


Hăm bảy năm trị vì đất nước,

Đem lại nhiều hạnh phúc cho dân.

Kiêm toàn trí dũng nghĩa nhân…

Đem so các bậc minh quân mọi đời…


Há dễ kém thua người? Chỉ tiếc

Mỗi một điều: chút nết khoa trương:

Tự cho mình chẳng ai hơn…

Thiên thượng địa hạ, độc tôn mỗi mình!


Nhưng xét lại sự tình kim cổ:

Dễ mấy ai đã lỡ “làm vua”,

Lỡ “lên ngôi”, lỡ “phất cờ”,

Lỡ làm thiên tử đong đưa chín tầng…




Mà thoát khỏi cái tâm ngã mạn…

Coi mình là siêu hạng, vô song.

Sa vào tà kiến viễn vông:

Nghĩ mình là “bất nhất”, không ai bì!


Vì cái lẽ cái Si nó vốn

Là bản năng, vọng tưởng con người…

Vô minh, cái gốc muôn đời…

Cho nên, ví có một người làm vua


Bị vướng giữa trò đùa huyễn ngã:

Tưởng mình là tất cả càn khôn…

Thì âu cũng chuyện bình thường,

Nghe qua chẳng cứ để vương vào lòng…


Trở lại chuyện Thái Tông hoàng đế:

Lên làm vua như thế, tính ra

Cũng tròn hai bảy năm. Và

Công huân sự nghiệp quả là vàng son!


Con là Lý Nhật Tôn kế vị;

Vị thứ ba triều Lý quê mình.

Rõ là bậc đế anh minh,

Rõ là phúc tú tuệ tinh nước nhà!


Công nghiệp lớn để ba dấu ấn;

Dấu ấn nào cũng đậm cũng sâu.

Dấu ấn đầu tiên, nhiệm mầu:

Là quốc hiệu Đại Việt – đầu sử xanh!


Bởi cái lẽ chính danh là trọng:

Giòng giống ta, giòng giống Việt Nam…

Đội trời đạp đất hiên ngang…

Rõ là chữ Đại – vẻ vang, hùng hào!


Dấu ấn thứ hai, nào kém cạnh:

Ấy chiến công thần thánh quân ta.

Đại hùng, đại lực nguy nga:

Trước là phá Tống, sau là bình Chiêm!




Dấu ấn cuối: dựng nền Văn Miếu,

Để thờ người mở nẻo nhân luân:

“Làm người phải có ngũ luân…

Ai mà thiếu một, mười phân thẹn thuồng.”


Ấy là đạo cương thường sẵn có

Trong cõi thiên lương của con người.

Mà Khổng Khâu đã thay đời

Lập nên hệ thống, nói lời thông tri.


Nước Đại Việt một khi thành lập:

Tên gọi đi với chất – song hành;

Nước ta từ thuở hình thành,

Bây giờ là lúc trưởng thành, thăng hoa!


Từ Thái Tổ, nước ta đã thịnh,

Nhưng chưa từng tuyệt đỉnh như nay.

Rỡ ràng thịnh hội rồng mây…

Cũng nhờ công đức sâu dày tổ tiên.


Sở dĩ nước được “nên” như thế,

Bậc công đầu phải kể là “vua”.

Mà vua sở dĩ nên vua,

Phải chăng do ở chữ tu mà thành?


Từ thuở hãy đầu xanh tuổi trẻ,

Mới mười lăm tuổi nhé! Mà vua

Đã từng được phụ vương cho

Tham gia trận mạc, chẳng từ hiểm nguy!


Trui đủ lửa, gươm kia, ắt bén:

Trải qua bao trận chiến tử sinh,

Nhật Tôn sớm được trưởng thành,

Để rồi, sau rốt, trở thành Thánh Tông!


Là vị vua anh hùng một thuở,

Đã kiêm toàn văn võ, lại thêm

Tinh ròng tam giáo thâm uyên;

Lại thêm bản lĩnh tiên thiên tót vời!




