Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

15/08/2025

Chim trĩ trắng (bạch trĩ, 白雉) một niên hiệu trong hệ phả thiên hoàng Nhật Bản

Hệ thống "niên hiệu" (nguyên hiệu) của thiên hoàng Nhật Bản, tính đến nay có 232 niên hiệu (có một số thiên hoàng có vài niên hiệu; khoảng thời gian nội chiến Nam Bắc Triều, chia thành Bắc triều và Nam triều, thì theo thói quen Nam triều được tính là chính thống, còn nếu tính toàn bộ cả Nam triều cộng Bắc triều, thì con số niên hiệu lên tới 248).

Niên hiệu đầu tiên là Đại Hóa (大化 Taika) từ năm 645 đến năm 650. Thiên Hoàng lúc đó là Hiếu Đức Thiên Hoàng孝德天皇 - vị Thiên Hoàng đời thứ 36.

Niên hiệu thứ hai, thì chính là Bạch Trĩ (白雉 Hakuchi), từ năm 650 đến năm 655. Thiên Hoàng lúc đó, vẫn là Hiếu Đức Thiên Hoàng.

Hiếu Đức Thiên Hoàng như vậy là đã sử dụng 2 niên hiệu: Đại Hóa và Bạch Trĩ.

Niên hiệu thứ 232 là Lệnh Hòa (令和) - đức kim thượng hiện nay, tức Thiên Hoàng Đức Nhân 徳仁 (Naruhito) - vị Thiên Hoàng đời thứ 126.

1. Nguồn gốc của niên hiệu Bạch Trĩ, là do vua nước chư hầu Anatonokuni穴戸国 hiến chim trĩ trắng lên cho Thiên Hoàng. Triều đình xem chim trĩ trắng là điềm lành, nên lấy "Bạch Trĩ" đặt làm niên hiệu.

2. Trong cổ văn, chim trĩ trắng thường được xem là điềm lành.

3. Sách "Hán thư" (quyển 12, Bình Đế kỉ) có viết: "元始元年正月越裳氏重訳献白雉" (Nguyên Thủy nguyên niên, chính nguyệt, Việt Thường thị, trùng dịch hiến bạch trĩ). 

Có nghĩa là: Vào tháng Giêng năm Nguyên Thủy thứ nhất, Việt Thường thị hiến bạch trĩ, [sứ giả tới phải] phiên dịch qua mấy lần [mới thông hiểu ý].

"Hán thư" là sách sử được nhóm Ban Cố (đời Hậu Hán) biên soạn. Phần "bản kỉ" của bộ này có 12 quyển (phần "liệt truyện" có 70 quyển, phần "biểu" có 8 quyển).

Việt Thường thị là tộc người ở vùng đất phương Nam của nhà Hán. Sau này, sách "Lĩnh Nam chích quái" thì xem Việt Thường thị là vùng Giao Chỉ. Sách này kể rằng, Hùng Vương đã cử sứ giả mang bạch trĩ sang trung nguyên dâng tặng cho Chu Thành Vương.

4. Trong quyển 8 thuộc bộ sách "Luận Hoành" của nhóm Vương Sung (người thời Hậu Hán), có viết: " 周 時天下太平 越裳 獻白雉 倭 人貢鬯草" (Chu thời, thiên hạ thái bình, Việt Thường hiến bạch trĩ, oa nhân công thương thảo).

Có nghĩa là: "Thời nhà Chu, thiên hạ thái bình, Việt Thường hiến bạch trĩ, người Oa cống cỏ thơm".

Người Oa chính là chỉ người Nhật Bản sau này, là tộc người ở vùng đất về phía Đông của nhà Chu (sau này là nhà Hán).

Đại khái có nhiều sách vở xưa nói về bạch trĩ (xem cụ thể ở bổ sung 1).

Chúng ta cũng nhớ đến "Bạch trĩ truyện" trong Lĩnh Nam chích quái (xem cụ thể ở bổ sung 2).

5. Hình chim trĩ (kiji) được đưa lên tờ tiền giấy mệnh giá 1 Vạn Yên (10.000 Y). 


Chim trĩ cũng thân quen với hình vẽ đang chơi đùa cùng chàng Momotaro trong truyện cổ Nhật Bản.

Hình vẽ trong bộ sách được khắc in năm 1804 桃太郎のお供として描かれるキジ(画像左手前)。山東庵京伝(山東京伝)著『絵本宝七種』(蔦屋重三郎刊、1804年)より


6. Còn bạch trĩ, tức chim trĩ trắng, thì cần có diễn giải chuyên sâu của các nhà điểu học, động vật học. Đại khái tên khoa học của bạch trĩ là Lophura nycthemera.

Hình ảnh của chim trĩ trắng đại khái như ở dưới (hình ảnh chỉ có tính minh họa đại khái, dẫn theo wiki mà thôi):





Tháng 8 năm 2025,
Giao Blog



---

BỔ SUNG


5.

シロミミキジ

出典: フリー百科事典『ウィキペディア(Wikipedia)』
シロミミキジ
シロミミキジ
シロミミキジ Crossoptilon crossoptilon
保全状況評価[a 1][a 2]
NEAR THREATENED
(IUCN Red List Ver.3.1 (2001))
Status iucn3.1 NT.svg
Status iucn3.1 NT.svg
分類
ドメイン:真核生物 Eukaryota
:動物界 Animalia
:脊索動物門 Chordata
亜門:脊椎動物亜門 Vertebrata
:鳥綱 Aves
:キジ目 Galliformes
:キジ科 Phasianidae
:ミミキジ属 Crossoptilon
:シロミミキジ C. crossoptilon
学名
Crossoptilon crossoptilon
(Hodgson1838)
和名
シロミミキジ
英名
White eared-pheasant

シロミミキジ(白耳雉、Crossoptilon crossoptilon)は、キジ目キジ科ミミキジ属に分類される鳥類。ミミキジ属の模式種。別名シロカケイ

分布

  • C. c. crossoptilon

中華人民共和国[1]雲南省北西部、四川省西部)[2]

  • C. c. dolani

中華人民共和国(青海省南部)[2]

  • C. c. drouynii

中華人民共和国(チベット自治区南東部)[2]

  • C. c. harmani チベットシロミミキジ

インド北部、中華人民共和国(チベット自治区南東部)[1][2]

形態

全長86-96センチメートル[1]。翼長オス27.2-34センチメートル、メス26.5-30.8センチメートル[2]体重オス1.8-2.8キログラム、メス1.6-2キログラム[2]。尾羽の枚数は20枚で、中央部の尾羽は房状にならない[2]。頬から後頭にかけて羽毛がやや伸長する[1]。ミミキジ属の属名Crossoptilon、および種小名crossoptilonは「房状の羽」の意で、頬から伸長する羽毛に由来する[2]。また和名や英名earedはこの羽毛が耳のように見えることに由来する[2]。しかし本種の羽毛は属内では発達せず不明瞭[2]。頭頂の羽衣は黒い[1]。尾羽は紫みを帯びた白や灰色で、先端は青緑色[2]

顔には羽毛が無く、赤い皮膚が裸出する[1]虹彩は橙色[2]。嘴は赤みを帯びた黄色[2]

卵は長径6センチメートル、短径4.2センチメートル[2]。殻は淡灰色や淡褐色、灰緑色[2]

  • C. c. crossoptilon

胴体の羽衣は白く、翼は暗灰色[2]

  • C. c. dolani

全身の羽衣は淡灰色、腹部の羽衣は白い[2]

  • C. c. drouynii

全身の羽衣は白い[2]

  • C. c. harmani チベットシロミミキジ

全身の羽衣は灰色や青灰色、腰の羽衣や尾羽基部の上面を被う羽毛(上尾筒)は白い[2]

分類

亜種チベットシロミミキジを独立種とする説もある[1][2]

