Dưới là những bàn luận về vấn đề đó. Tư liệu được sưu tầm và bổ sung dần.
---
4.
3. Lê Hoàng
14.3.2003
Lê Hoàng
Cao Xuân Hạo: Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?
Bài viết của GS Cao Xuân Hạo về ưu thế hơn hẳn của chữ Hán so với chữ Tây, chắc chắn không ít thì nhiều đã gây tranh cãi. Phản bác có Nguyễn Hoàng Sơn, bênh vực có Trịnh Hữu Tuệ:
Khi GS Cao Xuân Hạo nhắc đến kết quả thí nghiệm của một nhóm học giả Mỹ về chứng alexia để củng cố ý kiến của mình, Nguyễn Hoàng Sơn chỉ trích rằng đây chỉ là một "thí nghiệm duy nhất... mà chắc GS cũng chỉ đọc trên báo, chưa được kiểm nghiệm". Lời chỉ trích này cho thấy Nguyễn Hoàng Sơn không có khái niệm gì về cách làm việc khoa học. Nếu mới chỉ có một thí nghiệm, hoặc ta chỉ biết về một thí nghiệm, thì việc trích kết quả của thí nghiệm ấy là hoàn toàn bình thường, chẳng việc gì ta phải đợi đến thí nghiệm thứ hai, thứ ba cả. Còn việc chỉ đọc trên báo mà chưa kiểm nghiệm thì gần như là điều tất nhiên. Chính vì thế nên mới có hàng nghìn tờ chuyên san khoa học, để mọi người có thể đọc mà không cần đến tận nơi kiểm nghiệm.
Đọc qua những bài ấy, tôi vẫn thắc mắc, tự hỏi: Liệu ai có sức thuyết phục hơn, GS Cao Xuân Hạo hay Tiến Sĩ kiêm chuyên gia Rùa Hoàn Kiếm Hà Đình Đán?
Trong nhiều năm qua Hà Đình Đán nhiều lần xuất hiện trên báo SGGP với đề tài Rùa Hoàn Kiếm. TS Đán đã thống kê những lần rùa nổi lên ở hồ Hoàn Kiếm để chứng minh rùa hồ Hoàn Kiếm là Rùa Thiêng, là Quốc Bảo - theo đó hầu như vào các ngày lịch sử (không nhớ rõ) hay những lần tu sửa khuôn viên hồ Hoàn Kiếm thì rùa luôn nổi lên. Thống kê như vậy liệu có giá trị nếu không xem xét cả những ngày thường? Tỷ lệ rùa xuất hiện trong các ngày lễ có lớn hơn nhiều so với ngày thường? Chả may rùa hầu như ngày nào cũng nổi mà TS Đán không biết, thì kết luận rùa thiêng càng buồn cười hơn!
Còn thí nghiệm của GS Cao Xuân Hạo về chứng alexia có gì khác không? Thí nghiệm chứng tỏ những trẻ học kém chữ Latin không tỏ ra đần độn khi học chữ tượng hình (tức khả năng nhận dạng phân tích kém hơn khả năng nhận dạng tổng hợp), nhưng vẫn chưa chứng tỏ trẻ học kém chữ tượng hình cũng không thể học chữ Latin tốt hơn - chưa thể vội vã kết luận gì, vì khả năng tổng hợp kém chưa chắc khả năng phân tích cũng kém. Sở trường và sở đoản mỗi người có khác nên thí nghiệm ấy chưa chứng minh hệ chữ nào kém hơn. Không những Tư tưởng mà Khoa học Đông Tây cũng khác nhau ở điểm này: Đông thiên tổng hợp (chủ toàn), và Tây thiên phân tích (chủ biệt). Chẳng hạn ở Phương Tây thì Vật Lý không thể khảo sát tương tác vật chất nếu không cô lập hệ thống, ngược lại, Đông Y dựa trên quan niệm holistic, giúp người bệnh lấy cân bằng mà tự khỏi bệnh. Ai dám bảo Đông Y hay Tây Y luôn hiệu quả hơn? Và thí nghiệm một chiều của GS Cao Xuân Hạo đã khẳng định được gì chăng?
Cũng như thống kê Rùa Hà Đình Đán, rõ ràng là không phải thí nghiệm và kết luận "khoa học" nào cũng đáng tin cậy. Một nhóm nghiên cứu ở Đại Học Harvard đã tiến hành 1 cuộc thí nghiệm để tìm hiểu hội chứng Cao Lầu (Chinese Syndrome), nhức đầu khó chịu khi ăn các món nêm nhiều bột ngọt. Họ cho hai nhóm ăn có bột ngọt và không bột ngọt nhưng không hề biết mình thuộc nhóm nào. Theo họ kết quả cho thấy hội chứng Cao Lầu chỉ là chuyện hoang đường. Nhưng kết luận như vậy có đủ tin cậy không?
Thứ nhất là không rõ:
– Họ thử bột ngọt ít nhiều ra sao, vì người Âu Mỹ to con khỏe mạnh hơn ắt phải thử với liều lượng cao hơn.
– Họ đã thực hiện thí nghiệm với cả những người mắc hội chứng Cao Lầu không? Nghĩa là thí nghiệm có những 4 nhóm, trong đó có 2 nhóm chứ không phải 1 nhóm đối chứng.
Thứ hai, kết luận ấy không thể phủ nhận thực tế cá nhân tôi là nạn nhân chứng Cao Lầu: mỗi lần ăn món nêm nhiều bột ngọt, chẳng hạn món phở Bắc, tôi bị đau gáy buốt trán tức ngực mỏi nhừ lưng - và bị nhiều lần trước khi tôi biết đến nạn nhân thứ 2 của triệu chứng ấy, thậm chí trước khi biết đến các danh từ Hội Chứng Cao Lầu và Chinese Syndrome - hoàn toàn không thể do ảnh hưởng tưởng tượng từ sách báo hay lời truyền miệng.
Khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ ngữ qua diện mạo chung của chúng, không khác gì ta nhận ra một vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt, rồi mũi, rồi miệng, rồi tai ...) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó [1] .
Trong tâm lý học hiện đại, khái niệm "diện mạo tổng quát" này được gọi là Gestalt. Cái Gestalt này càng gọn ghẽ (prégnant) bao nhiêu thì việc nhận dạng "tức khắc" càng dễ dàng và tự nhiên bấy nhiêu. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn chữ Tây. Mỗi chữ Hán là một Gestalt tuyệt hảo, trong khi cái chuỗi chữ cái La-Tinh chắp thành một hàng dài không làm thành một hình ảnh có thể nhận diện dễ dàng trong một chớp mắt như chữ Hán.
Theo GS Cao Xuân Hạo, Gestalt càng gọn ghẽ bao nhiêu thì việc nhận dạng "tức khắc" càng dễ dàng và tự nhiên bấy nhiêu. Và GS Cao Xuân Hạo kết luận "về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn chữ Tây." Nhưng hơn hẳn như thế hẳn đã có ý nghĩa gì: tốc độ nhận dạng từng chữ nhanh hơn liệu có tác dụng nào hơn, khi nó nhanh quá so với tốc độ xử lý tiếp nhận dòng thông tin? Tương tự, với tốc độ đánh máy chuyên nghiệp có giới hạn, việc nâng cấp máy PC lên P4 tốc độ 3Hz hay 300GHz gì đó liệu có giúp ta gõ văn bản nhanh hơn không? Các nhà tâm lý trên không nêu rõ tốc độ nhận diện từng Gestalt so với giới hạn tốc độ xử lý dòng thông tin qua các Gestalt đó. Ngoài khía cạnh nhận diện mặt chữ ra, cú pháp các thứ tiếng khác nhau có vai trò quyết định nào đối với tốc độ não xử lý dòng thông tin qua ngôn ngữ đó?
Không rõ theo GS Cao Xuân Hạo thì chữ viết (có thể cải biến) hay cú pháp (kể như bất biến) mới có vai trò quyết định hơn cả? Nhưng rõ là ông ca ngợi ưu thế của chữ Hán không chút nghi ngại: Không có gì đáng lấy làm lạ nếu sách chữ Tây rất khó đọc theo cách "Nhất mục thập hàng" như sách chữ Hán.
Tôi không biết tiếng Pháp, Đức, Nga ra sao, chứ với tiếng Anh thì đã có nhiều sách luyện đọc nhanh, giúp ta cải thiện tốc độ đọc, tăng lên 500-2000 chữ một phút. Nhưng cứ theo các sách đó, thì số có thể vừa đọc vừa sang trang rất hiếm. Liệu so với tốc độ đọc chữ Hán dễ dàng nhanh cỡ "Nhất mục thập hàng", ai sẽ vội vã cho rằng các nước Âu Mỹ nếu không đã thì trước sau gì cũng "thua hẳn" các nước dùng chữ tượng hình?
Còn ở Việt Nam nhu cầu đọc nhanh đã thành một hiện tượng xã hội chưa? Ở Việt Nam đã có sách luyện đọc tiếng Việt cho nhanh hơn chưa? Bản thân GS Cao Xuân Hạo đã có ý định viết sách luyện đọc nhanh tiếng Việt chưa? GS đã thống kê xem người đọc nhanh như máy chiếm bao nhiêu phần trăm trong số những người thành đạt ưu tú nhất nhì trong các nước dùng chữ tượng hình và chữ hệ Latin? Hiện nay trình độ quản trị và đào tạo ở các nước tiên tiến đã bỏ xa các nước tụt hậu - người quản trị / người học hiện nay không phải cứ ngốn càng nhiều báo cáo /sách báo là xong việc. Đành rằng đọc ít nghĩ nhiều và đọc nhiều nghĩ ít đều cần thiết - nhưng quan trọng hơn cả là đọc/học 1 biết 10 làm 100 - chứ không phải đọc/học 10 biết 1, như cách học nhồi nhét ở bậc phổ thông tại Việt Nam hiện nay.