Với đức tính thương người, thương vật,

Xứng hiện thân Hoạt Phật trời Nam.

Mười bảy năm trên ngai vàng,

Là mười bảy năm lo toan nước nhà.


Hình ảnh Thánh Tông là hình ảnh

Bi, Trí và Dũng mãnh vô song;

Về Bi: cả một tấm lòng

Thương người, thương vật, khoan dung lạ thường!


Sử còn chép tình thương rất thánh

Của vì vua đức hạnh từ bi.

Rằng: trời đông rét dường kia,

Trẫm, trong cung ấm, còn nghe lạnh lùng.


Huống chi giữa ngục trung khổ não,

Những tù nhân thiếu áo thiếu chăn.

Lại còn thiếu cả cơm ăn,

Lại không kẻ viếng người thăm. Thực là…


Cám cảnh, bấy xót xa, rướm lệ,

Vua bèn ra lệnh: Kể từ nay

“Phải cho những tội nhân này

Cơm ăn hai bữa mỗi ngày. Lại thêm…




Mỗi người được một mền, một chiếu

Để vượt qua lạnh lẽo trời đông…”

Ôi, Thánh Vương! Cả Tấm Lòng!

Thánh như vậy, chả Thánh Tông là gì?


Bao lời nói từ bi sử chép:

Những dấu son rất đẹp quê mình.

Hiệu xưng “Long Thụy Thái Bình”:

Năm tư – năm tám (54 - 58), đế tinh rạng ngời!


Sách nói: sau một người xuất chúng,

Thường khi là có bóng nữ nhân.

Cứ theo sử Lý Thánh Tông:

Sách kia lời nọ tả chân rõ ràng.


Sao quên được Ỷ Lan thôn nữ:

Cô gái quê xuất xử tuyệt vời.

Chỉ là cô gái quê thôi,

Mà sao sắc nước hương trời tinh anh!


Thế mới biết trời sanh vạn hữu,

Và đất thành đất tựu anh hoa…

Đâu đâu trong cõi người ta,

Chẳng có long mạch để mà… thông minh!


Một cô gái bạch đinh dân dã,

Lại có tâm vương giả tót vời.

Có tâm, sự đã đành rồi;

Lại còn có cả tầm trời phú cho!


Pho Việt sử thơm tho hương nhụy,

Hỏi trang nào bằng Ỷ Lan trang:

Thay chồng, giữ vững triều cang,

Thay vua giữ vững giang san Đại Hùng!


Vì vua Lý Thái Tông hiếm muộn,

Chẳng có con để sớm thay mình,

Một khi vạn lý trường chinh,

Làm cho trọn trách nhiệm mình quân vương!


Nhưng trong cảnh cô đơn miêu duệ,

Đã có nàng – là Ỷ Lan kia!

Về danh vị – ấy vương phi;

Về tâm linh – ấy Chung Kỳ Bá Nha!


Hồng nhan tri kỷ – à ra thế!

Một cành lan cành quế ngai vàng.

Từ cô gái ruộng đoan trang,

Chẳng nao lòng trước kiệu vàng quân vương.


Trước ngự giá, thói thường thiên hạ,

Nhất là bao cô ả đồng quê,

Thảy đều nao nức, tung hê…

Phô phang ra trước kiệu che lọng vàng!




Chỉ riêng mỗi cô nàng “bất biến”:

Mặc kiệu vua, chẳng chuyển chẳng lay;

Vẫn ngồi yên đó, ngắm mây…

Và duyên, và nợ… xui mây gặp rồng!


Và trước dáng thong dong tự tại,

Tỏa hào quang vô ngại tâm linh,

Đức vua nghe động lòng mình:

Dường như một mối ba sinh duyên trời…


Bèn rước nàng về nơi cung điện,

Và phong nàng ân điển nguyên phi.