  • Crossoptilon crossoptilon crossoptilon Hodgson, 1838
  • Crossoptilon crossoptilon dolani
  • Crossoptilon crossoptilon drouynii
  • Crossoptilon crossoptilon harmani Elwes, 1881 チベットシロミミキジ

生態

標高3,000-5,000メートルにある森林などに生息する[1]。冬季になると標高2,400-2,800メートル周辺まで移動する[1]

食性は雑食で、球根果実などを食べる[2]

繁殖形態は卵生。木の根元に卵を産んだ例があり、4-7回の卵を産む[2]。抱卵期間は24-25日[2]

人間との関係

開発による生息地の破壊、食用や飼育、剥製目的の乱獲などにより生息数は減少している[1]

参考文献

  1. a b c d e f g h i j 小原秀雄・浦本昌紀・太田英利・松井正文編著 『動物世界遺産 レッド・データ・アニマルズ1 ユーラシア、北アメリカ』、講談社2000年、86、189頁。
  2. a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w 黒田長久、森岡弘之監修 『世界の動物 分類と飼育10-I (キジ目)』、東京動物園協会、1987年、110、126、176頁。

関連項目

外部リンク

  1. ^ CITES homepage
  2. ^ The IUCN Red List of Threatened Species
    • BirdLife International 2008. Crossoptilon crossoptilon. In: IUCN 2010. IUCN Red List of Threatened Species. Version 2010.4.
    • BirdLife International 2008. Crossoptilon harmani. In: IUCN 2010. IUCN Red List of Threatened Species. Version 2010.4.

https://ja.wikipedia.org/wiki/%E3%82%B7%E3%83%AD%E3%83%9F%E3%83%9F%E3%82%AD%E3%82%B8







白马鸡



维基百科,自由的百科全书
白马鸡
时长:15秒。
科学分类编辑
界:动物界 Animalia
门:脊索动物门 Chordata
纲:鸟纲 Aves
目:鸡形目 Galliformes
科:雉科 Phasianidae
属:马鸡属 Crossoptilon
种:
白马鸡 C. crossoptilon
二名法
Crossoptilon crossoptilon
(Hodgson, 1838)

白马鸡学名Crossoptilon crossoptilon)又名雪雉、历史上也曾经被称作藏马鸡(当时认为藏马鸡系本物种的一个亚种,根据分布地域将当时本物种的各个亚种统称为藏马鸡),是中国特有鸟种

生态环境

白马鸡是典型的高原类,生活在海拔3000米至雪线之间的高原。多结成二十到三十只的小群活动于海拔相对较低的松林或橡树林的林缘地带,或活动于海拔较高的高山杜鹃丛中,常见与血雉雉鹑等其他物种混群。本物种不喜欢空旷平阔的环境,但不似马鸡属其他物种那般胆小,有时会结群活动至藏民的藏包附近。

分布地域

白马鸡仅见于中国西藏东部、甘肃青海南部、云南四川西部的高原地带

外形特征

白马鸡系体形较大的雉类,体长可达近1米。雄雌同形同色。成鸟头顶黑色,为细密的绒状羽毛,面部为同样细密的红色绒状羽毛,分布

白马鸡面部特写

在眼周区域,一双白色的耳状羽较之同属其他种类要稍短一些,并不突出在头部以外,同时由于体羽亦为白色,对比甚不鲜明,因此耳羽不甚显著;上下体羽色为纯白色,羽毛蓬松粗大,目测观察颇有哺乳动物皮毛的质感;翅上覆羽尾上覆羽均沾蓝灰色,次级飞羽蓝黑色;尾羽基部白色至端部逐渐过渡为蓝黑色。整体给人感觉自头而尾从双腿以后开始逐渐过渡为蓝黑色。虹膜橘黄色;浅粉色;脚红色,有。安静状态下的叫声:播放

分类

白马鸡 Crossoptilon crossoptilon是马鸡属中亚种最多的一个。

  • 指名亚种 C. c. crossoptilon
  • 丽江亚种 C. c. lichiangense
  • 昌都亚种 C. c. drouynii
  • 玉树亚种 C. c. dolani

生态习性

白马鸡为典型的植食性鸟类,它们的食物包括高原野生植物如蕨类植物、苔藓、草根和农作物如青稞种子等,偶尔取食一些昆虫,主要包括鞘翅目鳞翅目的虫子。

野外繁殖不详,鸟类学者郑作新曾在青海玉树采集到过一个白马鸡的巢,隐藏在朽倒的枯木下,由云杉枝、苔藓、枯草、羽毛搭建而成。

保护现状

    • CITES濒危等级: 附录I 生效年代:1997年
    • IUCN濒危等级: 易危 生效年代:1996年
    • IUCN濒危等级: 近危 生效年代:2003年
    • 中国国家重点保护等级: 二级 生效年代:1989年
    • 中国濒危动物红皮书等级: 易危 生效年代:1996年
    • 濒危因素:栖息地破坏、非法捕猎和天敌威胁是造成本物种濒危的主要因素,最适宜白马鸡栖息的林带在当地是主要的用材林,因此本物种适宜的栖息地正在不断萎缩造成对本物种的威胁;当地居民捕猎本物种和掏取本物种鸟卵作为食物有很长的历史,而且本物种的尾羽曾经被用来制作装饰品,都使本物种面临非法捕猎的威胁。

參考



https://zh.wikipedia.org/wiki/%E7%99%BD%E9%A9%AC%E9%B8%A1


Trĩ trắng

Trĩ trắng
Duration: 15 seconds.
CITES Phụ lục I (CITES)[2]
Phân loại khoa họcedit
Vực:Eukaryota
Giới:Animalia
Ngành:Chordata
Lớp:Aves
Bộ:Galliformes
Họ:Phasianidae
Chi:Crossoptilon
Loài:
C. crossoptilon
Danh pháp hai phần
Crossoptilon crossoptilon
(Hodgson, 1838)

Trĩ trắng (Danh pháp khoa họcCrossoptilon crossoptilon) là một loài chim trĩ trong họ Phasianidae[3] phân bố ở vùng Đông Á và Đông Nam Á. Đây là một loài chim đẹp và quý hiếm trong nhiều loại chim trĩ song trĩ trắng có bộ lông đẹp hơn cả, đặc biệt là trĩ trống có khả năng đạp mái tần suất rất cao, có thể đạp nhiều mái trong vài phút.

Ở Việt Nam, đây là loài phân bố hẹp nên số lượng rất ít, chim trĩ trắng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam, ngoài gia còn có ở rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa Thiên Huế)[4]. Trong lịch sử, trĩ trắng là sản vật cống phẩm của nước Việt Nam thời cổ cho các vương triều Trung Quốc.

Đặc điểm

Chim trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5–2 kg, lông đuôi có thể đạt 0,4 – 0,6m, tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả. Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống và đuôi ngắn hơn, trọng lượng bình quân của một chim mái trưởng thành khoảng 0,7–1,3 kg. Trĩ trắng có đuôi dài và nhỏ, chúng có màu sắc tuyệt đẹp và chất lượng lông tuyệt vời. Bề ngoài chúng có bộ lông trắng muốt và sáng, khuôn mặt của chúng có lớp da màu đỏ rực.

Sinh sản

Không chỉ có màu sắc tuyệt đẹp và chất lượng lông tuyệt vời, chim trĩ trắng trống còn có khả năng giao phối mạnh trong các loài chim, khi một con chim trĩ trống có thể đạp 3 chim mái 4 lần trong chưa đầy 5 phút. Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quản lý và giao phối với rất nhiều chim mái. Với bản tính rất hăng về dục vọng, một chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn, có những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp liên hồi tới 4 lần/3 chim mái.

Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ vì khiến chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn, bị dập trứng, hoặc lồi zoong (tuột hậu môn) đôi khi có vấn đề về tâm, sinh lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến thế hệ chim mới sinh ra. việc nuôi với tỷ lệ chim trĩ trắng mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng, đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống với 3 mái. Một năm chúng cũng có thể cho năng suất từ 80-120 trứng.

Trong lịch sử

Sử Trung Quốc cho biết, khi Chu Công nhiếp chính người nước Việt Thường đi bằng ba con voi đến dâng chim trĩ trắng cho Chu Thành vương[5][6] Theo sách Việt sử lược vào thời Chu Thành vương bộ lạc Việt Thường thị cho người đến dâng chim trĩ trắng.[7] Theo "Tư trị thông giám cương mục" thì vào năm thứ sáu kể từ khi Chu Thành vương lên ngôi, tức là năm Tân Mão, người nước Việt Thường thị đến dâng chim trĩ trắng[8] Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng có nói tới chuyện người Việt Thường thị dâng chim trĩ cho nhà Chu, nội dung hoàn toàn giống với chuyện kể trong "Tư trị thông giám cương mục".[9]

"Hậu Hán thư" (後漢書), quyển 86, Nam Man Tây Nam Di liệt truyện đệ thất thập lục (南蠻西南夷列傳第七十六) có đoạn nói rằng Chu Công nhiếp chính năm thứ 6 sứ giả nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ (交阯) dâng chim trĩ trắng (白雉 bạch trĩ) cho Chu Công. "Hậu Hán thư" viết là "Việt Thường dĩ tam tượng trùng dịch nhi hiến bạch trĩ" 越裳以三象重譯而獻白雉. "Việt sử lược", quyển thượng (卷上), Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thuật gọn trong một câu[10]Việt Thường Thị mới đem dâng chim trĩ trắng. "Đại Việt sử ký toàn thư", Ngoại kỷ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỷ, Hùng vương ghi cụ thể hơn[11]Nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", Tiền biên, quyển 1 ghi cụ thể nhất về sự kiện này: Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng.

Chú thích

  1. ^ BirdLife International (2016). "Crossoptilon crossoptilon"Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa2016: e.T22679292A92809416. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T22679292A92809416.en. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ "Appendices | CITES"cites.org. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ Clements, J. F.; Schulenberg, T. S.; Iliff, M. J.; Wood, C. L.; Roberson, D.; Sullivan, B.L. (2012). "The eBird/Clements checklist of birds of the world: Version 6.7". Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  4. ^ "Trĩ trắng - loài chim tuyệt đẹp có tài giao phối thiên hạ vô địch". Báo điện tử báo Nông thôn Ngày nay. ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2016.
  5. ^ 尚書大傳/卷2, 維基文庫, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  6. ^ 後漢書/卷86, 維基文庫, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ 越史略/卷上, 維基文庫, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  8. ^ 朱熹, 商輅. 資治通鑑綱目: 前編二五卷, 正編五九卷, 續編二七卷, 第 1-8 卷. Google 图书. 第80页 và 第81页.
  9. ^ 欽定越史通鑑綱目 國史館朝阮 • Khâm định Việt sử thông giám cương mục (quyển thủ-01) Quốc sử quán triều Nguyễn, trang 54, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  10. ^ Đại Việt sử lược, tr 25
  11. ^ "Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển 1"Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.



https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C4%A9_tr%E1%BA%AFng


4.

Truyền kỳ về nước Việt Thường thời xưa

越裳氏

Tích Dã

I. Dẫn nhập

Việt Thường (chữ Hán: 越裳, còn được viết là 越常, 越嘗), còn gọi là nước Việt Thường (Việt Thường quốc 越裳國) hoặc họ Việt Thường (Việt Thường thị 越裳氏) là một quốc gia hoặc bộ lạc cổ đại được nhắc đến trong một số thư tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam.

II. Diễn văn

1. Nước Việt Thường được nhắc đến đầu tiên ở thời Hán 漢 với chuyện dâng chim trĩ cho vua Châu Thành Vương 周成王, cho biết nước ấy ở phía nam đất Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾 hoặc 交阯), nhưng không nói rõ ở vùng nào.

Thượng thư đại truyện – Đại cáo 尚書大傳 – 大誥 (Hán 漢 – Phục Thắng 伏勝 soạn):

交阯之南,有越裳國。周公居攝六年,制禮作樂,天下和平。越裳以三象,重譯而獻白雉,曰道路悠遠,山川阻深,音使不通,故重譯而朝。成王以歸周公。公曰:德不加焉,則君子不饗其質。政不施焉,則君子不臣其人;吾何以獲此賜也?其使請曰:吾受命吾國之黃耇,曰久矣天之無烈風澍雨,意者中國有聖人乎?有則,盍往朝之。周公乃歸之於王,稱先王之神,致以薦於宗廟。周德既衰,於是稍絕。

Phía nam đất Giao Chỉ có nước Việt Thường. Châu Công (tên Cơ Đán 姬旦) nhiếp chính được sáu năm, đặt lễ làm nhạc, thiên hạ hòa bình. Người nước Việt Thường qua quan Tam tượng (tức Tượng tư 象胥: chức quan phiên dịch thời nhà Châu) nhiều lần phiên dịch mà dâng chim trĩ trắng, nói: “Đường đi xa xôi, sông núi sâu hiểm, tin tức không thông, cho nên nhiều lần phiên dịch mà đến chầu.” Thành Vương đem cho Châu Công, Châu Công nói: “Đức không trùm nước người thì quân tử không hưởng lễ vật của nước người. Lệnh không đến nước người thì quân tử không bắt nước người xưng thần. Ta cớ gì mà nhận lễ vật ấy?” Sứ giả nước ấy nói: “Tôi vâng lệnh ông kẹ (ông già, tộc trưởng) nước tôi nói nhiều năm nay trời không có mưa rào gió lốc, nghĩ là Trung Quốc có thánh nhân chăng? Có thì cho nên đến chầu vậy.” Châu Công lại trả cho Thành Vương, ca ngợi công đức của tiên vương, đem cúng tế ở tông miếu. Sau này nhà Châu đức suy, (nước Việt Thường) dần dần dứt qua lại.

Luận hành – Nho tăng 論衡 – 儒增 (Hán 漢 – Vương Sung 王充 soạn):

周時天下太平,越裳獻白雉,倭人貢鬯草。

Thời nhà Châu thiên hạ thái bình, người nước Việt Thường dâng chim trĩ trắng, người nước Oa cống cây lúa nếp.

2. Chuyện nước Việt Thường dâng chim trĩ trở thành biểu tượng cho việc Man Di mến mộ sự thịnh trị của Trung Quốc. Cho nên cuối thời Tây Hán, ngoại thích quyền thần là Vương Mãng 王莽 phụ chính, ngầm sai quận Ích Châu 益州 (thuộc đất Nam Trung 南中, tức tỉnh Vân Nam 雲南 ngày nay) mạo xưng là họ Việt Thường đến cống chim trĩ để tâng bốc công lao của mình.

Tiền Hán kỷ – Hiếu Bình Hoàng Đế kỷ 前漢紀 – 孝平皇帝紀 ( Hán 漢 – Tuân Duyệt 旬悅 soạn ):

元始元年春正月,越裳氏重譯獻白雉一,黑雉二。莽令益州諷使之也。群臣奏言莽功德比周公,宜賜號安漢公,益封三萬戶,莽固辭封。

Năm Nguyên Thủy đầu tiên (năm 1 sau Công nguyên), mùa xuân, tháng giêng, họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch dâng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen. Là do (Vương) Mãng lệnh cho quận Ích Châu làm nên chuyện ấy vậy. Bầy tôi tấu nói công đức của Mãng sánh với Châu Công, nên ban hiệu là An Hán Công, phong thêm thực ấp ba vạn hộ. Mãng cố từ chối phong thêm.