GS Cao Xuân Hạo có vẻ rất hào hứng với tốc độ đọc chữ Hán, nhưng tốc độ viết chữ Hán thế nào? Rõ ràng chữ Latin kiểu viết tay nét liền nét (không phải chữ Việt cải cách khốn khổ, bỏ bớt nét ngoặc cho "đơn giản dễ viết" năm nao) bình thường viết nhanh dễ hơn chữ Hán; còn muốn ngoáy tiếng Hán cho nhanh, chỉ có loại chữ thảo. Nhưng tiếc rằng cũng như chữ tốc ký tiếng Việt hay tiếng Tây chuyên dùng của thư ký ngày xưa, chữ thảo không phải là cách viết phổ cập, không phải ai cũng biết và cũng dễ đọc. Theo tôi biết chữ tốc ký tiếng Việt viết tháu thì ngay cả người viết cũng chào thua, vậy chữ thảo tiếng Hán cũng là tốc ký mà viết tháu có dễ đọc hơn? Cũng xin hỏi bản thân GS Cao Xuân Hạo đã định chuyển sang ghi chép tay bằng tiếng hay chữ Hán chưa? GS Cao Xuân Hạo có dùng Windows bản tiếng Hoa?
Có khá nhiều người Việt nghĩ đến những ai đã đem chữ "Quốc ngữ" thay cho chữ Hán, chữ Nôm với một lòng biết ơn sâu xa, cho rằng việc đó đã đưa nước ta tiến vào hiện đại. Nghĩ như thế tôi e có phần vội vàng. Chẳng lẽ sự tiến bộ của Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Ðại Hàn, Singapore không đủ để chứng minh sự sai trái của ý nghĩ đó hay sao?
Giá hồi ấy ông cha ta không sáng tạo ra chữ Nôm, mà cứ dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn như người Nhật Bản đã làm (và hiện nay vẫn làm) …, thì tình hình có lẽ đã khác.
Lập luận và giả định trên có gì nhầm lẫn hay sắc bén? Tại sao Việt Nam không dùng chữ Hán và Bắc Hàn có dùng chữ Hán đều nghèo khó nhiều năm sau khi chiến tranh kết thúc? Vì cái hoạ chữ Quốc ngữ hay hoạ chữ Nôm, vì chiến tranh hay vì mấy lần theo học Trung Cộng nên Việt Nam đến nay mới bắt đầu khá hơn Bắc Hàn nghèo đói? Thực tế là: đều dùng chữ hình tượng, nhưng Bắc Hàn và Nam Hàn lại không cùng sánh bước phát triển kinh tế; và Đài Loan chứ không phải Trung Cộng nhất nhì thế giới về sản xuất Mainboard (bo mạch chủ cho máy tính PC); và Trung Cộng nhờ Bác Mao đã từng tụt lùi khá xa trước khi trở thành cọp giấy [*] (thế mà không ngờ đã hóa rồng thật). Liệu có thể cho rằng tiến bộ vượt bực ở Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Singapore, Ðại Hàn đều là nhờ chữ Hán? Ở Singapore tiếng Anh chứ không phải tiếng Hán là ngôn ngữ dùng toàn lãnh thổ, còn tiếng Hán chỉ là một trong bốn ngôn ngữ bản địa chính thức bắt buộc trong phạm vi cộng đồng sắc tộc, vậy tiếng nào mới là có công đóng góp cho sự phồn vinh của Singapore? Giá mà Việt Nam vẫn dùng chữ Hán, thì chắc sẽ hoá rồng nhanh hơn Bắc Hàn và Singapore? Cũng theo lập luận ấy, giá mà Nam Hàn chuyển sang chữ Tây, có lẽ Bắc Hàn đã thống nhất Nam Hàn từ lâu?
Ngày nay nhiều người, trong đó có cả những nhà ngữ học phương Tây, đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán rằng chỉ vài ba mươi năm nũa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc (theo họ, đến lúc ấy các hàng rào ngôn ngữ - barrières linguistiques - xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc, sẽ bị vô hiệu hoá, và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay.
Đấy cũng chỉ là một dự đoán? Hay sẽ là một cuộc đổi ngôi ngoạn mục, một cuộc tái sinh cái nôi văn minh Trung Hoa? Chả có gì khó hiểu khi ta chưa từng nghe có ai nói đến cái gọi là Nôi Văn Minh Hoa Kỳ. Từ lâu thông tin lan đi toàn cầu với tốc độ ánh sáng, triệt tiêu khoảng cách địa lý, đã khiến khái niệm Nôi Văn Minh trở thành vô nghĩa. Hay nói rõ hơn, chỉ có thể nói rằng Hoa Kỳ là mồ chôn nôi văn minh nhân loại thì đúng hơn. Ánh sáng cuối cùng từ cái nôi ấy, nếu có, chính là tiếng Mỹ, vẫn và sẽ không ngừng lấn lướt tiếng Pháp trong cộng đồng EU, và tín hiệu số hóa trên mạng InterNet toàn cầu. Liệu sẽ có một luồng ánh sáng ngược lại, hồi sinh từ Trung Hoa Cổ Đại xa xưa?
So với người Nhật và người Việt Nam chỉ giỏi giữ nước hơn là cướp nước, người Mông Cổ chỉ vô địch cướp nước, quả đúng là người Trung Hoa vô địch giữ nước và cướp nước, và có tiếng thông minh nhất nhì Châu Á. Nhưng hiện nay chính người Trung Hoa đang dốc hết tâm sức học hỏi từ Phương Tây nói chung, và từ Mỹ nói riêng. Sách Mao và sách Khổng mang nặng tư tưởng áp đặt đã bị cất vào bảo tàng viện để họ khởi đầu công cuộc giải phóng sáng tạo trong môi trường giáo dục. Họ sẵn sàng trả lương tương đương lương Mỹ trả để khuyến khích nhân tài trong các ngành mũi nhọn sau khi học ở Mỹ về Trung Cộng làm việc hết mình. Tất nhiên tham vọng của họ là vị trí hiện nay của Hoa Kỳ, là những Bill Gates Made in China, nhưng khó mà tưởng tượng được rằng trong tương lai chữ Hán sẽ là kẻ sống sót duy nhất, là mồ chôn các chữ viết hệ Latin của thế giới - trừ khi Trung Hoa trở về ngôi vị Cổ Đại II, là cái nôi văn minh nhân loại, chẳng hạn khi nó là quốc gia duy nhất sống sót sau một thảm họa toàn cầu nào đó.
Dự đoán ấy nếu thành sự thật, sẽ là đáng vui hay đáng sợ?
[*] cọp giấy: lời chế diễu của Liên Xô - nhan đề một cuốn sách của nhà xuất bản MИP - trước kế sách "Bốn Hiện Đại" của Trung Cộng, trong thời kỳ hai nước Xô Trung xung đột. Tựa bản dịch sang tiếng Anh là Paper Tiger (Mir Publishers).
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=87&rb=06
2. Trịnh Hữu Tuệ
26.8.2004
Trịnh Hữu Tuệ
Trả lời Cao Xuân Hạo
Trong bài "Vài lời nhân bài viết của Trịnh Hữu Tuệ", tác giả Cao Xuân Hạo nói:
Ở ta, sự dốt nát về ngôn ngữ...có một lý do tự nhiên: đó là sách và bài vở của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ viết một câu nào về tiếng Việt...Lác đác trong sách của vài người...có viết về một vài sự thật không thể chối cãi của tiếng Việt, nhưng chẳng có ai thèm nghe, vì cái định kiến cho rằng tiếng Việt chính là tiếng Pháp được coi là một chân lý thiêng liêng hơn cả sự thật khoa học...Cho nên ông Trịnh Hữu Tuệ viết bài ấy là chuyện hoàn toàn hiểu được...
Thật sự tôi cũng không hiểu lắm cái câu cuối cùng này. Trong bài của mình, tôi đưa ra một số hiện tượng trong tiếng Việt và tìm cách giải thích chúng bằng lý thuyết ngôn ngữ. Những hiện tượng này, theo ý tôi, chính là những „sự thật không thể chối cãi được“ của tiếng Việt. Ví dụ, chúng ta không thể chối cãi được là nếu gọi Hưng và Sơn là họ, thì câu sách của nhau thì chắc chắn họ sẽ đọc sẽ mang nghĩa là Hưng chắc chắn sẽ đọc sách của Sơn và Sơn chắc chắn sẽ đọc sách của Hưng, còn câu sách của nhau thì chắc chắn vợ họ sẽ đọc không thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của Sơn, mà chỉ có thể có nghĩa là vợ Sơn sẽ đọc sách của vợ Hưng và vợ Hưng sẽ đọc sách của vợ Sơn, còn câu vợ nhau sẽ đọc sách của họ thì không chấp nhận được. Tất cả những người Việt tôi từng hỏi đều nhất chí về những điểm này. Lý thuyết tôi dùng để giải thích hiện tượng này không chỉ giải thích được tiếng Việt, mà còn giải thích được những hiện tượng tương tự trong những thứ tiếng khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung. Đây không phải là một điểm cộng, xét về mặt khoa học, hay sao?
Trong bài viết trên, cũng như trong nhiều bài viết khác của mình, Cao Xuân Hạo luôn xuất phát từ cái tiền giả định là tiếng Việt chắc chắn phải khác hẳn với tiếng Pháp và tiếng Anh. Tiền giả định này luôn đưa ông đến kết luận là bất cứ lý thuyết nào đúng cho tiếng Anh hay tiếng Pháp đều không đúng cho tiếng Việt. Vậy nên ông khẳng định một cách hết sức tự tin là "tiếng Việt ... không thể dùng bất kỳ cái gì của Chomsky được hết."