Bởi chung cung bậc cầm kỳ:

Bá Nha đó, lại Tử Kỷ đây – chăng?


Ôi! Cô gái tơ tằm thôn dã,

Lại mang tâm vương giả trượng phu.

Chí kia hữu trách thế ru:

Những lo những lắng nỗi tu, trị, bình!


Qua một thuở trao kinh đổi điển,

Lại từng phen thử nghiệm tài năng,

Quân vương đã nhận ra rằng:

Rõ nàng là bậc lương năng tót vời!


Từ ấy, mỗi khi đời có biến,

Mỗi khi vua có chuyến trường chinh,

Thì cô thôn nữ thông minh,

Lại thay vua để chấp kinh tòng quyền…


Sao cho nước được yên phận nước,

Sao cho dân có phước phần dân,

Sao cho nếp nghĩa nền nhân,

Chữ trung chữ hiếu đẹp luân đẹp thường!


Kể từ lúc Nhật Tôn hậu bối

Đã tùng chinh từ tuổi mười lăm…

Đại nguyên soái, chức tiên phong…

Cùng cha dẹp loạn ở vùng Lai Châu.




Năm mười bảy được giao triều chính,

Để Thái Tông đi đánh quân Nùng.

Một đời tuổi trẻ, nói chung,

Đã trui rèn giữa bão bùng phong ba…


Để sau rốt, khi qua tam thập,

Vượt vũ môn tam cấp, lên ngôi.

Thay cha, nối nghiệp trị đời:

Tính ra trận mạc những mười mấy năm…


Nhưng vẫn mãi siêng năng việc võ:

Phá Tống, bình Chiêm, đọ sức hùng.

Tiến quân vào tận Châu Khâm,

Khiến cho phương Bắc hãi hùng không thôi!


Năm Một không sáu mươi (1060), quân Việt

Đánh Tống binh uy hiếp biên cương…

Bắt chỉ huy sứ họ Dương

Làm tù binh – khéo chận đường Nam xâm!


Năm Sáu chín (1069) Thánh Tông ngự giá,

Trả đòn Chiêm đánh phá biên cương.

Nào ngờ mấy trận tranh phuông:

Chẳng bên nào sức nhỉnh hơn bên nào!


Dẫu muối mặt anh hào đôi chút,

Thái Tông đành chọn bước hồi quân.

Nhưng, trên đường trở về cung,

Lại nghe dư luận thần dân bên đường…


Rằng: “Mừng nước có nương nương giỏi,

Khéo thay vua giữ cõi bình an…”

Những lời khen ngợi Ỷ Lan,

Khiến quân vương những ngổn ngang thẹn, mừng.


Mừng, là được bạn chung tình nọ

Trăm thủy chung, gắn bó hội, thuyền;

Thẹn là thẹn bước chinh yên…

Xem ra chẳng xứng thuyền quyên chút nào!




Bèn trổi sức tự hào nam tử,

Ra lệnh ba quân trở bước đường;

Thẳng xông trở lại chiến trường,

Ra tay bắt sống Chiêm vương tức thì!


Và, Chế Củ, sau khi bị bắt,

Đã vội xin dâng đất, đổi… mình.

Một phần Quảng Trị, Quảng Bình

Giờ đây, là đất Chiêm Thành “thế thân”.


Địa Lý, với Ma Linh, Bố Chính…

Là những tên từ mảnh đất Chiêm;

Cho Đại Việt rộng dài thêm…

Để con cò trắng bay lên Trị, Bình.


Từ tổ quốc hình thành Đại Việt,

Nương dâu càng thêm biếc cành dâu.

Non càng cao, biển càng sâu…

Tháp Báo Thiên vọng trống chầu Thăng Long.


Bảo tháp sừng sững cùng nhật nguyệt,

Mười trượng cao bỡn tuyết đùa sương.