3. Muộn nhất đến thời Tam quốc và thời Tấn thì người ta xác định vị trí nước Việt Thường thời nhà Châu ở quận Cửu Đức 九德 (ở phía nam sông sông Lam thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) hoặc ở nước Lâm Ấp 林邑 (ở phía nam đèo Ngang, tức huyện Tượng Lâm 象林 thuộc miền trung Việt Nam ngày nay), tức nước Chiêm Thành 占城 sau này.

Thủy kinh chú 水涇注 của người thời Bắc Ngụy 北魏 là Lịch Đạo Nguyên 酈道元 dẫn Lâm Ấp ký 林邑記 (Tác giả khuyết danh soạn):

九德,九夷所極,故以名郡。郡名所置,周越裳氏之夷國。《周禮》,九夷遠極越裳。白雉、象牙,重九譯而來。自九德通類口,水源從西北遠荒,逕寧州界來也。九德浦內逕越裳究、九德究、南陵究。

Quận Cửu Đức là chỗ cuối cùng của Cửu Di, cho nên đặt tên quận như vậy. Đặt ra quận ấy, vốn là nước Man Di của họ Việt Thường thời nhà Châu. Châu lễ có nói “Chỗ xa nhất của Cửu Di là nước Việt Thường, đem chim trĩ trắng và ngà voi, nhiều lần phiên dịch mà đến chầu.” Từ cửa Thông Loại quận Cửu Đức, nguồn nước chảy ra từ miền xa vắng phía tây bắc, chảy qua đất Ninh châu mà đến đây. Từ bến Cửu Đức đi đến suối Việt Thường, suối Cửu Đức, suối Nam Lăng.

Cổ kim chú 古今注 (Tấn 晉 – Thôi Báo 崔豹 soạn):

大駕指南車,起黃帝與蚩尤戰於涿鹿之野。蚩尤作大霧,兵士皆迷,於是作指南車,以示四方,遂擒蚩尤,而即帝位。故後常建焉。舊說周公所作也。周公治致太平,越裳氏重譯來貢白雉一,黑雉二,象牙一,使者迷其歸路,周公錫以文錦二匹,軿車五乘,皆為司南之制,使越裳氏載之以南。緣扶南林邑海際,期年而至其國。使大夫宴將送至國而還,亦乘司南而背其所指,亦期年而還至。

Xe giá lớn chỉ nam có từ thời Hoàng Đế đánh nhau với Xi Vưu ở cánh đồng Trác Lộc. Bấy giờ Xi Vưu làm ra sương mù, quân lính đều lạc đường, do đó (Hoàng Đế) làm ra xe chỉ nam để xác định bốn hướng, cuối cùng bắt được Xi Vưu mà lên ngôi vua. Cho nên người đời sau cũng thường làm xe này. Có thuyết xưa nói là do Châu Công làm nên. Châu Công trị thiên hạ thái bình, họ Việt Thường nhiều lần phiên dịch đến cống một con chim trĩ trắn, hai con chim trĩ đen, một cái ngà voi. Sứ giả quên đường về nước, Châu Công tặng cho hai bó lụa thêu và năm cỗ xe lớn đều có kim chỉ nam, sai người họ Việt Thường chở nó để về phía nam, men theo bờ biển Lâm Ấp-Phù Nam, trong năm đó thì về đến nước ấy, sai quan Đại phu cũng đi theo hộ tống đến nước ấy rồi về, cũng ngồi quay lưng xe chỉ nam ấy trong năm thì về được.

Tấn thư – Địa lí chí 晉書 – Địa lý chí 地理志 (Đường 唐 – Phòng Huyền Linh 房玄齡 soạn):

九德郡吳置,周時越常氏地。

Quận Cửu Đức đặt ra từ thời nhà Ngô (thời Tam quốc), là đất của họ Việt Thường thời nhà Châu.

Nam Tề thư – Châu quận chí 南齊書 – 州郡志 (Nam Lương 南梁 – Tiêu Tử Hiển 蕭子顯 soạn):

九德郡,九德、咸驩、浦陽、南陵、都洨、越常、西安。

Quận Cửu Đức gồm các huyện Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Giao, Việt Thường, Tây An.

Cựu Đường thư – Địa lý chí 舊唐書 – 地理志 (Hậu Tấn 後晉 – Lưu Hú 劉昫 soạn):

九德州所治。古越裳氏國。

Huyện Cửu Đức là sở trị của (Hoan 驩) châu. Là nước của họ Việt Thường thời xưa.

Lương thư – Chư di liệt truyện 梁書 – 諸夷列傳 (Đường 唐- Diêu Tư Liêm 姚思廉 soạn):

林邑國者,本漢日南郡象林縣,古越裳之界也。

Nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam thời Hán, là đất của nước Việt Thường thời xưa.

Thù vực châu tư lục 殊域周咨錄 (Minh 明 – Nghiêm Tòng Giản 嚴從簡 soạn):

占城國,古越裳氏界。

Nước Chiêm Thành là dất của họ Việt Thường thời xưa.

4. Thời Nam bắc triều ghi chuyện người nước Việt Thường dâng rùa thần cho vua Nghiêu 堯 nhà Đào Đường 陶唐.

Thuật dị chí 述異記 (Nam Lương 南梁 – Nhâm Phưởng 任昉):

陶唐之世越常國獻千歳神龜方三尺餘,背上有文科斗書,記開闢已來。帝命録之謂之龜厯。伏滔述帝功徳銘曰胡書龜厯之文。

Vào thời Đào Đường, người nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn năm, vuông hơn ba thước, trên lưng (mai rùa) có lời văn viết bằng chữ khoa đẩu (chữ hình giống con nòng nọc), ghi từ thủa khai tịch đến nay. Vua (Nghiêu) sai ghi lại gọi là lịch rùa. Thuật đế công đức minh của Phục Thao (Phục Thao 伏滔: tác giả thời Tấn 晉) chép “Dùng chữ người Hồ (chắc là một dạng chữ Phạn) ghi lịch rùa.”

5. Đến thời Minh 明 – Thanh 清 lại nói nước Lão Qua ( Lão Qua 老撾, hoặc tên Nam Chưởng 南掌, tức nước Lào ngày nay) là đất Việt Thường xưa.

Chi Phong loại thuyết 芝峯類說 (Triều Tiên 朝鮮 – Lý Túy Quang 李睟光 soạn):

老撾國在安南西南。古越裳之國。

Nước Lão Qua ở phía tây nam nước An Nam, là nước của họ Việt Thường thời xưa.

Thánh vũ ký 聖武記 (Thanh 清 – Ngụy Nguyên 魏源 soạn):

老撾 即古 越裳氏 , 景 邁 二國即 八百息婦國 ,皆來貢象。

Nước Lão Qua là đất của họ Việt Thường thời xưa, cùng nước Cảnh Mại tức nước Bát Bách Tức Phụ, hai nước đều đến cống voi (cho nhà Thanh).

6. Sử Việt chép nước họ Việt Thường là một bộ của nước Văn Lang 文郎, hoặc Hùng Vương 雄王 sai sứ tự xưng.

Việt sử lược 越史略 (Tác giả khuyết danh thời Trần 陳):

昔黃帝既建萬國,以交趾遠在百粵之表,莫能統屬,遂界於西南隅,其部落十有五焉,曰交趾、越裳氏、武寧、軍寧、嘉寧、寧海、陸海、湯泉、新昌、平文、文郎、九真、日南、懷驤、九德,皆禹貢之所不及。

Ngày xưa Hoàng Đế đã dựng muôn nước, vì đất Giao Chỉ xa ở ngoài cõi Bách Việt, chẳng thống thuộc được, bèn đặt ranh giới ở góc tây nam, trong đó có mười lăm bộ lạc là Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thang Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, Cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Hoan, Cửu Đức. Đều không được sách Vũ cống nói đến.