Có nhiều khả năng giải thích tại sao Cao Xuân Hạo lại có cái tiền giả định này. Khả năng thứ nhất liên quan đến tri thức luận (epistemology) của ông. Có thể Cao Xuân Hạo mang niềm tin hết sức thông thường là con người, khi mới sinh, là một tabula rasa về mặt ngôn ngữ, và tất cả kiến thức ngôn ngữ đều được học từ môi trường. Chỉ khi tất cả những gì ta biết về tiếng Việt đều được học từ môi trường thì tiếng Việt mới có thể khác hẳn tiếng Pháp. Lý do là như sau. Nếu một đứa trẻ không thể học được ngôn ngữ hoàn toàn từ môi trường, thì bắt buộc nó phải có cái gì đó sẵn trong đầu trước giúp nó đoán ra được ngôn ngữ cần học. Ta biết rằng một đứa trẻ có thể học bất kỳ thứ tiếng nào, tiếng Việt hay tiếng Pháp, một cách hoàn hảo. Vậy suy ra là cái mà đứa trẻ có sẵn trong đầu đó phải đủ phổ quát để giúp nó đoán ra cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, phải đúng cho cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Và sự thật là có những quy luật trong ngôn ngữ, ví dụ như quy luật nằm dưới hiện tượng nhắc đến trong đoạn văn trên, không ai có thể học được từ những dữ liệu trong môi trường. Về nguyên tắc, những quy luật này phải đúng cho mọi thứ tiếng, và từ trước đến nay thì chưa có lý do gì để tin là không phải như vậy.
Tiền giả định của Cao Xuân Hạo cũng có thể có một nguồn gốc xã hội học (sociological). Trong bản dịchcuộc nói chuyện giữa Jürgen Habermas và các nghệ sĩ và trí thức Bắc Kinh, dịch giả Trương Hồng Quang có nói trong phần giới thiệu rằng "...điều đáng ngạc nhiên là ngày nay, khi mà trong nội bộ những trí thức hàng đầu của Trung Quốc đang diễn ra các tìm tòi mới mẻ, những đối thoại mang tính cập nhật với phương Tây và các đại biểu tư tưởng, văn hoá quan trọng nhất của nó, trí thức Việt Nam dường như lại huy động mọi tinh hoa của mình để dựng nên những huyền thoại mới về dân tộc và phương Ðông..." Tôi chỉ có thể đồng ý và nói thêm vào rằng việc bảo tiếng Việt khác hẳn với tiếng Pháp, và câubộ phim được tài trợ bởi PS không phải là tiếng Việt chỉ vì nó giống tiếng Pháp, [1] không nằm ngoài cái xu hướng chung của giới trí thức Việt nam mà các nhà ngôn ngữ học, cụ thể là giáo sư Cao Xuân Hạo, là một phần không phải không điển hình.
Nhưng tiền giả định của Cao Xuân Hạo cũng có thể có một lời giải thích tâm sinh học (psycho-biological). Có thể là ông đơn giản không hiểu Chomsky nói gì, và đã dùng lập luận "nếu ta không hiểu Chomsky nói gì thì có nghĩa là ta kém hoặc Chomsky nói sai, và ta không kém" để suy ra là Chomsky nói sai. [2] Điều này có thể khó tin đối với nhiều bạn đọc, nhưng có lẽ là sau bài này các bạn sẽ không thấy nó khó tin lắm nữa. Hãy xem Cao Xuân Hạo nói gì về Chomsky:
...Chomsky cho rằng trong một câu như Invisible God created the visible world, ở cấu trúc sâu có ba câu là 1. God is invisible; 2. God created the world; 3, The world is visible. Lời khẳng định này đã cho phép tất cả các nhà ngữ học không phải là môn đệ của Chomsky nói rằng ông ta không hề quan tâm chút nào đến ngôn ngữ trong khi tự nhận mình là nhà ngôn ngữ học. Riêng ở đây, ông không thèm biết rằng ta chỉ có một câu duy nhất, còn những cái mà Chomsky gọi là câu tuyệt nhiên không phải là câu, mà là những ngữ đoạn (phrases...) ...Ba phần Invisible God; created the visible world và the visible world đều đã bị đẩy lùi vào hậu cảnh (backgrounded) và do đó không còn là câu nữa mà chỉ là những danh ngữ (noun phrases), hay những vị ngữ (verb phrases)...
Ví dụ Invisible God created the visible world được Chomsky dùng trong cuốn Language and Mind, trang 16-17, [3] khi ông nói về sự giống nhau giữa ngữ pháp triết học thế kỷ 17, cụ thể là Port Royal Grammar, và ngữ pháp tạo sinh (generative grammar) trong những năm 60-70. Tôi xin trích lại đoạn văn, tuy hơi dài nhưng đẹp và sáng sủa một cách tuyệt vời, của Chomsky:
It seems that one of the innovations of the Port-Royal Grammar of 1660... was its recognition of the importance of the notion of the phrase as a grammartical unit... a phrase corresponds to a complex idea and a sentence is subdivided into consecutive phrases, which are further subdivided into phrases...until the level of the word is reached. In this way we derive what might be called "surface structure" of the sentence in question... To use what became a standard example, the sentence "Invisible God created the visible world" contains the subject "invisible God" and the predicate "created the visible world," the latter contains the complex idea "the visible world" and the verb "created," and so on... According to the Port-Royal theory surface structure corresponds only to sound - to the corporeal aspect of language; but when the signal is produced, with its surface structure, there takes place a corresponding mental analysis into what we may call the deep structure, a formal structure that relates directly not to the sound but to the meaning. In the example just given, "Invisible God created the visible world," the deep structure consists of a system of three propositions, "that God is invisible," "that he created the world," "that the world is visible." The propositions that interrelate to form the deep structure are not, of course, asserted when the sentence is used to make a statement; if I say that a wise man is honest, I am not asserting that men are wise or honest, even though in the Port-Royal theory the propositions "a man is wise" and "a man is honest" enter into the deep structure. Rather, these propositions enter into the complex ideas that are present to the mind, though rarely articulated in the signal, when the sentence is uttered.
Ý của Chomsky rõ như ánh sáng ban ngày. Tất nhiên là ông thừa biết, và nhấn mạnh, rằng invisible Godkhông phải là một câu, mà là một ngữ đoạn (phrase). Ngữ đoạn này tương ứng với một mệnh đề (proposition) trong cấu trúc sâu. Mệnh đề này không được tuyên bố (asserted), mà chỉ hiện hữu trong tâm chí (present to the mind) người sử dụng ngôn ngữ khi anh ta phát ngôn. Một mệnh đề present to the mind mà lại not asserted thì chính là một mệnh đề đã được backgrounded, không phải cái gì khác. Tóm lại, Chomsky nói đúng những gì mà Cao Xuân Hạo bảo ông "không thèm biết". Xin lưu ý làLanguage and Mind là một cuốn sách nhằm vào những người đọc bình thường, không phải các nhà ngôn ngữ học hay các triết gia. Việc Cao Xuân Hạo hiểu sai một đoạn văn đơn giản như thế này đủ để khiến ta nghi ngờ những gì ông nói về Chomsky liên quan đến những tác phẩm chuyên môn và khó hiểu hơn rất nhiều của tác giả này.
Khi nói về các nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt nam, Cao Xuân Hạo nói:
...các nhà ngôn ngữ học Việt Nam chưa bao giờ dành ra một phút để quan sát xem thử người Việt nói năng như thế nào... có những tác giả tuyên bố thẳng thừng rằng những câu như Bàn lau rồi hayTôi tên là Nam đều sai ngữ pháp và thậm chí vô văn hóa. Chẳng qua vì họ thấy không thể phân tích bằng ngữ pháp tiếng châu Âu được mà thôi...
Nếu ta coi đây là một ví dụ nhằm phê bình cung cách làm việc nói chung của các nhà ngôn ngữ học Việt nam, tức là tuyên bố những gì người Việt nói là sai chỉ vì chúng không hợp với lý thuyết mình biết, thì ta sẽ thấy rằng ngoại diên của khái niệm "các nhà ngôn ngữ học Việt nam" ở đây phải là một tập hợp gồm ít nhất, nếu không phải là duy nhất, một phần tử là chính giáo sư Cao Xuân Hạo. Trong bài "Về khái niệm quy tắc ngữ pháp", Cao Xuân Hạo đưa ra một quy tắc là trong một ngữ đoạn vị từ có bổ ngữ trực tiếp, bổ ngữ này chỉ có thể tách ra khỏi vị từ trung tâm bằng một trạng ngữ nếu nó là một danh ngữ được dánh dấu một cách hiển ngôn là không xác định. Xin bạn đọc đừng cuống, thậm chí xin bạn đọc hãy bình tĩnh mà làm quen với cái "quy tắc" này, vì rất có thể con của bạn sẽ phải học 300 quy tắc như thế này, nếu ước mơ của giáo sư Cao Xuân Hạo trở thành sự thật và cuốn sách 300 quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt do Tiểu ban Tiếng Việt trong nhà trường thuộc Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh đang soạn thảo được đưa vào nhà trường để dạy người Việt nói tiếng Việt cho đúng. Quay lại với quy tắc ở trên. Dựa vào nó, Cao Xuân Hạo đưa ra những câu mà ông tuyên bố là "sai" sau đây:
- Nó gửi cho mẹ bức thư ấy
- Họ tiếp tục giết trên biển Bắc cá voi xanh.
- Những người cứu hộ lôi ra từ đống đổ nát các nạn nhân.
- Họ cần biết sử dụng thành thạo la bàn.