Mười hai tầng sáng kim cương,

Chở chuyên, thể hiện thiên lương Phật Đà.


Tam giáo ba cành, ba nhánh trổ:

Phật, Thánh, Tiên, nở rộ cành thiêng.

Quê ta chúa sáng, tôi hiền…

Cũng do phản ánh con tim Lạc Hồng.


Quên sao tiếng tơ đồng thuở nọ…

Nhạc Việt ngày thêm có hồn riêng.

Lại, trong cung bậc Rồng Tiên,

Còn hoa gấm nỗi đền Chiêm, tháp Hời.


Trong cái tuyệt cái vời dũng mãnh

Của trái tim rất mạnh rất hùng,

Còn pha một thoáng não nùng

Của hồn Chiêm quốc bão bùng thê lương.




Tất cả, tạo nên hồn rất Việt

Của Bi, Hùng, lại Thiết lại Tha.

Ngàn năm, bến cũ cây đa…

Câu thơ lục bát ngân nga nghĩa tình.


Tóm lại, ấy triều đình năng nổ,

Ấy quân thần tiến bộ tâm linh.

Cả và dân tộc văn minh

Cùng vươn những bước quang vinh phú cường.


Và điểm đặc thù hơn tất cả,

Ngoài những ưu việt đã vừa nêu…

Ấy là cái đẹp cao siêu

Của trang nữ kiệt yêu kiều: Ỷ Lan.


Sự xuất hiện của nàng thôn nữ

Trên những trang chính sử Lý Triều,

Trong vai nhiếp chính cao siêu

Và làm vẹn vẻ bấy nhiêu công trình…


Đã ghi lại một hình ảnh đẹp,

Và đồng thời: thông điệp nguy nga…

Rằng vua ta, rằng nước ta…

Chẳng nặng thành kiến như là ai kia…


Để nhất mực nam thì hơn nữ,

Nhất nam thì viết hữu – vân vân…

Trời sinh nam nhân, nữ nhân

Thảy đều bình đẳng – mười phân vẹn mười.


Nay trở lại chuyện đời “vua thánh”:

Lý Thánh Tông rõ mạnh mười mươi,

Duy còn một điểm yếu thôi:

Muộn con, mãi đến bốn mươi tuổi rồng


Mới sinh hạ đông cung thái tử.

Sao gọi rằng thái tử đông cung?

Chỉ vì: vừa mới sinh xong

Long nhi đã được sắc phong tức thời!




Càn Đức quả con trời con Phật,

Là tinh hoa hai bậc thung huyên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên:

Hiện thân anh khí rồng tiên nước nhà.


Thung thì tất nhiên là “vua thánh”:

Lý Thánh Tông – bậc “chánh vì vương”.

Huyên, thì là Ỷ Lan nương:

Cô thôn nữ, với sắc hương tuyệt trần.


Và Càn Đức, tiên rồng hội tụ,

Hiển nhiên là cẩm tú non sông.

Thông minh vốn sẵn tính rồng,

Lại thêm phúc tuệ từ dòng mẹ tiên.


Chỉ tiếc nỗi kém duyên phụ tử:

Mới bảy năm – chưa đủ tình thâm,

Phụ vương đã vội từ trần,

Trao ngôi hữu trách lại phần cô nhi.


Và Càn Đức, một khi kế vị,

Bèn trở thành vua Lý Nhân Tông.

Rỡ ràng nối nghiệp cha ông,

Đảm đương quốc tộ Lạc Hồng nguy nga.


Tuổi lên ngôi vua là bảy tuổi;

Lý Nhân Tông vượt trội hơn đời:

Năm sáu (56) năm ở ngôi trời,

Võ công văn nghiệp sáng ngời phương Nam!


Với mẹ ruột: Ỷ Lan – nhiếp chính;

Người đã từng nhiếp chính vua xưa.

(Một, từng giữ vững kinh đô;

Hai, từng giữ vững cơ đồ Thánh Tông!)