Lĩnh Nam chích quái – Bạch trĩ truyện 嶺南摭怪 – 白雉傳(Trần 陳 – Trần Thế Pháp 陳世法 soạn):

周成王時,雄王命其臣稱越裳氏,獻白雉於周。其言語不通,周公使人重譯,然後相通。周公問曰:「何為而來?」越裳氏應曰:「今天無淫雨、海不揚波三年矣。意者中國有聖人矣,故來。」周公嘆曰:「政令不施,君子不臣其人;德澤不加,君子不享其物。及記黃帝所誓曰:『交趾方外,無得侵犯。』」賞以重物,教戒放回。越裳使忘其歸路,周公命賜之駢車五乘,皆為向南之制。越裳氏載之由扶南、林邑海渚,期年而至其國,故指南車常為先導。

Vào thời vua Thành Vương nhà Châu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ trắng sang cống cho nhà Châu. Vì ngôn ngữ bất đồng, Châu Công phải sai sứ qua nhiều lần dịch mới hiểu nhau được. Châu Công hỏi: “Tại sao tới đây?” Người họ Việt Thường đáp: “Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy tới đây.” Châu Công than rằng: “Chính lệnh không thi hành thì người quân tử không bắt được kẻ khác thần phục mình, đức trạch không mở rộng thì người quân tử không hưởng lễ vật của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu thề rằng “Đất Giao Chỉ ở ngoài cõi, không được xâm phạm.” Bèn ban thưởng cho phẩm vật, răn dạy mà cho về. Người họ Việt Thường quên đường về, Châu Công bèn ban cho năm cỗ to đều có kim chỉ nam. Người họ Việt Thường nhận lấy rồi theo bờ biển Phù Nam-Lâm ấp, đi một năm thì về tới nước. Cho nên xe chỉ nam thường dùng để đi trước dẫn đường.

III. Kết luận

Niên đại xa xôi lại ít được ghi chép, cho nên phần lớn là do người đời sau suy diễn chủ quan theo ý mình. Theo chủ ý của người viết Tích Dã thì nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ tức đất quận Cửu Đức 九德 thời nhà Đông Ngô là đáng tin hơn, vì được sách vở ghi nhận sớm nhất, ở đó còn có huyện Việt Thường 越裳 để ghi nhận đất cũ vậy.

https://nghiencuulichsu.com/2020/10/05/truyen-ky-ve-nuoc-vie%CC%A3t-thuong-thoi-xua/

3.

Việt Thường Thị ở đâu? Văn Lang ở đâu?

tải xuống.jpg

Hà Văn Thuỳ

 

I. Hai quan niệm về Việt Thường thị

  1. Chủ trương có nước Việt Thường miền Cửu Chân

Cuốn sách sớm nhất nhắc tới Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”

Về vị trí nước Việt Thường, có nhiều sách giải thích khác nhau: Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.

Sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại ghi rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Những tài liệu trên đã ảnh hưởng tới các nhà nho cùng học giả người Việt:

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: “Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình”, rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.” Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi cụ thể hơn: “Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: “Đức trạch chưa thấm khắp đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục”. Theo lời thông dịch, sứ giả muốn nói: “Ông già trong nước chúng tôi có nói: “Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng?” Vì thế, chúng tôi sang chầu”. Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tông miếu. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền đều làm theo lối chỉ nam. Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.”

Do ảnh hưởng dây chuyền như vậy mà về sau càng nhiều người chủ trương Việt Thường thị là vùng Nghệ Tĩnh ngày nay.

  1. Phái phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam

Hơn nửa thế kỷ trước, năm 1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa – Thông Tin, 2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng…” Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.

(Các sách xưa) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…

Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được. Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi. Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách… Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương… ” (tr. 215-217)

Mười năm trước, kỹ sư hàng hải trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục: “Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán.” (Trương Thái. Du Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam.http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)

II. Kiến giải của chúng tôi

  1. Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt Nam

Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Trung Quốc là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:

  1. Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm gì có Việt Thường ở Việt Nam.
  2. Giả sử nhà nước Việt Thường ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết, nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung với Trung Nguyên quá xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “”Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết phục!

Chỉ bằng lập luận này đã đủ bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ – Việt Thường trong các cổ thư trên là địa danh ở Việt Nam.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới ra đời năm 192 sau Công Nguyên thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời này?! Thêm nữa, làm thế nào mà sứ giả từ Nam Hoàng Hà đi xuống tận đồng bằng sông Cửu Long rồi ngược lên Nghệ Tĩnh ? Làm sao mà tin được chuyện vô lý như vậy? Khi biết rằng, Hậu Hán thư chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!

Tại sao hàng trăm năm các học giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!

  1. Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.

Chúng tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn. Quá trình lịch sử có thể diễn ra như sau:

Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, do nước dâng nhấn chìm kinh đô Lương Chử, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳) là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca… Là một phần của văn hóa Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.

Vào đời Hạ, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường, học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân, Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình. Như được chép trong Hậu Hán thư: “Sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt (越) của vua Câu Tiễn.

Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình. Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm trước – sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân – mang về quê cũ Việt Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được tiếng Việt nên Việt Thường nói trại thành Việt Chương?

Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái cột mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của nhà nước Hoàng Đế, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, “cột mốc”mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ, thì việc người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!

III. Kết luận

Sách sử cùng nhiều chứng lý khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.

Để phản bác chủ trương “Việt Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu sinh để cố sống cố chết trì bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc xứ Nghệ thì đó chỉ là vật ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!

Vu Lan năm 2015

Tái bút,

Thưa bạn đọc, bài trên tôi viết bốn năm trước, nay xin bổ sung đôi điều.

Sau khi công bố bài “Xóa bỏ huyền thoại nhà nước Văn Lang 2700 năm,” tôi nhận được câu hỏi: Vậy thì nước Văn Lang ở đâu?” Phải nói rằng, đó là điều bí ẩn nhất của Sử Việt. Lý do dẫn tới ngộ nhận về “Việt Thường thị xứ Nghệ” cũng chính là lý do dẫn tác giả Việt sử lược sai lầm khi cho rằng Văn Lang ra đời 700 năm TCN mà trung tâm là đồng bằng sông Hồng. Không thể có chuyện này vì nếu vậy thì lịch sử Việt Nam quá ngắn so với tầm vóc thực của nó và quan trọng hơn là khi đó chưa có đồng bằng sông Hồng. Vậy Văn Lang thực sự ở đâu và ra đời khi nào? Theo truyền thuyết Hồng Bàng thị, thì khi lên làm vua, Hùng Vương “lấy tên nước là Văn Lang.” Căn cứ vào ranh giới của Văn Lang có thể suy ra, Hùng Vương đã đổi quốc hiệu từ Xích Quỷ sang Văn Lang. Xích Quỷ tồn tại không đến 100 năm. Trong một bài công bố trước đây (Tổ tiên người Việt thực sự ở đâu?) tôi cho rằng, năm 2698 TCN, do bại trận ở Trác Lộc, Lạc Long Quân dẫn quân dân của mình xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Ngàn Hống rồi Hùng Vương lập nước Văn Lang xứ Nghệ. Một kịch bản “đẹp”tròn trịa cho lịch sử. Nhưng sau đó thấy sai, tôi đã rút lại ý tưởng tiểu thuyết ấy và hơn một lần xin lỗi bạn đọc.