Tất cả những người tôi đã từng hỏi đều nói rằng câu (1a) hoàn toàn ổn. Còn những câu (1b-d) thì chính Cao Xuân Hạo cũng phải bảo rằng "trên các phương tiện truyền thông đại chúng ta được nghe mỗi ngày vài chục câu kiểu như [vậy]..." Tóm lại, đây là những kiểu câu mà người Việt dùng thường xuyên. Ai cũng có thể thấy rằng chúng hoàn toàn ổn về mặt ngữ pháp, và nghe hoàn toàn tự nhiên nếu phát ngôn trong hoàn cảnh dụng ngữ phù hợp. Nhiệm vụ của người làm ngôn ngữ là giải thích cái khả năng cấu tạo và sử dụng những câu như vậy của người Việt, không phải tuyên bố rằng "những câu như thế, phàm là người nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ đều không thể chấp nhận được" và nhận xét về những "người Việt" nói "những câu như thế" là "họ chưa bao giờ được học một cách hiển ngôn những quy tắc ngữ pháp hữu quan" và than phiền là nếu "cứ cái đà này", ý là nếu không mau dạy cho trẻ con 300 quy tắc ngữ pháp nói trên, thì "đến một lúc nào đấy không còn có thể xác lập một quy tắc ngữ pháp nào nữa, hay nói một cách khác, tiếng Viết không còn có ngữ pháp nữa – và điều đó cũng có nghĩa là trên thế gian này không còn có một cái gì đáng gọi là "tiếng Việt" nữa." [4]
Để kết thúc, tôi xin nói vài lời bắt nguồn từ ý thức rằng độc giả talawas phần lớn là người Việt nam. Tôi không hề có ý phủ nhận những thành quả về ngôn ngữ học của giáo sư Cao Xuân Hạo. Trong những nhà ngôn ngữ học Việt nam tôi đã từng được biết thì ông là một người xuất sắc. Tuy nhiên, điều đó không loại trừ khả năng ông không hiểu, hoặc hiểu nhầm, một số vấn đề, và có thể bị phê phán. Điều này chỉ có nghĩa là ông không khác gì những nhà khoa học khác. Những gì tôi viết phê bình ông, đối với một số người, có thể nghe hơi thiếu tôn trọng. Tôi thực sự không cố ý như vậy. Tôi chỉ muốn nói ra những gì mình tin là đúng một cách thẳng thắn và không quá nhạt nhẽo. Nếu có hơi "thiếu tôn trọng" thì cũng chỉ vì khả năng hạn chế của ngôn ngữ, nhất là tiếng Việt, trong việc diễn tả nội dung thuần túy và vô cảm, hoặc vì niềm tin sâu sắc của tôi là dù một nhà ngôn ngữ học có đáng được nể trọng đến đâu chăng nữa thì cũng không thể đáng được nể trọng hơn ngôn ngữ học.
© 2004 talawas
[1]Trong bài Vài lời về quy tắc ngữ pháp, Cao Xuân Hạo nói „Một câu văn "Tây" đến như Bô phim được tài trợ bởi PS mà còn có người coi là thứ "tiếng Việt trong sáng" thì ngày suy vi của tiếng Việt không còn xa lắm nữa.“
[2]Lập luận này, xét về mặt sinh học, mang lại lợi thế về tiến hóa, và chúng ta ai cũng thừa hưởng cái gien gây ra nó. Trong triết học, Niezsche đã nói nhiều câu mang ý này, ví dụ "...die Falschheit eines Urteils ist uns noch kein Einwand gegen ein Urteil... Die Frage ist, wieweit es lebenfördernd, lebenerhaltend, arterhaltend, vielleicht gar artzüchtend ist..." (Nietzsche, Jenseits von Gut und Böse, Nr. 4). Cám ơn Patrick Raszelenberg vì đã mang lại yên sĩ phi lý thuần cho tôi về Nietzsche.
[3]Cám ơn Trần Thuần vì đã chỉ ra đoạn văn này. Trần Thuần cũng như tôi, "nhớ mang máng đã đọc câu trích Invisible God created the visible world đâu đó". Nhưng anh hơn tôi ở chỗ là anh đã "truy ra nguồn gốc" được cái "đâu đó" ấy.
[4]Xem Cao Xuân Hạo, Vài lời về quy tắc ngữ pháp. Lập luận của Cao Xuân Hạo có vẻ như là nếu như ông không “xác lập” được “quy tắc” cho tiếng Việt thì có nghĩa là tiếng Việt không có ngữ pháp. Và nếu tôi hiểu đúng những gì Cao Xuân Hạo nói, thì nhiệm vụ của nhà ngôn ngữ học là quan sát xem người Việt nói năng như thế nào, dựa vào đó viết ra những quy tắc ngữ pháp hiển ngôn và dạy lại chúng cho người Việt để giúp họ tránh được những câu "sai" mà họ vẫn nói mỗi ngày hàng chục lần. Tôi xin để bạn đọc tự đánh giá mức độ lô-gích của những ý tưởng này.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2688&rb=06
19.2.2003
Trịnh Hữu Tuệ
Đọc bài "Dùng chữ quốc ngữ là một "tai hoạ" ư?" của Nguyễn Hoàng Sơn (VNQĐ tháng 6.2002, talawas 23.01.2003), trong đó tác giả phê bình những quan điểm của GS Cao Xuân Hạo về chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, ta thấy có hai điểm không ổn. Thứ nhất, GS Cao Xuân Hạo nói một đằng, Nguyễn Hoàng Sơn phê bình một nẻo. Thứ hai, Nguyễn Hoàng Sơn phê bình những cái hoàn toàn không đáng phê bình.
Hãy xem xét trường hợp thứ nhất. GS Cao Xuân Hạo nói rằng xét "trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với tiếng Việt".[1] Tất nhiên ông nói như vậy là vì ông đã nghiên cứu cấu trúc âm vị học của tiếng Việt, so sánh nó với các thứ tiếng dùng chữ La-tinh khác. Kết quả nghiên cứu được trình bày đầy đủ trong một cuốn sách, được in bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt, và trong cả các bài viết ở đây ở kia, muốn đọc là có ngay. Vậy nếu muốn phê bình Cao Xuân Hạo thì ta phải làm gì? Tất nhiên là ta phải đọc những gì ông viết về vấn đề này để rồi chỉ ra rằng kết luận trên của ông là vô lý, tức là chỉ ra rằng xét trên bình diện ngôn ngữ học, chữ quốc ngữ thích hợp với tiếng Việt. Một việc làm hết sức hiển nhiên. Nhưng Nguyễn Hoàng Sơn có làm như vậy không? Không! Thay vì đó, ông tuyên bố "chữ quốc ngữ là một hạnh ngộ của dân tộc ta, một động lực to lớn trên con đường canh tân đất nước". Ông đưa ra một loạt ví dụ các nhà nho tên tuổi đã ca ngợi chữ quốc ngữ ra sao, nói rằng"chính lòng yêu nước, thương nòi đã khiến ông cha ta nhanh tróng nhận ra thứ chữ mới là một lợi khí để chấn hưng dân khí, mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài, vấn hồi lại độc lập." Sau đó ông trách GS Cao Xuân Hạo đã "làm người đi học phân tâm, làm giảm lòng yêu và tự hào về chữ viết, rộng ra là văn hoá của dân tộc, lòng kính trọng với các bậc tiền bối". Về chữ Nôm cũng vậy. GS Cao Xuân Hạo nói rằng"theo một chuyên gia Hán Nôm...chữ Nôm khó hơn chữ Hán rất nhiều".[2] Một nhận xét mang tính khoa học, có thể dễ dàng phủ nhận bằng khoa học. Nhưng Nguyễn Hoàng Sơn đã không dùng khoa học để phản bác, mà chỉ nhắc nhở rằng "chính nhờ thứ chữ phức tạp ấy và những người không ngại mang tiếng nôm na mách qué chúng ta ngày nay mới có "Quốc âm thi tập" (Nguyễn Trãi)..., "Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Xuân Hương, thơ Bà Huyện... để mà ngâm ngợi, tự hào và giới thiệu với bạn bè thế giới đấy", và lên án GS Cao Xuân Hạo nghĩ như vậy là "vô ơn với chữ Nôm và những người sáng tạo ra nó..." Ta có thể thấy rằng Nguyễn Hoàng Sơn đi lạc đề hoàn toàn. GS Cao Xuân Hạo nói trên cơ sở khoa học, Nguyễn Hoàng Sơn nói trên cơ sở chẳng hiểu là gì học nữa. Những gì Nguyễn Hoàng Sơn nói ngẫu nhiên đúng - tất nhiên là Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng chữ Nôm rồi - và có thể có một giá trị hùng biện nào đấy trong một cuộc tranh luận khác, nhưng khi phạm vi bàn luận là ngôn ngữ học lý thuyết, thì chúng chẳng đúng cũng chẳng sai, và chẳng có bất kì một giá trị gì. Nguyễn Hoàng Sơn không hề chỉ ra được rằng GS Cao Xuân Hạo nói sai, ông chỉ lớn tiếng nhắc nhở rằng không được phép nói như vậy. Chúng ta không thể không nghĩ đến những lời lên án Galileo của nhà thờ châu Âu thời trung cổ.
Sự thiếu (khoa) học của Nguyễn Hoàng Sơn còn thể hiện ở một loạt những lời chỉ trích hết sức vô lý. Ví dụ, khi nhắc đến cuốn sách "Âm vị học và Tuyến tính", Nguyễn Hoàng Sơn nói rằng GS Cao Xuân Hạo đã"bỏ công viết một cuốn sách tiếng Pháp", rồi thêm vào một cách mỉa mai rằng "chắc là cho các ông Tây". Sự mỉa mai này hoàn toàn vô căn cứ. Thứ nhất, cuốn sách đó có cả bằng tiếng Việt. Thứ hai, lý do tại sao GS Cao Xuân Hạo viết bản đầu tiên bằng tiếng Pháp là hoàn toàn dễ hiểu. Ngôn ngữ học hiện đại, cũng như nhiều môn khoa học khác, được xây dựng trên những thứ tiếng châu Âu, trong đó có tiếng Pháp. Dịch toàn bộ số lượng khổng lồ những khái niệm khoa học ra tiếng Việt để viết một cuốn sách tiếng Việt mà vào thời đó chắc chỉ để cho một vài ông bạn đều biết tiếng Pháp đọc là một việc dở hơi! Khi thấy có nhu cầu, GS Cao Xuân Hạo cũng đã bỏ rất nhiều công dịch cuốn sách đó ra tiếng Việt. Ta tự hỏi bản tiếng Việt đối với Nguyễn Hoàng Sơn có dễ hiểu hơn bản tiếng Pháp không. Thứ ba, ngôn ngữ không phải là tiêu chuẩn để đánh giá một công trình khoa học. Chỉ có người không bình thường về trí tuệ mới đi trách Newton đã viết bằng tiếng La-tinh chứ không phải tiếng Anh.
