Home

Home
Nắng thì cày ruộng, mưa thì đọc sách 晴耕雨讀

15/03/2022

Đại dịch covid-19 làm nhớ về học giả Ngũ Liên Đức - người phát minh ra khẩu trang và bàn xoay kiểu Trung Hoa

Ngũ Liên Đức 伍連德 (1879-1960), tức Tiến sĩ Ngũ Liên Đức, một học giả Hoa kiều chuyên về dịch tễ học.

Học giả Ngũ đã phát minh ra khẩu trang trong đợt dịch hạch đầu thập niên 1910 tại Mãn Châu - khẩu trang đó được dùng đến ngày nay trên toàn cầu, như thấy trong đại dịch covid-19.

Học giả Ngũ cũng đã phát minh ra bàn xoay đặt trên bàn ăn, mà sau này được gọi là "bàn xoay kiểu Trung Hoa". Chúng ta vào quán ăn Trung Hoa thì thường thấy ngay kiểu bàn xoay này. Mà đầu tiên, họ Ngũ nghĩ ra bàn xoay là với mục đích dịch tễ học. Sau này, bàn xoay đó mới được ứng dụng vào bàn ăn cơm, trở thành một đặc trưng Trung Hoa (khi thấy bàn xoay trong quán ăn, chúng ta thường liên tưởng đến yếu tố Hoa).

Đại khái vậy.

Mở đầu là một tin về buổi nói chuyện về chủ đề trên, do hai học giả Đài Loan thực hiện, vào ngày 22/3 sắp tới. Chúng ta có thể theo dõi qua mạng.

Hai học giả Đài Loan là: Lôi Tường Lân 雷祥麟 và Vương Thế Kiệt 王世杰 . 

Các thông tin khác sẽ dán ở bên dưới tin về buổi nói chuyện.

Tháng 3 năm 2022,

Giao Blog


---




111年知識饗宴—王世杰院長科普講座 「中式旋轉餐檯的誕生:傳染病、身體史、與身份認同」


111年中央研究院知識饗宴—王世杰院長科普講座


主講人:雷祥麟研究員兼所長(本院近代史研究所) 主持人:黃進興副院長 時 間:110年3月22日(星期二)晚上7:00-8:30 地 點:本院生物醫學科學研究所B1C會議室 演講摘要: 中式餐桌上的旋轉餐檯是如此方便而又實用的家具,以致於我們很難以想像: 第一、二十世紀之前,中式餐桌上並沒有這種實用的轉檯。 第二、同是使用筷子的日本、韓國,至今仍然不使用這個轉檯, 除非是在當地的中餐館。 第三點就是此次演講的主題:宣稱發明這個轉檯的人,並不是家具設計師,而是民國時期最著名的公共衛生專家,首位榮獲諾貝爾醫學獎提名的華裔科學家伍連德博士 (1879-1960),他在控制滿洲鼠疫 (1910-11) 時設計的「伍式口罩」更被全球新聞媒體譽為今日Covid 防疫口罩的先驅。伍連德博士親自設計這個轉檯並不是為了用餐的便利,他有一個極為嚴肅的目的, 就是想解決民國時期最重要的死亡原因:肺結核。 傳染病防治為何會促使公共衛生專家設計出嶄新的日常生活用品?由這個出人意外的歷史個案出發,本演講將闡述在人類防疫史中,為了對抗不同種類的傳染病而發展出來的防疫措施與衛生器具,如何促成新的身體習慣、倫理價值、社會關係、乃至自我與集體的認同。由此邀請聽眾共同反思,席捲全球的Covid-19 為社會文化帶來了什麼樣的鉅變? 講者簡介: 雷祥麟研究員現為本院近代史研究所所長,畢業於國立台灣大學化學系,於美國芝加哥大學取得化學碩士與科學史博士學位。先後任教於國立清華大學與陽明交通大學,並於哈佛大學燕京學社、普林斯頓高等研究院、與韓國高等研究院擔任訪問學人。參與創建由台灣學者主導的國際期刊East Asian Science, Technology and Society,並曾任副主編。專書Neither Donkey nor Horse: Medicine in the Struggle over China’s Modernity (The University of Chicago Press)《非驢非馬:形塑中國現代性的中醫與西醫》於2016年榮獲美國醫學史學會頒發William H. Welch Medal 。 主要研究領域是現代醫療與傳統醫療(中醫)在中國與台灣的現代史,包含衛生史、疾病史、藥物史、身體史、與相關的科學史。而核心旨趣則是透過醫療史與科學史,探索十九世紀以來東亞各國所經歷的歷史巨變,並透過東亞的歷史經驗反向探索具有普遍意義的問題,如何謂科學、文明、現代性、以及當下的變局。 科普講座介紹: 王世杰院長為湖北崇陽人。先後留學英、法,獲法國巴黎大學法學博士。返國後歷任北大教授、武漢大學校長、教育部長、國民參政會秘書長、外交部長等職。1949年政府遷臺後出任總統府秘書長、行政院政務委員。王故院長與中研院淵源甚早,1928年擔任中研院籌備委員,1948年當選第一屆院士,1962年接任中研院第四任院長。在任期間,全力推動中美學術合作,成立美國研究中心(現為歐美研究所);舉辦暑期科學研討會,延攬海外優秀學者回臺短期講學,提昇數理科教師素質;籌建經濟所,為國家經濟發展培養人才;並在院內實行所長任期制。對於國內科學技術的提昇及人才培育,影響深遠。

https://www.youtube.com/watch?v=hwrEPBauKgw

..


111年知識饗宴—王世杰院長科普講座 「中式旋轉餐檯的誕生:傳染病、身體史、與身份認同」


111年知識饗宴—王世杰院長科普講座 「中式旋轉餐檯的誕生:傳染病、身體史、與身份認同」
Knowledge Feast-Popular Science Lecture in Honor of Late President Shih-Chieh Wang: “The Birth of Chinese Hygienic Table: Infectious Disease, History of the Body, and Self-identity”

 

111年知識饗宴—王世杰院長科普講座 「中式旋轉餐檯的誕生:傳染病、身體史、與身份認同」

主講人:雷祥麟研究員兼所長(中研院近代史研究所)
Speaker: Dr. Sean Hsiang-Lin Lei, Research Fellow and Director, Institute of History and Philology, Academia Sinica

主持人:黃進興副院長
Moderator: Academician Chin-Shing Huang, Vice President, Academia Sinica

時 間:111年3月22日(星期二)晚上7:00-8:30
Date: 7:00-8:30 pm, Tuesday, March 22, 2022

地 點:中研院生物醫學科學研究所B1C會議室
Venue: B1C Lecture Room, Institute of Biomedical Sciences, Academia Sinica

 