Nay có thêm tư liệu, khảo cổ học cho thấy năm 2300 TCN, nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Văn Lang tan rã. Như vậy, Văn Lang của các Vua Hùng tồn tại gần 500 năm. Ta không bao giờ biết được trong thời gian ấy có bao nhiêu Vua Hùng và các vị làm được gì. Chỉ biết rằng, đã xảy ra sự kiện nghiêm trọng là họ Hiên Viên xâm lăng đất Việt ở Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế cùng cuộc kháng chiến khốc liệt, lâu dài của người Việt. Đất Việt ta đang sống quan hệ thế nào với Xích Quỷ-Văn Lang? Không chỉ liên hệ về máu huyết Lạc Việt họ tộc Hồng Bàng, nay ta còn tìm được tại  Uông Bí những mẫu vật ngọc Lương Chử, vào thời hưng thịnh nhất, trong đó tiêu biểu là chiếc gối khắc hình thần nhân thú diện- hình người mặt thú, hiện vật đặc hữu của văn hóa Lương Chử. Nhưng quý nhất là chiếc ấn hình rùa lớn, hình vuông, mỗi mặt khoảng 13 cm, có bốn chữ Giáp cốt. Theo thứ tự, ấn này có thể là của vị quan đứng đầu khu vực. Điều này chứng tỏ, đất Việt Nam xưa là bộ phận của nhà nước Xích Quỷ-Văn Lang.

12

Cũng đúng thời điểm 2300 TCN xảy ra chuyện Việt Thường thị tới cống vua Nghiêu. Tuy truyện này được viết ra rất muộn, vào thời nhà Tống nhưng có nhiều chi tiết thực (chữ khoa đẩu, lịch rùa) nên có thể tin được. Dựa theo vị trí của Nam Giao, ta biết Việt Thường thị ở Nam Dương Tử. Một câu hỏi: Việt Thường thị liên quan thế nào với Văn Lang? Sự thể có lẽ như sau: khi nước dâng, kinh đô và phần đất thấp phía Đông bị chìm. Dân cư Văn Lang di tản tới vùng cao. Vua quan của Văn Lang lập quốc gia Việt mới mà ta không không biết tên cụ thể. Do người Trung Hoa gọi là Việt Thường rồi ghi trong sử nên có tên Việt Thường thị. Nước Việt mặc váy không phải là quốc hiệu mà là tên gọi mang tính kỳ thị của ngoại bang. Về bản chất, Việt Thường là nhà nước của người Lạc Việt, họ Hồng Bàng, trên đất đai Văn Lang xưa. Từ thời Nghiêu đến Chu Thành vương (2300 – 1063), Việt Thường thị tồn tại hơn 1200 năm không hề có thông tin gì. Sau đó thì biết, trên vùng đất của Việt Thường xuất hiện nước Việt của Câu Tiễn. Một câu hỏi: Việt Thường thị tồn tại đến khi nào và liên quan gì tới Văn Lang của Hùng Duệ Vương?

Đấy vẫn là những bí ẩn của lịch sử!

 Sài Gòn,Thu 2019


 

10 thoughts on “Việt Thường Thị ở đâu? Văn Lang ở đâu?

  1. Cám ơn tác giả Hà Văn Thùy. Tôi vẫn thường ngóng các bài viết của ông; đôi khi các bài viết ấy còn thiếu một ít yếu tố hàn lâm, nhưng tựu trung lúc nào cũng thể hiện những nỗ lực không mệt mỏi của một tấm lòng với nền sử học quốc gia.

    Các bài viết của ông là những chất vấn lớn, và cũng là nguồn động viên lớn cho những lúc tôi mất tinh thần trong quá trình học hỏi. Tôi cũng từng trích dẫn từ ông cho một số nghiên cứu của mình (dưới một bút danh khác).

    Chúc ông khỏe mạnh và an lành.

    Thích

  2. Vị trí nước Việt Thường cống trĩ trắng trùng khớp với wan điểm nhóm Hùng Việt sử quán. Nhưng theo Hùng Việt sử quán nước Văn Lang chính là nhà Châu (Chu). “Văn” là Cơ Xương, “lang” là chức wan lang tương đương chức bá. Khi Chu Vũ Vương lên ngôi truy fong cho cho mình tước vương, thì trong sử dân jan truyền miệng (wen miệng gọi ông là lang) nên lang cũng mang nghĩa vương theo dòng sử dân jan. Nhà nước Văn lang chính là nhà nước kiến lập bởi Chu Văn vương. Lãnh thổ trải dài từ Vân Nam (Kiểu Kinh hay Cảo Kinh, với cảo, kiểu, cửu là trại âm của nhau đều mang nghĩa dịch học là fương Tây), đến vùng Thanh Hải. Sau nhà Chu dời đô về Đông đô (Tam Jang nơi hợp lưu 3 con sông Đà, Lô…) v.v…
    Đó là những jì tôi đọc wa dòng sử Hùng Việt của Hùng Việt sử wán.

    Thích

    • @Fthinh.

      Nhà Chu dời đô về Đông đô (tam jang nơi hợp lưu 3 con sông Đà, Lô) ?. Từ mạn Hà nam đến vùng này khoảng cách rất xa, giao thông lúc đó chưa thuận tiện bị ngăn cách bởi sông Trường Giang và dãy Ngũ Lĩnh. Nhà Chu được lợi ích gì khi dời đô ?

      Thích

  3. Bài viết có tính giải trí cao nhưng hình ảnh minh họa làm giả kém quá. Điều đặc biệt là tác giả còn không phân biệt nổi chữ giản thể ở trên cái ấn bột đá ép kia thì ai có thể tin được lập luận của ông ấy.

    Thích

  4. Nước Việt Thường chính xác là vùng Hà Tĩnh ngày nay, tức thuộc quận Cửu Đức thời Đông Ngô, có huyện Việt Thường vốn là là tên nước cũ thời nhà Chu. Sử sách xưa nhất nói thế.

    Thích

    • Truyền kỳ về nước Việt Thường thời xưa

      I. Dẫn nhập

      Việt Thường (chữ Hán: 越裳, còn được viết là 越常, 越嘗), còn gọi là nước Việt Thường (Việt Thường quốc 越裳國) hoặc họ Việt Thường (Việt Thường thị 越裳氏) là một quốc gia hoặc bộ lạc cổ đại được nhắc đến trong một số thư tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam.

      II. Diễn văn

      1. Nước Việt Thường được nhắc đến đầu tiên ở thời Tây Hán 西漢 với chuyện dâng chim trĩ cho vua Châu Thành Vương 周成王, cho biết nước ấy ở phía nam đất Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾 hoặc 交阯), nhưng không nói rõ ở vùng nào.

      Thượng thư đại truyện – Đại cáo 尚書大傳 – 大誥 (Tây Hán 西漢 – Phục Thắng 伏勝 soạn):

      交阯之南,有越裳國。周公居攝六年,制禮作樂,天下和平。越裳以三象,重譯而獻白雉,曰道路悠遠,山川阻深,音使不通,故重譯而朝。成王以歸周公。公曰:德不加焉,則君子不饗其質。政不施焉,則君子不臣其人;吾何以獲此賜也?其使請曰:吾受命吾國之黃耇,曰久矣天之無烈風澍雨,意者中國有聖人乎?有則,盍往朝之。周公乃歸之於王,稱先王之神,致以薦於宗廟。周德既衰,於是稍絕。
      Phía nam đất Giao Chỉ có nước Việt Thường. Châu Công (tên Cơ Đán 姬旦) nhiếp chính được sáu năm, đặt lễ làm nhạc, thiên hạ hòa bình. Người nước Việt Thường qua quan Tam tượng (tức Tượng tư 象胥: chức quan phiên dịch thời nhà Châu) nhiều lần phiên dịch mà dâng chim trĩ trắng, nói: “Đường đi xa xôi, sông núi sâu hiểm, tin tức không thông, cho nên nhiều lần phiên dịch mà đến chầu.” Thành Vương đem cho Châu Công, Châu Công nói: “Đức không trùm nước người thì quân tử không hưởng lễ vật của nước người. Lệnh không đến nước người thì quân tử không bắt nước người xưng thần. Ta cớ gì mà nhận lễ vật ấy?” Sứ giả nước ấy nói: “Tôi vâng lệnh ông già (chỉ tộc trưởng) nước tôi nói nhiều năm nay trời không có mưa rào gió dữ, nghĩ là Trung Quốc có thánh nhân chăng? Có thì cho nên đến chầu vậy.” Châu Công lại trả cho Thành Vương, ca ngợi công đức của tiên vương, đem cúng tế ở tông miếu. Sau này nhà Châu đức suy, (nước Việt Thường) dần dần dứt qua lại.