Khi GS Cao Xuân Hạo nhắc đến kết quả thí nghiệm của một nhóm học giả Mỹ về chứng alexia để củng cố ý kiến của mình, Nguyễn Hoàng Sơn chỉ trích rằng đây chỉ là một "thí nghiệm duy nhất... mà chắc GS cũng chỉ đọc trên báo, chưa được kiểm nghiệm". Lời chỉ trích này cho thấy Nguyễn Hoàng Sơn không có khái niệm gì về cách làm việc khoa học. Nếu mới chỉ có một thí nghiệm, hoặc ta chỉ biết về một thí nghiệm, thì việc trích kết quả của thí nghiệm ấy là hoàn toàn bình thường, chẳng việc gì ta phải đợi đến thí nghiệm thứ hai, thứ ba cả. Còn việc chỉ đọc trên báo mà chưa kiểm nghiệm thì gần như là điều tất nhiên. Chính vì thế nên mới có hàng nghìn tờ chuyên san khoa học, để mọi người có thể đọc mà không cần đến tận nơi kiểm nghiệm.
Nguyễn Hoàng Sơn nói "lý do CXH phản đối từ thuần Việt là vì nó... dễ hiểu quá, ông nói "từ thuần Việt dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược điểm lớn nhất của nó"! Trời đất ơi, cứ cái đà này chắc ông sẽ là người ủng hộ cho việc nói những câu thật cầu kì như các ông đồ gàn ngày xưa, mỗi câu là một điển cố, người nghe phải nát óc ra mới hiểu được thì mới là thông minh sâu sắc ư?" Hãy xem có đúng GS Cao Xuân Hạo ủng hộ "nói những câu thật cầu kì như các ông đồ gàn ngày xưa" không. Đoạn văn đầy đủ của GS Cao Xuân Hạo là, "Từ "thuần Việt" dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược điểm lớn nhất của nó, vì khi một thuật ngữ quá dễ hiểu, thì cách hiểu "quá dễ" ấy có rất nhiều xác suất là lối "vọng văn sinh nghĩa" - tức là cứ nhìn chữ mà đoán mò ra nghĩa, cho nên có thể sai hoàn toàn. Trong nhiều ngành, trên thực tế đã có hàng ngàn thuật ngữ được hiểu như thế, chẳng hạn như tình thái, hàm nghĩa, ngữ dụng, sở chỉ, v.v. là những thuật ngữ có vẻ dễ hiểu đến nỗi ai cũng cho là mình hiểu rồi, cho nên không thấy cần đọc sách nữa. Chính tính chất trừu tượng, khó hiểu (?) của thuật ngữ Hán-Việt tránh được cho ta cái hiểm họa ấy." Ta có thể thấy ông hoàn toàn có lý trong trường hợp này. Chẳng phải vô cớ mà khái niệm chủ chốt trong lý thuyết thông tin được gọi là entropy, một từ mà thoạt đầu nhìn cả tây lẫn ta đều không ai hiểu. Cha đẻ của lý thuyết thông tin, Claude Shannon, đã phải dùng từ này vì "không ai hiểu nó là cái gì",[3] để ai muốn hiểu được nó thì phải tìm hiểu kỹ càng chứ đừng có đoán mò. Tóm lại, việc dùng những từ lạ, không hiểu được một cách thông thường trong khoa học là một việc hết sức bình thường. Nguyễn Hoàng Sơn một là không hiểu nổi điều này, hai là không hiểu nổi GS Cao Xuân Hạo muốn nói gì.
Một bài phê bình như bài của Nguyễn Hoàng Sơn, nếu không đọc với một thái độ canh chừng, xem xét kỹ quan điểm, lời nói của người bị phê bình, thì có thể dẫn đến những cái nhìn sai lạc. Nhưng nếu biết được rằng phần lớn những cái nó phê bình một là không tồn tại, hai là không đáng để mang ra phê bình, thì ta sẽ nhìn ra bài viết giá trị được bao nhiêu: rất ít.
[1] Cao Xuân Hạo, "Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ". CXH còn nói thêm sau đó "trên bình diện thực tiễn, dùng chữ quốc ngữ...vẫn có một thuận lợi khá quan trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu".
[2] Cao Xuân Hạo, "Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?"
[3] Jerry Campbell, Grammatical Man, tr. 32.
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=85&rb=06
1. Nguyễn Hoàng Sơn
23.1.2003
Nguyễn Hoàng Sơn
Dùng chữ Quốc ngữ là “một tai hoạ” ư?
Với chủ trương thông tin và thảo luận đa chiều, talawas cố gắng giới thiệu nhiều quan điểm và phong cách khác nhau, dù có thể là những quan điểm và phong cách mà BBT talawas không nhất thiết chia sẻ.
talawas
Ai nói ra cái câu “động trời” này nhỉ? Xin thưa, đó không phải là một người vô danh tiểu tốt nào mà là một tên tuổi chói sáng trong ngành ngôn ngữ học, Việt ngữ học: Giáo sư Cao Xuân Hạo. Chính cái tên được nhiều người yêu mến và tin tưởng này khiến tôi phải đắn đo rất nhiều khi viết bài báo này. Tôi đã từng say mê những trang văn xuôi của Puskin, Tônxtôi do ông dịch, từng khoái chá đọc những bài ông viết về tiếng Việt, về tính hiếu học của người Việt đăng trên báo Văn Nghệ...Tôi tự hỏi: một người trung thực như thế, thông thái như thế, mới mẻ như thế tại sao lại có thể có những ý kiến...lạ lùng như thế khi bàn về thứ chữ viết riêng của dân tộc ta là chữ Quốc ngữ?
Trong cuốn sách “Tiếng Việt, văn Việt, người Việt” ( NXB Trẻ, 2001) GS Cao Xuân Hạo hơn một lần đã bày tỏ sự tiếc nuối vì dân ta đã bỏ mất thứ Quốc tuý, Quốc hồn là chữ Hán để dùng chữ Quốc ngữ là thứ chữ “khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ” (tr105). GS Cao Xuân Hạo cho biết ông đã bỏ công ra viết một cuốn sách tiếng Pháp để chứng minh điều ấy (chắc là cho các ông Tây), cuốn “Âm vị học tuyến tính”, Paris, 1985. Dân ta chắc ít người được đọc công trình ấy nên GS phải nhắc đi nhắc lại những luận điểm của mình trong nhiều bài viết liên tiếp. Trong bài “Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?” (đăng lần đầu trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 141, năm 1994), trước tiên ông làm thao tác “nói ngược” để gây ấn tượng: “Có khá nhiều người Việt nghĩ đến những ai đã đem chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán, chữ Nôm với một lòng biết ơn sâu xa, cho rằng việc đó đã đưa nước ta tiến vào hiện đại. Nghĩ như như thế tôi e có phần vội vàng” (tr 102). Xin lưu ý từ “những ai”, rất đúng: để có chữ Quốc ngữ được dùng phổ biến như hiện nay, công lao không chỉ thuộc về ông Tây A-ếch-xăng đờ Rốt (mà động cơ còn nhiều nghi vấn), công ấy còn thuộc về hàng triệu hàng triệu người, có tên và không tên đã bền bỉ truyền bá, phổ biến, hoàn thiện nó, trước hết phải kể đến các nhà trí thức trong Ðông kinh nghĩa thục (1907), trong phong trào Truyền bá chữ Quốc ngữ những năm 40, những chiến sĩ diệt dốt và Bình dân học vụ sau Cách mạng Tháng Tám...Tại sao GS Cao Xuân Hạo khuyên chúng ta không cần biết ơn những bậc tiền bối trên? Lí do rất đơn giản: vì chữ Quốc ngữ ABC là thứ chữ...chả ra gì, kém xa chữ Hán, và việc dùng nó để thay thế chữ Hán là một sự nhầm lẫn lịch sử, “một trong những biến cố có hại, nhưng không thể hoán cải, đã trót xảy ra rồi”, “một trận hồng thuỷ”, “một tai hoạ”...Tóm lại, rất nhiều từ ngữ được GS huy động để “tổng xỉ vả” thứ chữ cả nước và chính ông đang dùng hàng ngày. Muốn hạ thấp vị thế chữ Quốc ngữ thì phải đề cao chữ Hán.GS Cao Xuân Hạo rất hứng thú với cái thí nghiệm của một nhóm ngữ học người Mỹ năm 1978: một nhóm trẻ em mắc chứng alexia (không đọc được chữ) được người ta dạy đọc tiếng Anh nhưng viết bằng chữ Hán, “chẳng hạn câu He came to a high mountain được viết bằng sáu chữ Hán là “Tha đáo cập nhất cao sơn”. Sau năm đầu, các em đọc và viết được 1600 từ đơn, và về khả năng hấp thụ tri thức, chúng tỏ ra không “đần độn” chút nào, mà kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC” (tr 101). Từ thí nghiệm duy nhất này (mà chắc GS cũng chỉ đọc trên báo, chưa được kiểm nghiệm- câu ví dụ trên cũng rất đáng ngờ vì thiếu một chữ “toà” trước chữ “cao sơn”), ông say sưa thuyết giảng về những ưu việt tuyệt đối của chữ Hán so với mọi thứ chữ trên thế giới, trước hết là so với hệ thống chữ viết có nguồn gốc latin. Nào là “chữ Hán hơn hẳn chữ Tây” (về phương diện Gestalt, tức “diện mạo tổng quát”); “sách Tây rất khó đọc theo cách “nhất mục thập hàng” như sách chữ Hán”; “từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt tới mức lí tưởng ấy: chữ Hán”; “bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật”; “Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là “một thứ esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa”. Thứ esperanto này còn có tầm tác dụng vượt xa bờ cõi Trung quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực giữa người Hán và các