請於3月20日前報名:
1. 曾以網路報名本活動系統會員,於接獲本院邀請函後,點選連結即可進入個人專屬網址報名;報名截止日前,個人資料如有異動,請至該網址更新。
2. 第1次參加者,請至網址:https://goo.gl/vbBJZq報名。
3. 歡迎院內外人士及高中生以上同學報名參加。注意事項如下:
(1) 演講活動採線上報名及實聯制報到入場。
(2) 現場開放30位名額,活動日晚上6:00起於接待處登記,額滿為止。
(3) 若因故無法出席,敬請於3月20日前自行於線上取消報名,以利主辦單位掌握現場人數, 避免影響他人權益。
(4) 敬請配戴口罩,並配合活動中心當日入館防疫措施。

4. 報名成功至現場參加者將提供:
(1) 填答完成線上問卷禮品每人1份。
(2) 學生憑證領取《聯合文學》或《科學人》雜誌過刊每人1本(數量有限送完為止)。
(3) 活動期間免收停車費(請主動告知警衛)。
(4) 公務人員簽到可獲得終身學習認證及研習時數1小時,教師1.5小時。

洽詢專線:(02)2789-9726,院本部秘書處吳小姐

    • Online Registration: https://goo.gl/vbBJZq
    • Registration Deadline: March 20, 2022
    • The lecture will be delivered in Chinese.
    • Contact: Ms. Wu, Secretariat, (02)2789-9726

https://jpoas.ntu.edu.tw/?p=1649

..


Ngũ Liên Đức

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Ngũ Liên Đức (^ sinh năm 1879- mất năm 1960)[1] là bác sĩnhà khoa học y tế cộng đồng người Malaysia gốc Hoa, người tiên phong trong kiểm dịch và phòng chống dịch hạch, xây dựng y tế hiện đại và giáo dục y khoa, y tế công cộng và các bệnh truyền nhiễm, nổi tiếng với những đóng góp về sức khỏe cộng đồng và đặc biệt là trong Đại dịch Mãn Châu năm 1910.

Ông là người gốc Hoa đầu tiên theo học sinh viên y khoa tại Đại học Cambridge.[2] Ông cũng là người Malaysia đầu tiên được đề cử Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học vào năm 1935.[3]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ngũ Liên Đức còn được phiên âm là Goh Lean Tuck (tiếng Mân Nam) và Ng Leen Tuck (tiếng Quảng Đông) hay Wu Lien-teh (phiên âm hiện đại), có tên tên tự là Liên Tinh, nguyên quán Tân Ninh, Thiệu Dương, nay là Thai Sơn.

Ông sinh ngày 10 tháng 3 năm 1879 tại PenangMã Lai thuộc Anh (nay là Penang, Malaysia), một trong ba thị trấn Straits Settlement (hai thị trấn khác là Malacca và Singapore). Các khu vực Straits Settlement là một phần của các thuộc địa hải ngoại của Vương quốc Anh.

Cha ông là Ngũ Kỳ Học (伍祺学), một người thợ kim hoàn, nhập cư từ Đài Sơn (Trung Quốc).[4][5] Mẹ là Lâm Thái Phồn (林彩繁)[6], thuộc thế hệ thứ hai của người Khách Gia ở Malaya.[7] Ngũ Liên Đức có 10 anh chị em.

Thuở nhỏ, Ngũ Liên Đức được cho theo học ở trường miễn phí Penang. Ông được nhận vào Emmanuel College, Cambridge vào năm 1896, sau khi giành được học bổng Queen's Scholarship.[4] Ông có một thành tích học tập rực rỡ, giành được hầu hết các giải thưởng và học bổng.

Từ năm 1896 đến 1899, ông học tại Emmanuel College, Đại học Cambridge ở Anh để nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm và vi khuẩn học. Từ năm 1899 đến 1902, ông được gửi vào Bệnh viện St. Mary làm thực tập sinh, trở thành thực tập sinh Trung Quốc đầu tiên của bệnh viện, sau đó tiếp tục theo học tại Liverpool School of Tropical Medicine (dưới thời Sir Ronald Ross), Viện Pasteur, Halle University, và Selangor Institute.

Sau đó, ông học ở Trường Y học Nhiệt đới Liverpool tại Vương quốc Anh, Trường Y tế thuộc Đại học Halle ở Đức và Viện Pasteur ở Pháp để thực tập và nghiên cứu. Năm 1903, ông lấy bằng tiến sĩ y khoa tại Đại học Cambridge và quay trở lại Malaysia để mở một phòng khám để nghiên cứu các bệnh nhiệt đới tại Viện Y học Kuala Lumpur.[8]

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Ông trở về lại Straits Settlement vào năm 1903. Một thời gian sau đó, ông kết hôn với Hoàng Thục Quỳnh (黄淑琼). Hoàng Thục Quỳnh có chị gái là Hoàng Đoan Quỳnh (黄端琼), vợ của Lâm Văn Khanh (林文庆), chủ tịch đầu tiên của Đại học Hạ Môn, một bác sĩ đã thúc đẩy cải cách xã hội và giáo dục ở Singapore.[5] Hai chị em là con gái của mục sư Hoa kiều Hoàng Nãi Thường (黄乃裳), một nhà lãnh đạo và nhà giáo dục cách mạng người Hoa, người đã chuyển đến khu vực này từ năm 1901 đến 1906.

Ngũ Liên Đức và gia đình chuyển đến Trung Quốc vào năm 1907.[5] Trong thời gian ở Trung Quốc, vợ và hai trong số ba người con trai của ông đã chết.

Trong cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản, vào tháng 11 năm 1931, Ngũ Liên Đức bị chính quyền Nhật Bản giam giữ và thẩm vấn vì nghi ngờ là gián điệp của Trung Quốc.[5]

Năm 1937, trong thời gian Nhật chiếm đóng phần lớn Trung Quốc và lực lượng Tưởng Giới Thạch rút lui, Ngũ Liên Đức buộc phải chạy trốn, trở về Settlement để sống ở Ipoh. Ngôi nhà và bộ sưu tập sách y học cổ Trung Quốc của ông đã bị cháy rụi.[5][9]

Năm 1937, ngay sau khi dự đám cưới của con trai cả Ngũ Trưởng Canh (伍长庚) tổ chức tại bệnh viện liên hiệp Bắc Kinh (北京协和医院), bà Hoàng Thục Quỳnh qua đời vì bạo bệnh.[10] Hai người có ba con trai.

Con trai Ngũ Trưởng Canh (1906-1942) sinh ra tại Penang, lớn lên nối nghiệp của cha. Sau khi tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa, anh đã đi du học tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Khi trở rở về Trung Quốc, anh giữ chức vụ trưởng phòng nhân khẩu y tế của Khu Y tế số 1 Peiping. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1937, dưới sự bảo trợ của Stuart, Ngũ Trưởng Canh đã tổ chức đám cưới trong khán phòng của bệnh viện liên hiệp Bắc Kinh. Năm 1942, Ngũ Trưởng Canh mắc bệnh khi đang hướng dẫn các hoạt động chủng ngừa bệnh tả ở Bắc Kinh, và ngay sau đó qua đời tại nhà riêng ở số 51 hẻm Đông Đương Tử (东堂子胡同), Đông Thành (东城区), Bắc Kinh.