Bên cạnh Ỷ Lan, còn hai vị:

Một, ấy Thái Sư Lý Đạo Thành,

Bậc lương đống của triều đình;

Hai, Lý Thường Kiệt lừng danh anh hào!




Với ba bậc tài cao đức trọng,

Giúp anh quân đắp móng xây nền;

Khác chi ngọc chủng Lam Điền,

Mở ra cả một kỷ nguyên siêu quần.


Triều đại của Nhân Tông vĩ đại:

Năm sáu năm trường tại vinh quang.

Xét trong lịch sử ngai vàng:

Mấy ai có đặng thời gian lâu bằng.


Nhưng số lượng dẫu rằng đáng kể,

Các đời vua đâu dễ ai hơn.

Tuy nhiên số lượng đo lường,

Sao bằng chất lượng: kim cương tót vời!


Nét thứ nhất rạng ngời văn hiến,

Là võ công bách chiến thần oai.

“Lấy công làm thủ” không sai:

Tiến quân ra tận cõi ngoài: Ung Châu!


Bởi nhà Tống đang mưu xâm lược:

Tập kết quân, mưu chước “bất kỳ”…

Tính rằng: thế Việt đang suy

Do tân quân tuổi ấu nhi, ắt là…


Tống đâu rõ vua ta dẫu bé

Nhưng Lý triều lắm kẻ tôi ngoan;

Lại thêm nhiếp chính Ỷ Lan,

Đã từng trui lửa thử vàng bao phen.


Và Thường Kiệt đã nên hào kiệt,

Khi xua hùng binh triệt Ung Châu.

Ra tay một trận phủ đầu,

Lấy công làm thủ: kế sâu lạ lùng!


Năm Bính Thìn một không bảy sáu (1076),

Tống tiến binh hùng hậu sang ta.

Cử hai đại tướng tài ba:

Quách Quỳ, Triệu Tiết vượt qua biên thùy.




Lý Thường Kiệt một khi nghinh địch,

Ở trên sông Như Nguyệt nước mình…

Nương câu địa lợi, địa hình…

Đánh quân xâm lược tan tành một phen!


Cuộc thắng trận nói lên một ý:

Rằng quân ta dù “bé tí teo”,

So quân số kém hơn nhiều,

Nhưng ta lại có đôi điều nhỉnh hơn.


Một, là cái can trường chính nghĩa…

Từ đâu mà ra thế? Chỉ vì

Dưới trên một dạ yêu vì…

Dân thì yêu chúa, chúa thì yêu dân!


Bởi cái lẽ tương thân nhất thể

Của bầu ơi thương lấy bí cùng;

Nên ta sinh dạ anh hùng,

Nó tạo nên cái sức không gì bằng!


Ngoài cái lực đằng đằng chính nghĩa,

Ta còn thêm cái trí cái mưu…

Nương vào địa thế hiểm sâu,

Tạo nên thế trận ngõ hầu tranh tiên.


Vì như thế cho nên ta thắng:

Châu chấu đá xe hẳn lý này.

Một khi quân Tống vỡ bầy

Bèn chấp nhận, ký hai tay giảng hòa.


Kể từ thuở dân ta lập quốc,

Trận thắng này đệ nhất cổ kim.

Đánh trong nhà, đánh ngoài biên…

Đánh đâu cũng thắng, chẳng hiềm đánh đâu.


Gẫm chân lý vì đâu ta thắng?

Gẫm cho sâu cũng chẳng lý nào

Vượt ngoài cái lý “thương nhau”:

Vua tôi hòa thuận, trước sau việc thành!




Ôi hai chữ: chữ Thành, chữ Tín…

Yêu thương nhau tới bến, là thành.

Vì thương nên tín tâm sanh:

Đã tin nhau ắt trọn lành mười mươi!




HẾT TẬP 1
Share on facebookShare on twit




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.