sứ giả “man tộc” (!) như người Hàn, người Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ “rợ” (!) khác, vốn thường bút đàm với người Hán (và với nhau) nhiều hơn là ngôn đàm” ( tr111)...Nhiệt liệt nhất là mấy câu này “Ngày nay nhiều người, trong đó có cả những nhà ngữ học phương Tây, đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán rằng chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc (theo họ, đến lúc ấy các hàng rào ngôn ngữ-barrières linguistiques- xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc, sẽ bị vô hiệu hoá)” (tr 106) Rồi còn câu này nữa “Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách đánh vần- vẫn chỉ một thí dụ ấy! NHS), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân loại” (tr111) Chà chà, thế này thì có cơ Việt Nam ta sẽ đứng hàng đầu trong phong trào Hán hoá toàn thế giới, vì chúng ta đã có căn bản nho học, người biết chữ Hán còn nhan nhản kia. Một GS có tiếng là uyên bác về Tây học, giỏi cả tiếng Nga, tiếng Pháp , tiếng Anh mà nói thế, còn nghi ngờ gì nữa, mau mau cắp sách đi học tiếng Hán thôi. GS còn dẫn một cuốn sách nổi tiếng (của một ông Tây, tất nhiên), để nói rằng sở dĩ nước ta chưa thành “rồng” như Trung Quốc (?), Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng (!), Ðại Hàn, Singapore là vì đã ...trót dại “bỏ mất chữ Hán mà trước kia nó từng dùng”. GS cũng đủ khôn khéo để chỉ dẫn ý kiến người khác, nhưng ta có quyền nghĩ rằng đây cũng là quan điểm của chính ông vì ông hoàn toàn không nghi ngờ gì về sự đúng đắn của ông Tây ấy. Xin tạm dừng việc trình bày nhiều luận điểm còn li kì hơn nữa của GS để bàn qua mấy lời về cái chuyện “hoá rồng” này. Trong lịch sử tư tưởng đã có nhiều tác giả tìm cách lý giải tại sao một dân tộc, một đất nước lại có trình độ phát triển cao hơn hoặc thấp hơn những nước khác. Thuyết địa lý thì cho là tại khí hậu: người ở vùng lạnh chịu suy nghĩ hơn người xứ nóng, vì thế nên châu Âu công nghiệp hoá sớm hơn... châu Phi chẳng hạn. Chủ nghĩa Mác thì tìm sự tương thích giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc... Nay phải chăng GS Cao Xuân Hạo và ông Léon Vandermeersch nào đó muốn đưa ra “thuyết Hán tự” để soi sáng con đường đi cho các dân tộc? Trong xu thế “Hành trình về phương Ðông”, nếu một số học giả phương Tây có đề cao quá đáng văn hoá Trung Quốc (trong đó có chữ Hán) thì cũng là điều dễ hiểu và có thể thông cảm được. Nhưng nâng chữ Hán lên hàng “đấng cứu thế” cho dân tộc ta thì thật là điều kì quặc, phi lịch sử và dễ gây nên những ngộ nhận cho thế hệ trẻ. Nếu chữ Hán mà là “phương thuốc vạn năng” như thế thì nước Việt Nam thời vua Tự Ðức đã hoá rồng từ bấy giờ rồi, khỏi đợi chúng ta ngày nay phải loay hoay tìm trăm phương ngàn kế. Ông Nhật, ông Hàn, ông Sinh, ông Ðài Loan phất lên, phần lớn là nhờ chớp được thời cơ Mỹ đương sa lầy ở Việt Nam, cộng với một chính sách phát triển đúng đắn chứ đâu phải vì biết bảo tồn ba cái chữ khối vuông? Trung Quốc trước năm 1980 vẫn dùng chữ khối vuông đấy chứ, nhưng kinh tế thì “đứng bên bờ vực”, xã hội thì rối loạn, chỉ từ khi ông Ðặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, hướng về phương tây, hướng sang Mỹ thì họ mới phát triển, thanh niên kéo đến các trung tâm học tiếng Anh như nước chảy. Mới đây CCTV đưa tin TQ đã đưa tiếng Anh (nghĩa là đưa cái chữ ABC... không ưu việt) vào bậc tiểu học rồi. Năm lần bảy lượt, người TQ đã định la tinh hoá chữ viết của họ mà chưa làm được, hẳn GS phải biết rõ hơn chúng tôi điều ấy. Trong những nước và lãnh thổ “hoá rồng” mà GS nêu để làm gương cho nước Việt ta thì ít ra cũng có một nước không duy trì chữ Hán là nước Hàn (nam Triều Tiên). Với họ chữ Hán tượng hình chỉ là “quốc tuý” được các viện nghiên cứu và một tầng lớp trí thức bảo tồn thôi (như ở nước ta), còn đại đa số dân chúng đều dùng chữ ghi âm cả. Tôi có một tài liệu của sứ quán Hàn Quốc về tiếng Hàn và chữ Hàn. Xin thưa với GS là thứ chữ mà toàn thể người dân Hàn dùng từ thế kỷ thứ XV đến nay không phải là chữ Hán mà là chữ Hàn 100% ghi âm. Ðó là thứ chữ có tên gọi “Han-gil được tạo ra dưới thời vua Sejong, triều đại Choson (1392-1910). Năm 1446, hệ thống chữ cái đầu tiên của Hàn Quốc được công bố dưới cái tên là Hunmin Chong-um, nghĩa đen là “Những âm thanh chính xác dùng để dạy học” (trích từ trang web của sứ quán Hàn Quốc). Cũng tài liệu này viết “Trong thời gian trị vì đất nước, vua Sejong luôn cảm thấy xót xa vì người dân thường không biết đọc và biết viết chữ Trung Quốc vốn là một hệ thống chữ phức tạp được các học giả thời đó sử dụng; ông thông cảm khi thấy họ thất vọng vì không thể đọc, không thể giao tiếp hay biểu lộ tình cảm bằng văn bản...” “Cảm thông với những nỗi khó khăn của họ, ta đã tìm ra một tập hợp 28 kí tự rất dễ học. Mong mỏi thiết tha nhất của ta là chúng có thể cải thiện được chất lượng cuộc sống của tất cả moị người”. Lời tuyên bố đó thể hiện quyết tâm của vua Sejong và những cống hiến của ông cho nền văn hoá độc lập và khát khao mong mỏi của ông làm cho nhân dân thịnh vượng” ( nt). Người Hàn Quốc rất tự hào về thứ chữ ghi âm khác hẳn với chữ Hán của họ “Ðây được coi là một hệ thống chữ cái hiệu quả nhất trên thế giới và được các chuyên gia đánh giá là rất khoa học và rất tuyệt vời” (nt). Một dẫn chứng trên có đủ để chỉ ra sự vô lí của học giả Cao Xuân Hạo khi ông thần thánh hoá chữ Hán? Có cần nói thêm rằng tuy cùng dùng chung một thứ văn tự (và chắc là cùng bảo tồn một phần Hán tự) nhưng Bắc Hàn và Nam Hàn ở hai trình độ phát triển rất khác nhau?
Khó hiểu vì sao GS Cao Xuân Hạo lại quá nhiệt thành với chữ Hán đến thế. Vì sự nhiệt thành này, ông có cái nhìn sai lệch với lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ. Ông cho rằng “chữ Quốc ngữ đắc dụng trong thời Pháp thuộc, khi mà người ta cần thanh toán việc học đọc học chữ Pháp và tiếng Pháp. Nó cũng đắc dụng trong thời kháng chiến, khi cần thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn lo đánh giặc” (tr 103). Có thực là mọi người Việt Nam trước năm 1945 đều chỉ học tiếng Việt “cho nhanh để chuyển sang học chữ Pháp và tiếng Pháp” không? GS đánh giá quá thấp tình yêu tiếng mẹ đẻ của người Việt Nam ta rồi. Nhà thơ Tản Ðà, nhà văn Ngô Tất Tố, rồi Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan...tất cả những nhà văn lớn ấy, những chuyên gia Việt ngữ không có học hàm học vị ấy đều học chữ Quốc ngữ để sáng tạo văn chương, làm giàu cho tiếng mẹ đẻ, cho tâm hồn dân tộc, không phải học “cho nhanh” cho xong lần rồi mải mốt đi học tiếng Pháp, đi viết văn Pháp đâu. Trong kháng chiến chống Pháp (và chống Mỹ) cũng vậy, đánh giặc cứ đánh giặc, học cứ học, học để đánh giặc cũng là để làm văn hoá, làm kinh tế, chứ có phải “thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn lo đánh giặc đâu”, nếu chỉ như thế thì thanh toán mù chữ để làm gì? GS càng nói càng lạc. Dường như cay cú vì sự “đắc dụng” của chữ Quốc ngữ ông quay sang “đổ tội” cho chữ Nôm “Trong hoàn cảnh lịch sử của nước ta còn có một điều làm cho “quốc ngữ” đâm ra có vẻ ưu việt đặc biệt: đó là sự tồn tại của chữ Nôm hồi bấy giờ. Trước khi có chữ “quốc ngữ”, ông cha ta dùng chữ Nôm để viết tiếng mẹ đẻ. Mà chữ Nôm thì khó hơn chữ Hán rất nhiều (theo một chuyên gia Hán Nôm, nó khó gấp 5 lần). Chính nhờ sự tương phản với thứ chữ phức tạp, khó học ấy mà chữ “quốc ngữ” có vẻ như “tiện” hơn hẳn” (tr103, xin lưu ý đến những dấu ngoặc kép hàm ý mỉa mai). Theo lôgic của GS thì có thể hiểu: giá như đừng có “cái anh chữ Nôm” rắc rối làm mất mặt “Ngài” chữ Hán cao quý thì chắc “thằng cha” chữ Quốc ngữ “loằng ngoằng giun bò” khó mà chiếm được địa vị độc tôn như ngày nay! Nghĩ như thế e vô ơn với chữ Nôm và những người sáng tạo ra nó quá. Chính nhờ “thứ chữ phức tạp” ấy và những người không ngại mang tiếng “nôm na mách qué” chúng ta ngày nay mới có “Quốc âm thi tập” (Nguyễn Trãi), Bạch vân quốc ngữ thi (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Chinh phụ ngâm (Ðoàn Thị Ðiểm), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Xuân Hương, thơ Bà Huyện ...