Con trai thứ hai là Ngũ Trưởng Phúc, sinh năm 1909 và chết vì bệnh viêm phổi ở tuổi 16, đã giáng một đòn mạnh vào vợ chồng ông. Con trai thứ ba là Ngũ Trưởng Minh, sinh ra ở Thiên Tân năm 1911, và mất chưa đầy sáu tháng sau khi sinh, đó là khi Ngũ Liên Đức đang chiến đấu với dịch bệnh ở vùng Đông Bắc.

Năm 1943, Ngũ Liên Đức bị những người kháng chiến cánh tả của Malaysia bắt giữ và đòi giữ tiền chuộc. Sau đó, ông suýt bị người Nhật truy tố vì ủng hộ phong trào kháng chiến bằng cách trả tiền chuộc, nhưng được một sĩ quan Nhật Bản bảo vệ.[5]

Một thời gian sau khi chuyển đến Ipoh, ông tái hôn với bà Lý Thục Trinh (李淑贞) và có thêm bốn người con. Con gái ông là Ngũ Ngọc Linh nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Hawaii và là một nhà ngôn ngữ học.[11]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 9 năm 1903, Ngũ Liên Đức gia nhập Viện nghiên cứu y học tại Kuala Lumpur với tư cách là sinh viên nghiên cứu đầu tiên. Tuy nhiên, không có chức vụ chuyên môn nào cho ông vì vào thời điểm đó, một hệ thống y tế hai cấp ở các thuộc địa của Anh, điều kiện chỉ có công dân Anh mới có thể giữ các vị trí cao nhất của các sĩ quan hoặc chuyên gia y tế có trình độ đầy đủ. Ông đã dành sự nghiệp y tế đầu tiên của mình để nghiên cứu beryli-beryli và giun tròn (Ascarididae) trước khi bắt đầu hành nghề tư nhân vào cuối năm 1904 tại Chulia Street, Penang.[7]

Năm 1907, ông được mời đến Luân Đôn, Anh để tham dự Hội nghị đề xuất cấm hút thuốc phiện do tiến sĩ thần học Văn Anh Lan (文英兰) tổ chức. Cùng năm đó, ông được Viên Thế Khải, Tổng đốc Trực Lệ thời nhà Thanh mời làm hiệu phó của Trường quân y Thiên Tân.[8]

Ngũ Liên Đức là một nhà bình luận về các vấn đề xã hội thời đó. Đầu những năm 1900, ông kết bạn với Lim Boon Keng và Song Ong Siang, một luật sư tích cực trong việc phát triển xã hội dân sự Singapore. Ông đã cùng họ biên tập tạp chí The Straits Chinese Magazine.[5] Cùng với những người bạn của mình, ông đã thành lập Hiệp hội chống thuốc phiện ở Penang. Ông đã tổ chức một hội nghị chống thuốc phiện trên toàn quốc vào mùa xuân năm 1906 với sự tham dự của khoảng 3.000 người.[12] Điều này đã thu hút sự chú ý của các thế lực hùng mạnh liên quan đến nguồn lợi buôn bán thuốc phiện béo bở và vào năm 1907, điều này đã dẫn đến một cuộc tra xét và sau đó phát hiện ra một ounce thuốc phiện trong phòng pha chế của Ngũ Liên Đức, và ông bị tòa kết án và bị phạt.

Chiến đấu với dịch hạch[sửa | sửa mã nguồn]

Tiến sĩ Ngô Liên Đức

Vào tháng 12 năm 1910, khi dịch hạch Đông Bắc bùng phát, triều đình nhà Thanh đã chỉ định ông làm chủ tịch phụ trách y tế của ba tỉnh ở miền đông Trung Quốc để phòng chống dịch bệnh và điều tra tại Cáp Nhĩ Tân. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1910, ông cùng trợ lý Lâm Gia Thụy, sinh viên năm cuối của Trường Quân y, đến Cáp Nhĩ Tân, trung tâm của khu vực dịch bệnh, để lãnh đạo công tác phòng chống và kiểm soát và kiểm soát dịch trong vòng bốn tháng.[8] Đầu năm 1911, ông thành lập viện nghiên cứu bệnh dịch hạch đầu tiên của Trung Quốc tại Cáp Nhĩ Tân. Năm 1911, ông được trao tặng danh vị tiến sĩ y khoa vì những thành tích xuất sắc của mình.[13]

Từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 28 tháng 4 năm 1911, "Hội nghiên cứu bệnh dịch hạch" có sự tham gia của các chuyên gia từ 11 quốc gia đã được tổ chức tại Thẩm Dương. Bác sĩ Ngô Liên Đức, giám đốc Y khoa của ba tỉnh miền Đông làm chủ trì cuộc họp. Các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài tại cuộc họp đề nghị chính phủ nhà Thanh thành lập các tổ chức phòng chống dịch bệnh vĩnh viễn ở ba tỉnh miền đông để ngăn chặn sự quay trở lại của bệnh dịch.[14] Trung Quốc đã đòi lại chủ quyền đối với việc kiểm soát dịch tại các cảng biển.

Bệnh dịch hạch viêm phổi[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa đông năm 1910, Ngũ Liên Đức đã được hướng dẫn từ cơ quan ngoại vụ của triều đình Bắc Kinh, đi đến Cáp Nhĩ Tân để điều tra một căn bệnh không xác định đã giết chết 99,9% nạn nhân.[15] Đây là khởi đầu của đại dịch hạch viêm phổi ở Mãn Châu và Mông Cổ, cuối cùng đã cướp đi 60.000 nạn nhân.[16]

Ngũ Liên Đức được cho là đã có thể tiến hành một cuộc giải phẫu (thường không được chấp nhận tại Trung Quốc vào thời điểm đó) đối với một phụ nữ Nhật Bản đã chết vì bệnh dịch hạch.[5][17] Khi được xác nhận thông qua khám nghiệm tử thi rằng bệnh dịch hạch lây lan qua không khí, ông đã phát triển mặt nạ phẫu thuật mà ông thấy được sử dụng ở phương Tây thành những mặt nạ an toàn hơn với các lớp gạc và bông để lọc không khí.[18][19] Gérald Mesny, một bác sĩ người Pháp nổi tiếng đã đến thay thế Ngũ Liên Đức đã từ chối đeo mặt nạ và sau đó đã chết vì bệnh dịch hạch. Mặt nạ được sản xuất rộng rãi, do chính Ngũ Liên Đức giám sát việc sản xuất và phân phối 60.000 mặt nạ trong một đại dịch sau này, và nó xuất hiện trong nhiều hình ảnh báo chí.[20] Nhiều người tin rằng mặt nạ khẩu trang N95 là hậu duệ thiết kế của ông.[21]