      Luận hành – Nho tăng 論衡 – 儒增 (Đông Hán 東漢 – Vương Sung 王充 soạn):

      周時天下太平,越裳獻白雉,倭人貢鬯草。
      Thời nhà Châu thiên hạ thái bình, người nước Việt Thường dâng chim trĩ trắng, người nước Oa cống cây lúa nếp.

      2. Chuyện nước Việt Thường dâng chim trĩ trở thành biểu tượng cho việc Man Di mến mộ sự thịnh trị của Trung Quốc. Cho nên cuối thời Tây Hán, ngoại thích quyền thần là Vương Mãng 王莽 phụ chính, ngầm sai quận Ích Châu 益州 (thuộc đất Nam Trung 南中, tức tỉnh Vân Nam 雲南 ngày nay) mạo xưng là họ Việt Thường đến cống chim trĩ để tâng bốc công lao của mình.

      Tiền Hán kỷ – Hiếu Bình Hoàng Đế kỷ 前漢紀 – 孝平皇帝紀 (Đông Hán 東漢 – Tuân Duyệt 旬悅 soạn ):

      元始元年春正月,越裳氏重譯獻白雉一,黑雉二。莽令益州諷使之也。群臣奏言莽功德比周公,宜賜號安漢公,益封三萬戶,莽固辭封。
      Năm Nguyên Thủy đầu tiên (năm 1 sau Công nguyên), mùa xuân, tháng giêng, họ Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch dâng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen. Là do (Vương) Mãng lệnh cho quận Ích Châu làm nên chuyện ấy vậy. Bầy tôi tấu nói công đức của Mãng sánh với Châu Công, nên ban hiệu là An Hán Công, phong thêm thực ấp ba vạn hộ. Mãng cố từ chối phong.

      3. Muộn nhất đến thời Tam quốc 三國 và thời Tấn 晉 thì người ta xác định vị trí nước Việt Thường thời nhà Châu là ở quận Cửu Đức (Cửu Đức quận 九德郡: ở phía nam sông sông Lam thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) hoặc ở nước Lâm Ấp (Lâm Ấp quốc 林邑國: ở phía nam đèo Ngang, tức huyện Tượng Lâm 象林 thuộc miền trung Việt Nam ngày nay), tức nước Chiêm Thành (Chiêm Thành quốc 占城國) sau này.

      Thủy kinh chú 水涇注 của người thời Bắc Ngụy 北魏 là Lịch Đạo Nguyên 酈道元 dẫn Lâm Ấp ký 林邑記 (Tác giả khuyết danh soạn):

      九德,九夷所極,故以名郡。郡名所置,周越裳氏之夷國。《周禮》,九夷遠極越裳。白雉、象牙,重九譯而來。自九德通類口,水源從西北遠荒,逕寧州界來也。九德浦內逕越裳究、九德究、南陵究。
      Quận Cửu Đức là chỗ cuối cùng của Cửu Di, cho nên đặt tên quận như vậy. Đặt ra quận ấy, vốn là nước Man Di của họ Việt Thường thời nhà Châu. Châu lễ có nói “Chỗ xa nhất của Cửu Di là nước Việt Thường, đem chim trĩ trắng và ngà voi, nhiều lần phiên dịch mà đến chầu.” Từ cửa Thông Loại quận Cửu Đức, nguồn nước chảy ra từ miền xa vắng phía tây bắc, chảy qua đất Ninh châu mà đến đây. Từ bến Cửu Đức đi đến suối Việt Thường, suối Cửu Đức, suối Nam Lăng.

      Cổ kim chú 古今注 (Tấn 晉 – Thôi Báo 崔豹 soạn):

      大駕指南車,起黃帝與蚩尤戰於涿鹿之野。蚩尤作大霧,兵士皆迷,於是作指南車,以示四方,遂擒蚩尤,而即帝位。故後常建焉。舊說周公所作也。周公治致太平,越裳氏重譯來貢白雉一,黑雉二,象牙一,使者迷其歸路,周公錫以文錦二匹,軿車五乘,皆為司南之制,使越裳氏載之以南。緣扶南林邑海際,期年而至其國。使大夫宴將送至國而還,亦乘司南而背其所指,亦期年而還至。
      Xe giá lớn chỉ nam có từ thời Hoàng Đế đánh nhau với Xi Vưu ở cánh đồng Trác Lộc. Bấy giờ Xi Vưu làm ra sương mù, quân lính đều lạc đường, do đó (Hoàng Đế) làm ra xe chỉ nam để xác định bốn hướng, cuối cùng bắt được Xi Vưu mà lên ngôi vua. Cho nên người đời sau cũng thường làm xe này. Có thuyết xưa nói là do Châu Công làm nên. Châu Công trị thiên hạ thái bình, họ Việt Thường nhiều lần phiên dịch đến cống một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen, một cái ngà voi. Sứ giả quên đường về nước, Châu Công tặng cho hai bó lụa thêu và năm cỗ xe lớn đều có kim chỉ nam, sai người họ Việt Thường chở nó để về phía nam, men theo bờ biển Lâm Ấp-Phù Nam, trong năm đó thì về đến nước ấy, sai quan Đại phu cũng đi theo hộ tống đến nước ấy rồi về, cũng ngồi quay lưng xe chỉ nam ấy trong năm thì về được.

      Tấn thư – Địa lí chí 晉書 – Địa lý chí 地理志 (Đường 唐 – Phòng Huyền Linh 房玄齡 soạn):

      九德郡吳置,周時越常氏地。
      Quận Cửu Đức đặt ra từ thời nhà Ngô (thời Tam quốc), là đất của họ Việt Thường thời nhà Châu.

      Nam Tề thư – Châu quận chí 南齊書 – 州郡志 (Nam Lương 南梁 – Tiêu Tử Hiển 蕭子顯 soạn):

      九德郡,九德、咸驩、浦陽、南陵、都洨、越常、西安。
      Quận Cửu Đức gồm các huyện Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Giao, Việt Thường, Tây An.

      Cựu Đường thư – Địa lý chí 舊唐書 – 地理志 (Hậu Tấn 後晉 – Lưu Hú 劉昫 soạn):

      九德州所治。古越裳氏國。
      Huyện Cửu Đức là sở trị của (Hoan 驩) châu. Là nước của họ Việt Thường thời xưa.

      Lương thư – Chư di liệt truyện 梁書 – 諸夷列傳 (Đường 唐- Diêu Tư Liêm 姚思廉 soạn):

      林邑國者,本漢日南郡象林縣,古越裳之界也。
      Nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam thời Hán, là đất của nước Việt Thường thời xưa.

      Thù vực châu tư lục 殊域周咨錄 (Minh 明 – Nghiêm Tòng Giản 嚴從簡 soạn):

      占城國,古越裳氏界。
      Nước Chiêm Thành là đất của họ Việt Thường thời xưa.

      4. Thời Nam bắc triều ghi chuyện người nước Việt Thường dâng rùa thần cho vua Nghiêu 堯 nhà Đào Đường 陶唐.

      Thuật dị chí 述異記 (Nam Lương 南梁 – Nhâm Phưởng 任昉):

      陶唐之世越常國獻千歳神龜方三尺餘,背上有文科斗書,記開闢已來。帝命録之謂之龜厯。伏滔述帝功徳銘曰胡書龜厯之文。
      Vào thời Đào Đường, người nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn năm, vuông hơn ba thước, trên lưng (mai rùa) có lời văn viết bằng chữ khoa đẩu (chữ hình giống con nòng nọc), ghi từ thủa khai tịch đến nay. Vua (Nghiêu) sai ghi lại gọi là lịch rùa. Thuật đế công đức minh của Phục Thao (Phục Thao 伏滔: tác giả thời Tấn 晉) chép “Dùng chữ người Hồ (chắc là một dạng chữ Phạn) ghi lịch rùa.”