để mà ngâm ngợi, tự hào và giới thiệu với bạn bè thế giới đấy. Trách chữ Nôm chưa đã, GS lại oán sang ông cha mình “Giá hồi ấy, ông cha ta không sáng tạo ra chữ Nôm, mà cứ dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn như người Nhật Bản đã làm (và hiện nay vẫn làm) nghĩa là mỗi chữ có hai cách đọc, Hán âm (Kan-on) và Quốc âm (Go-on) thì tình hình có lẽ đã khác” (tr 104). Quả thực là tấm lòng “thương hoa tiếc ngọc” đáng làm cảm động cả trời đất, các cụ ta dưới chín suối cũng phải ngậm ngùi mà than rằng “Hậu sinh khả uý, tiếc thay hồi ấy chúng ta không thông minh được như con cháu bây giờ!”. Nhưng chắc chắn sẽ có một cụ cãi lại rằng: hồi ấy tôi đã thử làm rồi đấy nhưng không ăn thua! Ðấy là cụ Nguyễn Trường Tộ (1830-1871). Trong bản điều trần nổi tiếng có tên là “Tế cấp bát điều” (Tám việc cần làm gấp) gửi lên vua, đề ngày 20/10 năm Tự Ðức thứ 20 (tức ngày 15/11/1867), Nguyễn Trường Tộ dành hẳn mục 5 trong điều thứ tư để kiến nghị “Dùng quốc âm”, cụ thể và thiết thực hơn CXH nhiều. Xin được trích ra đây, tuy có hơi dài: “Chả lẽ ở nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ để viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt. Vậy xin dùng chữ Hán làm mẫu, lựa âm của chữ nào hợp với âm tiếng ta, nhất định không thay đổi thì đọc như tiếng ta không cần giải nghĩa. Chữ nào có âm gần giống tiếng ta thì thêm nét phụ vào rồi đọc ra tiếng ta. Ngoài ra gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm từ điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng. Khi nào chữ Hán đã được đọc thành âm tiếng ta rồi thì bất cứ ai biên chép việc công việc tư đều phải dùng thứ chữ đã ban hành, không được thay đổi. Còn các nhà văn ai muốn dùng chữ Hán theo âm nho tuỳ ý nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành” (“Nguyễn Trường Tộ- Con người và di thảo”, NXB Tp HCM, 2002, tr 297). Có thể thấy thực chất đề nghị của Nguyễn Trường Tộ là hoàn thiện, quy chế hoá, chính thức hoá chữ Nôm theo một nguyên tắc thống nhất. Nguyễn Trường Tộ viết những lời này gần 50 năm sau ngày Nguyễn Du qua đời (1820), là khi Truyện Kiều, cũng tức là chữ Nôm đã phổ biến rất rộng rãi. Chữ Quốc ngữ ABC cũng đã được một bộ phận dân chúng sử dụng, nhất là ở Nam Bộ và trong cộng đồng Thiên chúa giáo mà cụ Tộ là một thành viên. Theo Bằng Giang (“Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930”, NXB Trẻ, 1998), Trương Vĩnh Ký đã có sách in bằng Quốc ngữ ở Sài Gòn từ năm 1866, nhan đề “Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích”.Gia Ðịnh báo ra đời từ 1865, đến năm 1869 thì do Trương làm chủ bút. Cũng chính Trương là người phiên âm chú giải, xuất bản Kim Vân Kiều truyện bằng Quốc ngữ năm 1875...Có thể ức đoán mà không sợ sai rằng Nguyễn Trường Tộ cũng biết chữ Quốc ngữ, vì ông vốn là một người thông minh, giỏi tiếng Pháp, tiếng Latin và có vị trí trong giới trí thức Thiên chúa giáo, đi nhiều, biết rộng. Vậy tại sao ông vẫn kiến nghị một phương án thống nhất văn tự từa tựa như...phương án của Cao Xuân Hạo 127 năm sau (1994)? Thì chính ông đã giải thích rồi “vì ta dùng chữ nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm người ta lạ tai lạ mắt”. Nghĩa là ông tính đến yếu tố sức ì của tâm lý, chứ ông quá biết về những nhược điểm của thứ chữ khối vuông mà ông khổ sở cả đời vì nó, thứ chữ “học cho đến chết cũng chưa nhớ nổi một phần ba”; “người có tài trí phải mất đi tinh lực nửa đời người dùi mài vào cái học ấy, không còn thì giờ tâm trí để học những cái khác”...Ðề án của Nguyễn Trường Tộ, mặc dù khá tiến bộ và đã tính đến yếu tố tâm lý nhưng vẫn phải chịu thất bại trước sức “bành trướng” của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ rõ ràng là “ngoại lai”, ít “tính dân tộc” (!) hơn chữ Hán tượng hình, biểu nghĩa! Thất bại ấy nói lên điều gì? Nó nói lên sức sống của chữ Quốc ngữ, nói lên tính ưu việt của nó và nhờ nhưng ưu điểm vượt trội ấy mà cả cộng đồng Việt thông minh và mềm dẻo đã vui vẻ chấp nhận, coi đó là chữ “của ta”. Thật ra ban đầu các cụ nhà ta vì ghét người Pháp mà ghét lây, ghét oan cái chữ “loằng ngoằng, giun dế” ấy. Cũng phải kể thêm đến cái sức ì tâm lí, ngại và sợ thay đổi, một trong những điểm yếu kém rõ nhất của người Việt. Cho nên Tú Xương mới nguây nguẩy “Thôi thôi lạy mợ xanh- căng lạy/ Mả tổ tôi không táng bút chì”, còn Nguyễn Bính thì thở dài,vẫn chưa dứt được giấc mơ lều chõng “Mực tàu giấy bản là thôi/ Nước non đi hết những người áo xanh? Lỡ duyên búi tóc củ hành/ Trường thi Nam Ðịnh hoá thành trường bay”...Nhưng rồi chính lòng yêu nước, thương nòi đã khiến ông cha ta nhanh chóng nhận ra thứ chữ mới là một lợi khí để chấn hưng dân khí, mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài, vãn hồi lại độc lập. Và các cụ quay ra ủng hộ “chữ Tây” trong cuộc “cạnh tranh lành mạnh” của nó với chữ khối vuông. Hãy nghe chính các cụ nhà nho cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, những ông con dòng, con thừa tự của nền văn hoá chữ vuông trì trệ, phát biểu chống chữ Hán, ca ngợi chữ Quốc ngữ. Họ quả là những người dũng cảm, dám “học Phật trở lại mắng Phật”, nghĩa là làm một việc vạn bất đắc dĩ, không thể không làm, như Nguyễn Trường Tộ tự nhận. Vũ Bội Liêu, một nhân vật trong Ðông Kinh nghĩa thục viết trên Ðăng cổ tùng báo 28/3/1907 “Chữ Hán quả là một cái hàng rào hiểm chắn ngang đường văn minh, làm cho kẻ đi học mỏi lưng, tốn biết bao nhiêu cơm gạo mới dùng được chữ. Khi dùng được chữ thì trán đã nhăn, lưng đã còng vì nỗi dùi mài một đời học các điều cao xa quá. Chữ thảm chữ hại làm cho ai mó đến cũng phải quên cả việc thường đời nay, để học việc thời xưa, đời xưa thực chết rồi, thực xa rồi” (theo Chương Thâu “Ðông kinh nghĩa thục”, NXB Hà Nội 1982, tr43). (Cụ Vũ Bội Liêu chắc đã từ “kinh nghiệm bản thân” của mình mà nói ra những lời cay đắng ấy, còn GS Cao Xuân Hạo của thế kỉ 21 thì lại xuýt xoa, tiếc cho con em ta không “được” “dành vài ba năm tiểu học cho việc học chữ”, mà lại “phải” học...chỉ có vài ba tháng đã đọc thông viết thạo như hiện nay!). Cụ Phan Châu Trinh, một nhà khoa bảng cũng kết án chữ Hán bằng bài viết nổi tiếng “Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc!” (Không bỏ chữ Hán, không cứu được nước Nam). Hãy nghe cụ Tiến sĩ Trần Quý Cáp (1870-1908) “Khuyên người nước học chữ Quốc ngữ”: “Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước/ Phải đem ra tính trước dân ta/ Sách Âu Mỹ, sách Chi-na/ Chữ kia nghĩa nọ dịch ra tỏ tường...Một người học muôn người đều biết/ Trí đã khôn trăm việc phải hay/Lợi quyền đã nắm vào tay/Có ngày tấn hoá có ngày văn minh...” Còn đây là thơ của cụ Nguyễn Phan Lãng, cũng là một giáo sư ÐKNT: “Trước hết phải học ngay Quốc ngữ/ Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau/ Chữ ta ta đã thuộc làu/Nói ra nên tiếng viết câu nên bài” ...Các nhà nghiên cứu có uy tín đã khẳng định rằng với chữ Quốc ngữ, từ 1907, các cụ nhà ta đã làm một cuộc cách mạng văn học, cả về chữ viết, đề tài, thể văn, hình tượng..., sớm hơn phong trào dùng bạch thoại của Trung Quốc do Hồ Thích, Trần Ðộc Tú đề xuất đúng một thập kỉ. Chữ Quốc ngữ là một hạnh ngộ của dân tộc ta, một động lực to lớn trên con đường canh tân đất nước, cả hôm qua và hôm nay. Không hiểu sao GS Cao Xuân Hạo bỗng nhiên trở nên hoài cổ một cách quá đáng đến như thế nhỉ? Chỉ để chứng minh cho tính đúng đắn của cái lý thuyết “âm vị học tuyến tính” của ông ư? Theo “mốt”, trở về phương Ðông ư? Lập ngôn ư? Hay là ông chỉ lập dị, muốn nói ngược chơi chơi