Ngũ Liên Đức đã khởi xướng kiểm dịch, sắp xếp cho các ngôi nhà được khử trùng và bệnh viện dịch hạch cũ bị đốt cháy và thay thế.[5] Biện pháp mà ông nhớ nhất là yêu cầu sự trừng phạt của triều đình nhằm buộc phải hỏa táng nạn nhân bệnh dịch hạch. Những người chết không thể chôn cất do mặt đất bị đóng băng, và các thi thể chỉ có thể được xử lý bằng cách ngâm chúng trong parafin và đốt trên giàn thiêu.[4] Việc hỏa táng các nạn nhân bị nhiễm bệnh này hóa ra là bước ngoặt của dịch bệnh; vài ngày sau khi việc hỏa táng bắt đầu, bệnh dịch hạch bắt đầu giảm và trong vài tháng, nó đã biến mất.[22]

Ngũ Liên Đức đã chủ trì Hội nghị về bệnh dịch hạch quốc tế tại Mukden (Thẩm Dương) vào tháng 4 năm 1911, một sự kiện lịch sử có sự tham gia của các nhà khoa học từ Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo-Hung, Hà Lan, Nga, Mexico và Trung Quốc.[23][24] Hội nghị diễn ra trong ba tuần và có các cuộc tranh luận và thí nghiệm.

Ngũ Liên Đức sau đó đã trình bày một bài nghiên cứu về bệnh dịch hạch tại Đại hội Y khoa Quốc tế, London vào tháng 8 năm 1911 được xuất bản trên báo The Lancet cùng tháng.

Tại hội nghị về bệnh dịch hạch, các nhà dịch tễ học Danylo Zabolotny và Anna Tchourilina tuyên bố rằng họ đã tìm ra nguyên nhân ban đầu của sự bùng phát đối với những người săn thú Tarbagan đã nhiễm bệnh từ động vật. Một biểu tượng tarabagan trở thành linh vật hội nghị.[23] Tuy nhiên, Ngũ Liên Đức đã đặt ra câu hỏi tại sao những người săn bắn marmot truyền thống không gặp phải dịch bệnh chết người trước đó. Sau đó, ông đã xuất bản một tác phẩm lập luận rằng các thợ săn người Mông Cổ và Buryat truyền thống đã thiết lập các tập quán giữ an toàn cho cộng đồng của họ và ông đổ lỗi cho những người nhập cư Sơn Đông gần đây đến khu vực này bằng cách sử dụng các phương pháp săn bắt nhiều động vật bị bệnh và tăng nguy cơ phơi nhiễm.[25]

Phòng chống dịch[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1912, ông được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc mời làm nhân viên y tế cho tổng thống. Trong cùng năm đó, Văn phòng phòng chống dịch bệnh Bắc Mãn và bệnh viện trực thuộc được thành lập tại Cáp Nhĩ Tân.[8] Vào ngày 1 tháng 10 năm 1912, Văn phòng Phòng chống Dịch bệnh Beiman được thành lập. Trụ sở (bệnh viện đa khoa) được đặt tại Cáp Nhĩ Tân, ông làm giám đốc y tế. Đây là cơ quan phòng chống dịch bệnh vĩnh viễn đầu tiên ở Trung Quốc hiện đại。[26]

Năm 1915, ông và bác sĩ Nhan Phúc Khánh (颜福庆), và những người khác đồng tài trợ cho việc thành lập Hiệp hội Y khoa Trung Quốc, số đầu tiên của "Tạp chí Y học Trung Quốc", đồng thời ông làm thư ký của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc và biên tập viên của "Tạp chí Y học Trung Quốc".

Năm 1918, làm giám đốc Văn phòng phòng chống dịch bệnh trung ương của chính quyền thành phố Bắc Kinh và chủ tịch bệnh viện trung ương Bắc Kinh (nay là Bệnh viện nhân dân của Đại học Bắc Kinh). Bệnh viện Trung ương Bắc Kinh được thành lập bởi Ngô Liên Đức. Ngoại trừ nguồn tài trợ từ Bộ Tài chính của Chính phủ Bắc Kinh, hầu hết các quỹ đều được huy động. Địa điểm này trong chợ Phụ Chính (阜成市场), nằm trên đường Phụ Chính Môn (阜成门内大街), hiện là trụ sở của Bệnh viện Nhân dân Đại học Bắc Kinh, khánh thành vào ngày 27 tháng 1 năm 1918, Ngô Liên Đức trở thành hiệu trưởng đầu tiên. Vào tháng 1 năm 1919, ông tới Thượng Hải để giám sát việc đốt thuốc phiện thay mặt Bộ Ngoại giao của Chính phủ Bắc Kinh. Ông đã nhận được bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học St. John's Thượng Hải, Đại học Hồng Kông, Đại học Y Tokyo, Nhật Bản, thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và là thành viên nước ngoài của Hiệp hội Vi sinh học Liên Xô.[8]

Ngô Liên Đức liên tiếp lãnh đạo công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm soát bệnh dịch hạch năm 1917, dịch tả Cáp Nhĩ Tân năm 1919, bệnh dịch hạch Đông Bắc Trung Quốc năm 1920 và dịch tả Thượng Hải năm 1932.[13] Năm 1922, được tướng Trương Tác Lâm ủy quyền thành lập Bệnh viện Quân đội Đông Bắc tại Thẩm Dương.

Vào ngày 9 tháng 9 năm 1926, Trường Cao đẳng Y tế Tân Giang (tiền thân của Đại học Y Cáp Nhĩ Tân) được thành lập và làm hiệu trưởng đầu tiên. Đây là trường đại học y khoa đầu tiên do người Trung Quốc điều hành ở Đông Bắc Trung Quốc. Năm 1927, ông được bổ nhiệm làm thành viên người Trung Quốc trong ban Y tế (卫生处) của Hội Quốc Liên và được trao danh hiệu Chuyên gia về bệnh dịch hạch.