      5. Đến thời Minh 明 – Thanh 清 lại nói nước Lão Qua ( Lão Qua 老撾, hoặc tên Nam Chưởng 南掌, tức nước Lào ngày nay) là đất Việt Thường xưa.

      Chi Phong loại thuyết 芝峯類說 (Triều Tiên 朝鮮 – Lý Túy Quang 李睟光 soạn):

      老撾國在安南西南。古越裳之國。
      Nước Lão Qua ở phía tây nam nước An Nam, là nước của họ Việt Thường thời xưa.

      Thánh vũ ký 聖武記 (Thanh 清 – Ngụy Nguyên 魏源 soạn):

      老撾即古越裳氏 , 景邁二國即八百息婦國 ,皆來貢象。
      Nước Lão Qua là đất của họ Việt Thường thời xưa, cùng nước Cảnh Mại tức nước Bát Bách Tức Phụ, hai nước đều đến cống voi (cho nhà Thanh).

      6. Sử Việt chép nước họ Việt Thường là một bộ của nước Văn Lang 文郎, hoặc Hùng Vương 雄王 sai sứ tự xưng.

      Việt sử lược 越史略 (Tác giả khuyết danh thời Trần 陳):

      昔黃帝既建萬國,以交趾遠在百粵之表,莫能統屬,遂界於西南隅,其部落十有五焉,曰交趾、越裳氏、武寧、軍寧、嘉寧、寧海、陸海、湯泉、新昌、平文、文郎、九真、日南、懷驤、九德,皆禹貢之所不及。
      Ngày xưa Hoàng Đế đã dựng muôn nước, vì đất Giao Chỉ xa ở ngoài cõi Bách Việt, chẳng thống thuộc được, bèn đặt ranh giới ở góc tây nam, trong đó có mười lăm bộ lạc là Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thang Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, Cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Hoan, Cửu Đức. Đều không được sách Vũ cống nói đến.

      Lĩnh Nam chích quái – Bạch trĩ truyện 嶺南摭怪 – 白雉傳(Trần 陳 – Trần Thế Pháp 陳世法 soạn):

      周成王時,雄王命其臣稱越裳氏,獻白雉於周。其言語不通,周公使人重譯,然後相通。周公問曰:「何為而來?」越裳氏應曰:「今天無淫雨、海不揚波三年矣。意者中國有聖人矣,故來。」周公嘆曰:「政令不施,君子不臣其人;德澤不加,君子不享其物。及記黃帝所誓曰:『交趾方外,無得侵犯。』」賞以重物,教戒放回。越裳使忘其歸路,周公命賜之駢車五乘,皆為向南之制。越裳氏載之由扶南、林邑海渚,期年而至其國,故指南車常為先導。
      Vào thời vua Thành Vương nhà Châu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ trắng sang cống cho nhà Châu. Vì ngôn ngữ bất đồng, Châu Công phải sai sứ qua nhiều lần dịch mới hiểu nhau được. Châu Công hỏi rằng “Tại sao tới đây?” Người họ Việt Thường đáp nói: “Đời nay không có mưa dầm gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung Quốc có thánh nhân chăng, cho nên tới đây.” Châu Công than rằng: “Chính lệnh không thi hành thì người quân tử không bắ kẻ khác thần phục mình, đức trạch không mở rộng thì người quân tử không hưởng lễ vật của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu thề rằng “Đất Giao Chỉ ở ngoài cõi, không được xâm phạm.” Bèn ban thưởng cho phẩm vật, răn dạy mà cho về. Người họ Việt Thường quên đường về, Châu Công bèn ban cho năm cỗ to đều có kim chỉ nam. Người họ Việt Thường nhận lấy rồi theo bờ biển Phù Nam-Lâm ấp, đi một năm thì về tới nước. Cho nên xe chỉ nam thường dùng để đi trước dẫn đường.

      III. Kết luận

      Niên đại xa xôi lại ít được ghi chép, cho nên phần lớn là do người đời sau suy diễn chủ quan theo ý mình. Theo chủ ý của người viết Tích Dã (Tích Dã 辟野: nghĩa là cánh đồng hẻo lánh) thì nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ tức đất quận Cửu Đức 九德 thời nhà Đông Ngô là đáng tin hơn, vì được sách vở ghi nhận sớm nhất, ở đó còn ghi có suối Việt Thường (Việt Thường cứu 越裳究) có huyện Việt Thường (Việt Thường huyện 越裳縣) để ghi nhận đất cũ thời nhà Châu vậy.

      Thích

https://nghiencuulichsu.com/2019/09/23/viet-thuong-thi-o-dau-van-lang-o-dau/


2.


嶺南摭怪卷之一
白雉傳
武瓊(校正)、喬富(刪定)
卷之二 李翁仲傳


白雉傳


周成王時,雄王命其臣稱越裳氏,獻白雉於周。其言語不通,周公使人重譯,然後相通。周公問曰:「何為而來?」越裳氏應曰:「今天無淫雨、海不揚波三年矣。意者中國有聖人矣,故來。」周公嘆曰:「政令不施,君子不臣其人;德澤不加,君子不享其物。及記黃帝所誓曰:『交趾方外,無得侵犯。』」賞以重物,教戒放回。越裳使忘其歸路,周公命賜之駢車五乘,皆為向南之制。越裳氏載之由扶南、林邑海渚,期年而至其國,故指南車常為先導。

後孔子作《春秋》,以文郎國為要荒之地,文物未備,故置之而不載焉。舊本曰:周公問曰:「交趾短髮文身,露頭跣足黑齒,何由若是也?」越裳氏應曰:「短髮以便山林之入。文身以為龍君之形,游泳於河,蛟龍不犯。跣足以便緣木。刀耕火種,露頭以避炎熱。食檳榔以除污穢,故黑齒。」


1.

中國哲學書電子化計劃
 ->  ->  ->  -> 白雉

《白雉》

電子圖書館
1 白雉:
《春秋感精符》曰:王者德流四表,則白雉見。

2 白雉:
《孝經援神契》曰:王者德至鳥獸,故雉白首。妃房不遍,故白雉應。
又曰:周成王時,越裳獻白雉,去京師三萬里。王者祭祠不相逾,宴食衣服有節,則至。

3 白雉:
《抱樸子》曰:白雉自有種,南越尤多。案《地域圖》,今之九德,則古之越裳也。蓋白雉之所出,周成王所以為瑞者。貴其所自來之遠,明其德化所被之廣,非謂此為奇。

4 白雉:
《楚辭》曰:昭後成游,南土爰厎,爰,于也。厎,至也。言昭王背成王擲昶,而出游南。至楚,楚人沉之南遂不返之。厥利惟何?逢彼白雉。厥,其也。逢,迎也。言昭王南游,何利于楚乎?為越裳氏獻白雉,昭王德不能致,親往迎也。

5 白雉:
《漢書》曰:平帝玄始玄年,春,越裳重譯獻白雉一、黑雉二,詔使三公以薦宗廟。

6 白雉:
《魏略》曰:文帝欲受禪,郡國奏:白雉十九見。

7 白雉:
《魏志·文紀》曰:延康玄年四月,鐃安縣言白雉見。

8 白雉:
《北史》曰:后魏南安王禎,孝文時為雍州刺史,性忠謹。其母疾篤,憂毀異常,遂有白雉游其庭前。帝聞其致感,賜帛千匹,以褒美之。

9 白雉:
《三國典略》曰:渤海王高歡攻鄴時,瑞物無歲不有。令史焚連里木,煮白雉而食之。

https://ctext.org/text.pl?node=408229&if=gb

..



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.