vậy thôi? Nhưng cái chơi của GS, nếu đúng như vậy, lại không có lợi, làm người đi học phân tâm, làm giảm lòng yêu và lòng tự hào về chữ viết, rộng ra là văn hoá của dân tộc, lòng kính trọng với các bậc tiền bối. Ông còn công kích rất vô lối vào phong trào “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, hạn chế sử dụng từ Hán Việt, một phong trào lúc nào cũng giữ nguyên tính thời sự. Những ví dụ ông đưa ra để diễu cợt những ai cố gắng thay thế những từ Hán Việt bằng những từ được cho là thuần Việt hơn chẳng mấy thuyết phục. Chẳng hạn để chỉ những chiếc máy bay cất cánh không cần chạy khởi động trên đường băng, đâu cần phải “vội vàng dùng lại hai chữ trực thăng” mà chỉ cần viết là “máy bay cất cánh thẳng đứng” cũng được chứ sao? “Giáo cụ trực quan” thay bằng “đồ dùng dạy học” là phải quá rồi còn gì? Chẳng ai thay “vùng biển” bằng “lãnh hải” như giáo sư nói đâu, “vùng biển” rộng hơn “lãnh hải” nhiều chứ, nó bao gồm “thềm lục địa” , rồi “vùng đặc quyền kinh tế” (rộng hơn khái niệm lãnh hải xưa thường không vượt quá 12 hải lí) cơ mà? “Tên lửa” dùng để dịch từ tiếng Anh missile là đúng chứ, nó không giống y như mũi tên ngày xưa nhưng vẫn hao hao đấy, kể cả tên lửa vượt đại châu, không cần níu kéo cái chữ “hoả tiễn” làm gì. Còn hoả hổ, theo tôi hiểu, là một loại súng phun lửa thời Tây Sơn, không phải “thứ tên có châm lửa để bắn vào những mục tiêu có thể bốc cháy được” như giáo sư nói đâu. Chẳng ai “đề nghị thay “Ðại hội Phụ nữ toàn quốc bằng Buổi sum họp lớn của đàn bà cả nước” như giáo sư bịa ra để diễu cợt. Ðể giữ vẻ trang trọng hoặc tế nhị, người ta biết giữ lại những từ Hán Việt cần thiết đấy, không cá mè một lứa đâu. Sách giải phẫu và sinh lí người gọi chỗ ấy là âm nọ, dương kia, không “dịch” búa xua ra cái nọ con kia đâu. Ðể bảo vệ luận điểm của mình, bênh vực việc dùng từ Hán Việt, giáo sư viết “Về ngữ pháp, các từ tổ Hán Việt tuy đã chứa đựng những mối quan hệ cú pháp (đẳng lập hay chính phụ) rõ rệt không kém các từ tổ “thuần Việt”, nhưng mối quan hệ này chặt hơn nhiều, một phần là nhờ cái “trật tự ngược” (phụ trước chính sau) so với các từ tổ thuần Việt. Chẳng hạn, quan hệ cú pháp chính phụ trong xạ thủ hay phi công chặt hơn nhiều so với mối quan hệ tương đương trong người bắn hay người lái: trong khi xạ thủ Nam chỉ có thể hiểu một cách thì người bắn Nam không cho biết đó là kẻ đã bắn anh Nam hay là người lính tên Nam (chắc hẳn cách hiểu thứ nhất tự nhiên hơn cách hiểu thứ hai)(Tiếng Việt,văn Việt, người Việt, tr 85). Ðúng là “đã yêu yêu cả đường đi/đã ghét ghét cả tông ti họ hàng”, tiếng Hán, chữ Hán đã hay thì cú pháp cũng hay hơn, “chặt hơn nhiều”. Tôi thì chẳng thấy từ “phi công” hay hơn, “chặt hơn” từ “người lái” chút nào, tôi cho rằng cái từ tiếng Việt còn có lượng thông tin cao hơn, nó chỉ ra rằng cái người mà ta nói đến không “phi”, không bay từ ...nóc nhà 10 tầng xuống chẳng hạn, mà anh ta “lái” một cỗ máy bay trên trời. CXH tán tụng chữ “phi công” là hay là đẹp, vậy ông có định đổi chữ “lái xe” tầm thường thành chữ “tư cơ” cho sang, cho chặt, cho đúng ...ngữ pháp tiếng Hán không? Lại còn cái chữ “xạ thủ” với “ người bắn” nữa. Ðể xưng tụng chữ Hán, tiếng Hán, CXH đã vô tình(?) xuyên tạc tiếng Việt. Có ai lại ngớ ngẩn dịch “xạ thủ” ra “người bắn” bao giờ, người ta dịch là “tay súng” chứ. (Cũng như “cung thủ” dịch là “tay cung”, không ai dịch là “người nỏ” cả!) Xem tin thể thao trên tivi, người ta nói “tay súng số 1 Ðặng Thị Ðông đã vào bệ bắn”, ai cũng hiểu cả. CXH dịch và ghép là “người bắn Nam” ngọng ngiụ cốt để chứng minh cú pháp tiếng Việt không hay, không chặt bằng tiếng Hán, vậy thôi. Lí do CXH phản đối “từ thuần Việt” là vì nó...dễ hiểu quá, ông nói “Từ thuần Việt dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược điểm lớn nhất của nó”! Trời đất ơi, cứ cái đà này chắc ông sẽ là người ủng hộ cho việc nói những câu thật cầu kì như các ông đồ gàn ngày xưa, mỗi câu là một điển cố, người nghe phải nát óc mới hiểu được thì mới là thông minh sâu sắc ư? Nói đã như vậy thì viết cũng phải thật rắc rối, thật khó khăn thì mới hay. CXH viết “Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương...những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí (trong lí nhí) vv Ðáng tiếc là những chỗ như thế không lấy gì làm nhiều” (tr113). Có thể diễn đạt lại những lập luận của CXH: nói càng trừu tượng càng hay, viết càng rắc rối càng tốt, giá mà trở lại dùng chữ Hán được thì tuyệt! (Với các nước A- rập thì trở lại với những chữ tượng hình kì bí trên kim tự tháp chứ nhỉ?) Ðể làm gì nhỉ: “Ðể bảo tồn một truyền thống quý giá đi đôi với những nghệ thuật cao cả như thư pháp, vốn là tài sản chung của các dân tộc Viễn Ðông và có thể làm thành một mối dây liên lạc giữa các dân tộc rất gần gũi nhau về văn hoá này” (tr106). Tóm lại là để bảo tồn, để viết cho đẹp, xem cho vui mắt và có cái để đi khoe với mấy ông bạn cũ châu Á. Nhiệm vụ của chữ viết dân tộc chỉ để làm bấy nhiêu việc thôi ư, thưa giáo sư?
Tôi ủng hộ ý kiến của GS Cao Xuân Hạo về việc dạy một số tiết chữ Hán nhất định cho học sinh phổ thông trung học. Ðiều quan trọng hơn là phải có một đội ngũ chuyên gia Hán Nôm đủ giỏi và được bổ sung thường xuyên để bảo tồn vốn văn hoá quá khứ. Tôi cũng phản đối việc vày vò, “cải tiến” chữ quốc ngữ mà thực chất là “cải lùi”, phá hỏng vẻ đẹp của chữ viết truyền thống, gây nhiễu loạn cho việc tiếp thu cái vốn sách báo quốc ngữ khổng lồ chúng ta đã có từ 1865 đến nay. Hiện nay người ta còn tiếp tục phá hoại chữ viết của dân tộc một cách công khai và trên quy mô lớn bằng cách nhùng nhằng không chịu thống nhất bộ gõ tiếng Việt trên máy tính, theo kiểu “anh hùng nhất khoảnh”, khiến người vùng này không đọc được người vùng khác. Cần phải có một bộ luật mang tính pháp lệnh hẳn hoi về việc viết và dùng chữ Quốc ngữ theo chuẩn mực thống nhất, tiên tiến .Ðấy là một việc làm cấp bách để bảo vệ tiếng Việt, chữ Việt, cũng có nghĩa là bảo vệ sự thống nhất quốc gia, thống nhất dân tộc. Bây giờ mà ngồi than tiếc “giá như chúng ta đừng thay chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ” thì vừa lạc lõng, vừa tức cười, một kiểu “nhiễu sự khoa học” mang màu sắc giật gân! Ðể kết thúc bài viết thật khó nhọc này, xin được kể hầu GS và các đệ tử một chuyện mà rất có thể các vị cũng biết rồi: khi vua Sejong của triều đại Choson (Triều Tiên) ban hành thứ chữ ghi âm Han- gil rất dễ học, ngay cả với trẻ con và người ngoại quốc, thì trớ trêu thay, nó lại bị các học giả chỉ trích chính vì sự đơn giản của nó! “Họ phê phán kịch liệt, gọi hệ thống chữ cái mới là “các chữ cái của phụ nữ”. Họ cho rằng chữ này quá dễ, phụ nữ không có trình độ học vấn gì cũng học được nên nó không đáng học vì ở thời đó, việc học hành, đọc sách và viết lách được cho là lĩnh vực đặc ân của một số độc giả. Chính quan niệm sai lầm này đã làm họ nhầm lẫn giữa việc học một thứ chữ đơn giản với sự học hành uyên bác” (trích từ trang web của sứ quán Hàn Quốc). Thì ra tâm lí muốn độc quyền tri thức thời nào cũng có!
* Bài viết vừa được tặng thưởng năm 2002 của tạp chí VNQĐ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Khi sử dụng tiếng Việt, bạn cần viết tiếng Việt có dấu, ngôn từ dung dị mà lại không dung tục. Có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng hãy đưa chứng lí và cảm tưởng thực sự của bạn.
LƯU Ý: Blog đặt ở chế độ mở, không kiểm duyệt bình luận. Nếu nhỡ tay, cũng có thể tự xóa để viết lại. Nhưng những bình luận cảm tính, lạc đề, trái thuần phong mĩ tục, thì sẽ bị loại khỏi blog và ghi nhớ spam ở cuối trang.
Ghi chú (tháng 11/2016): Từ tháng 6 đến tháng 11/2016, hàng ngày có rất nhiều comment rác quảng cáo (bán hàng, rao vặt). Nên từ ngày 09/11/2016, có lúc blog sẽ đặt chế độ kiểm duyệt, để tự động loại bỏ rác.