Với sự vận động và thúc đẩy ông, vào cuối năm 1929, Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận với ban Y tế của Hội Quốc Liên, đòi lại chủ quyền kiểm dịch của bến cảng và thành lập Văn phòng quản lý kiểm dịch cảng biển quốc gia ở Thượng Hải vào tháng 7 năm 1930, bổ nhiệm ông làm giám đốc đầu tiên. và là giám đốc kiểm dịch Thượng Hải cảng.[8] Sau sự cố ngày 18 tháng 9 năm 1931, ông đã từ chức tại Đông Bắc. Trong thời gian này, ông bị quân đội Nhật buộc tội là gián điệp, bị giam giữ tại Thẩm Dương và sau đó được lãnh sự Anh bảo lãnh và về phía nam đến Thượng Hải để làm giám đốc kiểm dịch quốc gia.[13] Vào tháng 4 năm 1937, ông là chủ tịch của Hiệp hội Y tế Công cộng của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc.[13]

Sự nghiệp cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1912, Ngũ Liên Đức trở thành giám đốc đầu tiên của Cơ quan bệnh dịch hạch Mãn Châu. Ông là thành viên sáng lập và chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc (1916-1920).[4][27] Ông lãnh đạo các nỗ lực chống lại đại dịch tả 1920-1921 ở Đông bắc Trung Quốc.[5]

Năm 1929, ông được Cheah Cheang Lim, cùng với Wu Lai Hsi, Robert Lim Kho Seng, và Lim Chong Eang bổ nhiệm làm ủy viên của 'Câu lạc bộ Nanyang' ở Penang. 'Câu lạc bộ Nanyang', một ngôi nhà cổ ở Bắc Bình, đã cung cấp chỗ ở thuận tiện cho những người bạn Hoa kiều.[12]

Thập niện 1930, ông trở thành giám đốc đầu tiên của Cơ quan kiểm dịch quốc gia.[4]

Khoảng năm 1939, Ngũ Liên Đức quay trở lại Malaya và tiếp tục làm bác sĩ đa khoa ở Ipoh.[5]

Ông thu thập quyên góp để thành lập Thư viện Perak (nay là Thư viện Tun Razak) tại Ipoh, một thư viện công cộng miễn phí và tặng sách cho Thư viện thành phố Thượng Hải và Đại học Hồng Kông.[5]

Wu là một quan chức bậc 2 và có chân trong các ủy ban cố vấn cho Hội Quốc Liên. Ông đã được trao giải thưởng của Sa hoàng Nga và Tổng thống Pháp, và được trao bằng danh dự của Đại học Johns HopkinsĐại học Bắc Kinh, Đại học Hồng Kông và Đại học Tōkyō.[4][5]

Đề cử giải thưởng Nobel[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1935, ông được đề cử giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học cho công trình nghiên cứu về bệnh dịch hạch viêm phổi, đặc biệt là việc phát hiện ra vai trò của loài Marmota trong việc truyền bệnh.[28] Thời gian bảo mật của các ứng cử viên đoạt giải Nobel là 50 năm và tin tức chỉ được tiết lộ trên trang web của Quỹ Nobel năm 2007. Mặc dù ông là một người di cư Anh vào thời điểm đó, trong danh sách ứng cử viên giải thưởng Nobel, cột "Quốc gia" trong đó ghi Trung Quốc. Ngô Liên Đức là ứng cử viên giải thưởng Nobel đầu tiên người Trung Quốc.

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Ngũ Liên Đức hành nghề y cho đến khi qua đời ở tuổi 80. Ông đã mua một ngôi nhà mới ở Penang để nghỉ hưu và vừa hoàn thành cuốn tự truyện dài 667 trang của mình, Bệnh dịch hạch, cuốn tự truyện của một bác sĩ Trung Hoa hiện đại (Plague Fighter, the Autobiography of a Modern Chinese Physician).[15] Ngày 21 tháng 1 năm 1960, ông qua đời vì đột quỵ khi đang ở nhà riêng tại Penang.[7]

Một con đường mang tên Ngũ Liên Đức có thể được tìm thấy ở Ipoh Garden South, một khu dân cư trung lưu ở Ipoh. Ở Penang, một con đường riêng có tên Taman Wu Lien Teh nằm gần Trường Tự do Penang.[29] Trong ngôi trường đó, trường cũ của ông, một ngôi nhà đã được đặt theo tên ông. Có một hội bác sĩ Wu Lien-teh, Penang.[30][31]

Bộ sưu tập Wu Lien-teh, bao gồm 20.000 cuốn sách, được Ngũ Liên Đức tặng cho Đại học Nanyang, sau này trở thành một phần của Đại học Quốc gia Singapore.[7]

Bảo tàng nghệ thuật của Đại học Malaya có một bộ tranh của ông.[5]

Năm 1995, con gái của Wu, Tiến sĩ Yu-lin Wu, đã xuất bản một cuốn sách về cha cô, Memories of Dr. Wu Lien-teh, Plague Fighter. [11]

Năm 2015, Viện Ngũ Liên Đức đã khai trương tại Đại học Y Cáp Nhĩ Tân.[17] Năm 2019, The Lancet đã ra mắt Giải thưởng Wakley-Wu Lien Teh hàng năm để vinh danh Ngũ Liên Đức và biên tập viên sáng lập của ấn phẩm, Thomas Wakley.[32]

Bác sĩ Ngũ Liên Đức được coi là người đầu tiên hiện đại hóa các dịch vụ y tế và giáo dục y tế của Trung Quốc. Tại Đại học Y Cáp Nhĩ Tân, những bức tượng bằng đồng của ông tưởng niệm những đóng góp của ông cho sức khỏe cộng đồng, y tế dự phòng và giáo dục y tế.[33]

Trong đợt bùng phát bệnh coronavirus năm 2019, một số học giả cho rằng công việc của Ngũ Liên Đức có liên quan đương thời với lĩnh vực dịch tễ học.[18][31][34]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “北京地方志 - 燕都风物”dfz.beijing.gov.cn. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
  2. ^ Wu Lien-Teh, 2014. Plague Fighter: The Autobiography of a Modern Chinese Physician. Penang: Areca Books.
  3. ^ Wu, Lien-Teh. “The Nomination Database for the Nobel Prize in Physiology or Medicine, 1901-1953”.
  4. a b c d e f “Obituary: Wu Lien-Teh”The Lancet. Originally published as Volume 1, Issue 7119 (bằng tiếng Anh). 275 (7119): 341. ngày 6 tháng 2 năm 1960. doi:10.1016/S0140-6736(60)90277-4ISSN 0140-6736.
  5. a b c d e f g h i j k l m n Lee, Kam Hing; Wong, Danny Tze-ken; Ho, Tak Ming; Ng, Kwan Hoong (2014). “Dr Wu Lien-teh: Modernising post-1911 China's public health service”Singapore Medical Journal55 (2): 99–102. doi:10.11622/smedj.2014025PMC 4291938PMID 24570319.
  6. ^ Điểm lại vụ dịch hạch ở Cáp Nhĩ Tân năm 1910: Hàng trăm người chết mỗi ngày
  7. a b c d “Wu Lien Teh 伍连徳 – Resource Guides”National Library Singapore (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  8. a b c d e f 伍连德,东华流韵,2010-04-09
  9. ^ W.C.W.N. (ngày 20 tháng 2 năm 1960). “Obituary: Dr Wu Lien-Teh”The Lancet. Originally published as Volume 1, Issue 7121 (bằng tiếng Anh). 275 (7121): 444. doi:10.1016/S0140-6736(60)90379-2ISSN 0140-6736.
  10. ^ 伍连德是公开资料中首位被诺奖提名的中国人,北京城留下其诸多痕迹
  11. a b Wu, Yu-lin (1995). Memories of Dr. Wu Lien-teh, Plague Fighter (bằng tiếng Anh). World Scientific. ISBN 978-981-02-2287-1.
  12. a b Cooray, Francis; Nasution Khoo Salma. Redoutable Reformer: The Life and Times of Cheah Cheang Lim. Areca Books, 2015. ISBN 9789675719202 Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “lifeandtimes” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  13. a b c d 业绩卓著 建树颇丰
  14. ^ 东三省防疫处诞生记,哈尔滨新闻网,2011-09-30
  15. a b “Obituary: WU LIEN-TEH, M.D., Sc.D., Litt.D., LL.D., M.P.H”Br Med J (bằng tiếng Anh). 1 (5170): 429–430. ngày 6 tháng 2 năm 1960. doi:10.1136/bmj.1.5170.429-fISSN 0007-1447PMC 1966655.
  16. ^ Flohr, Carsten (1996). “The Plague Fighter: Wu Lien-teh and the beginning of the Chinese public health system”Annals of Science53 (4): 361–380. doi:10.1080/00033799608560822ISSN 0003-3790PMID 11613294.
  17. a b Ma, Zhongliang; Li, Yanli (2016). “Dr. Wu Lien Teh, plague fighter and father of the Chinese public health system”Protein & Cell7 (3): 157–158. doi:10.1007/s13238-015-0238-1ISSN 1674-800XPMC 4791421PMID 26825808.
  18. a b Wilson, Mark (ngày 24 tháng 3 năm 2020). “The untold origin story of the N95 mask”Fast Company (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  19. ^ Wu Lien-te; World Health Organization (1926). A Treatise on Pneumonic Plague (bằng tiếng Anh). Berger-Levrault.
  20. ^ Lynteris, Christos (ngày 18 tháng 8 năm 2018). “Plague Masks: The Visual Emergence of Anti-Epidemic Personal Protection Equipment”Medical Anthropology37 (6): 442–457. doi:10.1080/01459740.2017.1423072ISSN 0145-9740PMID 30427733.
  21. ^ Wilson, Mark (ngày 24 tháng 3 năm 2020). “The untold origin story of the N95 mask”Fast Company (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2020.
  22. ^ Mates, Lewis H. (ngày 29 tháng 4 năm 2016). Encyclopedia of Cremation (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 300–301. ISBN 978-1-317-14383-3.
  23. a b Summers, William C. (ngày 11 tháng 12 năm 2012). The Great Manchurian Plague of 1910-1911: The Geopolitics of an Epidemic Disease (bằng tiếng Anh). Yale University Press. ISBN 978-0-300-18476-1.
  24. ^ “Inaugural address delivered at the opening of the International Plague Conference, Mukden, April 4th, 1911”Wellcome Collection (bằng tiếng Anh). 1911. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  25. ^ Lynteris, Christos (ngày 1 tháng 9 năm 2013). “Skilled Natives, Inept Coolies: Marmot Hunting and the Great Manchurian Pneumonic Plague (1910–1911)”. History and Anthropology24 (3): 303–321. doi:10.1080/02757206.2012.697063ISSN 0275-7206.
  26. ^ Thư viện Văn phòng phòng chống dịch bệnh của ba tỉnh miền Đông, Lịch sử Hắc Long Giang 2012
  27. ^ Courtney, Chris (2018), "The Nature of Disaster in China: The 1931 Central China Flood", Cambridge University Press [[[ISBN]] 978-1-108-41777-8]
  28. ^ “Nomination Database - Physiology or Medicine”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
  29. ^ Article in Chinese. “Picture of "Taman Wu Lien Teh"Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2011.
  30. ^ “The Dr. Wu Lien-Teh Society, Penang 槟城伍连徳学会 | Celebrating the life of the man who brought modern medicine to China, who fought the Manchurian plague, and who set the standard for generations of doctors to follow. 伍连德博士: 斗疫防治,推进医学, 歌颂国士无双” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  31. a b Wai, Wong Chun (ngày 11 tháng 2 năm 2020). “Wu Lien-Teh: Malaysia's little-known plague virus fighter”The Star Online. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  32. ^ Wang, Helena Hui; Lau, Esther; Horton, Richard; Jiang, Baoguo (ngày 6 tháng 7 năm 2019). “The Wakley–Wu Lien Teh Prize Essay 2019: telling the stories of Chinese doctors”The Lancet (bằng tiếng Anh). 394 (10192): 11. doi:10.1016/S0140-6736(19)31517-XISSN 0140-6736PMID 31282345.
  33. ^ Article in Chinese. “130th memorial of Dr. Wu Lien-the”Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2011.
  34. ^ Shih, Toh Han (ngày 1 tháng 2 năm 2020). “Lessons from Chinese Malaysian plague fighter for Wuhan virus”South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Wu Lien-Teh, 1959. Plague Fighter: The Autobiography of a Modern Chinese Physician. Cambridge. (Reprint: Areca Books. 2014)
  • Yang, S. 1988. Dr. Wu Lien-teh and the national maritime quarantine service of China in 1930s. Zhonghua Yi Shi Za Zhi 18:29-32.
  • Wu Yu-Lin. 1995. Memories of Dr. Wu Lien-Teh: Plague Fighter. World Scientific Pub Co Inc.
  • Flohr, Carsten. 1996. The plague fighter: Wu Lien-teh and the beginning of the Chinese public health system. Annals of Science 53:361-80
  • Gamsa, Mark. 2006. The Epidemic of Pneumonic Plague in Manchuria 1910–1911. Past & Present 190:147-183
  • Lewis H. Mates, ‘Lien-Teh, Wu’, in Douglas Davies with Lewis H. Mates (eds), Encyclopedia of Cremation (Ashgate, 2005): 300–301. Lien-Teh, Wu
  • Penang Free School archive PFS Online


https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_Li%C3%AAn_%C4%90%E1%BB%A9c

..

伍连德[编辑]

维基百科,自由的百科全书


伍连德(英語:Wu Lien Teh / Goh Lean Tuck / Ng Leen Tuck;1879年3月10日-1960年1月21日),星联,生于英属马来亚槟榔屿(今马来西亚槟城州),籍貫广东新宁德行都(今台山市四九鎮下坪西邊巷村)[1][2]。著名医学家、公共卫生学家,是检疫与防疫事业的先驱,为中国的现代医学建设与医学教育、公共卫生传染病学作出了开创性贡献。[3][4]

生平[编辑]

留学生活[编辑]

伍连德博士

1879年3月10日,伍连德生于英属马来亚槟榔屿,是华侨黄乃裳的女婿[5],于槟城大英义学毕业[6]。1896年到1899年,考获英女皇奖学金后,前往英国剑桥大学意曼纽学院留学,研究传染病及细菌学。1899年至1902年,考入圣玛丽医院实习,成为该医院第一位华人实习生。后来到英国利物浦热带病学院、德国哈勒大学卫生学院、法国巴斯德研究所进行实习、研究。

1903年,获剑桥大学医学博士学位,并回到马来亚开办诊所,在吉隆坡医学研究院研究热带病。[7] 1907年,伍连德应邀到英国伦敦参加神学博士文英兰主持的禁鸦片烟会议。[8]同年,聘请出任天津陆军军医学堂副监督(即副校长职)。[7]

抗击鼠疫[编辑]

1910年12月,中國爆發东北大鼠疫隆裕太后任命伍连德为东三省防疫全权总医官,赴哈尔滨调查并开展防治工作。1910年12月24日,伍连德率助手即陆军医学堂高年级学生林家瑞到达疫区中心哈尔滨,领导防治工作,在四个月之内控制了疫情。[7] 通过现代医学方法他确定了鼠疫是由呼吸道传播;他为防疫而设计的较为紧致、实用的口罩在后世得到了极大发展和广泛使用,並且被認為是N95口罩的始祖之一。[9]

1911年初,他在哈尔滨建立了中国第一个鼠疫研究所。1911年,隆裕太后傳旨嘉獎[10],获赏医科进士。[11]

1911年4月3日至4月28日,11个国家的专家参加的“万国鼠疫研究会”在奉天召开,东三省防疫总医官伍连德博士担任会议主席。与会中外专家建议清朝政府在东三省设立永久性防疫机构,以防止瘟疫重来。[12]中国收回了海港检疫的主权。

防疫与医学[编辑]

1912年,中华民国成立後,伍连德获中华民国北京臨時政府聘请为時任大总统袁世凱的侍从医官。同年,在哈尔滨筹建北满防疫处及附属医院。[7]1912年10月1日,北满防疫处成立,总部(总医院)设在哈尔滨,伍连德任总医官。这是中国近代第一个常设防疫机构。1916年,防疫处名称改为“东三省防疫事务总处”。[13]

1915年,伍连德和颜福庆等人共同发起成立了中华医学会,创刊《中华医学杂志》,伍连德任中华医学会书记并兼《中华医学杂志》总编辑。

1918年,伍连德担任中华民国北洋政府中央防疫处处长、北京中央医院(今为北京大学人民医院)院长。北京中央医院是由伍连德倡设,除北京政府财政部拨款外,大部分经费由募集得来,院址位于阜成市场(位于阜成门内大街,现为北京大学人民医院分院所在地),1918年1月27日开院,伍连德任第一任院长。1919年1月,代表中华民国北洋政府外交部赴上海监督焚烧鸦片。伍连德先后获上海圣约翰大学香港大学日本东京医科大学的荣誉博士学位,苏联科学院名誉院士,苏联微生物学会外国会员。[7]

伍连德先后领导防疫工作,控制了1917年绥远鼠疫、1919年哈尔滨霍乱、1920年中国东北鼠疫、1932年上海霍乱。[11]

1922年,伍连德受奉天督军张作霖委托,在沈阳创办东北陆军医院。1926年9月9日,创办滨江医学专科学校(哈尔滨医科大学的前身),任首任校长。这是中国东北地区中国人自办的第一所医学高校。1927年,获国际联盟卫生处聘为该处中国委员,并授鼠疫专家称号。在伍连德的倡导和推动下,1929年末,中国与国际联盟卫生处达成协议,收回了海港检疫主权,并于1930年7月在上海成立全国海港检疫管理处,派伍连德任该处第一任总监兼上海海港检疫所所长。[7]1931年九一八事变发生后,伍连德辞去在东北的职务南下。其间曾被日军指为间谍,拘留在沈阳,后经英国领事斡旋保释,南下赴上海就任全国海港检疫总监。[11]1937年4月,任中华医学会公共卫生学会会长。[11]

返回檳城[编辑]

1937年日本攻占上海之后,伍连德因夫人過世傷心欲絕,返回出生地馬來亞,同時開業懸壺濟世,其后在吉隆坡创办了吉隆坡医学研究中心。[7]1947年,他最后一次返回中国。[11]

1951年,伍连德将其位于北京市东堂子胡同住宅捐给中华医学会[11]1959年出版的伍连德自传《鼠疫斗士》一书序言中,伍连德写道:“我曾将大半生奉献给古老的中国,从清朝末年到民国建立,直到国民党统治崩溃,往事在我脑海里记忆犹新。新中国政府的成立,使这个伟大的国家永远幸福繁荣……”[7]

1960年1月21日,伍连德在马来亚逝世,享年82岁。[7][14]英国《泰晤士报》评论道:“他是一位伟大的人道主义斗士,没有比他留给世人的一切更值得我们引以为豪的了……”《英国医学周刊》的悼词称:“伍连德的逝世使医学界失去了一位传奇式的人物,他的毕生为我们所做的一切,我们无以回报,我们永远感激他。”[11]

伍连德先后主持创办的检疫所、医院、研究所共计20所,还创办有滨江医学专科学校(哈尔滨医科大学的前身)。[7]伍连德还组织或参与了中华医学会、中华麻风救济会、中国微生物学会、中国防痨协会、中国公共卫生学会、中国科学社等等组织。[14]

身后[编辑]

1965年,伍连德、王吉民合著的《中国医史》(英文,1932年上海出版)被选为批判“封资修”和“崇洋媚外”的对象,成为批判材料,这是因为当时认为该书对中医的认识有错误。中国中医研究院医史研究室的马堪温、蔡景峰承担该书的翻译任务。该书译好后,文化大革命爆发,诸位领导无暇过问,这个中译本仅印刷了15本,原计划的批判自然也没进行。[11]

1990年,中国微生物学会接到国际微生物学会联盟来信,查询其创始人之一伍连德的资料。时任中国微生物学会代秘书长的程光胜对伍连德一无所知,他查阅资料后发现伍连德已经很少在中文出版物中出现。[11]

1996年,伍连德之女伍玉玲来到哈尔滨,这是伍玉玲的出生地。哈尔滨医科大学黑龙江省政协接待了伍玉玲,时任黑龙江省政协副主席的哈尔滨医科大学心血管教授傅世英会见了伍玉玲,获伍玉玲赠送一本《回忆伍连德博士———鼠疫斗士》画册。该画册使对伍连德了解甚少的傅世英受到感动。1998年,经傅世英等人组织,哈尔滨医科大学老校友共29人联名向哈尔滨市人民政府提交建议书,建议在滨江医院旧址建立一所伍连德纪念馆。该建议获当年哈尔滨市人民建议征集活动特别奖。1998年12月16日,哈尔滨市人民政府批准该旧址为哈尔滨市文物保护建筑。1999年1月,列为黑龙江省文物保护单位[15]

1999年3月10日,哈尔滨医科大学举行伍连德诞辰120周年纪念大会。1999年3月13日,北京首都儿科研究所举行纪念我国现代医学先驱伍连德博士诞辰120周年座谈会。[15]

2001年9月8日,哈尔滨医科大学75周年校庆之际,哈尔滨医科大学在校本部设立伍连德纪念室,并在图书馆前树立伍连德铜像。[15]

2003年中国爆发“非典”,公众关注烈性传染病。程光胜应《中国教育报》的邀请,撰写了介绍伍连德及其在东北防治鼠疫的文章。这是半个世纪来伍连德首次在大众媒体上出现。此后,中国各界对伍连德的关注升温,伍连德的知名度逐渐上升。对伍连德的纪念也在各地出现。[11]

2008年9月8日,哈尔滨医科大学主办、哈尔滨医科大学附属第一医院承办的伍连德纪念馆在哈尔滨开馆。[15]

诺贝尔奖[编辑]

1935年以其“在肺鼠疫方面的工作,尤其是发现了旱獭在其传播中的作用”而获得诺贝尔生理学或医学奖的提名。[16]诺贝尔奖候选人的保密期为50年,此消息2007年才在诺贝尔基金会网站上披露。当时他有英国公民身份。伍连德是华人世界第一个诺贝尔奖候选人。[11]

著作[编辑]

  • 《中国医史》
  • 《鼠疫概论》
  • 《霍乱概论》

家庭[编辑]

  • 第一位妻子黃淑瓊(?-1937):英語流利,曾以英語出版西施(Hsi Shih, Beauty of Beauty)、王昭君(Chao Chun, Beauty in Exile)等書,銷量極佳。原欲作貂蟬一书,因肺結核惡化於1937年病逝。
    • 長子-伍長庚(1906-1942):清華大學畢業,美國John Hopkins University學士、耶魯大學博士,後再學醫,獲美國Rochester University Medical School醫學學位(M.D.)。曾任職中國第一衛生局人口統計部門主管,1942年因肺結核逝世北京。
    • 次子-伍長福(1909-1925):死於肺炎感染。
    • 三子-伍長明(1911):出生六個月夭折。
  • 第二位妻子李淑貞:因伍連德長期在東北工作而結識,1925年結婚,育有3女2男。
    • 長女-伍玉玲(1926-):深受二位夫人喜愛,伍玉玲黃淑瓊為「北京媽」,給獨居的黃淑瓊極大的溫暖。伍玉玲畢業於新加坡馬來亞大學、美國哥倫比亞大學、英國倫敦大學,獲美國夏威夷大學榮譽博士,長期與夫婿台鎮華任教於新加坡大學,為南洋知名語言學家,現退休居住澳洲。著有《Memories of Dr.Wu Lien-Teh, Plague Fighter》(追思伍連德博士-鼠疫鬥士)。
    • 次女-伍玉珍:馬來西亞怡保擔任教師,現居澳洲。
    • 三女-伍玉珠:現居澳洲。
    • 四子-伍長生:英國劍橋大學畢,新加坡著名律師。
    • 五子-伍長員:香港大學醫學系畢,於澳洲雪梨執業牙醫。

軼事[编辑]

  • 英國著名學者李約瑟來華準備出版一系列介紹中國古代科技與文明的書籍,但缺乏經費,伍連德得知此事後,透過與新加坡李光前交情,促使李氏基金會捐大筆款項,《中國之科技與文明》才得以完成並出版。

纪念[编辑]

参见[编辑]

参考文献[编辑]

  1. ^ 【四九】刚刚,这位台山籍乡亲登上央视《国家记忆》! - 台山政府网
  2. ^ 台山市四九镇概况 - 台山政府网
  3. ^ 马学博, 伍连德学术生涯中的开创性理论建树, 自然辩证法通讯, 2007, (03), doi:10.15994/J.1000-0763.2007.03.013Wikidata Q63672202
  4. ^ 中国现代医学和医学教育先驱——伍连德
  5. ^ 北京地方志 - 燕都风物. dfz.beijing.gov.cn. [2019-12-09].
  6. ^ 《马来西亚华裔人物辞典》 pg 44
  7. 跳转至:7.0 7.1 7.2 7.3 7.4 7.5 7.6 7.7 7.8 7.9 伍连德,东华流韵,2010-04-09[2015-03-01]. (原始内容存档于2020-01-11).
  8. ^ The Plague Fighter: Dr Wu Lien-Teh and His Work. biblioasia.nlb.gov.sg. [2021-05-02]. (原始内容存档于2021-03-15) (英语).
  9. ^ Wilson, Mark. The untold origin story of the N95 mask. Fast Company. March 24, 2020 [March 27, 2020]. (原始内容存档于2020-03-26) (美国英语).
  10. ^ 「以辦理東三省防疫出力。試署吉林交涉使兼署西北道郭宗熙。總醫官伍連德。傳旨嘉獎」,《大清宣統政紀》卷之五十二
  11. 跳转至:11.00 11.01 11.02 11.03 11.04 11.05 11.06 11.07 11.08 11.09 11.10 伍连德抗击东北鼠疫曾被诺贝尔奖提名,中国新闻周刊,2009-11-30[2015-03-01]. (原始内容存档于2016-03-04).
  12. ^ 东三省防疫处诞生记,哈尔滨新闻网,2011-09-30[2015-03-01]. (原始内容存档于2012-06-27).
  13. ^ 马学博、史兴伟,东三省防疫处图书馆藏书印,黑龙江史志2012年第18期
  14. 跳转至:14.0 14.1 寻访伍连德博士在京故居,搜狐,2006-02-20[2015-03-01]. (原始内容存档于2015-04-02).
  15. 跳转至:15.0 15.1 15.2 15.3 伍连德纪念馆建馆大事记,哈报新闻网,2008-09-09[2015-03-01]. (原始内容存档于2015-04-02).
  16. ^ Nomination Database - Physiology or Medicine. Nobelprize.org. [2010-10-07].
  17. ^ 伍连德纪念馆:哈尔滨市道外区保障街130号(原东三省防疫事务总处旧址),中红网,2008-09-10[2015-03-01]. (原始内容存档于2015-03-27).
  18. ^ 没有他就没有N95口罩 · 谷歌致敬大马首位诺贝尔奖候选人. www.sinchew.com.my. [2021-03-10]. (原始内容存档于2021-03-10).

延伸阅读[编辑]

  • 王哲,国士无双伍连德,福建教育出版社,2007年,ISBN:9787533446536
  • 礼露,发现伍连德:诺贝尔奖候选人华人第一人,中国科学技术出版社,2010年

外部链接[编辑]

https://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%BC%8D%E8%BF%9E%E5%BE%B7


..

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.

LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.

Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.